Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 281
LẤY SỎI QUA DA ĐƯỜNG HẦM NHỎ KẾT HỢP NỘI SOI NGƯỢC DÒNG 
ĐIỀU TRỊ SỎI THẬN- NIỆU QUẢN TƯ THẾ BỆNH NHÂN NẰM NGỬA 
CẢI BIÊN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH QUẢNG NAM 
Trần Văn Thành*, Thủy Châu Quý*, Phan Thanh Tùng*, Lê Nhật Nam*,Nguyễn Quốc Việt*, 
Lê Văn Thức* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Trình bày kỹ thuật và kinh nghiệm bước đầu thực hiện lấy sỏi qua da đường hầm nhỏ kết hợp nội 
soi ngược dòng tư thế bệnh nhân nằm ngửa cải biên. 
Đối tượng và phương pháp: Từ tháng 10 năm 2017đến tháng 4 năm 2018 thực hiện 9 trường hợp (TH). 
Sỏi được đánh giá theo thang điểm Guy: I–1TH (11,1%), II–3TH (33.3%), III–5TH (55,6%). Chỉ số khối cơ thể: 
24,1 ±14,2(20,4–30,6). Kích thước sỏi trung bình: 34,7 ±4,7(28-44). Phân loại nguy cơ bệnh nhân theo hiệp hội 
gây mê Hoa Kỳ ASA I, II, II lần lượt 5, 3 và 1 TH. Tất cả được thực hiện ở tư thế nằm ngửa cải biên và chụp CT-
scan hệ niệu trước mổ. Đánh giá thành công là sạch sỏi hoặc còn sỏi kích thước <4mm trên CT-scan. Biến chứng 
phẫu thuật phân loại theo Clavien cải biên. 
Kết quả: Không có trường hợp nào thất bại. Thời gian mổ trung bình: 138,5 ±22,4 phút (110-180). Kết quả 
sớm ngay sau mổ thành công 77,8%. Biến chứng 11,1% Clavien II. Thời gian nằm viện trung bình: 5,7 ngày (5-
7). Hai trường hợp (22,2%) được thực hiện lại lần 2. Sau 2 tháng, tỉ lệ thành công 100%. Hạn chế của nghiên 
cứu là nghiên cứu mô tả và số lượng bệnh nhân còn hạn chế. 
Kết luận: Lấy sỏi qua da đường hầm nhỏ kết hợp nội soi ngược dòng điều trị sỏi thận tư thế bệnh nhân nằm 
ngửa cải biên là một lựa chọn hiệu quả để điều trị sỏi thận có hay không kết hợp sỏi niệu quản ở những bệnh nhân 
được lựa chọn cẩn thận. 
Từ khóa: tư thế nằm ngửa cải biên, lấy sỏi qua da đường hầm nhỏ. 
ABSTRACT 
MODIFIED SUPINE MINI-PERCUTANEOUS NEPHROLITHOTOMY COMBINATED 
RETROGRADE ACCESS FOR KIDNEY AND URETERAL STONES IN QUẢNG NAM HOSPITAL 
Tran Van Thanh, Thuy Chau Quy, Phan Thanh Tung, Le Nhat Nam, Nguyen Quoc Viet, Le Van Thuc. 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 4- 2018: 281 – 286 
Background and Objectives: Percutaneous nephrolithotomy (PCNL) is the standard treatment for large 
kidney stones. In this article, we aim to describe our modified technique with the patient in a modified supine 
position for mini-PCNL as well as presenting our realistic experience. 
Materials and methods: From October 2017 to April 2018, 9 consecutive patients were prospectively 
evaluated in Quang Nam hospital. Patients were positioned in modified supine position. All patients underwent 
Computed tomography (CT) preoperatively, and the stones were classified according to the Guy score: I–11.1%, 
II–33.3%, III–55.6%. The mean body mass index was 24.1 ± 14.2 (range: 20.1–30.6), the mean stone size was 
34.7±4.7 mm (range: 28–44), and patients’ American Society of Anesthesiologists scores were I, II, and III in 5.3, 
and 1 cases, respectively. Success was evaluated based on CT findings at the end of follow-up. Success was defined 
* Bệnh viện ĐK Tỉnh Quảng Nam. 
Tác giả liên lạc: BS. Trần Văn Thành Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Thận – Niệu 282
as patients free of stones or with residual stone fragments <4 mm. Complications were graded according to the 
modified Clavien classification. 
Results and limitations: There was no failure of access. The median operative time was 138.5 ±22.4 (110-
180) minutes. The immediate success rate was 77.8%. The complication rate was 11.1% (Clavien II). The median 
hospital stay was 5.7 (5-7) days. Two patients (22.2%) had a secondary procedure. At 2 mos, the success rate was 
100%. However, the limitation of this study is its design, which is descriptive rather than comparative 
Conclusions: Modified supine mini-percutaneous nephrolithotomy combinated retrograde access is an 
efficient method in treatment of kidney stone with or without combining ureteral stones in carefully selected 
patients. 
Keyword: modified supine position, mini-PCNL. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật lấy sỏi qua da là phương pháp 
điều trị tiêu chuẩn cho sỏi thận kích thước lớn tư 
thế kinh điển nằm sấp. Tuy nhiên với sự phát 
triển dụng cụ nội soi, máy tán sỏi, kỹ thuật máy 
móc hổ trợ tạo đường vào, trình độ phẫu thuật 
viên đã có nhiều báo cáo thành công cao với tư 
thế nằm ngửa. Tư thế bệnh nhân nằm ngửa cải 
biên là một cải tiến đáng kể giúp cho việc kết 
hợp nhiều phương pháp trên cùng một lần phẫu 
thuật giúp nâng cao hiệu quả điều trị(4,11,16). Với 
mục tiêu đem đến thêm một chọn lựa phương 
pháp điều trị sỏi thận có hay không có kèm sỏi 
niệu quản chúng tôi trình bày kỹ thuật, kinh 
nghiệm thực tế bước đầu lấy sỏi qua da đường 
hầm nhỏ kết hợp nội soi ngược dòng tư thế nằm 
ngửa cải biên ở bệnh nhân được lựa chọn qua 
chín trường hợp tại bệnh viện Đa khoa tỉnh 
Quảng nam. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 
Thời gian thực hiện từ tháng 10 năm 2017 
đến tháng 04 năm 2018 tại bệnh viện Đa khoa 
tỉnh Quảng nam. 
Nghiên cứu tiến cứu mô tả, không so sánh, 
xử lí số liệu bằng phần mềm SPSS 22. 
Bệnh nhân có sỏi thận có chỉ định điều trị lấy 
sỏi có hay không kết hợp sỏi niệu quản cùng 
bên. Khảo sát đặc điểm chung: tuổi, giới tính, chỉ 
số khối cơ thể. Khảo sát tiền sử bệnh sử nội khoa 
ngoại khoa, đặc biệt tiền sử đã mổ sỏi đường tiết 
niệu. Bệnh nhân được làm các xét nghiệm tiền 
phẩu, xét nghiệm chuyên biệt: urea, creatinine 
máu, tổng phân tích nước tiểu, cấy nước tiểu, 
chức năng đông máu toàn bộ. Chụp CT-scan hệ 
niệu có thuốc cản quang, phim KUB. Phân loại 
mức độ khó của sỏi theo GUY(16). Loại trừ các 
trường hợp có chống chỉ định. Tư vấn phương 
pháp điều trị, biến chứng cũng như chuyển đổi 
phương pháp điều trị. Kháng sinh dự phòng 
trước mổ. Đặc điểm bệnh nhân và các chỉ số đưa 
vào nghiên cứu trình bày cụ thể bảng 1 và 2. 
Thông qua và được sự đồng ý hội đồng 
chuyên môn và y đức của bệnh viện. 
Đánh giá nguy cơ phẫu thuật theo hiệp hội gây mê 
phẫu thuật Hoa Kỳ (ASA) 
Trang thiết bị 
Máy tán sỏi Laser 40W, Ống soi niệu quản 
bán cứng Karl-storz và Olympus, ống soi mềm 
Olympus. Bộ dụng cụ tạo đường hầm nhỏ 
Acutech. 
Bệnh nhân được kiểm tra phim KUB hoặc 
CTscan sau mổ, tiêu chuẩn thành công khi sạch 
sỏi hay còn sỏi kích thước <4mm. Các trường 
hợp còn sỏi lớn chúng tôi can thiệp lại lần hai: 
lấy sỏi qua da, tán sỏi ngoài cơ thể, nội soi ngược 
dòng tùy từng trường hợp và thực hiện sau hai 
tuần. Đánh giá kết quả sớm sau mổ và kết quả 
sau 6 đến 8 tuần điều trị. Biến chứng đánh giá 
theo Clavien cải biên. 
Kỹ thuật 
Bệnh nhân được gây mê nội khí quản, tư thế 
nằm ngửa nghiêng về phía đối diện một góc so 
mặt bàn khoảng 30-450. Kê dưới vai và mông gối 
vải để giữ tư thế nghiêng, đặt gối vải tròn ở hông 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 283
vị trí nâng eo hông của bàn mổ để khi cần nâng 
eo hông làm rộng khoảng thao tác dụng cụ cũng 
như trình diện thận cần can thiệp thuận lợi nhất 
có thể. Lưng bênh nhân chúng tôi đặt thẳng như 
tư thế tán sỏi ngược dòng để thực hiện nôi soi 
ngược dòng. Tay để vòng ra trước ngực. Hai 
chân: chân phía bên sỏi hơi gấp đùi và dạng nhẹ, 
chân đối diện dạng rộng và gấp gối đùi đủ để 
đảm bảo phẫu thuật viên đứng giữa hai chân 
bệnh nhân thực hiện nội soi ngược dòng. Bệnh 
nhân được nội soi bàng quang niệu quản ngược 
dòng tán sỏi niệu quản khi có sỏi niệu quản đi 
kèm, trong trường hợp thuận lợi chúng tôi tán 
sỏi đường dưới nếu không nội soi lên xử lí các 
bất thường kèm theo như hẹp cổ đài thận, hẹp 
niệu quản-bể thận, để đặt sonde niệu quản. Kết 
hợp cùng thời điểm thực hiện chọc và tạo đường 
hầm qua da dưới hướng dẫn siêu âm. Điều này 
đòi hỏi hai bác sĩ phẫu thuật viên thành thục. 
Thực hiện tán sỏi qua da trước hay ngược dòng 
niệu quản tùy thuộc vào từng trường hợp bệnh. 
Nội soi ngược dòng tùy trường hợp mà dùng 
ống soi bán cứng hay ống soi mềm. Kết thúc 
phẩu thuật bênh nhân được đặt sonde JJ niệu 
quản, dẩn lưu thận dùng ống nuôi ăn số 16F, nếu 
có chảy máu chúng tôi đặt sonde foley hoặc kẹp 
ống dẫn lưu để giúp cầm máu. Sonde tiểu theo 
dõi và rút sau 6-8 giờ nếu không có chảy máu. 
Chăm sóc hậu phẫu nuôi dưỡng đường tỉnh 
mạch ngày đầu, ngày thứ hai kiểm tra urea, 
creatinine, công thức máu. Kiểm tra phim KUB 
hay CT ngày thứ 3. Bệnh nhân còn sỏi cần can 
thiệp chúng tôi tư vấn và thực hiện lại sau hai 
tuần (mini-PCLN, nội soi ngược dòng hay tán 
ngoài cơ thể). Nếu thành công và không có chảy 
máu chúng tôi rút dẫn lưu thận ngày thứ 3, 
sonde JJ rút sau 2 đến 4 tuần. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 10 năm 2017 đến tháng 04 năm 
2018, Chúng tôi thực hiện 9 trường hơp: 3 nữ 6 
nam. Tuổi từ 23–67. Ba trường hợp sỏi thận kết 
hợp sỏi niệu quản 1/3 trên, sáu trường hợp sỏi 
thận. Cả 9 trường hợp đều thực hiện thành công 
với tư thế nằm ngửa cải biên dưới hướng dẫn 
siêu âm. 
Bảng 1. Đặc điểm tuổi, giới tính, chỉ số khối cơ thể, độ ứ nước thận, mổ sỏi thận trước đây, sỏi niệu quản cùng bên kết hợp 
Tuổi Trung bình 49,89±14,21 (23 – 67) 
Giới tính: 
Nam 
Nữ 
6 
3 
BMI(chỉ số khối) 
< 30 
≥ 30 
Trung bình 24,1±14,2(20,4–30,6) 
8 88,89% 
1 11,11% 
Vết mổ củ 
Có 
Không 
7 77,78% 
2 22,22% 
Độ ứ nước 
Độ I 
Độ II 
Độ III 
Sỏi thận 
Kết hợp sỏi nq 
Đơn thuần 
Phân loại sỏi: Guy
,
s 
ASA 
3 th 33,33% 
5 th 55,56% 
1 th 11,11% 
9 
3 33,33% 
6 66,67% 
I: 1 (11,11%), II: 3 (33,33%), III: 5(55,56%) 
I: 5 (55,56%), II: 3 (33,33%), III: 1(11.11%) 
Trong quá trình thực hiện có 4 trường hợp 
tạo đường hầm nhóm đài giữa, 3 vào nhóm đài 
dưới, 1trường hợp tạo hai đường hầm nhóm đài 
giữa và dưới ở bệnh nhân sỏi GUY III thận ứ 
nước độ III. Ở đây chúng tôi sử dụng hoàn toàn 
ống soi niệu quản bán cứng. 
Hai trường hợp thực hiện can thiệp lần hai 
sau hai tuần cũng với phương pháp lấy sỏi qua 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Thận – Niệu 284
da chúng tôi nhận thấy rất thuận lợi: phẫu 
trường rỏ do không có chảy máu, thời gian mổ 
ngắn, tìm sỏi các nhóm đài dể dàng. Hai trường 
hợp này chúng tôi không đưa vào lại số liệu 
nghiên cứu 
Bảng 2. Kết quả thực hiện, biến chứng, can thiệp lần 2, tỉ lệ thành công. 
Thời gian mổ: trung bình: 138,5 ±22,4 phút (110-180) 
Thời gian nằm viện 
Trường hợp can thiệp lại 
Biến chứng 
Kết quả sau mổ: 
Thành công 
Còn sỏi ≥4 
trung bình: 5,7 ngày (5-7) 
2/9 (22,2%) 
1/9 Clavien II (11,1%) truyền máu 
7/9 77.78% 
2/9 22,22% 
Kết quả 6-8 tuần: 
Thành công 
9/9 100% 
BÀN LUẬN 
Lấy sỏi qua da được xem như tiêu chuẩn 
vàng điều trị sỏi thận lớn(3,5,10,11) , ban đầu thực 
hiện tư thế nằm sấp, sau này tư thế nằm ngửa cải 
biên đã cho thấy một số lợi ích đáng kể cải thiện 
được một số hạn chế ở tư thế nằm sấp: bệnh 
nhân bị bênh tim mạch, béo phì, dể kiểm soát 
trong gây mê, thời gian phẫu thuật ngắn hơn 
nhờ không phải thay đổi tư thế và đặc biệt: có 
thể kết hợp được nội soi ngược dòng phối hợp, 
tư thế đường hầm nằm ngang do đó quá trình 
rữa trôi làm sạch sỏi nhanh hơn(4,7,8,16). 
Hình 1. Tư thế bệnh nhân, kết hợp soi đường dưới và tạo đường hầm qua da dưới hướng dẫn siêu âm. 
Các trường hợp chúng tôi chọn thực hiện kết 
hợp lấy sỏi qua da kết hợp nội soi ngược dòng: 
sỏi thận kèm sỏi niệu quản, sỏi thận tiên lượng 
chỉ lấy sỏi qua da đơn thuần sẽ khó khăn. Việc 
chọn lựa này kết hợp trên CT-scan hệ niệu để 
tiên lượng ống soi tiếp cận được sỏi niệu quản ở 
cao hay tiếp cận lên thận để kết quả điều trị 
được tốt nhất. 
Tư thế bệnh nhân: việc chọn lựa tiếp cận lấy 
sỏi qua da với tư thế nằm bênh nhân quan trong 
phụ thuộc kinh nghiệm phẫu thuật viên(9). Tư thế 
nằm ngửa cải tiến này cho phép kết hợp hai 
hướng tiếp cận sỏi, một đường tiếp cận qua ngã 
nội soi ngược dòng niệu quản tán sỏi niệu quản 
đi kèm hay tán sỏi trên thận đặc biệt sỏi bể hay 
nhóm đài trên, một đường hầm qua da. Trong 
quá trình thực hiện chúng tôi nhận thấy: khoảng 
không gian để thực hiện chọc và tạo đường hầm 
hẹp hơn nằm sấp do đó chúng tôi chủ động kê 
gối vải tròn ở dưới hông khi cần quay eo bàn mổ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 285
lên bộc lộ vùng hông rộng, khi cần nội soi ngược 
dòng niệu quản thận chúng tôi hạ eo bàn sẽ trả 
lại vị trí bệnh nhân như thế tán sỏi niệu quản 
thông thường do đó nhìn chung không gây khó 
khăn gì đáng kể. 
Chúng tôi cũng chú trọng tư thế hai chân để 
sao có khoảng thao tác tốt khi thực hiện nội soi 
ngược dòng, ở đây chúng tôi nhấn mạnh việc 
thực hiện thành thục nội soi niệu quản ngược 
dòng bằng hai tay sẻ khắc phục được khoảng 
không gian hơi chật khi đứng giữa hai chân 
bệnh nhân ở tư thế nằm ngửa có cải tiến để thực 
hiện nội soi ngược dòng niệu quản thận. 
Khi thực hiện kết hợp lấy sỏi qua da và nội 
soi ngược dòng ở tư thế nằm ngửa cải biên này 
ngoài thuận lợi không phải thay đổi tư thế làm 
kéo dài thời gian phẫu thuật hay thuận lợi trong 
quá trình gây mê cũng như theo dõi trong suốt 
quá trình phẫu thuật(7,8,15,16). Với tư thế cải biên 
không phải thay đổi tư thế bênh nhân trong quá 
trình phẫu thuật nhiều tác giả báo cáo rút ngắn 
thời gian phẫu thuật 28 đến 30 phút(3,6). Chúng 
tôi nhận thấy rằng với tư thế nằm này đường 
hầm qua da nằm với phương gần ngang do đó 
mà các mảnh sỏi trôi ra ngoài dể dàng nhất là khi 
thực hiện thì tán sỏi ngược dòng niệu quản và 
mảnh sỏi vở được trôi ra theo ngã đường hầm 
qua da(16). 
Hình 2. Sheath với tư thế nằm ngang mảnh vụn sỏi dể trôi ra khi bơm rửa. 
Trong chuổi bệnh nhân được điều trị bằng 
phương pháp này không có tổn thương tạng lân 
cận, nhiều ý kiến cho rằng tư thế này dể tổn 
thương ruột hay lách(1,2,14). Tư thế cải tiến nằm 
ngửa ruột có xu hướng đổ về phía dối diện và sẽ 
cách xa thận hơn, tuy nhiên đây là ý kiến giả 
định. Để kiểm soát tốt tránh biến chứng đó tất cả 
bệnh nhân chúng tôi chụp CTscan để đánh giá 
và tạo đường hầm có kiểm soát dưới siêu âm. 
Trong loạt trường hợp thực hiện có hai 
trường hợp chúng tôi thực hiện lại lần hai mini-
PCLN, nhận thấy rằng quá trình thực hiện rất 
thuận lợi, phẫu trường sạch rỏ, tìm sỏi các vị trí 
đài rất thuận lợi, thời gian mổ ngắn. Chúng tôi 
đặt ra vấn đề có cần lấy sạch sỏi hay đảm bảo 
thành công trong lần mổ đầu tiên ở một số 
trường hợp sỏi san hô toàn phần và phức tạp 
(Guy IV), các trường hạn chế thời gian gây mê, 
chảy máu cần hồi sức. Sót sỏi chủ động sau đó 
can thiệp lần hai, chúng tôi hy vọng khi số liệu 
bệnh nhân đủ lớn sẻ giải quyết được vấn đề này. 
Hình 3. Lấy sỏi lại lần 2 qua đường hầm có sẵn. 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng nhận thấy 
có những hạn chế mà trong tương lai sẽ khắc 
phục đó là số lượng bệnh nhân còn hạn chế và 
là nghiên cứu mô tả. Ngoài ra hạn chế của 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Thận – Niệu 286
chúng tôi còn ở trang thiết bị máy tán sỏi công 
suất nhỏ, máy tưới rửa chưa có nên chúng tôi 
bơm tưới rửa bằng xy ranh lớn, do đó kéo dài 
thời gian mổ. 
KẾT LUẬN 
Điều trị sỏi thận đơn thuần hay có phối hợp 
sỏi niệu quản có nhiều phương pháp. Bước đầu 
thực hiện và những kết quả đạt được, chúng tôi 
nhận thấy rằng lấy sỏi qua da đường hầm nhỏ 
kết hợp nội soi ngược dòng điều trị sỏi thận tư 
thế bệnh nhân nằm ngửa cải biên là một phương 
pháp hiệu quả để điều trị sỏi thận có hay không 
kết hợp sỏi niệu quản ở những bệnh nhân được 
lựa chọn cẩn thận. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cracco CM, Scoffone CM, Scarpa RM (2011). New 
developments in percutaneous techniques for simple and 
complex branched renal stones. Curr Opin Urol; 21:154–60. 
2. Hopper KD, Sherman JL, Luethke JM, Ghaed N (1987). The 
retrorenal colon in the supine and prone patient. Radiology; 
162:443–6. 
3. Hoznek A, Rode J, Ouzaid I, Faraj B, Kimulib M, de la Taille A, 
Salomon L, Abboua CC (2012). Modified Supine Percutaneous 
Nephrolithotomy for Large Kidney and Ureteral Stones: 
Technique and Results. European urology, 61:164 – 70. 
4. Jones MN, Ranasinghe W, Cetti R, Newell B, Chu K, Harper M, 
Kourambas J, McCahy P (2016). Modified supine versus prone 
percutaneous nephrolithotomy: Surgical outcomes from 
atertiary teaching hospital. Investig Clin Urol; 57: 268-273. 
5. Kumar P, Bach C, Kachrilas S et al (2012). Supine percutaneous 
nephrolithotomy (PCNL): “in vogue” but in which position? 
BJU Int. 110: E1018–E1021. 
6. Liu L, Zheng S, Xu Y, Wei Q (2010). Systematic review and 
meta-analysis of percutaneous nephrolithotomy for patients in 
the supine versus prone position. J Endourol; 24:1941–6. 
7. Manohar T, Jain P, Desai M (2007). Supine percutaneous 
nephrolithotomy: effective approach to high-risk and morbidly 
obese patients. J Endourol; 21:44–9. 
8. Papatsoris A, Masood J, El-Husseiny T, Maan Z, Saunders P, 
Buchholz NP (2009). Improving patient positioning to reduce 
complications in prone percutaneous nephrolithotomy. J 
Endourol; 23:831–2. 
9. Patel RM, Okhunov Z, Clayman RV.& Landman J (2017). Prone 
Versus Supine Percutaneous Nephrolithotomy: What Is Your 
Position? Curr Urol Rep, 18(4):26 
10. Preminger GM, Assimos DG, Lingeman JE, et al (2005). Chapter 
1: AUA guideline on management of staghorn calculi: Diagnosis 
and treatment recommendations. J Urol; 173:1991–2000. 
11. Scoffone CM, Cracco CM (2017). Invited review: the tale of 
ECIRS (Endoscopic Combined IntraRenal Surgery) in the 
Galdakao-modifed supine Valdivia position. Urolithiasis. 
46(1):115-123. 
12. Tefekli A, Ali Karadag M, Tepeler K, Sari E, Berberoglu Y, 
Baykal M, Sarilar O, Muslumanoglu AY (2008). Classification of 
Percutaneous NephrolithotomyComplications Using the 
Modified ClavienGrading System: Looking for a Standard. 
European urology, 53(1): 184 – 90. 
13. Thomas K, Smith NC, Hegarty N, Glass GM (2011). The Guy’s 
stone score— the complexity of percutaneous nephrolithotomy 
procedures. Urology; 78:277–281. 
14. Tuttle DN, Yeh BM, Meng MV, Breiman RS, Stoller ML, Coakley 
FV (2005). Risk of injury to adjacent organs with lower-pole 
fluoroscopically guided percutaneous nephrostomy: evaluation 
with prone, supine, and multiplanar reformatted CT. J Vasc 
Interv Radiol; 16: 1489–92. 
15. Yuan D, Liu Y, Rao H, Cheng T, Sun Z, Wang Y, Liu J, Chen W, 
Zhong W, Zhu J (2017). Supine versus prone position in 
percutaneous nephrolithotomy for kidney calculi: a meta-
analysis. Journal of Endourology, 30(7):754-63. 
16. Zhao Z, Fan J, Liu Y, Zeng G (2018). Percutaneous 
nephrolithotomy: position, position, position!. Urolithiasis, 
Volume 46, Issue 1, pp 79–86. 
Ngày nhận bài báo: 10/05/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2018 
Ngày bài báo được đăng: 20/07/2018