Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 118
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH VỀ PHÒNG NGỪA LÂY NHIỄM 
VI RÚT VIÊM GAN B CỦA SINH VIÊN NGÀNH BÁC SĨ ĐA KHOA 
HỆ CHÍNH QUY NĂM CUỐI ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HỒ CHÍ MINH 
NĂM HỌC 2016-2017 
Nguyễn Hữu Ấn*, Nguyễn Quang Trung** 
TÓM TẮT 
Cơ sở khoa học: Nhiễm vi rút viêm gan B (VGB), một trong những bệnh truyền nhiễm ở người phổ 
biến và nghiêm trọng, nhất là những nước nằm ở khu vực lưu hành cao của VGB như Việt Nam. Nhân 
viên y tế (NVYT) là đối tượng nguy cơ cao của nhiễm vi rút VGB, trong đó có NVYT tương lai, sinh viên y 
khoa năm cuối. Vấn đề được đặt ra là tỉ lệ sinh viên ngành bác sĩ đa khoa (BSĐK) hệ chính quy năm cuối 
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHYD TPHCM), năm học 2016-2017 có kiến thức, thái độ và 
thực hành (KT-TĐ-TH) đúng về phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB là bao nhiêu? Có hay không mối liên 
quan giữa kiến thức, thái độ và thực hành của sinh viên ngành BSĐK hệ chính quy năm cuối ĐHYD 
TPHCM về phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB? 
Mục tiêu: Xác định kiến thức thái độ và thực hành về phòng ngừa lây nhiễm vi rút viêm gan B của sinh 
viên, mối liên quan giữa KT, TĐ, TH với đặc điểm dân số và mối liên quan giữa KT, TĐ, TH. 
Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. Đối tượng nghiên cứu là sinh viên năm cuối ngành bác sĩ đa 
khoa (BSĐK) hệ chính quy Đại học Y dược TP HCM năm 2016 – 2017 thông qua bộ câu hỏi tự điền. 
Kết quả: Qua khảo sát 460 sinh viên về phòng ngừa lây nhiễm vi rút viêm gan B (VGB): tỉ lệ sinh viên có 
KT đúng, TĐ đúng, TH đúng lần lượt là: 86,96%; 93,7%; 67,53%. Có mối liên quan giữa KT chung và TĐ 
chung, giữa TĐ chung và TH chung, giữa KT chung và TH chung về phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB 
(p<0,05). 
Kết luận: Tỉ lệ sinh viên có KT và TĐ đúng khá cao, tỉ lệ sinh viên có TH đúng còn tương đối thấp. Có mối 
liên quan giữa KT chung và TĐ chung, giữa TĐ chung và TH chung, giữa KT chung và TH chung về phòng 
ngừa lây nhiễm vi rút viêm gan B. 
Từ khóa: kiến thức, thái độ, thực hành, phòng bệnh, vi rút viêm gan B, sinh viên y khoa năm cuối. 
ABSTRACT 
KNOWLEDGE, ATTITUDE AND PRACTICE ABOUT PREVENTION INFECTION HEPATITIS B VIRUS 
OF FINAL MEDICAL STUDENTS OF UNIVERSITY OF MEDICINE AND PHARMACY 
AT HO CHI MINH CITY IN 2016-2017 
Nguyen Huu An, Nguyen Quang Trung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 118 - 125 
Background: Hepatitis B virus infection is one of the most common and serious human infectious diseases, 
especially in the high prevalence areas of hepatitis B virus infection like Vietnam. Health workers are at high risk 
of hepatitis B virus infection, including future health workers and final medical students. The mentioned problem 
here is how the ratio of final year general medicine students of University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi 
Minh City, the academic year 2016-2017 who has correct knowledge, attitude and practice to prevent 
* Đại học Y Dược Tp.HCM ** Bộ môn Nhiễm, Khoa Y, Đại học Y Dược TPHCM 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Hữu Ấn ĐT: 0975362445 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 119
transmission of VGB virus is? Is there relationship between the knowledge, attitude and practice of final year 
general medicine students of University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh City about prevention of 
hepatitis B virus infection? 
Objectives: To determine the knowledge, attitude and practice of the students about the prevention of the 
infection of hepatitis b virus, the relationship between knowledge, attitude, practice and population characteristics 
and also the relationship among knowledge, attitude and practice. 
Methods: Cross sectional description. The researcher is a final-year student in the Department of 
General Medicine of University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh City from 2016 to 2017 
through self-filled questionnaire. 
Results: Through the survey of 460 final year students in the Department of General Medicine of University 
of Medicine and Pharmacy at HCMC in 2016-2017 on prevention of the infection of hepatitis B: the percentage of 
students with correct knowledge, correct attitude and correct behavior, respectively: 86.96%; 93.7%; 67.53%. 
There is a relationship between general knowledge and general attitude, between general attitude and common 
practice, between general knowledge and general practice in the prevention of hepatitis B virus infection (p <0.05). 
Conclusion: The ratio of students with correct knowledge and attitude is quite high; the proportion of 
students with proper practice is relatively low. There is a relationship between general knowledge and general 
attitude, general attitude and general practice, and general knowledge and common practice in the prevention of 
hepatitis B virus infection. 
Keywords: knowledge, attitude, practice, prevention, viral B hepatitis, final year medical students. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiễm vi rút viêm gan B (VGB) là một trong 
những bệnh truyền nhiễm ở người phổ biến và 
nghiêm trọng nhất. Theo Tổ chức Y tế thế giới 
(WHO), tính đến năm 2015, thế giới có 2 tỷ 
người có bằng chứng đã hoặc đang nhiễm vi rút 
VGB và 240 triệu người mang kháng nguyên bề 
mặt (HBsAg) của VGB(6). Một nửa dân số thế giới 
đang sống trong vùng lưu hành cao của vi rút 
VGB. Việt Nam là một quốc gia nằm ở khu vực 
lưu hành nhiễm vi rút VGB cao. Việc điều trị vẫn 
còn nhiều thách thức và khó khăn vì thời gian 
lâu dài đồng thời chi phí tốn kém; thế nhưng 
bệnh có thể phòng ngừa hiệu quả bằng vắc xin 
cũng như các biện pháp phòng ngừa phổ quát 
như truyền máu an toàn, quan hệ tình dục có 
bảo vệ, sử dụng phương tiện bảo hộ khi tiếp xúc 
với máu và dịch tiết. 
Nhân viên y tế (NVYT) là đối tượng có nguy 
cơ cao nhiễm vi rút, nhưng một số nghiên cứu 
gần đây cho thấy, NVYT và sinh viên ngành y 
chưa tiêm ngừa vắc xin viêm gan vi rút B trước 
khi hành nghề, cũng như trong quá trình hành 
nghề và thực tập chưa tuân thủ hết các quy định 
phòng ngừa lây nhiễm(3,5). Đối với sinh viên 
ngành bác sĩ đa khoa (BSĐK) năm cuối tại Đại 
học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh (ĐHYD 
TPHCM) sẽ học thực hành lâm sàng 4 chuyên 
khoa chính là Nội, Ngoại, Sản, Nhi và thực hành 
cộng đồng, công việc chính bao gồm: khám 
bệnh, trực cấp cứu, đỡ sanh, phụ mổ, thực hiện 
một số thủ thuật như lấy khí máu động mạch, 
chọc dịch màng phổi, chọc dò dịch não tủy 
nên nguy cơ bị lây nhiễm các bệnh qua đường 
máu và dịch tiết từ bệnh nhân như bị kim đâm, 
vật bén nhọn đâm, phơi nhiễm với máu và dịch 
tiết là rất cao, trong đó có vi rút VGB. Vì vậy 
sinh viên ngành BSĐK năm cuối cần có kiến 
thức thái độ và thực hành đúng về phòng ngừa 
lây nhiễm vi rút VGB. Nghiên cứu này nhằm 
khảo sát kiến thức thái độ và thực hành của sinh 
viên năm cuối ngành BSĐK ĐHYD TPHCM về 
phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB, từ đó sẽ là cơ 
sở để các bộ môn đưa ra những chương trình 
giảng dạy về phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB 
cho sinh viên trong suốt 6 năm học. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 120
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định tỉ lệ sinh viên ngành BSĐK hệ 
chính quy năm cuối ĐHYD TPHCM, năm học 
2016-2017, có kiến thức, thái độ và thực hành 
đúng về phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB và 
mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, và thực 
hành về phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Sinh viên BSĐK hệ chính quy năm cuối 
ĐHYD TPHCM năm học 2016 – 2017. 
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang mô tả. 
Cỡ mẫu 
Được tính theo công thức: 
N= 
α = 0,05 xác suất sai lầm loại 1. = 0,5 trị số mong muốn 
của tỉ lệ (vì chưa hồi cứu được kết quả của nghiên cứu 
tương tự nên ước tính = 0,5 để lớn nhất). 
: khoảng tin cập 95% ( = 1,96). 
d: sai số ước lượng = 0.05. 
Áp dụng công thức trên tính được N = 385 
sinh viên. 
Kỹ thuật chọn mẫu 
Chọn mẫu thuận tiện. Chọn tất cả các sinh 
viên có mặt trong buổi sinh hoạt chính trị đầu 
năm 2016. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Tiêu chuẩn đưa vào: chọn tất cả những sinh 
viên ngành BSĐK hệ chính quy năm cuối năm 
học 2016-2017 đồng ý tham gia trả lời bộ câu hỏi 
tự điền. 
Tiêu chuẩn loại ra 
Những sinh viên vắng mặt trong buổi 
chọn mẫu. 
Thu thập số liệu 
Bộ câu hỏi tự điền. 
Xử lý số liệu 
Nhập liệu bằng phần mềm epidata 3.1. 
Phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 13.0. 
Mô tả tần số, tỉ lệ phần trăm, biểu đồ. Phân 
tích sử dụng phép kiểm chi bình phương 2 để 
xác định mối liên hệ giữa các biến số. Nếu 
phép kiểm 2 không phù hợp thì dùng phép 
kiểm chính xác Fisher. Đánh giá mối quan hệ 
dùng số đo tỉ lệ hiện mắc PR, số đo có ý nghĩa 
khi p<0,05 với khoảng tin cậy 95%. 
KẾT QUẢ 
Nghiên cứu được thực hiện trên 460 sinh 
viên năm cuối ngành BSĐK hệ chính quy ĐHYD 
TPHCM năm học 2016-2017. 
Đặc điểm dân số nghiên cứu 
Bảng 1: Đặc điểm dân số nghiên cứu (n = 460) 
Đặc điểm n % 
Giới tính 
Nam 195 42,39 
Nữ 265 57,61 
Dân tộc 
Kinh 415 90,22 
Khác 45 9,78 
Nơi thường trú 
Thành thị 227 49,35 
Nông thôn 233 50,65 
Tiền sử bản thân mắc 
bệnh viêm gan vi rút B 
Có 19 4,13 
Không 418 90,87 
Không biết 23 5 
Tiền sử gia đình mắc bệnh 
viêm gan vi rút B 
Có 65 16,3 
Không 343 74,57 
Không biết 42 9,13 
Kết quả học lực học kì 1 
năm thứ 5 
Xuất sắc 0 0 
Giỏi 5 1,09 
Khá 204 44,35 
Trung bình khá 217 47,17 
Trung bình 33 7,17 
Yếu 0 0 
Kém 1 0,22 
Nguồn 
thông tin 
mà sinh 
viên tiếp 
cận 
Nhà trường, thầy cô 429 93,26 
Internet, sách báo, tờ rơi 405 88,04 
Tivi, radio 306 66,52 
Nhân viên y tế 289 64,78 
Bạn bè, người thân, hàng xóm 282 61,3 
Nguồn khác 2 0,43 
Sinh viên nữ chiếm tỉ lệ cao hơn so với sinh 
viên nam. Phần lớn sinh viên là dân tộc Kinh 
(90,22%), các dân tộc khác chiếm tỉ lệ thấp hơn. 
Sinh viên thường trú ở thành thị là 49,35% tương 
đương với nông thôn 50,65%. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 121
Phần lớn sinh viên không mắc bệnh viêm 
gan vi rút B (90,87%), có 4,13% sinh viên mắc 
bệnh và tỉ lệ không biết mình mắc bệnh hay 
không là 5%. Về tiền sử gia đình, thì 74,57% sinh 
viên có người thân không mắc bệnh, có 16,3% 
sinh viên có người thân mắc bệnh và 9,13% sinh 
viên không biết về tình trạng nhiễm vi rút VGB 
của thành viên gia đình mình. 
Nguồn thông tin mà sinh viên tiếp cận nhiều 
nhất là nhà trường, thầy cô (93,26%). Các nguồn 
thông tin khác, chiếm tỉ lệ thấp hơn. 
Đặc điểm về kiến thức, thái độ, thực hành về 
phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB 
Bảng 2: Kiến thức về phòng ngừa lây nhiễm vi rút 
VGB (n=460) 
Kiến thức n % 
Dịch tễ VGB ở Việt Nam 455 98,91 
Tác nhân gây bệnh 459 99,78 
Hậu quả 455 98,91 
Đối tượng dễ nhiễm 377 81,96 
Đường lây nhiễm 427 92,83 
Xử trí khi bị phơi nhiễm 262 56,96 
Cách phát hiện bệnh 387 84,13 
Bệnh có thể phòng 459 99,78 
Biện pháp phòng ngừa 416 90,43 
Vắc xin có trên thị trường 456 99,13 
Lịch tiêm ngừa chuẩn 374 81,3 
Lợi ích của việc tiêm ngừa 440 95,65 
Kiến thức chung đúng (≥10/12 nội dung) 400 86,96 
Về kiến thức về phòng ngừa lây nhiễm vi 
rút VGB, phần lớn sinh viên đã có kiến thức 
đúng với tỉ lệ khá cao. Tỉ lệ có kiến thức chung 
đúng khi trả lời đúng ≥10/12 nội dung trên là 
86,96%. Tuy nhiên, chỉ có 81,96% sinh viên biết 
về đối tượng dễ lây nhiễm bệnh, 81,3% sinh 
viên biết lịch tiêm ngừa chuẩn và đặc biệt chỉ 
có 56,96% sinh viên xử trí đúng khi bị phơi 
nhiễm, đây là vấn đề cần được quan tâm vì 
sinh viên ngành BSĐK năm cuối sắp trở thành 
NVYT thực thụ nhưng vẫn chưa biết cách xử 
trí khi bị phơi nhiễm. 
Bảng 3: Thái độ về phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB 
(n=460) 
Thái độ n % 
NVYT nên tiêm ngừa vắc xin VGB đủ liều 456 99,13 
NVYT sử dụng găng tay và dụng cụ lấy máu 
mới 
460 100 
Cần xử trí cho các đối tượng sau phơi nhiễm với 
vi rút VGB 
444 96,52 
Nên đi xét nghiệm máu để phát hiện bệnh viêm 
gan vi rút B 
456 99,13 
Bắt buộc tầm soát vi rút VGB ở những bịch máu 
của những người hiến máu 
456 99,13 
Nên sử dụng riêng các dụng cụ cá nhân 458 99,57 
Thái độ chung đúng (đồng ý 6/6 nội dung) 431 93,7 
Về thái độ phòng ngừa lây nhiễm vi rút 
VGB, tỉ lệ sinh viên có thái độ đúng khá cao. Thái 
độ chung đúng khi trả lời đồng ý 6 nội dung trên 
chiếm tỉ lệ 93,7%. 
Bảng 4: Thực hành phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB 
Thực hành n % 
Thực hành tiêm vắc xin (n=441)* 401 90,93 
Tiêm đủ liều vắc xin VGB (n=401)** 329 82,04 
Sử dụng riêng các dụng cụ cá nhân (n=460) 423 91,96 
Sử dụng các phương tiện bảo hộ cá nhân trong quá trình thực hiện các thủ thuật hoặc khi tiếp xúc với máu và 
dịch tiết của bệnh nhân (n=460) 
280 60,87 
Đổi đôi găng mới và dụng cụ mới khi thực hiện lấy máu và thủ thuật cho bệnh nhân (n=460) 358 77,83 
Báo cáo với thầy cô hướng dẫn lâm sàng, người phụ trách ở khoa khi bị phơi nhiễm (n=172)*** 61 35,47 
Tuyên truyền, giáo dục cho người thân, bạn bè về cách phòng ngừa sự lây nhiễm vi rút VGB (n=460) 261 56,74 
Thực hành chung đúng**** 306 66,52 
 *: Thực hành tiêm vắc xin đúng khi sinh viên trả lời đã tiêm ngừa vắc xin VGB. 
**: Thực hành tiêm đủ liều vắc xin VGB khi sinh viên trả lời đã tiêm đủ ≥3 liều vắc xin. 
***: Trong số 460 sinh viên tham gia nghiên cứu có 172 sinh viên đã từng phơi nhiễm với máu và dịch tiết của bệnh nhân khi 
thực hành lâm sàng tại các bệnh viện. 
****: Thực hành chung đúng khi sinh viên trả lời đúng ≥3/4 nội dung (Sử dụng riêng các dụng cụ cá nhân; Sử dụng các 
phương tiện bảo hộ cá nhân trong quá trình thực hiện các thủ thuật hoặc khi tiếp xúc với máu và dịch tiết của bệnh nhân; 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 122
Đổi đôi găng mới và dụng cụ mới khi thực hiện lấy máu và thủ thuật cho bệnh nhân; Tuyên truyền, giáo dục cho người 
thân, bạn bè về cách phòng ngừa sự lây nhiễm vi rút VGB). 
Về thực hành, trong 441 sinh viên không mắc 
bệnh viêm gan vi rút B thì có 90,93% sinh viên đã 
tiêm ngừa vắc xin VGB, trong số những sinh 
viên đã tiêm ngừa thì có 82,04% sinh viên tiêm 
đủ liều. Trong số sinh viên đã từng phơi nhiễm 
trên lâm sàng, chỉ có 35,47% sinh viên luôn luôn 
báo cáo với thầy cô, người phụ trách ở khoa. Tỉ lệ 
sinh viên có thực hành chung đúng về phòng 
ngừa lây nhiễm vi rút VGB là 66,52%, tỉ lệ này 
tương đối thấp. 
Mối liên quan giữa đặc điểm dân số với kiến 
thức, thái độ, thực hành chung 
Không tìm thấy mối liên quan giữa đặc 
điểm dân số (giới, nơi thường trú, dân tộc, kết 
quả học tập, tiền sử bản thân và tiền sử gia 
đình) với kiến thức chung đúng, thái độ chung 
đúng, thực hành chung đúng về phòng ngừa 
lây nhiễm vi rút VGB. 
Mối liên quan giữa kiến thức chung, thái độ 
chung, thực hành chung 
Bảng 5: Mối liên quan giữa kiến thức chung và thái 
độ chung (n=460) 
Kiến thức 
chung 
Thái độ chung 
P 
PR 
(KTC 95%) Đúng (%) Sai (%) 
Đúng 382 95,50 18 4,5 
<0,001 
1,17 
(1,04-1,32) Sai 49 81,67 11 18,33 
Sinh viên có kiến thức chung đúng thì có 
thái độ chung đúng gấp 1,17 lần so với sinh 
viên có kiến thức chung sai, với p<0,0001 và 
PR (KTC 95%)=1,04-1,32. 
Bảng 6: Mối liên quan giữa thái độ chung và thực 
hành chung (n=460) 
Thái độ 
chung 
Thực hành chung 
p 
PR 
(KTC 95%) Đúng (%) Sai (%) 
Đúng 294 68,21 137 31,79 
0,003 
1,65 
(1,06-2,55) Sai 12 41,38 17 58,62 
Sinh viên có thái độ chung đúng thì có 
thực hành chung đúng gấp 1,65 lần so với sinh 
viên có thái độ chung sai, với p=0,003 và PR 
(KTC 95%)=1,06-2,55. 
Bảng 7: Mối liên quan giữa kiến thức chung và thực 
hành chung (n=460) 
Kiến thức 
chung 
Thực hành chung 
P 
PR 
(KTC 95%) Đúng (%) Sai (%) 
Đúng 274 68,50 126 31,50 
0,02 
1,28 
(1,00-1,64) Sai 32 53,33 28 46,67 
Tìm thấy mối liên quan giữa sinh viên có 
kiến thức chung đúng và thực hành chung 
đúng, sinh viên có kiến thức chung đúng thì 
có thực hành chung đúng gấp 1,28 lần sinh 
viên có kiến thức chung sai với p=0,02 với PR 
(KTC 95%) = 1,00 – 1,64. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm dân số 
Qua khảo sát 460 sinh viên năm cuối 
ngành BSĐK hệ chính quy ĐHYD TPHCM 
năm 2016-2017 về kiến thức, thái độ và thực 
hành phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB thấy tỉ 
lệ nữ sinh viên cao hơn so với nam sinh viên 
lần lượt là 57,61 và 42,39%. Phần lớn sinh viên 
là dân tộc Kinh (90,22%), các dân tộc khác chỉ 
chiếm 9,78%. Khoa Y ĐHYD TPHCM đào tạo 
BSĐK cho khu vực tỉnh thành phía nam, với 
sinh viên thường trú ở nông thôn chiếm 
50,65% hơi nhỉnh hơn so với thành thị 
(49,35%). Kết quả học tập của sinh viên chủ 
yếu ở mức khá (44,35%) và trung bình khá 
(47,17%), các mức khác chiếm tỉ lệ thấp hơn 
lần lượt là: giỏi (1,09%), trung bình (7,17%), 
kém (0,22%). 
Đa số sinh viên không mắc bệnh viêm gan vi 
rút B (90,87%), có 4,13% sinh viên mắc bệnh 
viêm gan vi rút B. Tuy nhiên có đến 5% sinh viên 
không biết bản thân có mắc bệnh viêm gan vi rút 
B hay không. Có 16,3% sinh viên cho biết gia 
đình có người mắc bệnh viêm gan vi rút B, 
không biết là 5% và không có người mắc là 
90,78%. Điều này, cho thấy rằng, vẫn còn một bộ 
phận nhỏ sinh viên năm cuối vẫn chưa quan tâm 
đến sức khỏe của bản thân mình và các thành 
viên khác trong gia đình. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 123
Nguồn thông tin mà các sinh viên này tiếp 
cận nhiều nhất là nhà trường – thầy cô (93,26%), 
kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Trần 
Trịnh Quốc Việt (81,2%)(4). Điều này phù hợp với 
sinh viên năm cuối, thời gian học 6 năm nên 
nguồn thông tin chủ yếu do nhà trường thầy cô 
cung cấp và thầy cô là những người làm việc gần 
gũi trực tiếp nhất với sinh viên. Từ internet, sách 
báo, tờ rơi (88,04%), kết quả này cũng cao hơn 
kết quả của Huỳnh Thị Kim Truyền (57,6%)(2), 
của Trần Trịnh Quốc Việt (78,8%)(4). Việc tiếp cận 
thông tin qua những trang mạng internet, 
phương tiện truyền thông kĩ thuật cao phù hợp 
với sự phát triển của công nghệ thông tin hiện 
nay. Thông tin được sinh viên tiếp cận qua tivi, 
radio (66,52%), qua NVYT (64,78%), qua bạn bè 
người thân (61,3%) chiếm tỉ lệ tương đối. Thông 
qua kết quả khảo sát trên, nguồn thông tin được 
tiếp cận khá đa dạng và phong phú. Vì vậy, có 
thể nói bệnh viêm gan vi rút B là bệnh khá phổ 
biến trong cộng đồng và được nhiều đối tượng, 
phương tiện quan tâm truyền tải. 
Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng ngừa 
lây nhiễm vi rút VGB 
Tỉ lệ sinh viên có kiến thức chung đúng về 
phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB là tương đối 
cao 86,96% tương đương với tỉ lệ sinh viên khoa 
Điều dưỡng Kỹ Thuật Y Học của Trần Trịnh 
Quốc Việt là (86,5%)(4), tuy nhiên ở nghiên cứu 
của Trần Trịnh Quốc Việt chọn mốc sinh viên có 
kiến thức đúng là ≥8/12 câu hỏi. Còn ở nghiên 
cứu này, chúng tôi chọn mốc sinh viên có kiến 
thức đúng là ≥10/12 câu hỏi, cho thấy sinh viên 
ngành BSĐK năm cuối có kiến thức cao hơn hẳn. 
Bên cạnh đó, một số nội dung như đối tượng dễ 
lây nhiễm vi rút VGB, cách phát hiện bệnh viêm 
gan vi rút B và lịch tiêm ngừa thì sinh viên có 
kiến thức đúng thấp hơn. Đặc biệt chỉ có 56,96% 
sinh viên có kiến thức đúng về xử trí khi bị phơi 
nhiễm lâm sàng, điều này cho thấy sinh viên 
năm cuối này sắp thành NVYT thực thụ nhưng 
vẫn chưa quan tâm đến quy trình xử trí phơi 
nhiễm hoặc có sự nhầm lẫn khi xử trí phơi 
nhiễm theo quy trình của Bộ Y Tế. 
Các sinh viên này đã có thái độ phòng 
ngừa lây nhiễm vi rút VGB rất cao, tỉ lệ sinh 
viên có thái độ chung đúng khi trả lời đồng ý 
cả 6 nội dung là 93,7%, chứng tỏ sinh viên đã 
có thái độ rất tốt trong việc phòng ngừa lây 
nhiễm vi rút VGB cho bản thân và người khác. 
Tỉ lệ này cao hơn nghiên cứu của Huỳnh Thị 
Kim Truyền trên đối tượng sinh viên Cao 
Đẳng Sư Phạm Nha Trang (90%)(2), của Trần 
Trịnh Quốc Việt trên đối tượng sinh viên khoa 
Điều dưỡng Kỹ Thuật Y Học ĐHYD TPHCM 
(80,1%)(4). Tỉ lệ này cao có được do sinh viên 
đã có kiến thức về phòng ngừa lây nhiễm vi 
rút VGB tương đối cao (86,96%). 
Trong 441 sinh viên, thì có 90,93% sinh viên 
đã tiêm ngừa vắc xin VGB, tỉ lệ này cao hơn kết 
quả của Nguyễn Trần Tuấn Kiệt khi nghiên cứu 
trên đối tượng sinh viên trường Cao Đẳng Y Tế 
Đồng Nai (34,1%)(3). Trong số những sinh viên đã 
tiêm thì có 82,04% sinh viên đã tiêm đủ liều vắc 
xin, kết quả này cũng cao hơn những nghiên cứu 
khác Hoàng Văn Doanh (65,6%)(1), Nguyễn Trần 
Tuấn Kiệt (59,1%)(3), Trần Trịnh Quốc Việt 
(67,1%)(4). Chứng tỏ rằng, những sinh viên này 
đã quan tâm đến việc tiêm ngừa vắc xin phòng 
bệnh viêm gan vi rút B cao hơn các đối tượng 
sinh viên khác. 
Có 8,04% sinh viên vẫn dùng chung các 
dụng cụ cá nhân với người khác, có thể lý giải do 
thói quen sinh hoạt trong gia đình, tập thể nên 
dùng chung các dụng cụ cá nhân mà không nghĩ 
đến hậu quả của việc này. Chỉ có 60,87% sinh 
viên luôn luôn sử dụng các phương tiện bảo hộ 
cá nhân khi thực hiện thủ thuật hoặc tiếp xúc với 
máu và dịch tiết của bệnh nhân và 77,83% sinh 
viên luôn luôn đổi đôi găng mới và dụng cụ mới 
khi thực hiện lấy máu và thủ thuật cho bệnh 
nhân, tỉ lệ này tương đối thấp, chứng tỏ sinh 
viên còn chủ quan trong việc thực hành lâm 
sàng cũng như chưa quan tâm đến quy định về 
phòng ngừa chuẩn của Bộ Y tế. 
Có 172 sinh viên đã từng phơi nhiễm với 
máu và dịch tiết của bệnh nhân. Trong số này thì 
tỉ lệ sinh viên thực hành không đúng khi bị phơi 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 124
nhiễm lâm sàng khá cao, chỉ có 35,47% sinh viên 
luôn luôn khai báo với thầy cô hướng dẫn hoặc 
người phụ trách. Điều này cho thấy có sinh viên 
đã chủ quan không tuân thủ quy trình xử lý sau 
phơi nhiễm lâm sàng của Bộ Y tế Việt Nam. Chỉ 
có 56,74% sinh viên thực hiện tốt việc tuyên 
truyền, giáo dục cho người thân, bạn bè. Tỉ lệ 
sinh viên thực hành chung đúng là 67,52%, tỉ lệ 
này tương đối thấp, chủ yếu do sinh viên chưa 
tuân thủ các quy định về phòng ngừa lây nhiễm 
vi rút VGB trong quá trình thực hành lâm sàng 
của mình như: thay đôi găng mới hoặc dụng cụ 
mới khi thực hiện lấy máu và thủ thuật, hay sử 
dụng các phương tiện bảo hộ cá nhân trong quá 
trình thực hiện các thủ thuật Tỉ lệ sinh viên có 
thực hành không đúng chiếm tỉ lệ khá cao: 
33,48%, có lẽ do sinh viên chủ quan không trang 
bị dụng cụ bảo hộ cá nhân hoặc thiếu dụng cụ 
bảo hộ như găng tay tại các cơ sở thực hành 
lâm sàng, cũng như chưa thực hiện tốt việc 
tuyên truyền phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB. 
Các mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, thực 
hành chung 
Không có mối liên quan giữa kiến thức 
chung, thái độ chung, thực hành chung về 
phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB và các đặc 
điểm dân số. Như vậy, các đặc điểm dân số 
không đóng vai trò chi phối kiến thức chung, 
thái độ chung, thực hành chung. 
Sinh viên có kiến thức chung đúng thì sẽ 
có thái độ chung đúng về phòng ngừa lây 
nhiễm vi rút VGB gấp 1,19 lần với p <0.001 
trong phép kiểm chi bình phương và PR (KTC 
95%) = 1,19 (1,04-1,32). Sự chênh lệch này cao 
hơn trong nghiên cứu của Huỳnh Thị Kim 
Truyền, mối liên quan giữa tỉ lệ sinh viên có 
thái độ chung đúng ở nhóm có kiến thức 
chung đúng cao gấp 1,11 lần so với nhóm kiến 
thức sai với p=0,008 và PR (KTC 95%)=1,11 
(1,02-1,22)(2). Điều này chứng tỏ việc cung cấp 
kiến thức về phòng ngừa lây nhiễm rất quan 
trọng vì sẽ làm tăng thái độ chung của sinh 
viên về phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB. 
Sinh viên có thái độ chung đúng thì sẽ thực 
hành chung đúng về phòng ngừa lây nhiễm vi 
rút VGB gấp 1,65 lần sinh viên có thái độ chung 
sai, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với 
p=0,003 và KTC 95% = 1,65 (1,06-2,55). 
Sinh viên kiến thức chung đúng về phòng 
ngừa lây nhiễm vi rút VGB có tỉ lệ thực hành 
chung đúng cao gấp 1,28 lần so với sinh viên 
kiến thức chung sai, sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê với giá trị p trong phép kiểm chi bình 
phường (p=0,02) và KTC 95% = (1,00-1,64). Cho 
thấy kiến thức đóng một vai trò quan trọng 
trong việc thực hành phòng ngừa lây nhiễm vi 
rút VGB của sinh viên ngành BSĐK hệ chính quy 
năm cuối ĐHYD TPHCM. 
KẾT LUẬN 
Qua khảo sát 460 sinh viên năm cuối ngành 
BSĐK hệ chính quy ĐHYD TPHCM năm học 
2016-2017, nghiên cứu này kết luận như sau: Tỉ 
lệ sinh viên có kiến thức đúng, thái độ đúng, 
thực hành đúng về phòng ngừa lây nhiễm vi rút 
VGB lần lượt là 86,96%, 93,7%, 67,53%. Không 
tìm thấy mối liên quan giữa đặc điểm dân số 
(giới, nơi thường trú, dân tộc, kết quả học tập, 
tiền sử bản thân và gia đình) với kiến thức, thái 
độ và thực hành về phòng ngừa lây nhiễm vi rút 
VGB. Sinh viên có kiến thức chung đúng thì sẽ 
có thái độ chung đúng về phòng ngừa lây nhiễm 
vi rút VGB gấp 1,19 lần sinh viên có kiến thức 
chung sai. Sinh viên có thái độ chung đúng thì sẽ 
thực hành chung đúng về phòng ngừa lây 
nhiễm vi rút VGB gấp 1,65 lần sinh viên có thái 
độ chung sai. Sinh viên kiến thức chung đúng 
phòng ngừa lây nhiễm vi rút VGB có tỉ lệ thực 
hành chung đúng cao gấp 1,28 lần so với sinh 
viên kiến thức chung sai. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hoàng Văn Doanh (2015), “Kiến thức, thái độ, thực hành 
phòng lây nhiễm viêm gan B và một số yếu tố liên quan của 
sinh viên trường Đại học Y Dược Hải Phòng năm 2015”, Khóa 
luận tốt nghiệp bác sĩ Y học dự phòng, Đại học Y Dược Hải Phòng. 
2. Huỳnh Thị Kim Truyền, Đỗ Văn Dũng và Huỳnh Ngọc Vân 
Anh (2011), "Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng bệnh viêm 
gan siêu vi B của sinh viên ở ký túc xá trường cao đẳng sư 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 125
phạm Nha Trang, Khánh Hòa, tháng 4 năm 2010", Tạp chí Y 
học TP Hồ Chí Minh. 15(1), tr. 105-111. 
3. Nguyễn Trần Tuấn Kiệt (2013), “Thực trạng kiến thức, thái độ, 
thực hành phòng lây nhiễm vi rút viêm gan B của học sinh, 
sinh viên trường Cao đẳng Y Tế Đồng Nai năm 2013”, Luận 
văn Thạc sĩ y tế công cộng, Đại học Y Tế Công Cộng. 
4. Trần Trịnh Quốc Việt (2014), “Kiến thức, thái độ và thực hành 
về phòng ngừa nhiễm vi rút viêm gan B của sinh viên điều 
dưỡng – kỹ thuật y học hệ chính quy năm cuối”, Luận văn thạc 
sĩ điều dưỡng, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 
5. Võ Hồng Minh Công, Trần Xuân Linh và Đặng Công Hân và 
cs (2009), "Khảo sát tình trạng nhiễm siêu vi viêm gan B của 
nhân viên y tế bệnh viện Nhân Dân Gia Định", Tạp chí Y học 
TP Hồ Chí Minh. 13, tr. 47-51. 
6. WHO. (2015). "Guidelines for the prevention, care and 
treatment of persons with chronic hepatitis B infectiom". World 
Health Organization Guidelines 2015 
Ngày nhận bài báo: 16/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018