Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
** Bộ môn Ngọai tổng quát - Đại học Y Dược TP. HCM 
KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG DI CĂN THẦM LẶNG CỦA HẠCH LIMPHÔ 
TRONG CARCINÔM TUYẾN Ở ĐƯỜNG TIÊU HÓA 
Hứa Thị Ngọc Hà*, Đỗ Đình Công**, Ngô Quốc Đạt* 
 TÓM TẮT 
75 trường hợp hạch limphô của các bệnh nhân có carcinom tuyến dạ dày và đại-trưc tràng có kết 
quả giải phẫu bệnh trên tiêu bản nhuộm HE là không có di căn hạch được nhuộm hóa – mô – miễn dịch 
bằng phương pháp streptavidin – biotin với kháng thể chống CEA (carcinoembryonic antigen) để xác định 
có di căn hạch hay không. Kết quả cho thấy có 28% các hạch có hiện diện tế bào dương tính với kháng 
nguyên CEA. Các tế bào này có hình thái giống tế bào nhẫn hoặc tương bào, sắp xếp đơn lẽ, thành cụm 
2-3 tế bào, nằm trong xoang hạch, mạch limphô đến hoặc vỏ bao hạch. Các tác giả đề nghị nên nhuộm 
hóa mô miễn dịch các trường hợp hạch không di căn trên tiêu bản HE để xác định chính xác tình trạng di 
căn hạch của bệnh nhân ung thư. 
SUMMARY 
STUDY ON OCCULT METASTASIS OF LYMPH NODES 
IN GASTRO-INTESTINAL TRACT CARCINOMA. 
Hua Thi Ngoc Ha, Do Dinh Cong, Ngo Quoc Dat 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 135 – 140 
We examined 75 cases of gastric and colorectal carcinoma patients which diagnosed no lymph node 
metastases on hematoxylin and eosin (HE) stain. These lymph nodes were also stained 
immunohistochemically with streptavidin – biotin method using antibodies against carcinoembryonic 
antigen (CEA). Results show that 21 cases (28%) had CEA-positive lymph nodes. These cells have 
morphologic features similar to signet ring cell, histiocyte, plasma cell, arranged separately or 2-3 cells 
groups. They located in the sinuses, afferent lymph vessel, and capsule of lymph nodes. 
Conclusion: We suggest that all negative lymph node on HE stain should be stained 
immunohistochemistry to define occult metastasis of lymph node. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong ung thư đường tiêu hóa, ngoài loại mô 
học, mức độ xâm nhập các lớp của ống tiêu hóa, 
thì tình trạng hạch di căn limphô là một trong 
những yếu tố tiên lượng quan trọng( )5 . Do đó việc 
xác định hạch có di căn hay không và số lượng 
hạch bị di căn là rất cần thiết. 
Thông thường, carcinôm tuyến di căn hạch 
thường được dễ dàng phát hiện bằng kỹ thuật nhuộm 
thường quy HE và nhuộm đặc biệt PAS. Các tế bào 
ung thư di căn đến hạch theo đường mạch limphô 
đến, đầu tiên khu trú ở các xoang dưới vỏ, cận vỏ và 
sau cùng thì lan tràn khắp hạch( )11 . Cách sắp xếp của 
tế bào ung thư trong hạch thường có dạng biệt hóa 
giống, cao hoặc thấp hơn u nguyên phát, có khi các tế 
bào ung thư xếp rời rạc, không có cấu trúc tuyến. Với 
kiểu sắp xếp này rất khó phát hiện bằng phương pháp 
nhuộm thông thường (nhuộm HE), theo các tác giả 
Gusterson và Ott( )10 thì phương pháp nhuộm thông 
thường (HE) chỉ có dưới 1% cơ hội để để phát hiện 
những ổ tế bào ung thư vú với đường kính khoảng 3 
tế bào ung thư trên một mặt cắt( )5 . Trong y văn có 
nhiều nghiên cứu về tình trạng hạch di căn vi thể 
* Bộ môn Giải phẫu bệnh - Đại học Y Dược TP. HCM
 135
Ở TP. Hồ Chí Minh có vài cơ sở thực hiện nhuộm 
hóa mô miễn dịch, nhưng chủ yếu tập trung vào việc 
xác định nguồn gốc u ác, chưa có nghiên cứu nào về 
vấn đề di căn vi thể của hạch limphô. Chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu: 
 1. Xác định tỉ lệ hạch di căn thầm lặng. 
 2. Xác định hình thái, cách sắp xếp và vị trí 
của tế bào di căn thầm lặng trong hạch limphô. 
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU 
Vật liệu 
Hạch limphô của 75 trường hợp carcinôm tuyến 
đại trực tràng và dạ dày có chẩn đoán bằng phương 
pháp nhuộm HE và PAS là không có di căn 
Phương pháp nghiên cứu 
Mẫu mô hạch được xử lý bằng kỹ thuật giải phẫu 
bệnh tiêu chuẩn, nhuộm Hematoxylin Eosin (HE), 
PAS và quan sát vi thể dưới kính hiển vi quang học. 
Sau đó khối nến được cắt mỏng để xử lý bằng kỹ 
thuật hóa-mô-miễn dịch với kháng thể chống CEA. 
Kỹ thuật nhuộm hóa mô miễn dịch 
Các lát cắt mỏng 3-5 micromét được trải lên 
phiến kính có tráng albumin. Nhuộm hóa mô miễn 
dịch (phương pháp Streptavidin-biotin) với kháng thể 
chống CEA theo quy trình nhuộm sau đây:
- Mẫu mô sau khi cắt mỏng được sấy khô ở 
370C
12 giờ
- Khử nến trong xylen, cồn và nước cất 10 phút
- Dung dịch đệm PBS (Phophate Buffered 
Saline, pH=7,2) 
5 phút 
- Ức chế peroxydase nội sinh bằng hydrogen 
peroxide 3% 
6 phút 
- PBS 5 phút 
- Protein Blocking Agent (3 giọt) 15-20 
phút 
- Ủ trong kháng thể thứ I (CEA) 100μl 30 phút 
- PBS 5 phút 
- Ủ trong kháng thể II (chống loài kháng thể I) 
có gắn Biotin (3 giọt) 
30 phút 
- PBS 5 phút 
- Ủ với phức hợp Streptavidine - peroxydase (3 
giọt) 
20 phút 
- PBS 5 phút 
- Ủ trong Chromogène DAB 500μl 10-15 
phút 
- Rửa nước cất 5 phút 
- Nhuộm nhân với Hematoxylin để tạo nền 
tương phản 
1 phút 
- Rửa nước cất 5 phút 
khử nước tiếp tục bằng cồn 
làm trong sáng mô bằng xylen 
Dán lamen bằng Resin 
Đọc kết quả dưới kính hiển vi quang học 
Nhân tế bào có màu xanh tím của Hematoxylin, 
nếu có hiện diện kháng nguyên CEA trên tế bào, 
phức hợp kháng nguyên (CEA) - kháng thể I (chống 
CEA) – kháng thể II gắn biotin – streptavidine – 
peroxidase - màu sẽ cho màu vàng nâu. Kết quả âm 
tính: tế bào chỉ có nhân nhuộm màu xanh tím 
- Xác định vị trí của các tế bào dương tính với 
CEA trong hạch: ở trong xoang, trong vỏ bao, trong 
mạch bạch huyết. 
- Đánh giá hình dạng các tế bào dương tính với 
CEA và cách sắp xếp của các tế bào này 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Số ca 
75 ca Carcinôm tuyến dạ dày và đại, trực tràng 
Tỉ lệ các trường hợp dương tính với 
CEA 
 Tổng số ca dương tính: 21 ca 
 Tỉ lệ ca dương tính: 21/75=28% 
Vị trí tế bào trong hạch dương tính với 
 136
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
Lượng CEA trong máu của những người hút 
thuốc và những bệnh nhân có hội chứng bệnh phổi 
tắc nghẽn, viêm ruột, viêm túi thừa, viêm tụy, viêm 
gan cấp và mạn, bệnh thận mạn tính cũng không ít 
hơn như mức CEA của những bệnh nhân có 
carcinom tuyến đại tràng di căn. Mức CEA trong 
huyết thanh cũng gia tăng ở những bệnh nhân có 
carcinom có nguồn gốc không ở phải đại tràng( )21 . 
CEA 
Đa số các tế bào cho phản ứng dương tính với 
CEA nằm trong các xoang limphô dưới vỏ và cận vỏ 
(>80%), một số ít nằm trong vỏ bao hạch hoặc trong 
mạch limphô đến (bảng 1). 
Bảng 1: Vị trí tế bào dương tính với CEA trong hạch 
Vị trí Trong xoang Mạch limphô đến Vỏ bao 
Số ca 
(tỷ lệ) 
17 (80,95%) 3 (14,29%) 4 
(19,05%) Vị trí CEA trên tế bào 
Hình thái tế bào Trong tế bào dạ dày bình thường, không ác tính, 
CEA không biểu hiện, hay biểu hiện ở màng tế bào 
thượng mô, mặt lót lòng ống( )12 . CEA cũng không 
biểu hiện ở các tế bào tuyến dạ dày chuyển sản 
ruột( )24 . Theo Ahnen D( )1 , CEA hiện diện ở trong bào 
tương dạng hạt nhỏ và trên toàn bộ màng tế bào của 
các tế bào ác tính. 
Phần lớn tế bào có nhân tròn hoặc bầu dục, 
to, có hạt nhân rõ, giống mô bào, đôi khi bào 
tương nằm lệch về một phía, dạng tương bào. 
CEA dương tính ở bào tương có dạng hạt nhỏ, 
hoặc ở màng tế bào. 
Bảng 2: Hình thái của các tế bào dương tính với CEA Như vậy, trong cấu trúc của hạch limphô bình 
thường không có loại tế bào nào có phản ứng miễn 
dịch với CEA nên khi trong hạch limphô có tế bào 
dương tính với CEA là do từ nơi khác di căn đến có 
nghĩa là hạch có di căn thầm lặng. 
Hình thái Giống mô bào, 
dạng nhẫn 
Giống tương bào 
Số ca (tỷ lệ) 18 (85,71%) 11 (52,38%) 
Cách sắp xếp tế bào 
Các tế bào sắp xếp riêng lẽ hoặc từng cụm 2-3 tế 
bào, có 1đ trường hợp sắp xếp thành dạng tuyến. 
Di căn vi thể 
Là một khái niệm mới về di căn trong ung 
thư, ngày càng được khảo sát rộng rãi ở nhiều 
quốc gia trên thế giới, đặc biệt là trong các 
carcinôm như carcinôm tuyến dạ dày, đại – trực 
tràng, vú, phổi( , , , , )4 6 10 13 16 ... khái niệm tồn tại 
những điểm vi di căn dạng tiềm ẩn trong các cơ 
quan khác nhau như: tủy xương, gan, lách, 
hạch... chắc chắn là có thật vì bệnh nhân 
thường diễn tiến đến tái phát ở giai đoạn tiến 
triển của bệnh ngay cả sau khi cắt bỏ khối u 
nguyên phát hoặc có dấu hiệu di căn xa ở giai 
đoạn muộn của bệnh. Khái niệm di căn vi thể 
đang góp phần làm thay đổi quan niệm về phân 
giai đoạn ung thư( , , )14 18 20 . 
Bảng 3: Cách sắp xếp của các tế bào dương tính với 
CEA 
Cách sắp xếp Rời rạc Nhóm trên 3 tế bào Dạng tuyến 
Số ca (tỷ lệ) 15 
(66,67%) 
7 (33,33%) 1 (1,33%) 
BÀN LUẬN 
Kháng nguyên CEA 
CEA (CarcinoEmbryonic Antigen: kháng nguyên 
ung thư phôi) là một glycoprotein do Gold và 
Freeman tìm ra và đặt tên năm 1965( )9 . CEA được 
tìm thấy ở các carcinom đại tràng, và ruột của phôi 
thai, nhưng không có ở ruột người lớn. Các nghiên 
cứu tiếp theo cho thấy ngoài hai vị trí trên, CEA cũng 
được sản xuất từ các tế bào ở nơi khác như bạch cầu 
đa nhân trung tính, phế quản, ống tuyến nước bọt, dạ 
dày, ruột non, đường mật, đại tràng, ống tụy, tuyến 
tiền liệt, tuyến cổ tử cung, niệu mạc ...và tế bào C 
của tuyến giáp( )21 . 
Về tỉ lệ hạch có tế bào dương tính với 
CEA 
Tỉ lệ hạch có tế bào dương tính với CEA trong 
nghiên cứu này là 19 /75 ca chiếm tỉ lệ 28%. 
Theo một nghiên cứu của các tác giả thuộc Bệnh 
 137
Về cách sắp xếp tế bào 
Dạng rời rạc chiếm tỉ lệ cao nhất 66,67%. Điều 
này giải thích vì tỷ lệ hạch di căn thầm lặng cao, bởi 
vì với cách sắp xếp tế bào này không đủ xác định tế 
bào có nguồn gốc biểu mô, mà đó là hình thái của mô 
bào trong xoang hạch bình thường. 
Một nghiên cứu khác về hạch di căn thầm lặng ở 
các bệnh nhân ung thư vú với hỗn hợp kháng thể 
kháng keratin (AE1/AE3) tại bệnh viện Evanston, 
Hoa Kỳ( )3 cho kết quả dương tính là 12,8%. Còn đối 
với các tác giả ở Viện Lugwig và nhóm nghiên cứu 
ung thư vú quốc tế thì tỷ lệ này là 9%( )13 . 
Cách sắp xếp nhóm 3 tế bào trong nghiên cứu 
này chiếm tỷ lệ 33,33%. Theo nhiều nghiên cứu một 
ổ tế bào di căn hạch tối thiểu có thể thấy được trên 
nhuộm HE. 
Tỷ lệ tế bào sắp xếp theo dạng tuyến rất thấp (chỉ 
có 1 trường hợp, 1,33%) do ở lần cắt đầu tiên để 
nhuộm HE chưa tới mặt cắt có tế bào ung thư. Verrill 
và cộng sự trong một nghiên cứu ở Hoa Kỳ cũng phát 
hiện thêm 12/1453 hạch có tế bào ung thư di căn ở 
mặt cắt 2 và 3 cách mặt cắt 1 (cắt lần đầu tiên) 
100
Richard J. Cote ở Đại học tổng hợp Southern 
California( )6 nghiên cứu trên các hạch không di căn 
của bệnh nhân carcinôm tuyến tiền liệt bằng phương 
pháp phân tử thì tỷ lệ hạch di căn thầm lặng là 8%. 
Theo các tác giả khác( )5 thì tỉ lệ di căn hạch thầm 
lặng khoảng 8-30% các trường hợp ung thư vú, đại 
tràng, phổi, tiền liệt tuyến, melanôm có hạch âm tính 
trên nhuộm HE . 
μm( )22 . Như vậy việc cắt lại tiêu bản ở nhiều mặt 
cắt khác nhau sau lần cắt đầu âm tính cũng cần thiết 
để phát hiện ra hạch có di căn hay không. 
Ý nghĩa của tình trạng di căn hạch 
trong ung thư Về vị trí các tế bào dương tính với 
CEA trong hạch Hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng tình trạng 
di căn hạch không chỉ là một yếu tố tiên lượng quan 
trọng, mà còn là một yếu tố quyết định hoá trị sau 
mổ. Nếu có di căn hạch thì hoá trị sau mổ được chỉ 
định để ngăn ngừa tái phát, ngược lại nếu kết quả là 
âm tính thì không cần hoá trị.( , , , )5 14 16 20
Chúng tôi nhận thấy vị trí trong hệ thống xoang 
của hạch chiếm tỉ lệ cao nhất chiếm 80,95%. Mukai 
và cộng sự cũng ghi nhận các tế bào ung thư di căn 
thầm lặng trong các xoang của hạch limphô( )16 . Như 
vậy cũng phù hợp qui luật vì các tế bào ung thư tới 
hạch theo đường đi của dịch limphô qua hệ thống 
mạch limphô đến và lưu thông trong hệ thống xoang 
của hạch. Vị trí trong mạch limphô và trong vỏ bao 
hạch chiếm tỉ lệ thấp hơn rất nhiều. 
. 
Đối với ung thư đại – trực tràng thì việc có di căn 
hạch hay không ảnh hưởng đến việc xếp giai đoạn 
Dukes B hoặc Dukes C, mỗi giai đoạn có cách điều trị 
và tiên lượng bệnh khác nhau( )15 . Do đó việc xác định 
có di căn hạch hay không rất có ý nghĩa trong việc 
chỉ định hoá trị bổ trợ sau mổ cũng như phân giai 
đoạn bệnh, tiên lượng tái phát . 
Về hình thái tế bào dương tính với CEA 
Chúng tôi ghi nhận tế bào di căn trong mô hạch 
có hình thái giống như mô bào xoang hoặc có dạng 
nhẫn chiếm tỉ lệ cao nhất (85,71%) và có 52,38% tế 
bào có dạng tương bào. Do những hình thái không 
đặc hiệu này nên khó phát hiện di căn trên tiêu bản 
nhuộm HE. Cần sử dụng các kỹ thuật cao như PCR, 
nhuộm HMMD, ... mới có thể phát hiện và kết luận 
một cách chắc chắn. 
Ở bệnh nhân ung thư vú theo dõi trung bình 
trong 80 tháng thì di căn xa xảy ra ở 5/11 trường hợp 
di căn hạch thầm lặng chiếm 45% và 13 trường hợp 
di căn xa trong 75 trường hợp không có di căn hạch 
thầm lặng chiếm 17%, như vậy chúng ta thấy rằng 
khi có di căn thầm lặng thì khả năng di căn xa cao 
hơn nhiều. Thời gian sống trung bình 5 năm là 90% 
 138
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
Ở bệnh nhân carcinôm tuyến tiền liệt được theo 
dõi trong 10 năm thì tỉ lệ sống còn ở nhóm có di căn 
hạch thầm lặng thấp hơn nhóm không có di căn 
hạch thầm lặng. Tác giả cũng đi đến kết luận việc xác 
định có tế bào ung thư trong máu , tủy xương, trong 
hạch là rất quan trọng trong việc xác định chiến lược 
điều trị phẫu trị, hóa trị, xạ trị( )6 . 
KẾT LUẬN 
- Theo nghiên cứu này, nếu chỉ nhuộm HE và 
PAS thì bỏ sót 28 % trường hợp hạch có di căn. 
- Đa số các tế bào di căn thầm lặng có hình thái 
giống như mô bào, nằm trong xoang hạch và sắp xếp 
riêng lẽ từng tế bào hoặc thành cụm 2-3 tế bào. 
- Đề nghị khảo sát hóa mô miễn dịch các trường 
hợp nhuộm HE âm tính để đánh giá chính xác tình 
trạng di căn hạch của bệnh nhân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ahnen D et al (1982): Ultrastructural localization of 
carcinoembryonic antigen in normal intestinal and 
colon cancer. Cancer 1982; 49: 2077 – 90. 
2. Berner A, Bormer O, Marton PF, Nesland JM (1990): 
Distribution of the carcinoembryonic antigen CEA in 
gastric lesions. Immunohistochemical testing of three 
novel monoclonal antibodies. Histol Histopathol 1990 
Apr; 5(2): 199 - 204. 
3. Clare SE., Sener SF., Wilkens W., Goldschmidt R., 
Merkel D. and Winchester DJ.: Prognostic significance 
of occult lymph node metastases in node-negative 
breast cancer: Ann Surg Oncol. 1997 Sep;4(6):447-51. 
4. Cochran AJ, Wen DR, Morton DL (1988): Occult tumor 
cell in the lymph nodes of patients with pathological 
stage I malignant melanoma. Am. J Surg Pathol 12: 
612. 
5. Cote RJ, Taylor CR (1996): Immunohistochemistry 
and related marking techniques . In Damjanov I, 
Linder J: Anderson's pathology, 10TH ed., vol. 1, 
Mosby: 136-175 
6. Cote RJ: Detection and Mechanism of Occult 
Metastases in Prostate Carcinoma. 
Reports/CycleI-Clinical-FinalReports.htm 
7. Crawfort JM (1999): The gastrointestinal tract. In: 
Cotran RS, Kumar V, Collins T (ed.): Robbins’ 
Pathologic basic of disease. 6th ed., WB Saunders 
Company, 1999: 800-802. 
8. Fletcher RH (1986): Carcinoembryonic antigen. Ann. 
Int. Med 1986; 104: 66-73. 
9. Gold P et al. (1970): Position of the Carcinoembryonic 
antigen of the human digestive system in 
ultrastructure of tumor cell surface. J Natl. Cancer 
Inst. 1970; 45: 219-25. 
10. Gusterson BA, Ott R (1990): Occult axillary lymph nodes 
micrometastases in breast cancer. Lancet, 336: 434. 
11. Hứa Thị Ngọc Hà (2003): Bệnh hạch limphô. Trong 
NGUYỄN SÀO TRUNG: Bệnh học các tạng hệ thống. 
Tái bản lần 4, Nhà xuất bản Y học, 177-194. 
12. Hứa Thị Ngọc Hà, Đỗ Đình Công , Nguyễn Thị Hồng 
Nguyệt (2001): Vị trí của kháng nguyên CEA trên 
tuyến dạ dày bình thường và ung thư: khảo sát hóa – 
mô – miễn dịch. Y học TP. Hồ Chí Minh. Phụ bản của 
tập 5, số 4, Chuyên đề Ngoại khoa: 83-99 
13. International (Lugwig Institude) Breast cancer study 
group (1990): Prognostic importance of occult axillary 
lymph node micrometastasis from breast cancers. 
Lancet 335: 1565. 
14. Liu ZM, Ye X, Bi WM, Wang MY, Li Y and Chen TW 
(2002): Detection of occult metastases in lymph nodes 
from patients with colorectal carcinoma by reverse 
transcriptase-polymerase chain reaction. Chin Med J 
2002;115 (4): 529-531. 
15. Mukai M, Clare SE., Sener SF., Wilkens W, 
Goldschmidt R, Merkel and Winchester DJ. (1997): 
Prognostic significance of occult lymph node D. 
metastases in node-negative breast cancer: Ann Surg 
Oncol. 1997 Sep;4(6):447-51. 
16. Mukai M, Sato S, Nakasaki H, Tajima T, Saito Y, 
Nishiumi N, Iwasaki M, Tokuda Y, Ogoshi K, Inoue H, 
Makuuchi H (2004): Occult neoplastic cells in lymph 
nodes sinuses and recurrences of primary breast, lung, 
esophageal and gastric cancer. Oncol. Reports 11: 81 – 
84. 
17. Nielsen K, Teglbjaerg PS (1982): Carcino-embryonic 
antigen (CEA) in gastric adenocarcimas. Morphologic 
patterns and their relationship to a histogenic 
classfication. Acta pathol microbiol Immnnol Scand 
(A). 1982 Nov; 90(6): 393-6. 
18. Rosai J (2002): Lymph node involvement. In: Tumors 
of the intestines (AFIP) 2002 181-188 
19. Sato S, Ninomiya H, Kimura T, Komatsu N, Tajima T, 
Nakasaki H, Makuuchi H (: Predicting recurrence and 
metastasis of Dukes' A primary colorectal cancer with 
or without proper muscle invasion. 
[email protected]
tokai.ac.jp 
 139
20. Trần Nguyên Hà, Võ Ngọc Đức, Đoàn Hữu Nam, Bùi 
Viết Chí, Phạm Hùng Cường, Phạm Lương Giang 
(2004): Hóa trị ung thư đường tiêu hóa. Trong Nguyễn 
Chấn Hùng: Ung bướu học đại cương. Nhà xuất bản Y 
học, 2004: 262-285 
21. True LD: Chapter five: Epithelial membrane antigens 
In: True LD: Atlas of diagnostic 
immunohistopathology. JB Lippincott Company, 1990. 
22. Verrill C, Carr N J, Wilkinson-Smith E and Seel EH: 
Histopathological assessment of lymph nodes in 
colorectal carcinoma: does triple levelling detect 
significantly more metastases? 
23. WU JF (1992): The relationship between 
carcinoembryonic antigen (CEA) expression and 
histogenesis of gastric cancer (application of 
immunohistochemical and mucin histochemical 
techniques). Zhonghua Zhong Liu Za Zhi, 1992 Jan; 
14(1): 13-6. 
24. Yachi A, Imai K, Fujita H, Moriya Y, Tanda M, Endo 
T, Tsujisaki M, Kawaharada M (1984): 
Immunohistochemical distribution of the antigenic 
determinants detected by monoclonal antibodies to 
carcinoembryonic antigen. J Immunol 1984 Jun; 132 
(6): 1998 – 3004. 
25. Yang GL (1989): Distribution and ultrastructural 
localozation of carcino-embryonic antigen (CEA) in 
signet-ring cells of gastric cancer. Zhonghua Zhong 
Liu Za Zhi 1989 Mar: 11(2): 111-113. 
 140