Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 270
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH 
TRONG ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY 
Nguyễn Quốc Bình*, Châu Thị Ánh Minh* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát tình hình kê đơn kháng sinh điều trị ngoại trú và phân tích tính phù hợp giữa kháng sinh 
được chỉ định trong đơn thuốc điều trị ngoại trú với hướng dẫn sử dụng kháng sinh đang được áp dụng tại bệnh 
viện Chợ Rẫy nhằm cung cấp dữ liệu thực tế cho chương trình quản lý kháng sinh của bệnh viện. 
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, hồi cứu trên 384 bệnh án trong đó bệnh nhân được chỉ định sử dụng 
kháng sinh cho điều trị ngoại trú tháng 09/2016 tại bệnh viện Chợ Rẫy. Các tiêu chí đánh giá bao gồm: bằng 
chứng để chỉ định kháng sinh, loại kháng sinh được chỉ định, liều dùng, thời gian sử dụng, kiểu phối hợp kháng 
sinh có phù hợp theo các hướng dẫn sử dụng kháng sinh hiện được áp dụng tại bệnh viện và ghi nhận các tương 
tác giữa các kháng sinh phối hợp trong cùng một đơn thuốc hoặc tương tác giữa kháng sinh với các thuốc khác 
được kê trong đơn. 
Kết quả: 248 trường hợp (64,6%) chỉ định sử dụng kháng sinh ngoại trú chưa hợp lý. Trong số các trường 
hợp kê đơn chưa hợp lý, có 09 trường hợp (2,3%) không có bằng chứng về lâm sàng cũng như cận lâm sàng để 
làm căn cứ chỉ định kháng sinh. Dạng chỉ định kháng sinh chưa hợp lý chiếm tỷ lệ cao nhất là sai về thời gian sử 
dụng kháng sinh (32,6%), kế đến là sai liều (18,5%), tiếp theo là sai loại kháng sinh (11,4%). Tương tác thuốc có 
thể gây ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị được ghi nhận ở 83 trường hợp (21,6%). Bốn trường hợp (1,0%) phối 
hợp kháng sinh chưa phù hợp theo hướng dẫn của phác đồ chuẩn, dạng phối hợp không hợp lý chủ yếu là 
doxycyclin + amoxicillin. Kháng sinh được kê đơn ngoại trú với tần suất thường gặp nhất là amoxicillin/acid 
clavulanic (dạng uống), kế đến là ciprofloxacin (dạng uống). 
Kết luận: Kết quả khảo sát đã cho thấy việc kê đơn kháng sinh điều trị ngoại trú còn không ít tồn tại. Để đảm 
bảo kháng sinh cho bệnh nhân điều trị ngoại trú được sử dụng hiệu quả, an toàn, kinh tế và đặc biệt không”tập 
dượt”cho vi khuẩn”rèn luyện”khả năng kháng thuốc thì cần thiết phải điều chỉnh những tồn tại như đã nêu, đây 
chính là mục tiêu của chương trình quản lý kháng sinh của bệnh viện mở rộng áp dụng đối với phần kháng sinh 
kê đơn điều trị ngoại trú. 
Từ khóa: Kê đơn ngoại trú, kháng sinh ngoại trú, phối hợp kháng sinh, tương tác thuốc. 
ABSTRACT 
INVESTIGATION OF ANTIBIOTIC PRESCRIPTION IN OUTPATIENTS AT CHO RAY HOSPITAL 
Nguyen Quoc Binh, Chau Thị Anh Minh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 270 - 277 
Objectives: To assess the antibiotic prescriptions in Outpatient Department and to answer the question of 
whether the antibiotics has been prescribed in accordance with the current guidelines. Such results would help to 
determine necessary antimicrobial stewardship strategies for outpatient antibiotic prescription at Cho Ray 
Hospital (CRH). 
Methodology: A cross sectional retrospective study was performed on 384 prescriptions of antibiotics at 
CRH Outpatient Department in September 2016. The assessment criteria consisted of: appropriate basis for 
*Khoa Dược – Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Tác giả liên lạc: TS.DS. Nguyễn Quốc Bình ĐT: 0903368881 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 271
antibiotic indication; compatibility of antibiotic regimens, dosage, duration and combination with current 
antibiotic guidelines. Moreover, interactions between antibiotics and other medicines in each prescription were 
reported. 
Results: 248 antibiotic prescriptions were deemed inappropriate (64.6%). The percentage of prescribing 
without evidence-based infection is 2.3%, wrong duration 32.6%, wrong dose 18.5%, irrational choice of 
antibiotic regimens (11.4%). 83 drug interactions (21.6%) were reported. 4 cases (1.0%) antibiotic combination 
were not suitable to guidelines with the main irrational patterns doxycycline + amoxicillin. 
Oral amoxicillin/clavulanic acid and ciprofloxacin were the most frequently prescribed antibiotics for 
outpatients in this study. 
Conclusion: Findings reveal that the pattern of antibiotic prescription at CRH Outpatient Department has 
not been fully complied with the standard recommendations. In order to ensure that every patient is affordable to 
get appropriate antibiotic therapies and to prevent antibiotic resistance, it is important that AMS should be 
revised and expanded to manage the use of antibiotics in Outpatient Department to confront these major issues. 
Keywords: prescription, outpatient, antibiotic for outpatient, antibiotic combination, drug-drug interaction. 
MỞ ĐẦU 
Sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn đã 
trở thành vấn đề nan giải toàn cầu từ những 
năm đầu thế kỷ 21. Tuy vậy, nguyên nhân chủ 
yếu đưa đến sự đề kháng với kháng sinh của 
vi khuẩn lại chính là từ hành vi của người sử 
dụng kháng sinh và bản chất của kháng sinh, 
cụ thể là do việc sử dụng kháng sinh không 
hợp lý ở cả trong bệnh viện và trong cộng 
đồng đưa đến tập dượt cho vi khuẩn khả năng 
đề kháng với kháng sinh(17). 
Sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn làm 
cho việc điều trị người bệnh nhiễm khuẩn trở lên 
khó khăn bội phần và làm gia tăng rất cao chi 
phí điều trị, thậm chí ngay cả đối với những 
nước có nền kinh tế phát triển cũng không phải 
là ngoại lệ(7,18). Nhiều chuyên gia/hội nghị chuyên 
đề đã đề cập đến tình huống không mong muốn 
là không còn kháng sinh nào hiệu lực để chống 
lại vi khuẩn đa kháng thuốc. 
Tại Việt Nam, theo xu thế của thế giới, cũng 
như từ thực tế phải đối mặt với sự đề kháng 
kháng sinh mà tại một số cơ sở điều trị đã tổ 
chức khảo sát, mô tả và đề xuất một số biện pháp 
nhằm mục đích hạn chế sự đề kháng kháng 
sinh(11,8,9,112,15), trong đó đa phần tập trung vào 
kháng sinh sử dụng điều trị nội trú, kháng sinh 
dự phòng. Bên cạnh đó, tại Bệnh viện Bạch Mai 
tác giả Trần Nhân Thắng(19) cũng đã tiến hành 
khảo sát tình hình kê đơn thuốc điều trị ngoại 
trú, trong đó đặt trọng tâm hơn vào việc khảo sát 
về tỷ lệ đơn thuốc có kháng sinh được kê, tỷ 
trọng loại kháng sinh sử dụng, tỷ lệ đơn thuốc có 
kết hợp kháng sinh. 
Tại Bệnh viện Chợ Rẫy, trong bối cảnh sự đề 
kháng kháng sinh được ghi nhận ngày một gia 
tăng trong giai đoạn 2005-2011, từ năm 2012 
Bệnh viện đã khởi động triển khai chương trình 
tổng thể quản lý sử dụng kháng sinh. Bắt đầu từ 
việc tập hợp dữ liệu vi sinh, dữ liệu lâm sàng, 
xây dựng và ban hành cuốn”hướng dẫn sử dụng 
kháng sinh”của Bệnh viện. Từ năm 2014, chương 
trình quản lý kháng sinh của Bệnh viện được 
đưa vào vận hành trên thực tế điều trị tại 06 
khoa lâm sàng sau đó được triển khai trên toàn 
bộ các khoa có bệnh nhân điều trị nội trú. Với 
việc báo cáo giám sát hàng tháng và tổng kết vào 
cuối năm, sau 03 năm vận hành chương trình đã 
thu được nhiều thành tựu như tăng cường sử 
dụng kháng sinh hợp lý trong điều trị nội trú và 
kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật, tiết kiệm 
được một lượng lớn kinh phí lẽ ra phải chi cho 
kháng sinh. Từ cuối năm 2016, bài toán của 
chương trình quản lý kháng sinh tại Bệnh viện 
được đặt ra là cần phải giám sát được việc kê 
đơn, sử dụng kháng sinh cho đối tượng bệnh 
nhân ngoại trú. Nội dung này được giao cho 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 272
Khoa Dược thực hiện và đây chính là yêu cầu để 
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh 
giá thực trạng việc kê đơn sử dụng kháng sinh 
cho đối tượng bệnh nhân điều trị ngoại trú tại 
khoa khám bệnh của bệnh viện. Các dữ liệu thu 
thập được trong nghiên cứu này sẽ được sử 
dụng làm đầu vào để so sánh, lượng giá các biện 
pháp can thiệp vào thực hành kê toa thuốc 
kháng sinh cho bệnh nhân điều trị ngoại trú từ 
chương trình quản lý kháng sinh của Bệnh viện. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Mẫu nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu là bệnh án của bệnh 
nhân điều trị ngoại trú được khám tại khoa 
Khám bệnh của bệnh viện Chợ Rẫy, được kê toa 
thuốc với ít nhất 01 kháng sinh. Đối tượng loại 
trừ: những đơn thuốc có kháng sinh của những 
bệnh nhân tái khám để làm thủ thuật can thiệp 
trong ngày tại Bệnh viện. 
Cỡ mẫu: thu thập mẫu nghiên cứu một cách 
ngẫu nhiên thuận tiện (thu thập tất cả các bệnh 
án thuộc đối tượng nghiên cứu trong 01 ngày 
của một số ngày liên tục trong tháng 09/2016) 
cho đến khi đủ số lượng mẫu theo yêu cầu. 
n: cỡ mẫu; 
 z: hệ số tin cậy; p: tỷ lệ ước tính theo nghiên cứu trước đó 
hoặc nghiên cứu sơ bộ; 
d: khoảng sai lệch cho phép giữa tỷ lệ thu được từ mẫu và 
quần thể. 
Tại thời điểm khảo sát, dựa vào nghiên cứu 
của E.Past(14) công bố tỷ lệ kê đơn kháng sinh 
không hợp lý trong nghiên cứu tại một bệnh 
viện ở Áo là 34,1% nên giá trị p ước tính là 0,341; 
hệ số tin cậy z tương ứng với độ tin cậy 95% là 
1,96; sai số cho phép d là 5%. Tính toán cụ thể 
cho n = 346. Kết hợp với cách thu thập mẫu 
thuận tiện như đã trình bày, trong vòng 05 ngày 
từ 01 đến hết ngày 07 tháng 09 năm 2016 (không 
kể ngày nghỉ thứ bảy và chủ nhật) chúng tôi đã 
thu thập và đưa vào nghiên cứu 384 bệnh án. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang, mô tả. 
Chỉ tiêu khảo sát và đánh giá tính hợp lý của 
chỉ định kháng sinh điều trị trên mỗi bệnh án 
gồm: 1) Bằng chứng sử dụng kháng sinh; 2) Loại 
kháng sinh sử dụng; 3) Liều dùng; 4) Khoảng 
thời gian dùng thuốc; 5) Kiểu phối hợp kháng 
sinh; 6) Tương tác thuốc trong đơn. 
Việc đánh giá tính hợp lý dựa vào hướng 
dẫn sử dụng kháng sinh của bệnh viện 2016(1), 
Antibiotics essentials 4th Edition 2015(1), The 
Sanford guide to antimicrobial therapy 44th 
Editon 2014(16), Hướng dẫn sử dụng kháng sinh 
bộ y tế 2015(5), Phác đồ điều trị nội khoa bệnh 
viện Chợ Rẫy 2013(3), Phác đồ điều trị ngoại khoa 
Bệnh viện Chợ Rẫy 2013(2). Tra cứu tương tác 
thuốc trên Medscape(6), phân thành 04 mức độ 
tương tác: tương tác chống chỉ định 
(contraindicated) > tương tác nghiêm trọng 
(serious) > tương tác cần giám sát (monitor) > 
có tương tác nhưng ít có ý nghĩa lâm sàng 
(minor). Trong nhiên cứu này chỉ xem xét các 
tương tác từ mức monitor trở lên. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Kết quả đánh giá chỉ định kháng sinh điều 
trị ngoại trú so với các hướng dẫn sử dụng 
kháng sinh 
Các chỉ tiêu đánh giá: có bằng chứng (lâm 
sàng và/hoặc cận lâm sàng) để chỉ định kháng 
sinh; loại kháng sinh chỉ định; liều dùng; thời 
gian sử dụng; phối hợp kháng sinh và tương 
tác thuốc. 
Phương pháp tiến hành: đối chiếu dữ liệu kê 
đơn, dữ liệu chẩn đoán ghi nhận trong bệnh án 
với các yêu cầu về kháng sinh ghi nhận trong tài 
liệu hướng dẫn sử dụng kháng sinh. Tương tác 
thuốc tra cứu kiểm tra theo Medscape. 
Tổng cộng có 248 bệnh án, chiếm 64,6% tổng 
số bệnh án kháng sinh ngoại trú khảo sát, thể 
hiện việc kê đơn kháng sinh chưa hợp lý. Các 
thông số chi tiết về những điểm chưa hợp lý 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 273
trong kê đơn kháng sinh ngoại trú thể hiện trong 
bảng 1. 
Bảng 1: Phân bố tần suất những điểm chưa hợp lý 
trong kê đơn kháng sinh ngoại trú. 
STT Chỉ tiêu khảo sát Số trường 
hợp (lần) 
Tần 
suất (%) 
01 Chỉ định kháng sinh không có 
bằng chứng 
09 2,3 
02 Sai loại kháng sinh 44 11,5 
03 Sai liều kháng sinh 71 18,5 
04 Sai khoảng thời gian sử dụng 
kháng sinh 
125 32,6 
05 Phối hợp giữa các kháng sinh 
không hợp lý 
04 1,0 
06 Đơn thuốc kế kháng sinh có 
tương tác 
83 21,6 
Kết quả cho thấy sai về khoảng thời gian sử 
dụng kháng sinh là sai sót thường gặp nhất với 
tỷ lệ 32,6%. Tỷ lệ đơn thuốc kháng sinh ngoại trú 
có tương tác thuốc phát hiện tương đối cao với 
21,6% trong mẫu khảo sát. Sai sót về liều kháng 
sinh và loại kháng sinh sử dụng lần lượt là 18,5% 
và 11,5%. Đáng chú ý còn 09 trường hợp (2,3%) 
được kê đơn kháng sinh nhưng không có ghi 
nhận gì về bằng chứng lâm sàng hoặc cận lâm 
sàng được thể hiện trong bệnh án. 
Đánh giá kê đơn kháng sinh ngoại trú theo vị trí nhiễm khuẩn 
Biểu đồ 1. Phân bố bệnh án được kê đơn KS ngoại trú hợp lý và không hợp lý theo vị trí nhiễm khuẩn. 
Biểu đồ cho thấy tại vị trí nhiễm khuẩn vùng 
hàm, mặt, tai mũi họng có số trường hợp kê đơn 
kháng sinh ngoại trú không hợp lý cao nhất (62 
trường hợp), kế đến là vị trí nhiễm khuẩn da mô 
mềm (56 trường hợp) và niệu sinh dục là 53 
trường hợp. 
Tần suất kháng sinh được kê đơn ngoại trú 
Kháng sinh amoxicillin kết hợp với ức chế 
beta-lactamase là loại kháng sinh được kê đơn 
điều trị ngoại trú thường xuyên nhất (17,0%); kế 
đến lần lượt là ciprofloxacin (14,1%), amoxicillin 
(13,2%), cephalosporin thế hệ 2 (12,6%), 
clindamycin (9,0%). 
Nhóm kháng sinh penicillin, thực tế trong 
mẫu khảo sát chỉ có amoxicillin và amoxicillin + 
clavulanic/sulbactam là được sử dụng, đây cũng 
là hoạt chất kháng sinh có tần suất sử dụng 
thường xuyên nhất (30,3%). Nhóm quinolon có 
tần suất được kê toa sử dụng đứng thứ hai với 
22,4%, trong đó đa phần là ciprofloxacin (14,4%), 
kế đến là levofloxacin (6,5%), cuối cùng là 
moxifloxacin với chỉ 1,5%. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 274
Bảng 3: Tần suất kháng sinh được sử dụng trong kê 
đơn ngoại trú. 
STT Loại kháng sinh Số lượt kê Tần suất (%) 
01 Amoxicillin 69 13,2 
02 Amoxicillin + clavulanic 
acid/sulbactam 
89 17,0 
03 Cephalosporin thế hệ 1 4 0,8 
04 Cephalosporin thế hệ 2 66 12,6 
05 Cephalosporin thế hệ 3 11 2,1 
06 Ciprofloxacin 75 14,4 
07 Levofloxacin 34 6,5 
08 Moxifloxacin 8 1,5 
09 Clarithromycin 58 11,1 
10 Clindamycin 47 9,0 
11 Doxyciclin 7 1,3 
12 Linezolid 7 1,3 
13 Metronidazol 17 3,3 
14 Sulfamethoxazol + 
trimethoprim 
30 5,7 
Phối hợp kháng sinh trong đơn thuốc cho 
bệnh nhân ngoại trú 
Trong mẫu khảo sát, có 96 bệnh án (chiếm 
25%) có đơn thuốc phối hợp kháng sinh, trong 
đó phối hợp 2 kháng sinh là 83 trường hợp và 
phối hợp 03 kháng sinh là 13 trường hợp. 
Trong số 83 trường hợp phối hợp 02 kháng 
sinh thì kiểu phối hợp penicillin + macrolid 
(clarithromycin) chiếm 30,1% (25 trường hợp), kế 
đến là kiểu phối hợp penicillin + quinolon là 
26,5% với 22 trường hợp, tiếp theo là kiểu phối 
hợp penicillin + lincosamid (14,5%) với 12 trường 
hợp. Ngoài ra các kiểu phối hợp khác như 
lincosamid + cephalosporin, quinolon + 
metronidazol, quinolon + linezolid cũng có gặp 
nhưng với tỷ lệ thấp. 
Với kiểu phối hợp 03 kháng sinh thì chủ yếu 
là kết hợp penicillin + macrolid + metronidazole 
với 10/13 trường hợp, đây chính là kết hợp 
chuẩn để điều trị nhiễm H. pylori. 
Tương tác thuốc-thuốc trong các đơn thuốc 
kê kháng sinh điều trị ngoại trú 
Tra cứu tương tác của các kháng sinh được 
kê đơn trong từng đơn thuốc khảo sát với các 
thuốc khác có trong đơn, ứng dụng phần mềm 
tra cứu tương tác thuốc Medscape, phát hiện 83 
đơn thuốc có tương tác (bằng 21,6% tổng số đơn 
thuốc khảo sát), với 96 cặp tương tác. Trong đó 
53,1% cặp tương tác (51 cặp) là tương tác dược 
động học và 45 cặp tương tác (46,9%) là tương 
tác dược lực học. Bốn đơn thuốc có tương tác 
giữa kháng sinh với kháng sinh khác và 79 đơn 
thuốc còn lại có tương tác giữa thuốc kháng sinh 
được kê và thuốc dùng kèm. 
Theo mức độ tương tác thuốc: 77 cặp tương 
tác (chiếm 80,2% tổng số cặp tương tác phát 
hiện) là tương tác ở mức cần giám sát (monitor); 
18 trường hợp (18,7%) là tương tác nghiêm trọng 
(serious). Đặc biệt có 01 trường hợp tương tác 
clarithromycin + simvastalin thuộc phạm vi 
chống chỉ định nhưng cả người kê toa và người 
cấp phát thuốc đều không phát hiện ra. 
Tương tác dược động học chủ yếu được ghi 
nhận ở giai đoạn hấp thu với 47,2% tổng số 
trường hợp, và thường là tương tác giữa 
quinolone/tetracyclin với ion kim loại có trong 
thuốc dùng kèm. 
Các tương tác dược động học thuộc giai 
đoạn hấp thu (Bảng 4) đa phần đều có thể điều 
chỉnh được bằng cách thay đổi thời điểm dùng 
thuốc của các thuốc có tương tác với kháng sinh, 
tránh dùng đồng thời tại cùng một thời điểm. 
Ngược lại, tương tác thuộc về bản chất dược lực 
hoặc dược động học ở giai đoạn thải trừ thì rất 
khó để điều chỉnh, biện pháp hữu hiệu nhất là 
tránh kê toa đồng thời những thuốc có tương tác 
với kháng sinh. 
Bảng 4: Phân loại tương tác và khả năng can thiệp. 
STT LOẠI TƯƠNG TÁC 
TỔNG HỢP CÓ THỂ ĐIỀU CHỈNH ĐƯỢC 
n % n % 
1 Tương tác DĐH - hấp thu 41 42,7 40 88,9 
2 Tương tác DĐH- chuyển hóa 6 6,3 4 8,9 
3 Tương tác DĐH - thải trừ 4 4,2 0 0,0 
4 Tương tác dược lực học 45 46,9 1 2,2 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 275
Đánh giá sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân 
suy gan, suy thận 
Trong 384 bệnh án khảo sát, phát hiện 08 
bệnh nhân được ghi nhận chẩn đoán xơ gan và 
23 bệnh nhân ghi nhận chẩn đoán suy thận 
(eGFR < 50 ml/phút). 
Thường đối với các trường hợp bệnh nhân 
suy gan về nguyên tắc sử dụng kháng sinh là 
chọn lựa các kháng sinh thải trừ qua thận(1). 
Trong khảo sát này, các chỉ định kháng sinh 
cho cả 08 trường hợp bệnh nhân suy gan đều 
tuân thủ đúng hướng dẫn, bệnh nhân được 
chỉ định trong số các kháng sinh amoxicillin + 
clavunalic acid, ciprofloxacin, levofloxacin. Cả 
ba kháng sinh này đều là kháng sinh thải trừ 
chủ yếu qua thận(1,16). 
Trong số những bệnh nhân được ghi nhận 
trong bệnh án có eGFR < 50 ml/phút, có 05 
trường hợp suy thận với eGFR < 30 ml/phút, đây 
là giới hạn yêu cầu mà đa phần các kháng sinh 
cần điều chỉnh liều(4). Thực tế có 04 trường hợp 
đã tuân thủ hướng dẫn, điều chỉnh liều kháng 
sinh cho bệnh nhận, còn 01 trường hợp đã không 
được điều chỉnh liều. 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu, khảo sát về các khía cạnh trong 
việc kiểm soát nhiễm khuẩn, quản lý, sử dụng 
kháng sinh tại Việt Nam đã được tiến hành và 
công bố từ những năm đầu tiên của thế kỷ 21 với 
sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài. Cho 
đến hiện thời nghiên cứu về vấn đề này vẫn 
nhận được rất nhiều sự quan tâm của các chuyên 
gia lâm sàng, chuyên gia kiểm soát nhiễm 
khuẩn, cũng như từ những nhà quản lý y tế. Tuy 
vậy các nghiên cứu đã công bố đa phần tập 
trung vào việc kiểm soát nhiễm khuẩn, sử dụng 
kháng sinh trên những vị trí phẫu thuật cụ 
thể(9,15), đối với ICU(8), kế đến là kháng sinh dự 
phòng phẫu thuật(12) hoặc kháng sinh trong 
ngoại khoa(11). Bên cạnh đó, một số công bố khác 
ở khu vực phía bắc tập trung vào khảo sát sử 
dụng kháng sinh trên quy mô toàn bệnh viện(10,13) 
đã rút ra một số nhận xét về nhóm kháng sinh 
chủ yếu được sử dụng, tỷ lệ phác đồ sử dụng 
kháng sinh đơn lẻ và kháng sinh kết hợp, sơ bộ 
tính toán chi phí sử dụng kháng sinh cho 01 
ngày điều trị của bệnh nhân. 
Tác giả Trần Nhân Thắng, trong công bố 
năm 2013 đã đề cập dữ liệu về sử dụng kháng 
sinh ngoại trú tại Bệnh viện Bạch Mai. Số lượng 
đơn thuốc khảo sát trong nghiên cứu của 
T.N.Thắng là hơn 80.000 đơn thuốc ngoại trú với 
23.249 đơn thuốc có sử dụng kháng sinh, gấp 
60,5 lần cỡ mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi. 
Kết quả giữa nghiên cứu của chúng tôi với 
nghiên cứu tại BV Bạch Mai có sự thống nhất 
rằng nhóm kháng sinh được chỉ định thường 
xuyên nhất cho bệnh nhân ngoại trú là penicillin. 
Tuy nhiên, ở vị trí thứ 2 và thứ 3 về tần suất kê 
đơn thì có sự hoán đổi vị trí giữa nhóm quinolon 
và macrolid trong hai nghiên cứu. Điều trị ngoại 
trú tại Bệnh viện Bạch Mai sử dụng macrolid 
thường xuyên hơn quinolon, trong khi tại Bệnh 
viện Chợ Rẫy quinolon được sử dụng nhiều hơn. 
Về tổng thể, nghiên cứu tại Bạch Mai dừng lại ở 
mức thống kê tỷ lệ kháng sinh điều trị ngoại trú 
trong tổng số kháng sinh sử dụng; tỷ lệ sử dụng 
giữa các nhóm kháng sinh; đường dùng kháng 
sinh; tỷ lệ đơn thuốc kết hợp 02, 03 hoặc ≥ 4 
kháng sinh, mà không đi sâu vào phân tích tính 
hợp lý của đơn thuốc kháng sinh cũng như 
tương tác giữa thuốc kháng sinh với các thuốc 
khác trong đơn. 
Cùng quan tâm đến về việc kê đơn sử dụng 
tại bệnh viện, tác giả Past EM và cs(14) nhận thấy 
có khoảng 34,1% số toa kê kháng sinh nội trú tại 
một bệnh viện trường đại học ở Áo là chưa hợp 
lý, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ đơn thuốc kháng 
sinh ngoại trú chưa hợp lý được phát hiện trong 
nghiên cứu này (64,5%). Sự khác biệt ở đây có 
thể lý giải rằng tại bệnh viện của Áo thì chương 
trình quản lý kháng sinh đã được triển khai, 
giám sát việc kê đơn kháng sinh nội trú. Một 
điều thú vị là tại Áo thì việc kê đơn sai loại 
kháng sinh chiếm tỷ lệ cao nhất với 45/208 
trường hợp (21,6%), trong khi chỉ tiêu này trong 
khảo sát của chúng tôi chỉ là 11,4%. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 276
Mục tiêu tối thượng của bất cứ chương trình 
quản lý kháng sinh nào đều nhằm sử dụng 
kháng sinh một cách hợp lý, hiệu quả, an toàn và 
tránh tổn hại phụ cận; trong đó việc kiểm soát 
được sự đề kháng của vi khuẩn với kháng sinh 
là quan trọng nhất. Có rất nhiều các nguyên 
nhân làm cho vi khuẩn đề kháng với kháng sinh, 
tuy nhiên từ khía cạnh sử dụng kháng sinh thì 
việc thuốc được sử dụng với liều thấp hơn liều 
diệt khuẩn hoặc sử dụng ngắn hơn khoảng thời 
gian yêu cầu (làm cho tổng liều cả đợt điều trị 
không đủ) là những nguyên nhân trực tiếp dẫn 
đến việc vi khuẩn gây bệnh dần có được sự đề 
kháng với kháng sinh. Chính vì vậy, yêu cầu 
quan trọng nhất khi kê đơn kháng sinh đúng là 
phải có bằng chứng nhiễm khuẩn, đúng kháng 
sinh, đúng liều, đúng khoảng thời gian dùng 
thuốc. Nghiên cứu này ghi nhận sự chưa tuân 
thủ đúng kháng sinh, đúng liều, đúng khoảng 
thời gian dùng thuốc còn sở mức cao (từ 11,5% - 
32,6%). Đây có lẽ chính là những điểm cần can 
thiệp, cải thiện trước tiên khi triển khai áp dụng 
chương trình giám sát kháng sinh cho khu vực 
điều trị ngoại trú. 
Để sử dụng kháng sinh hợp lý, kháng sinh 
được sử dụng cần đúng loại, đúng liều, đúng 
thời gian cũng như tránh được các tương tác ảnh 
hưởng đến tác dụng của thuốc. Trong các dạng 
chỉ định sử dụng kháng sinh không phù hợp 
theo phác đồ, dạng chỉ định sai thời gian chiếm tỉ 
lệ cao nhất với ưu thế là ngắn hơn phác đồ; tiếp 
theo là dạng sử dụng sai liều với tỷ lệ 17,2% với 
hầu hết là thấp hơn liều khuyến cáo. Đây sẽ là 
một nguy cơ ảnh hưởng nhiều đến kết quả điều 
trị và gây nên tính đề kháng với kháng sinh của 
vi sinh vật trong điều trị. 
Trong số các kháng sinh được chỉ định kê toa 
điều trị nội trú thì amoxicillin/amoxicillin + 
clavulanic/sulbactam được sử dụng thường 
xuyên nhất. Điều này là phù hợp vì đây là 
những thuốc mà sinh khả dụng đường uống so 
với đường tiêm không có sự chênh lệch đáng kể, 
hơn nữa đường uống phù hợp cho người bệnh 
sử dụng tại nhà. Tuy nhiên việc ciprofloxacin 
uống chiếm vị trí thứ 2 về tần suất sử dụng cho 
bệnh nhân ngoại trú nên cần được cân nhắc lại vì 
đây là kháng sinh có thể kiểm soát P.aeruginosa(8). 
Theo vị trí nhiễm trùng, nhận thấy rằng việc 
kê đơn ngoại trú kháng sinh đối với các bệnh 
nhiễm khuẩn niệu sinh dục, vùng hàm mặt, tai 
mũi họng, mắt, da mô mền có tỷ lệ chưa tuân 
thủ cao. Đây cũng là những gợi ý về trọng tâm 
để tiến hành can thiệp trong thời gian tới. 
Để đảm bảo một đơn thuốc nói chung là hợp 
lý thì phải nhận diện và có biện pháp can thiệp 
phù hợp để loại trừ/hạn chế tác hại của các 
tương tác. Trong nghiên cứu của T.N.Thắng và 
E.Past về vấn đề kê đơn kháng sinh nhưng đều 
không đề cập đến các tương tác (có thể có) của 
kháng sinh được kê trong đơn với kháng sinh 
kết hợp hoặc thuốc dùng kèm. Trong nghiên cứu 
này, chúng tôi phát hiện thấy 21,6% số đơn thuốc 
khảo sát có tương tác từ mức độ monitor trở lên, 
trong số này đa số các tương tác có bản chất về 
dược động học hấp thu và đều có thể can thiệp 
được. Đây nên được xem là chỉ số ưu tiên để 
kiểm soát khi áp dụng chương trình giám sát 
kháng sinh ngoại trú. 
KẾT LUẬN 
Khảo sát cho thấy tỷ lệ chưa hợp lý trong kê 
đơn kháng sinh cho bệnh nhân ngoại trú còn ở 
mức cao; chủ yếu chưa tuân thủ về chỉ định 
đúng kháng sinh, sai liều dùng, sai khoảng thời 
gian dùng thuốc; thậm chí còn tồn tại các trường 
hợp chỉ định kháng sinh mà không ghi nhận 
bằng chứng nhiễm khuẩn. Tại thời điểm khảo 
sát vấn đề an toàn trong chỉ định thuốc kháng 
sinh chỉ mới đảm bảo tuân thủ đối với lưu ý điều 
chỉnh liều/điều chỉnh kháng sinh ở bệnh nhân 
suy gan, suy thận; vấn đề tương tác thuốc-thuốc 
trong đơn thuốc kháng sinh ngoại trú chưa được 
quan tâm đúng mức. 
Để đảm bảo kháng sinh cho bệnh nhân điều 
trị ngoại trú được sử dụng hiệu quả, an toàn, 
kinh tế và đặc biệt không”tập dượt”cho vi 
khuẩn”rèn luyện”khả năng kháng thuốc thì 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 277
cần thiết phải điều chỉnh những tồn tại như 
đã nêu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Antibiotics essentials, 4th Edition, 2015. 
2. Bệnh viện Chợ Rẫy (2013). Phác đồ điều trị ngoại khoa. NXB 
Y học 2013. 
3. Bệnh viện Chợ Rẫy (2013). Phác đồ điều trị nội khoa. NXB Y 
học 2013. 
4. Bệnh viện Chợ Rẫy (2016). Hướng dẫn sử dụng kháng sinh 
(antibiotic usage guidelines). NXB Y học 2016. 
5. Bộ Y tế (2015). Hướng dẫn sử dụng kháng sinh. NXB Y học 
2015. 
6.  
7.  
8. Johansson M, Phuong DM, Walther SM and Hanberger H 
(2011). Need for improved antimicrobial and infection 
control stewardship in Vietnamese intensive care units. 
Tropical Medicine and International Health, 16:737-743. 
9. Jones SL, Nguyen VK, Nguyen TM and Athan E (2006). 
Prevalence of multiresistant gram-negative organisms in a 
surgical hospital in Ho Chi Minh City, Vietnam. Tropical 
Medicine and International Health, 11:1725-1730. 
10. Kiều Chí Thành, Đỗ Bá Quyết (2013). Nghiên cứu thực trạng 
sử dụng kháng sinh trong bệnh viện năm 2012. Y học thực 
hành, 870:116-118. 
11. Lê Thị Anh Thư (2011). Tình hình sử dụng kháng sinh ngoại 
khoa tại 9 bệnh viện tỉnh và trung ương. Y học thực hành, 
764: 99-104. 
12. Lê Thị Anh Thư, Nguyễn Văn Khôi (2010). Đánh giá hiệu 
quả của việc sử dụng kháng sinh dự phòng trong phẫu 
thuật sạnh và sạch nhiễm tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Y học thực 
hành,723: 04-07. 
13. Nguyễn Văn Yên và cs (2011). Khảo sát tình hình sử dụng 
kháng sinh tại Bệnh viện đa khoa Thanh Trì. Y học thực hành, 
767: 84-87. 
14. Past EM, Porche U, Kern JM, Stalzer P, Rolke J, Brunauer A, 
Hell M and Lechner AM (2016). Identification of key areas 
for antimicrobial stewardship strategies in a large university 
teaching hospital: a point prevalence study. Poster CP-058, 
Presented at the EAHP congress Vienna. 
15. Sohn AH, Parvez FM, Vu T et al. (2002). Prevalance of 
surgical-site infections and patterns of antimicrobial use in a 
large tertiarycare hospital in Ho Chi Minh City, Vietnam. 
Infection Control and Hospital Epidemiology, 23:382-387. 
16. The Sanford guide to antimicrobial therapy 2014, 44th 
Edition. 
17. Title “Summary of the latest data on antibiotic comsumtion 
in EU: 2011”. www.ecdc.europa.eu. 
18. Title “The cost of antibiotic resistance to U.S. families and the 
health care system”, septembre 2010. www.apua.org. 
19. Trần Nhân Thắng (2013). Khảo sát tình hình sử dụng kháng 
sinh trong điều trị ngoại trú tại bệnh viện Bạch Mai. Y học 
thực hành, 878: 84-88. 
Ngày nhận bài báo: 17/02/2017 
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 27/02/2017 
Ngày bài báo được đăng: 05/04/2017