Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Mắt 57
KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ 
ĐIỀU TRỊ PHÙ HOÀNG ĐIỂM ĐÁI THÁO ĐƯỜNG 
BẰNG BEVACIZUMAB TIÊM NỘI NHÃN 
Trần Hồng Bảo*, Võ Thị Hoàng Lan* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát sự tương quan giữa các yếu tố toàn thân và tại chỗ đến hiệu quả điều trị phù hoàng điểm 
đái tháo đường bằng Bevacizumab tiêm nội nhãn 
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu. Mẫu gồm 57 mắt từ 47 bệnh nhân phù hoàng điểm (HĐ) do 
đái tháo đường (ĐTĐ) điều trị tại Bệnh viện Mắt TPHCM từ tháng 9/2014 đến tháng 5/2015. Tất cả bệnh nhân 
được đánh giá toàn diện tình trạng mắt bằng sinh hiển vi và soi đáy mắt gián tiếp, đo thị lực kính và chụp cắt lớp 
cố kết quang học võng mạc (OCT) để đo chiều dày võng mạc trung tâm (CRT) và xác định hình thái phù võng 
mạc. Bệnh nhân sau đó được tiêm nội nhãn 3 mũi Bevacizumab 1,25mg/0,05ml cách nhau 1 tháng. Biến kết cục 
chính là sự thay đổi thị lực (đánh giá theo ETDRS) và sự thay đổi CRT, với thời gian theo dõi 3 tháng. Một số 
yếu tố được ghi nhận như: tuổi, giới, tiền sử gia đình, thời gian mắc ĐTĐ, tình trạng kiểm soát đường huyết, 
tình trạng huyết áp, tình trạng đạm niệu, tình trạng lipid máu, hút thuốc lá, tình trạng thủy tinh thể, giai đoạn 
bệnh võng mạc ĐTĐ (BVMĐTĐ), hình thái phù HĐ, thị lực khởi điểm, CRT khởi điểm để khảo sát tương quan 
với hiệu quả điều trị. 
Kết quả: Sự thay đổi thị lực sau điều trị là 6,73 ± 9,52 ký tự ETDRS (p<0,001), sự thay đổi CRT sau điều trị 
là 80,35±114,19µm (p<0,001); giữa thay đổi thị lực và thay đổi CRT có tương quan thuận (R=0,537 và p<0,001). 
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi thị lực sau điều trị là: tình trạng kiểm soát đường huyết (OR=16,85), vi 
đạm niệu dương tính(OR=30) và BVMĐTĐ giai đoạn tăng sinh(OR=63). Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi 
CRT sau điều trị là: vi đạm niệu dương tính(OR=6,33), rối loạn lipid máu (OR=4,96) và CRT khởi điểmnặng 
(OR=0,12). 
Kết luận: Bevacizumab có hiệu quả cải thiện có ý nghĩa thị lực và CRT trong bệnh lý phù hoàng điểm ĐTĐ. 
Các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sự phục hồi thị lực là kiểm soát đường huyết kém, vi đạm niệu dương tínhvà 
BVMĐTĐ giai đoạn tăng sinh. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phục hồi CRT là vi đạm niệu dương tính và rối 
loạn lipid máu. 
Từ khóa: phù hoàng điểm đái tháo đường, bệnh võng mạc đái tháo đường, yếu tố nguy cơ, Bevacizumab. 
ABSTRACT 
PROGNOSTIC FACTORS OF TREATMENT OUTCOMES IN INTRAVITREAL BEVACIZUMAB 
FOR DIABETIC MACULAR EDEMA 
Tran Hong Bao, Vo Thi Hoang Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - Supplement of No 1 - 2016: 57 - 62 
Purpose: To evaluate the effect of selected systemic and local factors on treatment outcomes in intravitreal 
Bevacizumab therapy for diabetic macular edema. 
Methods: Prospective cohort study. 57 eyes of 47 patients with diabetic macular edema (DME) treated in Ho 
Chi Minh city Eye Hospital from September 2014 to May 2015 was enrolled in this study. BCVA measurement 
and ophthalmic examination utilizing slit-lamp biomicroscopy and indirect ophthalmoscopy were performed; 
OCT was used to evaluate CRT and edema type. At monthly interval, all patients were treated with 3 injections of 
* Bộ môn Mắt Đại học Y Dược TPHCM 
Tác giả liên lạc: BS. Trần Hồng Bảo ĐT: 0906369896 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 58
intravitreal Bevacizumab 1.25mg/0.05ml. The main outcome measures were BCVA change (ETDRS letter) and 
CRT change after 3-month follow-up time. Some systemic and local factors were recorded to assess their 
correlations with treatment outcomes. 
Result: Mean BCVA change was 6.73 ± 9.52 ETDRS letters (p<0,001), mean CRT change was 
80.35±114.19 µm (p<0.001). CRT change was found to be positively correlated with BCVA change (R=0.537; 
p<0.001). Prognostic factors of BCVA change are high HbA1c level (OR=16.85), proteinuria (OR=30) and PDR 
(OR=63). Prognostic factors of CRT change are proteinuria (OR=6.33), hyperlipidemia (OR=4.96) and severe 
baseline CRT (OR=0.12). 
Conclusion: Intravitreal injection of Bevacizumab was demonstrated to be a significantly effective treatment 
for DME. Prognostic factors associating with BCVA result are poor control of glycaemia, proteinuria and PDR. 
Factors associating with CRT result are proteinuria, hyperlipidemia; severe baseline CRT appears to be a 
protective factor. 
Key words: diabetic macular edema, diabetic retinopathy, risk factor, Bevacizumab. 
MỞ ĐẦU 
Đái tháo đường (ĐTĐ) hiện nay được xem 
như một “dịch bệnh không lây lan” với tần suất 
mắc toàn cầu dự đoán là 552 triệu người vào 
năm 2030(3). Ở Việt Nam, theo thống kê của Viện 
Nội tiết Trung Ương (2012), số người mắc là 4,5 
triệu người. 100% bệnh nhân ĐTĐ sẽ phát sinh 
bệnh võng mạc đái tháo đường (BVMĐTĐ) sau 
20 năm, trong đó phù hoàng điểm (HĐ) do ĐTĐ 
là nguyên nhân chính gây giảm thị lực(6). Đây là 
một gánh nặng lớn cho nền kinh tế về thiệt hại 
sức lao động và chi phí điều trị. 
Laser quang đông điểm và lưới là điều trị 
kinh điển của phù HĐ do ĐTĐ, tuy nhiên cơ chế 
tác dụng chưa rõ ràng cũng như hiệu quả của 
phương pháp này ở dạng phù HĐ lan tỏa còn 
hạn chế. Sử dụng corticoid tại chỗ mang lại hiệu 
quả giảm phù đáng kể, tuy nhiên tỉ lệ biến 
chứng đục thủy tinh thể và tăng nhãn áp còn 
cao; cũng như kết quả điều trị cắt dịch kính qua 
pars plana vẫn còn gây tranh cãi. 
Chất kháng yếu tố tăng trưởng nội mô 
mạch máu (VEGF) là một trọng tâm nghiên 
cứu gần đây, với khả năng ức chế trực tiếp 
chất VEGF – một trong những cơ chế bệnh 
sinh chính của phù HĐ do ĐTĐ(2,7). Những 
nghiên cứu bước đầu về sử dụng kháng VEGF 
như điều trị tại chỗ đã cho những kết quả nhất 
định(1,9,11,13,14,15). Tuy nhiên điều trị bằng chất 
kháng VEGF là điều trị tại chỗ, do đó hiệu quả 
điều trị của chất này còn phụ thuộc vào nhiều 
yếu tố toàn thân và tại chỗ khác. 
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh 
giá những yếu tố toàn thân và tại chỗ ảnh hưởng 
đến hiệu quả điều trị phù HĐ do ĐTĐ bằng 
Bevacizumab tiêm nội nhãn, với thời gian theo 
dõi 3 tháng sau lần tiêm đầu tiên. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đây là một nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu, có 
can thiệp. Mẫu gồm 57 mắt từ 47 bệnh nhân phù 
HĐ do ĐTĐ điều trị tại khoa Dịch kính – Võng 
mạc, bệnh viện Mắt TPHCM từ tháng 9 năm 
2014 đến tháng 5 năm 2015. Tiêu chuẩn chọn 
bệnh là bệnh nhân ĐTĐ týp 2, tuổi từ 18 trở lên, 
phù HĐ có ý nghĩa lâm sàng ảnh hưởng vùng 
trung tâm như định nghĩa của ETDRS(4), thị lực 
từ 1/10 trở lên và độ dày võng mạc trung tâm 
(CRT) từ 250 µm trở lên. Tiêu chuẩn loại trừ 
gồm: a) phù HĐ do nguyên nhân khác; b) đã có 
điều trị phù HĐ do ĐTĐ trước đó; c) glaucoma 
không kiểm soát được; d) suy thận phải chạy 
thận nhân tạo; e) tiền sử bệnh lý tim mạch trong 
vòng 6 tháng (trừ tăng huyết áp); f) có thai hay 
dự định có thai. 
Sau khi ghi nhận đầy đủ tiền sử bệnh lý nội 
ngoại khoa và nhãn khoa, bệnh nhân được thăm 
khám nhãn khoa hệ thống bao gồm đo thị lực 
kính theo ETDRS, nhãn áp, khám mắt bằng sinh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Mắt 59
hiển vi và soi đáy mắt với sự hỗ trợ của kính 
Volk +90D, chụp OCT để khảo sát hình thái phù 
HĐ và CRT. Sau đó bệnh nhân được đo huyết 
áp, HbA1c, đạm niệu 24 giờ và bilan lipid. Bệnh 
nhân được chẩn đoán tăng huyết áp khi đang 
điều trị tăng huyết áp hay huyết áp tâm thu ≥140 
mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương ≥90 mmHg 
(JNC VIII), có vi đạm niệu khi albumin từ 30-299 
mg trong nước tiểu 24 giờ và tăng lipid máu khi 
HDL-c 200 mg/dL và 
LDL-c >130mg/dL (NCEP-ATP IV), kiểm soát 
đường huyết kém khi HbA1c >7% (Hiệp hội Đái 
tháo đường Hoa Kỳ 2007). 
Quy trình tiêm Bevacizumab nội nhãn được 
chuẩn bị với quy trình vô trùng trong phòng mổ. 
Bệnh nhân được nhỏ tê bằng Tetracaine 1% và 
đặt vành mi. Lượng thuốc tiêm là 0,06ml 
Bevacizumab 25mg/ml với vị trí tiêm cách rìa 
3,5-4mm ở vùng thái dương trên, bằng kim 30G. 
Bệnh nhân được khám sau thủ thuật 1 tuần 
và 1 tháng cho đến 1 tháng sau mũi tiêm cuối 
cùng thì thị lực kính và CRT được đo lại. Thị lực 
trước điều trị được phân thành 3 nhóm: thấp (35-
60 ký tự), trung bình (61-75 ký tự) và cao (>75 ký 
tự); cải thiện thị lực được phân thành 2 nhóm: 
>10 ký tự và ≤10 ký tự ETDRS. CRT trước điều trị 
được phân 3 nhóm: tăng nhẹ (<300 µm), vừa 
(300-399 µm) và nặng (≥400 µm); cải thiện CRT 
được phân thành 2 nhóm: >60 µm và ≤60 µm. 
Các yếu tố toàn thân thu thập là tuổi, thời gian 
phát hiện ĐTĐ, kiểm soát đường huyết, tình 
trạng huyết áp, đạm niệu và lipid máu; các yếu 
tố tại chỗ được khảo sát là thị lực trước điều trị, 
tình trạng thủy tinh thể, giai đoạn BVMĐTĐ. 
Thời gian theo dõi là 3 tháng. 
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0 
và Stata 10.0. Biến định tính được trình bày tỉ lệ 
và phép kiểm chi bình phương. Biến định lượng 
được trình bày bằng trung bình và độ lệch 
chuẩn, phép kiểm t-student và Wilcoxon. Tương 
quan giữa cải thiện thị lực và cải thiện CRT được 
phân tích bằng tương quan tuyến tính. Tương 
quan giữa các yếu tố và kết quả điều trị được 
phân tích bằng hồi quy logistic đa biến. Sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê khi p≤0,05. 
KẾT QUẢ 
Nghiên cứu của chúng tôi thu thập số liệu từ 
57 mắt của 47 bệnh nhân phù HĐ do ĐTĐ. 23 
(48,9%) bệnh nhân là nam và 24 (51,1%) là nữ. 
Tuổi trung bình là 53,57±8,86. Thời gian phát 
hiện ĐTĐ trung bình là 9,36±4,82 năm, trong đó 
29 bệnh nhân (61,7%) có thời gian phát hiện từ 
10 năm trở lại và 18 (38,5) có thời gian phát hiện 
>10 năm. HbA1c trung bình là 8,14±1,61, trong đó 
34 (72,3%) bệnh nhân có HbA1C >7%. Tình trạng 
vi đạm niệu dương tính ở 22 bệnh nhân (46,8%), 
27 bệnh nhân (57,4%) có tăng huyết áp và 24 
(54,1%) có tăng lipid máu. 
Trong số 57 mắt, 18 mắt (31,6%) đã thay thủy 
tinh thể nhân tạo. BVMĐTĐ tăng sinh xuất hiện 
ở 20 mắt (35,1%), trong đó 17 mắt đã quang đông 
toàn võng mạc trước đó và 3 mắt được quang 
đông trong quá trình nghiên cứu. Thị lực trung 
bình trước điều trị là 59,46±14,69 ký tự ETDRS; 
28 mắt (49,1%) ở nhóm thị lực thấp, 22 (38,6%) 
nhóm trung bình và 7 mắt (12,3%) ở nhóm cao. 
CRT trung bình trước điều trị là 377,91±122,17; 
15 mắt (26,3%) ở nhóm tăng CRT nhẹ, 26 mắt 
(45,6%) ở nhóm tăng vừa và 16 mắt (28,1%) ở 
nhóm nặng. Phù HĐ dạng xốp chiếm đa số với 
27 mắt (47,4%), dạng nang chiếm 33,3% và bong 
võng mạc thanh dịch chiếm 19,3%. 
Kết thúc thời gian theo dõi, thị lực kính trung 
bình là 66,19±13,84 ký tự, tăng 6,73±9,52 ký tự 
(phép kiểm t bắt cặp, p<0,001); tuy nhiên, ở phân 
nhóm thị lực khởi điểm cao, sự cải thiện không 
có ý nghĩa thống kê (phép kiểm Wilcoxon, 
p=0,91). 15 mắt (26,3%) tăng trên 10 ký tự và 42 
mắt (73,7%) không đạt mức trên. CRT trung bình 
sau điều trị là 297,56±85,58 µm, giảm 
80,35±114,19 µm (phép kiểm t bắt cặp, p<0,001); 
tuy nhiên, ở phân nhóm CRT khởi điểm tăng 
nhẹ, sự cải thiện không có ý nghĩa thống kê 
(phép kiểm Wilcoxon, p=0,19). 34 mắt (59,6%) 
giảm trên 60 µm và 23 mắt (40,4%) không đạt 
mức này. (Hình 1) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 60
Hình 1. Cải thiện thị lực (trái) và CRT (phải) 1 tháng sau lần tiêm nội nhãn thứ 3 
Chúng tôi nhận thấy có mối tương quan 
thuận, tuyến tính giữa cải thiện thị lực và cải 
thiện CRT sau điều trị (trị số Spearman = 0,537 
và p<0,001) (Hình 2). Phương trình thể hiện sự 
tương quan giữa cải thiện thị lực và cải thiện 
CRT như sau: 
Cải thiện thị lực = 0,045 x cải thiện CRT + 3,14. 
Hình 2. Sự tương quan giữa cải thiện thị lực và cải 
thiện CRT sau điều trị 
Chúng tôi không ghi nhận biến chứng 
nghiêm trọng nào xảy ra trong quá trình thực 
hiện nghiên cứu. 
Hồi quy logistic đa biến được sử dụng để tìm 
các yếu tố ảnh hưở;ng đến hiệu quả điều trị. 
Chúng tôi tìm thấy những yếu tố sau đây có ảnh 
hưởng đến kết quả điều trị (Bảng 1). 
Bảng 1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị 
với tỷ số chênh 
Hiệu quả 
điều trị 
Yếu tố 
 ảnh hưởng 
Tỷ số chênh 
(KTC 95%) 
p 
Cải thiện 
thị lực 
HbA1c >7% 16,85 (1,02-276,28) 0,048 
Vi đạm niệu (+) 30 (1,49-600) 0,026 
BVMĐTĐ tăng sinh 63 (1,43-2769) 0,032 
Cải thiện 
CRT 
Vi đạm niệu (+) 6,33 (1,46-27,3) 0,013 
Hyperlipidemia (+) 4,96 (1,15-21,4) 0,032 
Tăng CRT nặng 0,12 (0,02-0,67) 0,015 
BÀN LUẬN 
Cơ chế bệnh sinh của phù HĐ do ĐTĐ rất 
phức tạp và còn nhiều điểm chưa được tìm hiểu 
hết. Tuy nhiên, VEGF đã được chứng minh là 
một trong những yếu tố then chốt phá hủy hàng 
rào máu – võng mạc trong, gây thoát dịch vào 
khoang gian bào. Do đó, kháng VEGF được xem 
như liệu pháp đánh trúng đích trong phù HĐ do 
ĐTĐ. Bevacizumab là chất kháng VEGF có khả 
năng gắn kết và ức chế tất cả các đồng dạng của 
VEGF-A, hiệu quả của chất này trong điều trị 
phù HĐ do ĐTĐ đã được nhắc đến trong nhiều 
nghiên cứu(1,9,11,13,14,15). Không chỉ được sử dung 
trong điều trị phù HĐ do ĐTĐ, Bevacizumab 
còn được sử dụng điều trị bệnh lý phù HĐ do 
các nguyên nhân khác như tắc tĩnh mạch võng 
mạc, thoái hóa HĐ tuổi già; gần đây 
Bevacizumab còn được nghiên cứu sử dụng 
trong BVMĐTĐ giai đoạn tăng sinh. Tính hiệu 
quả và an toàn của Bevacizumab trong điều trị 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Mắt 61
phù HĐ do ĐTĐ và các nguyên nhân khác đã 
được chứng minh. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
Bevacizumab có hiệu quả cải thiện có ý nghĩa về 
mặt giải phẫu và chức năng trong bệnh cảnh 
phù HĐ do ĐTĐ. Kết quả của chúng tôi tương 
đồng với nghiên cứu của các tác giả đã thực hiện 
trước đây(1,9,11,13,14,15). Ngoài ra, chúng tôi tìm thấy 
mối tương quan thuận, tuyến tính giữa cải thiện 
thị lực và cải thiện CRT sau điều trị. Tương quan 
này không mạnh, gợi ý hiệu quả điều trị còn phụ 
thuộc nhiều yếu tố khác, sẽ được chúng tôi đề 
cập sau. Cùng phân tích vấn đề này như chúng 
tôi, Haritoglou(7) và Ozturk(10) không tìm thấy 
mối tương quan giữa thị lực và CRT. Sự khác 
biệt này có thể do khác biệt về đặc điểm dịch tễ 
và chọn mẫu của 2 dân số. 
Phân tích các yếu tố toàn thân, kiểm soát 
đường huyết kém (HbA1c >7%) và vi đạm niệu 
dương tính là yếu tố ảnh hưởng xấu đến kết cục 
thị lực (tỷ số chênh 16,85 và 30). Trong số 38 mắt 
có cơ địa kiểm soát đường huyết kém, 86,8% 
không đạt mục tiêu cải thiện >10 ký tự ETDRS, 
và tỷ lệ này là 89,7% ở tình trạng vi đạm niệu 
dương tính. Tuy không có nghiên cứu để đối 
chiếu, kết quả này tương đồng với nghiên cứu 
của Roy(12) và WESDR(8) cho biết kiểm soát đường 
huyết kém và vi đạm niệu dương tính là yếu tố 
nguy cơ của phù HĐ do ĐTĐ và BVMĐTĐ. 
Trong nghiên cứu của Ozturk(10), HbA1c cũng có 
tương quan nghịch với cải thiện thị lực. 
Về các yếu tố tại chỗ, chúng tôi nhận thấy 
BVMĐTĐ giai đoạn tăng sinh là yếu tố quan 
trọng ảnh hưởng đến sự cải thiện thị lực (tỷ số 
chênh 63). Trong 20 mắt BVMĐTĐ tăng sinh, 
95% số mắt không đạt mức cải thiện >10 ký tự 
ETDRS. Do đó, giai đoạn tăng sinh có vẻ là một 
yếu tố tiên lượng bất lợi trong điều trị phù HĐ 
do ĐTĐ bằng Bevacizumab. 
Về tương quan của các yếu tố toàn thân lên 
sự cải thiện về mặt giải phẫu, chúng tôi nhận 
thấy vi đạm niệu dương tính và tăng lipid máu 
là 2 yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị (tỷ 
số chênh lần lượt 6,33 và 4,96). Kết quả này bổ 
sung kết luận của WESDR(8) và ETDRS(5) cho biết 
vi đạm niệu dương tính và tăng lipid máu có liên 
quan, trực tiếp hay gián tiếp, đến tần suất phát 
sinh phù HĐ do ĐTĐ. Hai yếu tố toàn thân này 
đóng vai trò yếu tố tiên lượng bất lợi đối với sự 
cải thiện CRT. 
Cuối cùng, khi phân tích các yếu tố tại chỗ, 
chúng tôi nhận thấy hình thái phù HĐ trên OCT 
không phải là yếu tố ảnh hưởng đến cải thiện 
CRT sau điều trị; thay vào đó, tăng CRT khởi 
điểm mức độ nặng (≥400 µm) đóng vai trò yếu tố 
bảo vệ (tỷ số chênh 0,12). Kết quả của chúng tôi 
không tương đồng với kết quả của Mi In Roh(11), 
có lẽ điều này xuất phát từ đặc điểm dịch tễ, cỡ 
mẫu cũng như thiết kế nghiên cứu. 
Nghiên cứu của chúng tôi có những hạn chế 
nhất định. Đầu tiên, cỡ mẫu của chúng tôi không 
quá lớn. Thứ 2 là thời gian theo dõi chưa dài. 
Tuy nhiên, thay đổi về mặt giải phẫu và chức 
năng là rất rõ ràng. Và cuối cùng là nghiên cứu 
của chúng tôi được thực hiện tại 1 trung tâm duy 
nhất, do đó kết quả có thể chưa đủ phổ quát. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi góp phần chứng 
minh Bevacizumab tiêm nội nhãn là một 
phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả đối 
với phù HĐ do ĐTĐ, với kết quả rất hứa hẹn. Có 
sự tương quan thuận, tuyến tính giữa phục hồi 
về giải phẫu và chức năng vùng HĐ. Các yếu tố 
ảnh hưởng bất lợi đến sự cải thiện thị lực là kiểm 
soát đường huyết kém, vi đạm niệu dương tính 
và bệnh võng mạc đái tháo đường giai đoạn tăng 
sinh. Các yếu tố ảnh hưởng bất lợi đến sự cải 
thiện độ dày võng mạc trung tâm là vi đạm niệu 
dương tính và tăng lipid máu, tăng độ dày võng 
mạc trung tâm khởi điểm mức độ nặng đóng vai 
trò yếu tố bảo vệ. Tuy nhiên, rất cần thiết có 
những nghiên cứu quy mô và đa trung tâm với 
cỡ mẫu lớn và thời gian theo dõi dài hơn để 
phân tích cụ thể và chi tiết hơn nữa kết quả điều 
trị cũng như các yếu tố tiên lượng điều trị. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Astam N, Batioglu F, and Ozmert E (2009), "Short-term 
efficacy of intravitreal bevacizumab for the treatment of 
macular edema due to diabetic retinopathy and retinal vein 
occlusion".Int Ophthalmol. 29(5): p. 343-8. 
2. Chun DW, et al (2006), "A pilot study of multiple intravitreal 
injections of ranibizumab in patients with center-involving 
clinically significant diabetic macular edema".Ophthalmology. 
113(10): p. 1706-12. 
3. Danaei G, et al (2011), "National, regional, and global trends in 
fasting plasma glucose and diabetes prevalence since 1980: 
systematic analysis of health examination surveys and 
epidemiological studies with 370 country-years and 2.7 
million participants".Lancet. 378(9785): p. 31-40. 
4. Early Treatment Diabetic Retinopathy Study Research Group 
(1985), "Photocoagulation for diabetic macular edema. Early 
Treatment Diabetic Retinopathy Study report number 1. Early 
Treatment Diabetic Retinopathy Study research group".Arch 
Ophthalmol. 103(12): p. 1796-1806. 
5. Early Treatment Diabetic Retinopathy Study Research Group 
(1996), "Association of elevated serum lipid levels with retinal 
hard exudate in diabetic retinopathy. Early Treatment 
Diabetic Retinopathy Study (ETDRS) Report 22".Arch 
Ophthalmol. 114(9): p. 1079-84. 
6. Fong DS, et al (2004), "Diabetic retinopathy".Diabetes Care. 
27(10): p. 2540-53. 
7. Haritoglou C, et al (2006), "Intravitreal bevacizumab (Avastin) 
therapy for persistent diffuse diabetic macular edema".Retina. 
26(9): p. 999-1005. 
8. Klein R, et al (1984), "The Wisconsin epidemiologic study of 
diabetic retinopathy. IV. Diabetic macular 
edema".Ophthalmology. 91(12): p. 1464-74. 
9. Kumar A and Sinha S (2007), "Intravitreal bevacizumab 
(Avastin) treatment of diffuse diabetic macular edema in an 
Indian population".Indian J Ophthalmol. 55(6): p. 451-5. 
10. Ozturk BT, et al (2011), "Glucose regulation influences 
treatment outcome in ranibizumab treatment for diabetic 
macular edema".J Diabetes Complications. 25(5): p. 298-302. 
11. Roh MI, Kim JH, and Kwon OW (2010), "Features of optical 
coherence tomography are predictive of visual outcomes after 
intravitreal bevacizumab injection for diabetic macular 
edema".Ophthalmologica. 224(6): p. 374-80. 
12. Roy R, et al (2013), "The effects of renal transplantation on 
diabetic retinopathy: clinical course and visual 
outcomes".Indian J Ophthalmol. 61(10): p. 552-6. 
13. Soheilian M, et al (2007), "Intravitreal bevacizumab (avastin) 
injection alone or combined with triamcinolone versus 
macular photocoagulation as primary treatment of diabetic 
macular edema".Retina. 27(9): p. 1187-95. 
14. Soheilian M, et al (2009), "Randomized trial of intravitreal 
bevacizumab alone or combined with triamcinolone versus 
macular photocoagulation in diabetic macular 
edema".Ophthalmology. 116(6): p. 1142-50. 
15. Tareen IU, et al (2013), "Primary effects of intravitreal 
bevacizumab in patients with diabetic macular edema".Pak J 
Med Sci. 29(4): p. 1018-22. 
Ngày nhận bài báo: 24/11/2015 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 27/11/2015 
Ngày bài báo được đăng: 01/02/2016