Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 205
KẾT QUẢ SỚM CỦA PHẪU THUẬT CẮT GAN 
THEO CUỐNG BAO GLISSON 
Đỗ Bá Hùng*, Võ Văn Hùng*, Nguyễn Cao Cương*, Lê Hữu Phước*, Ngô Viết Thi*, Võ Thiện Lai*, 
Nguyễn Đức Tuấn Anh* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Hiện nay, ung thư gan còn phổ biến ở chân Á trong đó có Việt Nam. Phẫu thuật cắt bỏ phần gan 
chứa u được xem là phương pháp điều trị triệt để, an toàn và hạn chế tái phát. Mục tiêu nghiên cứu đánh giá kết 
quả sớm kỹ thuật cắt gan theo cuống bao Glisson. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu mô tả 30 TH u gan được cắt gan theo kỹ thuật tiếp cận 
cuống bao Glisson trong thời gian từ 06/2016 đến 09/2017 tại bệnh viện Bình Dân. 
Kết quả: Tổng cộng 30 trường hợp cắt gan theo cuống bao Glisson. Độ tuổi trung bình 58,9 tuổi, giới nam 
chiếm 80%, nữ 20%. Tỉ lệ viêm gan B và C 94,6%. Kích thước u trung bình 76 mm. Thời gian mổ trung bình 
154,09 phút đối với mổ mở, thời gian mổ trung bình của phẫu thuật nội soi 150 phút. Lượng máu mất trung bình 
556,8ml, tỷ lệ truyền máu trong mổ chiếm 40,9%. Thời gian nằm viện trung bình 11,19 ngày. Tỉ lệ biến chứng 
10%, 1 trường hợp suy gan (3,3%), 1 trường hợp chảy máu sau mổ (3,3%), 1 trường hợp tụ dịch (3,3%), cả 3 
TH được điều trị bảo tồn. Không có tử vong. 
Kết luận: Phẫu thuật cắt gan theo cuống bao Glisson là phương pháp phẫu thuật an toàn, triệt để, hạn chế 
tái phát, bước đầu cho thấy cải thiện tiên lượng sống cho người bệnh. 
Từ khóa: cắt gan, cuống bao Glisson 
ABSTRACT 
THE EARLY RESULTS OF HEPATECTOMY USING GLISSONEAN PEDICLE APPROACH 
Do Ba Hung, Vo Van Hung, Nguyen Cao Cuong, Le Huu Phuoc, 
Ngo Viet Thi, Vo Thien Lai, Nguyen Duc Tuan Anh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 205 - 210 
Background: liver cancer is common in Asia, including Vietnam. Liver resection is considered as a method 
of radical treatment, safe and low recurrence. The objective of this study was to evaluate the early results of the 
liver resection using glissonean pedicle approach. 
Methods: prospective study of 30 cases underwent liver resection using glissonean pedicle approach for liver 
tumour from 06/2016 to 09/2017 at Binh Dan Hospital. 
Results: A total of 30 cases. The average age is 58.9, 6 female, 24 male. The rate of hepatitis B and C 94.6%. 
Mean dimension of tumour was 76 mm. The mean operative time was 154.09 minutes for open surgery, and 150 
minutes for laparoscopic surgery. The mean blood loss was 556.8 ml, blood transfusions rate in operating 40.9%. 
Average time of hospital stay was 11.19 days. Complication rate was 10%, 1 liver failure (3.3%), 1 postoperative 
bleeding (3.3%), 1 liquid collection (3.3%), and treated conservatively. No deaths. 
Conclusion: liver resection using glissonean pedicle approach is a safe, radical, low recurrence method, could 
improve survival of patients. 
* Bệnh viện Bình Dân. 
Tác giả liên lạc: TS. BS. Võ Văn Hùng ĐT: 0903851378, Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 206
Keywords: hepatectomy, liver resection, glissonean pedicle 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cho đến hiện nay, mổ cắt gan vẫn là một 
phẫu thuật lớn với nguy cơ tử vong lên đến 
5%, chủ yếu liên quan đến suy gan sau mổ và 
mất máu. Các kỹ thuật cắt gan theo giải phẫu 
được công nhận là Honjo, sau đó là Lortat-
Jacob và Robert, các tác giả thực hiện cắt gan 
sau khi phẫu tích riêng rẽ ba thành phần ở rốn 
gan: động mạch gan, tĩnh mạch cửa và đường 
mật. Các kỹ thuật khác như của Lin và cộng 
sự, Tôn Thất Tùng và Nguyễn Dương Quang 
thực hiện xẻ nhu mô gan, sau đó tiếp cận và 
cột các cuống mạch(5). 
Glisson và Couinaud nhận thấy rằng bộ ba 
cửa được bao quanh bởi một màng xơ, là cơ sở 
để Couinaud đề nghị kiểm soát cuống Glisson 
thay cho việc kiểm soát mạch máu vào gan. Năm 
1986, Takasaki(4) mô tả kỹ thuật thắt cuống 
Glisson ở rốn gan, giúp cắt gan đúng giải phẫu, 
an toàn và hiệu quả. Kỹ thuật đã được áp dụng 
rộng rãi tại nhiều nơi trên thế giới. Tiếp cận 
cuống Glisson trong gan ngã trước, cuống gan 
được kẹp nhưng không phẫu tích, phẫu thuật 
viên tiếp cận cuống Glisson bắt đầu từ các rãnh 
trên bề mặt gan và tĩnh mạch gan. Cuống gan 
được cắt sau khi cắt nhu mô gan. Tiếp cận cuống 
Glisson ngã sau (Takasaki 1986), giúp xác định 
chính xác ranh giới giữa các phân thùy, hạn chế 
thiếu máu phần gan để lại và tránh phát tán tế 
bào ung thư sang các phân thùy gan kế cận trong 
khi mổ(7). 
Hiện nay, cắt gan theo Takasaki là cắt gan 
phân thùy hay hạ phân thùy, được dựa trên 
những hiểu biết về sự phân bố các cuống Glisson 
được đánh giá là an toàn, hiệu quả. Nhưng kỹ 
thuật này vẫn có nguy cơ tai biến biến chứng với 
tỷ lệ khá cao như chảy máu khi bóc tách cuống 
Glisson, rò mật sau mổ và gặp khó khăn khi có 
bất thường về giải phẫu. 
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh 
giá kết quả của kỹ thuật cắt gan theo phương 
pháp Takasaki. Nghiên cứu được tiến hành tại 
bệnh viện Bình Dân từ 2016 đến năm 2017, các 
bệnh nhân được phẫu thuật cắt bỏ phần gan 
bệnh lý theo phương pháp tiếp cận cuống 
Glisson. Nghiên cứu nhằm chứng minh đây là 
phương pháp điều trị triệt để, an toàn, hạn chế 
các tai biến, biến chứng và giảm di căn. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Các bệnh nhân được cắt gan theo phương 
pháp Takasaki trong gan ngã sau, trong khoảng 
thời gian từ 06/2016 đến 09/2017 tại Khoa Ngoại 
Gan mật bệnh viện Bình Dân. Bệnh nhân ung 
thư gan còn chỉ định phẫu thuật: dựa vào chụp 
cắt lớp điện toán hoặc chụp cộng hưởng từ, chức 
năng gan còn tốt. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Có nguy cơ phẫu thuật cao: ASA > 3. 
Bệnh nhân không đồng ý phẫu thuật. 
Gan còn lại không đủ đảm bảo chức năng 
gan, xơ gan Child C. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả tiền cứu, hàng loạt 
trường hợp. 
Phương pháp nghiên cứu lâm sàng và cận lâm 
sàng 
Đặc điểm chung, các đặc điểm lâm sàng, cận 
lâm sàng đánh giá tình trạng tắc mật, chức năng 
gan thận, tim mạch, hô hấp, nội tiết, thể trạng 
dinh dưỡng, huyết họcĐánh giá chức năng 
gan dựa vào phân độ Child. Đặc điểm u, vị trí 
kích thước, thể tích gan còn lại. 
Trang thiết bị, dụng cụ 
Bộ dụng cụ đại phẫu, có các kẹp mạch máu, 
siêu âm trong khi mổ, dao Harmonic, Ligasure, 
X quang đường mật trong khi mổ (khi có giải 
phẫu bất thường). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 207
Kỹ thuật 
Đánh giá tình trạng di căn ổ bụng và các cơ 
quan trong ổ bụng: Đánh giá tình trạng di căn, 
phúc mạc, các hạch vùng đầu tụy, rốn gan... 
Đánh giá khả năng cắt được bướu rất quan trọng 
có thể kết hợp siêu âm trong khi mổ. 
Di động gan. 
Cắt túi mật trong trường hợp cần bộc lộ các 
cuống Glisson bên P. 
Bên dưới giường túi mật là cuống thùy giữa. 
Tách rốn gan khỏi nhu mô gan sẽ bộc lộ 
được cuống gan phải và cuống gan trái. 
Kẹp cuống sẽ giúp xác định vùng gan tím 
cần cắt bỏ. 
Thắt cuống Glisson hạ phân thùy trong 
trường hợp cắt riêng hạ phân thùy. 
Cắt nhu mô gan bằng đốt điện đơn cực 
hay dao siêu âm. Chừa lại phần tĩnh mạch gan 
dẫn lưu hạ phân thùy tương ứng. Kiểm tra và 
cột lại cuống Glisson hạ phân thùy, phân thùy 
được cắt. 
Hình 1. Bộc lộ cuống Glisson phân thùy trước và sau(9) 
Bệnh nhân được thời gian hậu phẫu, sau khi 
xuất viện tại phòng khám ngoại trú, với SGOT, 
SGPT, Bilirubin, Albumin, siêu âm bụng hay CT 
bụng sau mổ. Tử vong sau phẫu thuật được định 
nghĩa là tử vong xảy ra trong vòng 30 ngày sau 
khi phẫu thuật. Các tai biến biến chứng sau mổ 
gồm chảy máu sau mổ phải mổ lại, rò mật hoặc 
áp xe quanh gan. Rò mật được định nghĩa là khi 
Bilirubin trong dịch dẫn lưu cao gấp 2 lần so với 
Bilirubin huyết tương. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian nghiên cứu chúng tôi thực 
hiện 30 trường hợp phẫu thuật cắt gan theo giải 
phẫu bằng phương pháp phẫu tích theo cuống 
Glisson. Trong đó có 2 TH phẫu thuật nội soi cắt 
phân thùy bên của gan T. 
Độ tuổi trung bình 58,9, trẻ nhất 25 tuổi, cao 
nhất 76 tuổi. 
Giới nam chiếm 80%, nữ 20% (24/6 TH). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 208
Viêm gan kèm theo: Viêm gan B 81%, viêm 
gan C 4,5%, viêm gan B và C 9,1%. Nói chung tỉ 
lệ viêm gan chiếm 94,6% trường hợp. 
Marker ung thư (AFP, PIVKA II) tăng trong 
40,9% trường hợp ung thư tế bào gan (25 TH), có 
2 TH u kết quả giải phẫu bệnh lý lành tính. 
Bảng 1. Chỉ định cắt gan. 
Tổn thương Số TH Tỉ lệ (%) 
Ung thư tế bào gan 27 81 
Ung thư gan thứ phát 1 6,6 
U lành tính 2 3,3 
Tổng cộng 30 100 
Trong 30 TH u gan, có 2 Th u gan lành tính, 1 
TH u HPT I (u có kích thước to 90x90x50 mm, 
được cắt HPT I), 1 TH u HPT II, III, IV (cắt gan 
T). Trường hợp u gan thứ phát: bênh nhân ung 
thư trực tràng đã được thực hiện phẫu thuật 
Miles trước đây 2 năm, u thứ phát tại HPT 3, 
kích thước 40x45x46 mm. 
Kích thước u trung bình 76 mm tính theo 
đường kính lớn nhất. 
Thời gian mổ trung bình 154,09 phút (90 – 
210 phút) đối với mổ mở, thời gian mổ trung 
bình của phẫu thuật nội soi 150 phút (120 – 
180 phút). 
Lượng máu mất trung bình 556,8ml (200 – 
1600 ml), tỷ lệ truyền máu trong mổ 
chiếm 40,9%. 
Thời gian nằm viện hậu phẫu trung bình 
11,18 ngày. 
Biến chứng rò mật 1 TH, suy gan có 1 TH, tụ 
dịch có 1 TH, tất cả trường hợp được điều trị nội 
khoa bảo tồn, không có trường hợp nào cần mổ 
lại. Không có tử vong. Tỉ lệ biến chúng chung 
10% (3/30 TH) (Bảng 2). 
Bảng 2. Vị trí u. 
Vị trí PP mổ Số TH Tỉ lệ (%) 
HPT I Cắt HPT I 1 3,3 
HPT II, III Cắt thùy bên 5 16,7 
HPT II,III,IV Cắt gan T 4 13,3 
HPT IV Cắt HPT IV 2 6,6 
HPT V Cắt HPT V 5 16,7 
HPT V,VIII Cắt phân thùy trước 5 16,7 
HPT VI Cắt HPT VI 2 6,6 
HPT VI,VII Cắt phân thùy sau 1 3,3 
HPT V,VI,VII,VIII Cắt gan P 5 16,7 
Tổng cộng 30 100 
Bảng 3. Tỉ lệ biến chứng. 
Loại phẫu thuật cắt 
gan 
Biến chứng 
Chảy máu Suy gan Tụ dịch 
HPT I 
HPT II, III 
HPT II,III,IV 
HPT IV 
HPT V 
HPT V,VIII 1 
HPT VI 
HPT VI,VII 
HPT V,VI,VII,VIII 1 1 
Tổng cộng 1 1 1 
Chúng tôi theo dõi tình trạng tái phát của 
người bệnh trong suốt thời gian nghiên cứu, ghi 
nhận 1 TH tái phát sau 3 tháng, 2 TH tái phát sau 
6 tháng, hiện chưa ghi nhận các trường hợp tái 
phát sau 12 tháng. Các trường hợp tái phát do 
phát hiện sớm, kích thước tổn thương nhỏ, bệnh 
nhân được điều trị hủy u bằng sóng cao tần. 
Hình 2. Cắt gan thùy giữa theo cuống Glisson. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 209
BÀN LUẬN 
Bệnh ung thư tế bào gan là bệnh phổ biến tại 
châu Á, chiếm 75 – 80% ung thư tế bào gan trên 
thế giới, nằm trong top 5 nguyên nhân gây tử 
vong hàng đầu tại châu Á(3). Bệnh có liên quan 
với viêm gan siêu vi, nghiên cứu của BV Trung 
ương Quân đội 108 có 76,7% bệnh nhân viêm 
gan siêu vi B(8), tại Hàn Quốc, tỉ lệ viêm gan B 
chiếm 70 – 75%, viêm gan C chiếm 10 – 15% 
bệnh nhân ung thư tế bào gan(3). Tại Hồng Kông, 
80% bệnh nhân ung thư tế bào gan viêm gan B 
và 7% viêm gan C(3). Nghiên cứu của chúng tôi 
có tỉ lệ viêm gan rất cao, viêm gan B 81%, viêm 
gan C 4,5%, viêm gan B và C 9,1%, như vậy có 
đến 94,6% trường hợp có viêm gan. Tuổi trung 
bình của bệnh nhân trong nghiên cứu là 58,9 
tuổi, tương đương với các nghiên cứu tại Việt 
Nam và trên thế giới từ 50 – 60 tuổi(8), nghiên cứu 
của Bai Ji (2012) là 55 ± 12(1). 
Trong khi phẫu thuật, lượng máu mất trung 
bình 556,8ml (200 – 1600 ml), tỉ lệ truyền máu 
trong mổ chiếm 40,9%. Lượng máu mất và tỉ lệ 
truyền máu của chúng tôi tương đối cao, do tỉ lệ 
cắt gan lớn chiếm 33,4%, và đa số trường hợp u 
có kích thước lớn, kích thước trung bình là 
76mm. Nghiên cứu của Vũ Văn Quang lượng 
máu mất trung bình 230 ml, tỉ lệ truyền máu 
10%(8). Nghiên cứu của Bai Ji lượng máu mất 
trung bình 145 ml(1). Nghiên cứu của Trần Hiếu 
Học tại BV Bạch Mai, gồm 30 TH cắt gan theo 
phương pháp Tôn Thất Tùng và 5 TH theo 
phương pháp Takasaki, lượng máu mất trung 
bình 210 ml, có 15/35 TH phải truyền máu(6). 
Phẫu thuật cắt gan vẫn là một phẫu thuật lớn 
với nguy cơ tử vong lên đến 5%, chủ yếu liên 
quan đến đến các biến chứng như suy gan sau 
mổ và mất máu. Các biến chứng thường gặp 
khác như rò mật, tụ dịch, tràn dịch màng phổi, 
hẹp đường mật, nhiễm trùng vết mổ. Nghiên 
cứu của Vũ Văn Quang có tỉ lệ biến chứng 15% 
với tràn dịch màng phổi 5 TH (8,3%), cổ chướng 
3 TH (5%), rò mật 1 TH (1,7%)(8). Kết quả nghiên 
cứu của Trần Hiếu Học có tỉ lệ biến chứng chảy 
máu 5,7%, tụ dịch 5,7%, rò mật 5,7%, hẹp ống 
gan P 2,9%, tràn dịch màng phổi 2,9%, có 1 TH 
tử vong do chảy máu sau mổ(6). Nghiên cứu của 
Karamarkovic A. có tỉ lệ tràn dịch màng phổi 
9,8%, tụ dịch 3,9%, chảy máu 2%, rò mật 1,9%,, 
báng bụng 4,9%, nhiễm trùng vết mổ 5,9%, 
không có trường hợp nào suy gan(2). Tỉ lệ biến 
chứng của chúng tôi 10% (3/30 TH), bao gồm rò 
mật 1 TH, suy gan 1 TH, tụ dịch 1 TH, tất cả 
trường hợp được điều trị nội khoa bảo tồn, 
không có trường hợp nào cần mổ lại. Không có 
tử vong. 
Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện 
Bình Dân được thực hiện trong thời gian ngắn, 
số trường hợp chưa nhiều nhưng cũng đã cho 
thấy nhiều tín hiệu khả quan, lượng máu mất 
trong mổ và thời gian mổ ngày càng giảm, 
không có tai biến tử vong mặc dù có 1 trường 
hợp suy gan nhẹ, bệnh nhân ổn định sau khi 
điều trị nội khoa. Trường hợp này bệnh nhân 
được cắt toàn bộ gan P, tình trang gan xơ CHILD 
B, lượng máu mất khoảng 1000ml, điều đó cho 
thấy việc đánh giá chức năng gan và khối lượng 
gan còn lại là cần thiết để đảm bảo cuộc mổ an 
toàn. Hạn chế mất máu trong mổ cũng rất quan 
trọng, chúng tôi đã sử dụng dao siêu âm, và điều 
chỉnh áp lực tĩnh mạch trung tâm chủ động để 
hạn chế chảy máu từ tĩnh mạch gan, điều này đã 
giúp thời gian xử lý mạch máu trong mổ đơn 
giản hơn, giảm thời gian mổ và hạn chế chảy 
máu đáng kể. 
Hiệu quả của cắt gan theo giải phẫu đã đươc 
nhiều nghiên cứu chứng minh giúp cải thiện 
hiệu quả điều trị, giảm tai biến, biến chứng và 
hạn chế tái phát, do kỹ thuật này giúp cắt trọn 
vẹn tận gốc phân thùy gan có chứa u, do u di căn 
theo tĩnh mạch cửa, nên việc cắt tận gốc cũng 
giúp hạn chế việc u di căn sớm đến các hạ phân 
thùy lân cận mà không thể đánh giá được trước 
mổ bằng MRI, CT hay siêu âm. 
Các trường hợp tái phát vẫn được xử lý và 
theo dõi tiếp tục mỗi 3 tháng bằng siêu âm, chụp 
cắt lớp điện toán, những U nhỏ ≤ 3cm được hủy 
u bằng song cao tần. Hiện tại, chúng tôi chưa ghi 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 210
nhận trường hợp nào có tái phát ngay diện cắt. 
Tỉ lệ bệnh nhân có tiền căn viêm gan siêu vi cao, 
u thường tái phát tại các vị trí khác, như vậy vấn 
đề theo dõi, điều trị viêm gan và tầm soát sau 
mổ rất quan trọng để phát hiện và xử trí ung thư 
tế bào gan tái phát. 
KẾT LUẬN 
Phẫu thuật cắt gan theo giải phẫu là phương 
pháp triệt để, an toàn, đem lại nhiều lợi ích cho 
người bệnh. Việc phát triển kỹ thuật này cũng 
thúc đẩy các kỹ thuật bổ trợ như hủy u, hoá trị, 
thuyên tắc mạch và các kỹ thuật thuộc lĩnh vực 
khác như điều chỉnh áp lực tĩnh mạch trung tâm, 
các thiết bị cắt kiểm soát chảy máu. Nghiên cứu 
vẫn được chúng tôi tiếp tục thực hiện để đánh 
giá dự hậu của người bệnh và hoàn thiện hơn về 
kỹ thuật. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bai Ji et al, (2012), Curative resection of hepatocellular 
carcinoma using modified glisson pedicle transection versus 
the pringle maneur: a case control study, Int. J. Med. Sci., 9(10), 
pp. 843-852. 
2. Karamarkovic A. et al, (2014), Pre-resectional inflow vascular 
control: extrafascial dissection of Glissonean pedicle in liver 
resections, Hepatobiliary, 3, pp. 227-337. 
3. Kudo M. et al, (2010), Liver Cancer Working Group Report. 
Jpn J Clin Oncol, 40(1), pp. 19–27. 
4. Takasaki K., (2007), Glissonean pedicle transection method for 
hepatic resection, Tokyo Springer. 
5. Tôn Thất Tùng, Nguyễn Dương Quang, (1963), A new 
technique for operating on the liver, Lancet, 26, pp. 192–3. 
6. Trần Hiếu Học và cs, (2016), Kết quả cắt gan tại bệnh viện 
Bạch Mai, Tạp chí Ngoại khoa VN, 66(3), trang 35-39. 
7. Trần Công Duy Long, Nguyễn Đức Thuận, Nguyễn Hoàng 
Bắc, Lê Tiến Đạt, Đặng Quốc Việt, (2013), Áp dụng kỹ thuật 
phẫu tích cuống glisson ngã sau trong cắt gan theo giải phẫu 
điều trị ung thư tế bào gan, Tạp chí Y học TP HCM, tập 13(1), 
trang 48-53. 
8. Vũ Văn Quang, Lê Văn Thành, (2016), Đánh giá kết quả sớm 
của cắt gan ứng dụng kỹ thuật kiểm soát cuống Glisson theo 
Takasaki điều trị ung thư biểu mô tế bào gan, Tạp chí Ngoại 
khoa VN, 66(3), trang 11-17. 
9. Yamamoto M., Katagiri S., Ariizumi S., Kotera Y., Takahashi 
Y., (2012), Glissonean pedicle transection method for liver 
surgery, J Hepatobiliary Pancreat Sci, 19, pp. 3-8. 
Ngày nhận bài báo: 10/10/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018