Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 102
KẾT CỤC THAI KỲ CỦA THAI PHỤ CÓ DẤU CHỈ ĐIỂM BẤT THƯỜNG 
NHIỂM SẮC THỂ TRÊN SIÊU ÂM TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG 
Võ Kim Cát Tuyền*, Tô Mai Xuân Hồng* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể (NST) thai nhi ở thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường 
NST trên siêu âm tại bệnh viện Hùng Vương trong năm 2015. 
Phương pháp: Nghiên cứu báo cáo loạt ca được tiến hành trên toàn bộ thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường 
NST trên siêm âm (soft-markers) khám tại bệnh viện Hùng Vương từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2015. Các thai 
kỳ có dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm được tính toán nguy cơ và chọc ối nếu kết quả nguy cơ cao với 
bất thường NST. Tất cả thai nhi có dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm đều được theo dõi đến lúc sanh để 
đánh giá kết cục thai kỳ. 
Kết quả: Tỷ lệ bất thường NST: 8,7%, trong đó hội chứng Down là dạng bất thường NST thường gặp nhất 
với tỷ lệ 7,3%. Dấu chỉ điểm siêu âm thường gặp nhất là nang đám rối mạch mạc và nốt phản âm sáng ở tim, với 
tỷ lệ lần lượt là 46,4% và 34,5%. Tỷ lệ có kết cuc thai kỳ không tốt (bao gồm sinh con DTBS, CDTK vì DTBS, 
bất thường hình thái học, sẩy thai, thai lưu) là 9,5%. 
Kết luận: Nên áp dụng thường quy siêu âm tìm dấu chỉ điểm bất thường NST ở các thai phụ thuộc nhóm 
nguy cơ bất thường NST trung bình nhằm phát hiện sớm bất thường NST và tiên đoán kết cục thai kỳ không 
mong muốn. 
Từ khóa: aneuploidy, Down Syndrome, soft – marker, ultrasound. 
ABSTRACT 
FETAL OUTCOMES IN PREGNANCIES PRESENTED POSITIVE SOFT – MARKERS 
 IN ULTRASOUND AT HUNG VUONG HOSPITAL. 
Vo Kim Cat Tuyen, To Mai Xuan Hong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 1 - 2017: 102 - 107 
Objective: The study is aimed to identify the incidence of fetal aneuploidy and adversely outcomes in 
pregnant women who were detected positive soft – markers following detailed ultrasound at 
Hung Vuong hospital. 
Methods: A case - studies was carried out from July 1st to November 30, 2015 at Hung Vuong hospital. All 
pregnant women being intermediate risks were performed a detailed ultrasound at 16-20 weeks of gestation for 
evaluating soft-markers. Amniocentesis was indicated in case of the recalculated risk being high for fetal 
aneuploidies. All pregnant women were followed until the delivery. 
Results: The incidence of fetal aneuploidy was 8.7%, and Down Syndrome was the most common 
chromosomal abnormalities (7.3%). Choroid plexus and echogenic foci in fetal heart are two frequent soft-markers 
detected in detailed ultrasound (46.4% and 34.5%, respectively). Pregnancies with adversely outcomes that 
included childbirth with congenital defects, termination of pregnancy, morphological abnormalities, miscarriage, 
stillbirth were found in 9.5% of cases. 
Conclusions: It is necessary to implement routinely the detailed ultrasound for evaluating fetal soft - marker 
* Bộ môn Sán, Đại học Y dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: BS. Võ Kim Cát Tuyền ĐT: 0168.819.3223 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 103
in pregnant women being intermediate risks in order to earlier detect fetal aneuloidies and predict the possibility of 
fetal adversely outcome. 
Key words: aneuploidy, Down Syndrome, soft – marker, ultrasound. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hội chứng Down là một dạng bất thường 
NST thường gặp nhất, xảy ra ở 0,1% đến 0,2% trẻ 
sinh sống và thường gây ra những ảnh hưởng 
nặng nề không chỉ về mặt thể chất, tinh thần, 
tâm lý cho bản thân trẻ, mà còn ảnh hưởng về 
chi phí cho gia đình và xã hội(4). Vì vậy, việc phát 
hiện sớm các dị tật bẩm sinh (DTBS) thai nhi và 
nhất là các DTBS do những bất thường NST là 
mục tiêu quan trọng hàng đầu của các đơn vị 
chăm sóc tiền sản. 
Trong số các phương tiện chẩn đoán tiền sản 
đã và đang được áp dụng tại Việt Nam, siêu âm 
hình thái học thai nhi là một công cụ tiên quyết 
và không thể thiếu được, vì đây là một phương 
tiện chẩn đoán với các ưu điểm không xâm lấn, 
có sẵn và có thể thực hiện nhiều lần. Khi thực 
hiện khảo sát hình thái học thai nhi qua siêu âm, 
siêu âm tìm dấu chỉ điểm bất thường NST (soft – 
marker) như: nốt phản âm sáng ở tim, tăng phản 
âm ở ruột, nếp da gáy dày, xương đùi hay xương 
cánh tay ngắn, dãn não thất, hay dãn bể thận, 
nang đám rối mạch mạc, một động mạch rốn, 
bất sản xương mũi, thiểu sản đốt giữa ngón tay 
thứ năm ở các thai kỳ nguy cơ cao được xem là 
rất có giá trị trong phát hiện sớm các bất thường 
NST, đặc biệt là dị tật Down(2,10,11). 
Vai trò của việc đánh giá dấu chỉ điểm bất 
thường NST trên siêu âm để chẩn đoán sớm các 
bất thường NST đã được khẳng định tính lợi ích 
qua nhiều nghiên cứu trên thế giới(2,1,11), và việc 
áp dụng giá trị của từng dấu chỉ điểm bất 
thường NST trên siêu âm lại thay đổi theo từng 
chính sách chăm sóc tiền sản của mỗi quốc gia(3,6). 
Tại Việt Nam, hiện nay có rất ít đơn vị tiền 
sản ứng dụng giá trị của từng dấu chỉ điểm bất 
thường NST trên siêu âm, và việc sử dụng tỉ số 
khả dĩ (Likelihood: LR) của từng dấu chỉ điểm 
bất thường NST trên siêu âm lại không đồng bộ 
và không nhất quán. Điều này gây ảnh hưởng 
không nhỏ lên kết quả tiên đoán nguy cơ bất 
thường NST và đôi khi gây hoang mang cho thai 
phụ và gia đình. Bên canh đó, hiện tại vẫn chưa 
có nghiên cứu hay báo cáo nào về giá trị của việc 
đánh giá các dấu chỉ điểm bất thường NST trên 
siêu âm trong chẩn đoán sớm các DTBS, đặc biệt 
là trong hội chứng Down. Chính vì thế, chúng 
tôi thực hiện nghiên cứu này với câu hỏi nghiên 
cứu “tỷ lệ thai bị bất thường NST ở các thai kỳ có 
dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm là bao 
nhiêu?” nhằm khẳng định vai trò của siêu âm 
đánh giá dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu 
âm ở các thai phụ có nguy cơ bất thường NST 
trung bình. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu chính 
Xác định tỷ lệ thai bị bất thường NST ở các 
thai kỳ có dấu chỉ điểm bất thường NST trên 
siêu âm. 
Mục tiêu phụ 
Xác định tỷ lệ thai bị kết cuc không tốt: 
sinh con DTBS, chấm dứt thai kỳ (CDTK) vì 
DTBS, bất thường hình thái học, sẩy thai, thai 
lưu ở các thai kỳ có dấu chỉ điểm bất thường 
NST trên siêu âm. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Báo cáo loạt ca. 
Dân số mục tiêu 
Thai phụ ở tuổi thai 16 – 20 tuần có dấu chỉ 
điểm bất thường NST trên siêu âm. 
Dân số nghiên cứu 
Tất cả những thai phụ ở tuổi thai 16 – 20 tuần 
đến khám và theo dõi tại phòng di truyền có dấu 
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm tại Bệnh 
Viện Hùng Vương. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 104
Dân số chọn mẫu 
Tất cả những thai phụ ở tuổi thai 16 – 20 tuần 
đến khám và theo dõi tại phòng di truyền có dấu 
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm tại Bệnh 
Viện Hùng Vương từ tháng 07/2015 - 11/2015. 
Tiêu chuẩn nhận bệnh 
Thai phụ ở tuổi thai 16 – 20 tuần đến khám 
thai tại bệnh viện Hùng Vương từ tháng 1 năm 
2015 đến tháng 12 năm 2015 được siêu âm đánh 
giá dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm từ 
tuần 16 – 20 của thai kỳ và có bất kỳ dấu chỉ 
điểm bất thường NST trên siêu âm nào. 
Những dấu chỉ điểm bất thường trên siêu 
âm gồm có(12): 
1. Nốt phản âm sáng ở tim. 
2. Tăng phản âm ở ruột (độ I- III). 
3. Nếp da gáy dày (độ dày nếp da gáy 
≥ 6mm). 
4. Dấu dãn não thất (đường kính não thất 
≥ 10mm). 
5. Nang đám rối mạch mạc. 
6. Dãn bể thận (đường kính bể thận ≥ 10mm, 
một bên hoặc hai bên). 
7. Một động mạch rốn. 
8. Xương cánh tay ngắn (chiều dài xương 
cánh tay <BPV 2,5). 
9. Xương đùi ngắn (chiều dài xương đùi 
<BPV 2,5). 
10. Thiểu sản – bất sản xương mũi (chiều dài 
xương mũi <BPV 2,5). 
11. Thiểu sản đốt giữa ngón tay thứ 5. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Thai phụ mang song thai. 
Thai phụ mắc bệnh tâm thần. 
Thai phụ không nghe và hiểu tiếng Việt. 
Thai phụ không đồng ý tham gia 
nghiên cứu. 
Thai phụ không trả lời đầy đủ câu hỏi trong 
bảng phỏng vấn. 
Không ghi nhận được kết cục thai kỳ do mất 
dấu trong quá trình theo dõi (thai phụ không 
đến khám thai theo hẹn, không sinh tại bệnh 
viện Hùng Vương và không liên lạc được). 
Phương pháp chọn mẫu 
Chọn mẫu toàn bộ. 
Cách tiến hành và thu thập số liệu 
Bước 1: Sàng lọc đối tượng 
Những thai phụ đến khám thai tại bệnh viện 
Hùng Vương, các thai phụ có kết quả sàng lọc 
sinh hóa sau đây sẽ có chỉ định siêu âm tìm dấu 
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm: 
Kết quả Combined test nguy cơ trung bình là 
từ 1:250 đến 1:500. 
Kết quả Tripple test nguy cơ trung bình là từ 
1:250 đến 1:500. 
Kết quả Double test nguy cơ trung bình là từ 
1:250 đến 1:500. 
Nhóm thai phụ này sẽ được chỉ định siêu âm 
tại Phòng siêu âm hội chẩn (do bác sĩ có kinh 
nghiệm siêu âm trên 5 năm thực hiện) tìm dấu 
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm trong thời 
gian từ tuổi thai 16 – 20 tuần. 
Bước 2: Thu nhận đối tượng 
Các thai phụ có kết quả siêu âm có dấu chỉ 
điểm bất thường NST sẽ được giải thích rõ 
mục tiêu nghiên cứu và tiến hành phỏng vấn. 
Nếu thai phụ không tham gia nghiên cứu thì 
vẫn được khám thai và theo dõi như những 
thai phụ khác. 
Bước 3: Thu thập số liệu 
Thu thập số liệu được tiến hành thông qua 
bảng thu thập số liệu qua 2 phần: 
Phần 1: phỏng vấn trực tiếp theo bảng câu 
hỏi và sau đó tiến hành tư vấn về tình trạng thai 
nhi cho thai phụ. 
Phần 2: ghi nhận các thông tin liên quan trên 
kết quả siêu âm đánh giá dấu chỉ điểm bất 
thường NST. 
Bước 4: Theo dõi kết cục thai kỳ 
Sau khi thai phụ có kết quả dấu chỉ điểm 
bất thường NST trên siêu âm sẽ được tính lại 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 105
nguy cơ hiệu chỉnh. Việc tính lại nguy cơ hiệu 
chỉnh dựa vào công thức sau: 
Nguy cơ hiệu chỉnh = nguy cơ căn bản * Tỉ số 
khả dĩ của dấu chỉ điểm bất thường NST trên 
siêu âm TCN 1 * Tỉ số khả dĩ của dấu chỉ điểm 
NST trên siêu âm TCN 2. 
Tỉ số khả dĩ cùa các dấu hiệu bất thường NST 
dựa trên bảng sau: 
Bảng 1. Bảng tỉ số khả dĩ của các dấu chỉ điểm bất 
thường NST trên siêu âm(12) 
Dấu chỉ điểm bất thường NST Tỉ số khả dĩ (LR) 
Nốt phản âm sáng ở tim 2 
Dãn não thất 3,8 
Nếp da gáy dày 17 
Ruột tăng sáng 6 
Nang đám rối mạch mạc 7 
Dãn nhẹ bể thận 1,9 
Xương đùi ngắn 2,7 
Xương cánh tay ngắn 7,5 
Một động mạch rốn 1 
Bất sản – thiểu sản xương mũi 51 
Thiểu sản đốt giữa ngón tay thứ 5 5,6 
Nếu sau khi tính nguy cơ hiệu chỉnh làm 
thay đổi nguy cơ lệch bội từ trung bình hoặc 
nguy cơ sang nguy cơ cao (>1:250), thai phụ sẽ 
được tư vấn chọc ối. Nếu thai phụ đồng ý chọc 
ối, thông tin về kết quả chọc ối và kết cục thai kỳ 
sau đó sẽ được ghi nhận. 
Các thai phụ có nguy cơ với bất thường NST 
không thay đổi hoặc không đồng ý chọc ối, vẫn 
được theo dõi cho đến lúc sanh và ghi nhận kết 
cục thai kỳ. 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Trong thời gian tiến hành nghiên cứu từ 
ngày 01 tháng 07 năm 2015 đến ngày 30 tháng 11 
năm 2015 tai bệnh viện Hùng Vương, có 84 thai 
phụ đạt đủ tiêu chuẩn nhận vào nghiên cứu và 
ghi nhận được các kết quả như sau. 
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu 
Phần lớn thai phụ tham gia nghiên cứu 
thuộc nhóm dưới 35 tuổi. Tuy thai phụ thuộc 
nhóm tuổi này ít có nguy cơ sinh bé dị tật Down, 
nhưng nguy cơ DTBS còn phụ thuộc vào nhiều 
yếu tố khác như xét nghiệm hóa sinh sàng lọc, 
siêu âm, tiền căn thai phụ Độ tuổi 30 cũng là 
độ tuổi sinh sản và dễ có thai nhất của người 
phụ nữ, nên cũng rất hợp lý để đề ra vấn đề tầm 
soát DTBS cho tất cả các thai phụ nhằm cho ra 
đời một bé khỏe mạnh (Bảng 1). 
Bảng 2. Các đặc điểm của dân số nghiên cứu 
Đặc điểm Tổng (N=84) Tỷ lệ (%) 
Nhóm tuổi 
<35 tuổi 59 70,2 
≥ 35 tuổi 25 29,8 
Nghề nghiệp 
Công nhân 17 20,2 
Nhân viên viên chức 22 26,2 
Nội trợ 27 32,1 
Khác 18 21,5 
Địa chỉ 
Tỉnh khác 50 59,5 
TP HCM 34 40,5 
Bảng 3. Đặc điểm tiền căn của dân số nghiên cứu 
Đặc điểm Tổng (N=84) Tỷ lệ (%) 
Số con hiện tại 
Chưa con 32 38,1 
1 con 43 51,2 
≥ 2 con 9 10,7 
Tiền căn 
sẩy thai, thai lưu 
Không 72 85,7 
1 lần 10 11,9 
≥ 2 lần 2 2,4 
Tiền căn sinh con 
DTBS 
Không 82 97,6 
1 lần 2 2,4 
≥ 2 lần 0 0 
Tiền căn 
đái tháo đường 
Không 81 96,4 
Có 3 3,6 
Tiền căn gia đình 
trực hệ bị DTBS 
Không 80 95,2 
Có 4 4,8 
Đa số đối tượng trong nghiên cứu không có 
tiền căn sẩy thai, thai lưu (chiếm 85,7%). Theo 
kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ thai phụ 
có tiền căn sinh con DTBS và tiền căn gia đình 
trực hệ chiếm tỷ lệ thấp, với tỷ lệ lần lượt là 2,4% 
và 4,8%. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu 
của tác giả Lê Thị Mỹ Trinh, của tác giả Nguyễn 
Vân Yến Nhi không có trường hợp nào có tiến 
căn sinh con DTBS(7,8), có lẽ do tiêu chí chọn mẫu 
khác nhau (Bảng 2). 
Đặc điểm siêu âm tìm dấu chỉ điểm bất 
thường NST 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự 
của Nyberg và cs ở sự xuất hiện nốt phản âm 
sáng ở tim, xem đây là dấu chỉ điểm bất thường 
NST thường gặp thứ hai. Nghiên cứu của chúng 
tôi cho thấy nốt phản âm sáng ở tim có tỉ lệ là 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 106
34,5%, cũng tương đồng với nhận xét của tác giả 
Nyberg và cs(9). 
Bảng 4. Tỷ lệ các dấu chỉ điểm bất thường NST trên 
siêu âm 
Dấu chỉ điểm bất thường NST Tổng 
(N=84) 
Tỷ lệ 
%) 
Nốt phản âm sáng ở tim 29 34,5 
Tăng phản âm ở ruột 10 11,9 
Nếp da gáy dày 2 2,4 
Dãn não thất 6 7,1 
Nang đám rối mạch mạc 39 46,4 
Dãn bể thận 2 2,4 
Một động mạch rốn 3 3,6 
Xương đùi ngắn 1 1,2 
Xương cánh tay ngắn 1 1,2 
Thiểu sản – bất sản xương mũi 10 11,9 
Thiểu sản đốt giữa ngón tay thứ 5 7 8,3 
Đánh giá trên ý nghĩa của sự xuất hiện dấu 
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm và nguy 
cơ bị hội chứng Down như là một kết cục không 
mong muốn của thai kỳ, chúng tôi nhận thấy 2 
dấu hiệu sau đây là “dấu bất sản xương mũi” và 
“dấu dãn não thất” làm tăng nguy cơ của DTBS 
này lên lần lượt là 9,8 và 9,74 lần (OR= 9,8 (1,38-
69,71) và OR= 9,74 (1,04-91,50), p <0,05). 
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, đa số 
trường hợp chỉ có 1 dấu chỉ điểm bất thường 
NST trên siêu âm (chiếm 71,4%). Kết quả của 
chúng tôi tương đương với nghiên cứu của tác 
giả Bromley và cs thực hiện trên 1272 trường 
hợp siêu âm có dấu chỉ điểm bất thường NST 
trên siêu âm cho thấy 95% trường hợp có 1 dấu 
chỉ điểm bất thường NST, 4% trường hợp có 2 
dấu chỉ điểm bất thường NST, và chỉ có 1% có 
nhiều hơn 3 dấu chỉ điểm bất thường NST trên 
siêu âm(5). 
Kết cục thai kỳ 
Sau khi hiệu chỉnh nguy cơ bất thường NST, 
có 69 thai phụ trở thành nhóm nguy cơ cao và 
được chỉ định chọc ối tìm bất thường NST. Kết 
quả chọc ối ghi nhận 6 bất thường NST (gồm 5 
trisomy 21 và 1 trisomy 18). Có 1 thai phụ không 
đồng ý chấm dứt thai kỳ (CDTK), và phát hiện 
vào chuyển dạ sinh non tại tuần thứ 34 của tuổi 
thai. Còn lại 63 thai phụ không có bất thường 
NST thì có 2 thai phụ có bất thường hình thái học 
kèm theo gồm 1 trường hợp bất thường về tim 
(tim một thất) và 1 trường hợp thai bị não úng 
thủy, cả 2 trường hợp này cũng CDTK. 61 thai 
phụ còn lại đều sinh con bình thường. Không có 
thai phụ nào bị thai lưu hay sẩy thai. 
Bảng 5. Kết cục thai kỳ chung cho các trường hợp có 
dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm 
Đặc điểm Tổng (N=84) Tỷ lệ (%) 
Tuổi thai 
<28 tuần 7 8,3 
28 – 36 tuần 6 ngày 4 4,8 
37 tuần – 40 tuần 64 76,2 
>40 tuần 9 10,7 
Kết cục 
thai kỳ 
Sinh con bình thường 76 90,5 
Sinh con DTBS 1 1,2 
CDTK vì DTBS 7 8,3 
Sẩy thai hay thai lưu 0 0 
Cân nặng lúc sinh (gram) 2847,1 ± 857,0 
Đối với 15 trường hợp không có chọc ối thì 
tất cả các thai phụ đều được theo dõi và sinh con 
bình thường, không có DTBS. 
Với 76 trường hợp sinh con bình thường, 
chiếm tỷ lệ 90,5% (Bảng 4), chúng tôi cho rằng (1) 
việc thực hiện xét nghiệm xâm lấn như chọc ối 
không quá nguy hiểm và không là yếu tố nguy 
cơ sinh non (tỷ lệ sinh non trong nhóm đối 
tượng này thấp chỉ chiếm khoảng 4,8%), và (2) 
trong công tác tư vấn tiền sản, cần nhấn mạnh 
việc siêu âm tìm dấu chỉ điểm bất thường NST 
giúp gợi ý nguy cơ thai kỳ để đưa ra chiến lược 
theo dõi phù hợp. 
Theo nghiên cứu của tác giả Sylvie trên 19 
thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường NST và 
19 thai phụ không có dấu chỉ điểm bất thường 
NST đã chỉ ra có sự khác nhau có ý nghĩa 
thống kê giữa chỉ số trầm cảm giữa hai nhóm 
trong khi mang thai và ảnh hưởng không tốt 
đến sự gắn bó giữa thai phụ và trẻ sau sinh ở 
nhóm thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường 
NST(13). Do đó, khi tiếp cận một thai phụ có 
dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm, 
nhiệm vụ hàng đầu của bác sĩ sản khoa là cần 
tư vấn cho các thai phụ rõ đây chỉ là dấu hiệu 
gợi ý có bất thường NST, không có nghĩa là họ 
sẽ sinh ra một bé sơ sinh có DTBS. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 107
Cân nặng trung bình của tất cả thai kỳ là 
2847,1 ± 857,0 gram. Mức cân nặng trung bình 
lúc sinh trong nghiên cứu của chúng tôi thấp 
hơn trong nghiên cứu của tác giả Sylvie là 
3483,95 ±376,3 gram(13). Sự khác biệt này có thể lý 
giải là do nghiên cứu của tác giả Sylvie thực hiện 
tại Brazil, các trẻ sơ sinh có tầm vóc cao lớn hơn 
so với trẻ sơ sinh tại Việt Nam. 
KẾT LUẬN 
Trong thời gian 6 tháng thực hiện nghiên 
cứu ở nhóm thai phụ có nguy cơ bất thường NST 
trung bình và có dấu chỉ điểm bất thường NST 
trên siêu âm, chúng tôi ghi nhận được: 
Tỷ lệ bất thường NST: 8,7%, trong đó hội 
chứng Down là dạng bất thường NST thường 
gặp nhất với tỷ lệ 7,3%. 
Tỷ lệ có kết cuộc thai kỳ không tốt (bao gồm 
sinh con DTBS, CDTK vì DTBS, bất thường hình 
thái học, sẩy thai, thai lưu) là 9,5%. 
Từ kết quả đạt được, chúng tôi cho rằng 
nên áp dụng thường quy việc siêu âm tìm dấu 
chỉ điểm bất thường NST, đặc biệt đối với các 
thai phụ có nguy cơ bất thường NST ở mức 
trung bình, vì việc siêu âm này không chỉ giúp 
phát hiện sớm các bất thường NST mà còn 
giúp tiên đoán về khả năng của một thai kỳ 
không khỏe mạnh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Aagaard-Tillery KM, Malone F, Nyberg DA, et al (2009), “Role 
of second-trimester genetic sonography after Down syndrome 
screening”, Obstet Gynecol., 114 (6), pp.1189–1196 
2. Agathokleous M, Chaveeva P, Poon LCY, Kosinski P, Nicolaid
es KH (2013), “Meta-analysis of second-trimester markers for 
trisomy 21”, Ultrasound Obstet Gynecol., 41, pp. 247–261 
3. Bethune M (2007), “Management options for echogenic 
intracardiac focus and choroid plexus cysts: a review including 
Australian Association of Obstetrical and Gynaecological 
Ultrasonologists consensus statement”. Australas Radiol., 51(4), 
pp. 324-329 
4. Bộ môn phụ sản Đại học Y Dược TPHCM. “Trẻ dị tật bẩm 
sinh”. Sản phụ khoa tập 2, NXB Y học, TPHCM, tr. 642-650. 
5. Bromley B, Lieberman E, Shipp TD, Benacerraf BR. (2002), “The 
genetic sonogram: a method of risk assessment for Down 
syndrome in the second trimester”, J Ultrasound Med.;21, pp. 
1087–1096 
6. Chitayat, D., S. Langlois, and R.D. Wilson (2011), “Prenatal 
screening for fetal aneuploidy in singleton pregnancies”, J 
Obstet Gynaecol Can., 33(7), pp. 736-50 
7. Lê Thị Mỹ Trinh (2014), “Kết cục thai kỳ có NT trên bách phân vị 
95 tại bệnh viện Hùng Vương”, Luận văn tốt nghiệp nội trú, ĐH 
Y dược TP. HCM, tr.16-18. 
8. Nguyễn Vân Yến Nhi (2015), “Tỷ lệ từ chối sinh thiết gai 
nhau/chọc ối ở các sản phụ có kết quả tầm soát trước sanh nguy cơ 
cao”, Luận văn tốt nghiệp nội trú, ĐH Y dược TP. HCM, tr. 69 
9. Nyberg DA, Souter VL, El-Bastawissi A, Young S, Luthhardt F, 
Luthy DA (2001), “Isolated sonographic markers for detection 
of fetal Down syndrome in the second trimester of pregnancy”, 
J Ultrasound Med., 20, pp. 1053–1063 
10. Raniga S, Desai PD, Parikh H. (2006), “Ultrasonographic soft 
markers of aneuploidy in second trimester: are we lost?”, 
Medscape Gen Med., 8, pp. 9 
11. SOGC clinical practice guideline (2007), “Prenatal screening for 
fetal aneuploidy”, J Obstet Gynecol Can., 29(2), pp. 146-161 
12. SOGC clinical practice guideline (2013), “Fetal Soft Markers in 
Obstetric Ultrasound”, 162, pp. 592 – 608 
13. Viaux-Savelon S, Dommergues M, Rosenblum O, Bodeau N, 
Aidane E, Philippon O, Mazet P, Vibert-Guigue C, Vauthier-
Brouzes D, Feldman R, Cohen D (2012), “Prenatal Ultrasound 
Screening: False positive soft markers may alter maternal 
representations and mother-infant interaction”, 7(1), e30935 
Ngày nhận bài báo: 18/11/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/12/2016 
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017