Tỉ lệ suy dinh dưỡng trước mổ ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Bình Dân Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017

Tài liệu Tỉ lệ suy dinh dưỡng trước mổ ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Bình Dân Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 122 TỈ LỆ SUY DINH DƯỠNG TRƯỚC MỔ Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2017 Nguyễn Hà Thanh Uyên*, Đoàn Duy Tân**, Phạm Thị Lan Anh*** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Ở Việt Nam ung thư đại trực tràng đứng thứ 5 trong các loại ung thư thường gặp, trong đó 30 – 60% bệnh nhân được ghi nhận là suy dinh dưỡng. Suy dinh dưỡng trước mổ có thể tác động đến quyết định phương pháp điều trị, ảnh hưởng đến hệ miễn dịch của cơ thể gây tăng nguy cơ biến chứng sau mổ như nhiễm trùng hoặc xì rò vết mổ, giảm đáp ứng và tăng chi phí điều trị, kéo dài thời gian nằm viện, Do đó, việc tầm soát và đánh giá tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng trong quá trình điều trị là cần thiết để có thể đưa ra can thiệp dinh dưỡng phù hợp và kịp thời, từ đó cải thiện tổng trạng và góp phần nâng cao chất lượ...

pdf8 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 139 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỉ lệ suy dinh dưỡng trước mổ ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Bình Dân Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 122 TỈ LỆ SUY DINH DƯỠNG TRƯỚC MỔ Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2017 Nguyễn Hà Thanh Uyên*, Đoàn Duy Tân**, Phạm Thị Lan Anh*** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Ở Việt Nam ung thư đại trực tràng đứng thứ 5 trong các loại ung thư thường gặp, trong đó 30 – 60% bệnh nhân được ghi nhận là suy dinh dưỡng. Suy dinh dưỡng trước mổ có thể tác động đến quyết định phương pháp điều trị, ảnh hưởng đến hệ miễn dịch của cơ thể gây tăng nguy cơ biến chứng sau mổ như nhiễm trùng hoặc xì rò vết mổ, giảm đáp ứng và tăng chi phí điều trị, kéo dài thời gian nằm viện, Do đó, việc tầm soát và đánh giá tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng trong quá trình điều trị là cần thiết để có thể đưa ra can thiệp dinh dưỡng phù hợp và kịp thời, từ đó cải thiện tổng trạng và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ suy dinh dưỡng trước mổ và các yếu tố liên quan tình trạng suy dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư đại trực tràng tại bệnh viện Bình Dân năm 2017. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, có phân tích được tiến hành trên 94 bệnh nhân ung thư đại trực tràng tại bệnh viện Bình Dân từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2017. Thông tin được thu thập bằng bộ câu hỏi soạn sẵn, qua phỏng vấn và khám trực tiếp mặt đối mặt và tra cứu hồ sơ. Kết quả: Tỉ lệ suy dinh dưỡng trước mổ theo SGA, BMI và albumin lần lượt là 43,6%, 20,2% và 18,9%. Tỉ lệ giảm cân trong vòng 6 tháng gần đây là 83% trong đó có 28,2% sụt hơn 10% cân nặng. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa suy dinh dưỡng theo SGA với trình độ học vấn, sự giảm nồng độ hemoglobin và chỉ số albumin huyết thanh. Kết luận: Đánh giá dinh dưỡng toàn diện cho bệnh nhân ung thư đại trực tràng trước khi phẫu thuật nên được thực hiện để can thiệp dinh dưỡng kịp thời, thích hợp và hiệu quả hơn. Từ khoá: suy dinh dưỡng, ung thư đại trực tràng, SGA. ABSTRACT PREOPERATIVE MALNUTRITION RATE AND ASSOCIATED FACTORS IN COLORECTAL CANCER PATIENTS AT BINH DAN HOSPITAL IN HO CHI MINH CITY IN 2017 Nguyen Ha Thanh Uyen, Doan Duy Tan, Pham Thi Lan Anh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1 - 2018: 122 - 129 Background: Colorectal cancer is the fifth most common cancer diagnosis in Viet Nam, with a malnutrition rate of around 30 – 60% recorded in patients. Preoperative malnutrition could effect the treatment course, lead to a compromised immune system which results in higher risk of post-surgical complications like infections or fistulas, reduced response to treatment, increased cost and prolonged hospital stay Therefore, nutritional assessment and screening in patients with colorectal cancer during their hospital course is needed to make timely and suitable nutritional intervention proposal in order to improve patients’ quality of life. * Khoa YTCC, Đại học Y Dược TP.HCM, ** Bộ môn Sức khoẻ Cộng đồng, Khoa YTCC, ĐH Y Dược TP.HCM ***Bộ môn Dinh dưỡng và Thực phẩm, Khoa YTCC, Đại học Y Dược TP.HCM Tác giả liên lạc: Nguyễn Hà Thanh Uyên ĐT: 01223173514 Email: nhthanhuyen.253@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 123 Objectives: To determine the prevalence of malnutrition in preoperative colorectal cancer patients and factors associated with their nutritional status at Binh Dan Hospital in 2017. Materials and methods: A descriptive cross-sectional study was conducted among 94 patients at Binh Dan Hospital in Ho Chi Minh city from 15/5/2017 to 31/7/2017. The information was collected through a questionnaire by face-to-face interview and examination and chart review. Results: Preoperative malnutrition prevalence assessed by SGA, BMI and serum albumin was 43.6%, 20.2% and 18.9% respectively. Approximately 83% of the patients presented with involuntary weight loss, and 28.2% presented with >10% of weight loss during the past 6 months. The results also identified a relationship between malnutritional status by SGA with educational level, low hemoglobin and hypoalbuminemia (p<0.05). Conclusion: Comprehensive nutritional assessment in preoperative colorectal cancer patients should be carried out to provide more appropriate, timely and effective intervention. Keywords: malnutrition, colorectal cancer, SGA. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư là một trong những nguyên nhân gây tử vong thường gặp nhất trên thế giới và dinh dưỡng trong điều trị ung thư là vấn đề đang nhận được nhiều sự quan tâm từ cộng đồng. Ung thư đường tiêu hóa (UTĐTH) đã được chứng minh có tỉ lệ suy dinh dưỡng (SDD) cao hơn so với các vị trí ung thư khác, trong đó 30 – 60% bệnh nhân ung thư đại trực tràng (UTĐTT) được ghi nhận là SDD(5). Tình trạng dinh dưỡng (TTDD) của bệnh nhân ung thư chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như vị trí và giai đoạn bệnh, sự nôn ói, giảm nhập năng lượng hay giảm hấp thu do điều trị, Suy dinh dưỡng trước mổ có thể tác động đến quyết định phương pháp điều trị, ảnh hưởng đến hệ miễn dịch của cơ thể gây tăng nguy cơ biến chứng sau mổ như nhiễm trùng hoặc xì rò vết mổ (5 – 52%), giảm đáp ứng và tăng chi phí điều trị (hơn 25%), kéo dài thời gian nằm viện (8 - 50 ngày), từ đó làm suy giảm chất lượng cuộc sống(7,9,10). Hiện nay chưa có công cụ vàng để đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư, tuy nhiên các công cụ đánh giá TTDD như đánh giá dinh dưỡng tối thiểu (MNA), đánh giá tổng thể chủ quan (SGA hay PG-SGA được hiệu chỉnh phù hợp cho đối tượng bệnh nhân cụ thể) và các xét nghiệm cận lâm sàng vẫn đang được áp dụng rộng rãi. Trong đó, bảng đánh giá toàn diện – chủ quan SGA đã được công nhận và sử dụng rộng rãi, và cũng đã cho thấy hiệu quả trong việc đánh giá TTDD bệnh nhân trước mổ. Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đánh giá tình trạng dinh dưỡng trước mổ ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng bằng phương pháp SGA đã ghi nhận tỉ lệ suy dinh dưỡng chiếm 36 – 52% và tại Việt Nam tỉ lệ này chiếm 33,9 – 55,7%(1,9,14,16). Theo Bộ Y tế, số mới mắc ung thư ở Việt Nam là 125,000 năm 2012 và lên đến 190,000 năm 2020, việc phát hiện và điều trị bệnh thường ở giai đoạn muộn dẫn đến gia tăng chi phí và hạn chế trong cải thiện chất luợng cuộc sống bệnh nhân(3). Bệnh viện Bình Dân là một bệnh viện chuyên khoa Ngoại, đồng thời cũng được trang bị thích hợp để điều trị hóa trị cho các bệnh nhân ung thư, năm 2016 UTĐTT nằm trong nhóm những chẩn đoán thường gặp nhất tại khoa Tổng quát và khoa Ung bướu. Tại bệnh viện chưa có nhiều nghiên cứu quan tâm đến việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng cho đối tượng này, vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu như sau: Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỉ lệ suy dinh dưỡng trước mổ ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng và mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với các đặc Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 124 điểm dân số xã hội, đặc điểm bệnh lý và một số xét nghiệm cận lâm sàng. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu Cắt ngang mô tả Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân ung thư đại trực tràng có chỉ định mổ tại khoa Tổng quát 1 và Tổng quát 4, Bệnh viện Bình Dân trong thời gian tiến hành nghiên cứu. Cỡ mẫu Trong đó: α: Xác suất sai lầm loại 1, chọn α = 0,05 Z: Trị số từ phân phối chuẩn, Z1-α/2 = 1,96 p: Trị số mong muốn suy dinh dưỡng, là 41,2% (dựa trên tỉ lệ SDD theo phương pháp SGA từ nghiên cứu của Burden và cộng sự tiến hành vào năm 2010(4). Chọn p = 0,412 d: Độ chính xác (sai số cho phép), chọn d = 0,1 Thay vào công thức ta có cỡ mẫu n = 93 bệnh nhân Kỹ thuật chọn mẫu Chọn mẫu thuận tiện các bệnh nhân được chẩn đoán ung thư đại tràng hoặc trực tràng và có chỉ định phẫu thuật tại khoa Tổng quát 1 và Tổng quát 4, Bệnh viện Bình Dân. Tiêu chí chọn vào Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư đại tràng hoặc trực tràng và có chỉ định phẫu thuật, đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chí loại ra Bệnh nhân đang mang thai. Bệnh nhân đang mắc kèm các bệnh lý liên quan đến phẫu thuật khác. Bệnh nhân có bệnh lý cấp tính hoặc nhiễm trùng đi kèm. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Thời gian: 15/5/2017 đến 30/7/2017 Địa điểm: Khoa Tổng quát 1 và Tổng quát 4, Bệnh viện Bình Dân Phương pháp thu thập số liệu và đánh giá Đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo BMI theo Tổ chức Y tế Thế giới Không SDD: khi BMI ≥ 18,5 kg/m2 SDD mức độ nhẹ: khi BMI từ 17 đến 18,49kg/m2 SDD mức độ vừa: khi BMI từ 16 đến 16,99kg/m2 SDD nặng: khi BMI < 16 kg/m2 Đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo phương pháp SGA Đánh giá phân loại SGA của tác giả Detsky Không SDD: khi SGA – A SDD nhẹ đến vừa hay nguy cơ SDD: SGA–B SDD nặng: khi SGA – C Đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo albumin huyết thanh Bình thường: khi albumin huyết thanh trong khoảng 3,5 – 5,2 g/dL SDD nhẹ - trung bình: khi albumin huyết thanh từ 2,8 đến dưới 3,5g/dL SDD nặng: khi albumin huyết thanh < 2,8g/dL Xét nghiệm cận lâm sàng Nồng độ Hemoglobin Không giảm: khi chỉ số Hemoglobin ≥ 12,2 g/dL Giảm: khi chỉ số Hemoglobin < 12,2 g/dL Số lượng tế bào lympho/mm3 Không giảm: khi số lượng tế bào lympho trong máu ngoại vi > 1500 /mm3 Giảm nhẹ: khi số lượng tế bào lympho trong máu ngoại vi trong khoảng từ 900 đến 1500/mm3 Giảm nặng: khi số lượng tế bào lympho trong máu ngoại vi < 900/mm3 Công cụ thu thập dữ kiện Quá trình tiến hành thu thập dữ liệu Giải thích mục đích nghiên cứu cho đối tượng. Đưa phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu của đối tượng nghiên cứu trước khi tiến hành phỏng vấn. Ghi phần hành chính, phỏng vấn bộ câu hỏi trực tiếp. Thăm khám và đánh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 125 giá SGA, đo các chỉ số nhân trắc. Ghi nhận hồ sơ bệnh án: chẩn đoán bệnh, các kết quả xét nghiệm (số lượng lympho bào, hemoglobin, albumin huyết thanh). Thu thập thông tin bằng phiếu điều tra Công cụ: bộ câu hỏi gồm 5 phần. Phương pháp: phỏng vấn trực tiếp và tra cứu hồ sơ bệnh án Chỉ số nhân trắc: đo chiều cao cân nặng Cân nặng: Cân sức khỏe Nhơn Hòa 120kg NHHS-120-K3. Chiều cao: Thước đo chiều cao, sử dụng thước dây với độ chính xác là 0,1 cm. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng bằng phương pháp SGA Công cụ: bảng đánh giá SGA của tác giả Detsky. Phương pháp: Phỏng vấn trực tiếp và thăm khám tại giường bệnh. Phân loại tình trạng dinh dưỡng theo 3 mức độ: SGA-A, SGA-B, SGA-C. Xử lý số liệu Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1. Phân tích bằng phần mềm Stata 12.0. Phân tích đơn biến: Phép kiểm chi bình phương để so sánh hai tỉ lệ; Kiểm định chính xác Fisher để so sánh hai tỉ lệ với bảng 2x2 có vọng trị < 5; ttest dùng cho biến số định lượng có phân phối chuẩn; kiểm định phi tham số nếu biến số định lượng có phân phối bị lệch. KẾT QUẢ Bảng 1: Đặc điểm dân số xã hội (n=94) Đặc tính Tần số Tỉ lệ % Giới Nam 65 69,2 Nữ 29 30,8 Nhóm tuổi < 60 tuổi 39 41,5 ≥ 60 tuổi 55 58,5 Trình độ học vấn Không biết chữ 6 6,4 Tiểu học 30 31,9 THCS 19 20,2 THPT trở lên 39 41,5 Bệnh nhân nam chiếm 70% mẫu nghiên cứu. Nhóm ≥ 60 tuổi chiếm 58,5%, trình độ học vấn tiểu học và THPT chiếm ưu thế với 31,9% và 41,5%. Bảng 2: Cân nặng 6 tháng trước và cân nặng khi nhập viện Cân nặng Trung bình ± độ lệch chuẩn Nhỏ nhất Lớn nhất Khi vào viện 55,7 ± 10,5 30 82 6 tháng trước 60,1 ± 10,0 35 90 p < 0,001* *Kiểm định t bắt cặp Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa cân nặng trước nhập viện 6 tháng và cân nặng khi nhập viện (p < 0,001). Bảng 3: Tình trạng giảm cân trong 6 tháng trước ngày vào viện Sụt cân Tần số Tỉ lệ % Không 16 17,0 Có 78 83,0 Dưới 5% 17 21,8 5 – 10% 39 50,0 Hơn 10% 22 28,2 Tình trạng giảm cân không chủ ý trong 6 tháng gần đây ở bệnh nhân UTĐTT rất thường gặp, chiếm 83% trong đó một nửa các đối tượng sụt khoảng 5 – 10% cân nặng 6 tháng trước đây. Tình trạng giảm hơn 10% cân nặng chiếm 28,2%. Bảng 4: Vị trí ung thư (n=94) Vị trí ung thư Tần số Tỉ lệ % Trực tràng 50 53,2 Đại tràng sigma 17 18,1 Đại tràng phải 6 6,4 Đại tràng trái 6 6,4 Đại tràng ngang 5 5,3 Đại tràng góc gan 4 4,2 Đại tràng góc lách 3 3,2 Chỗ nối đại tràng sigma – trực tràng 3 3,2 53,2% vị trí ung thư thường gặp là ở trực tràng, tiếp đến là đại tràng sigma (18,1%). Ít gặp ung thư nhất ở chỗ nối đại tràng sigma – trực tràng (3,2%). Bảng 5: Đánh giá chức năng cơ thể (n=94) Chỉ số Tần số Tỉ lệ % Số lượng lympho bào/mm 3 Không giảm (> 1500/mm 3 ) 75 79,8 Giảm nhẹ (900-1500/mm 3 ) 18 19,1 Giảm nặng (< 900/mm 3 ) 1 1,1 Hemoglobin Không giảm (≥ 12,2 g/dL) 63 67,0 Giảm (< 12,2 g/dL) 31 33,0 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 126 Tỉ lệ suy giảm chức năng cơ thể theo số lượng lympho bào và hemoglobin lần lượt là 20,2% và 33%. Bảng 6: Tình trạng dinh dưỡng theo albumin huyết thanh (n=53) Phân loại Nữ (n,%) Nam (n,%) Tổng (n,%) Bình thường 17 (89,4) 23 (67,6) 40 (75,5) SDD nhẹ - trung bình 1 (5,3) 9 (26,5) 10 (18,9) SDD nặng 1 (5,3) 2 (5,9) 3 (5,6) Dựa trên albumin huyết thanh để đánh giá tình trạng dinh dưỡng thì có 18,9% bệnh nhân SDD nhẹ - trung bình, 5,6% bệnh nhân SDD nặng. Tỉ lệ SDD theo albumin ở nam cao hơn nữ. Bảng 7: Tình trạng dinh dưỡng theo BMI (n=94) Phân loại Nữ Nam Tổng Tần số % Tần số % Tần số % Không SDD 23 79,4 52 80,0 75 79,8 SDD mức độ nhẹ 4 13,8 8 12,3 12 12,8 SDD mức độ vừa 1 3,4 1 1,5 2 2,1 SDD nặng 1 3,4 4 6,2 5 5,3 Qua đánh giá dinh dưỡng theo BMI thì có 20,2% các đối tượng được khảo sát bị SDD, trong đó SDD nặng chiếm 5,3%. Tỉ lệ SDD ở hai giới là tương đương nhau, trong đó tỉ lệ SDD nặng ở nam cao hơn so với nữ (6,2% so với 3,4%). Bảng 8: Tình trạng dinh dưỡng theo phương pháp SGA (n=94) SGA Tần số Tỉ lệ % SGA loại A (bình thường) 53 56,4 SGA loại B (vừa) 36 38,3 SGA loại C (nặng) 5 5,3 Kết quả đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo phương pháp SGA cho thấy 43,6% các đối tượng được khảo sát bị SDD, trong đó đối tượng SDD nặng chiếm 5,3%. Bảng 9: Mối liên quan giữa SDD theo phương pháp SGA và đặc điểm dân số xã hội của bệnh nhân UTĐTT (n=94) Đặc tính SGA p PR (KTC 95%) SDD n (%) Không SDD n (%) Trình độ học vấn 0,021* Không biết chữ - Tiểu học 22(61,1) 14(38,9) 1 THCS 6(31,6) 13(68,4) 0,7 (0,5–0,9) THPT trở lên13(33,3) 26(66,7) 0,5 (0,3–0,9) * Kiểm định chi bình phương có tính khuynh hướng Liên quan giữa các đặc điểm dân số xã hội và tình trạng dinh dưỡng theo phương pháp SGA chỉ có yếu tố trình độ học vấn liên quan có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Đối tượng có trình độ văn hóa càng cao càng biết quan tâm đến dinh dưỡng của bản thân. Bảng 10: Mối liên quan giữa SDD theo phương pháp SGA và đặc điểm dân số xã hội của bệnh nhân UTĐTT (n=53) Đặc tính Albumin p PR (KTC 95%) SDD n (%) Không SDD n (%) Trình độ học vấn 0,66** Không biết chữ - Tiểu học 7(31,8) 15(68,2) 1 THCS 3(21,4) 11(78,6) 0,7 (0,2–2,2) THPT trở lên 3(17,6) 34(82,4) 0,5 (0,2–1,8) **Kiểm định chính xác Fisher Khi đánh giá SDD bằng albumin huyết thanh, không có mối liên hệ có ý nghỉa thống kê giữa trình độ học vấn và trình trạng SDD (p > 0,05). Bảng 11: Mối liên quan giữa các xét nghiệm chức năng cơ thể và tình trạng dinh dưỡng theo phương pháp SGA (n=94) Đặc tính SGA p PR (KTC 95%) SDD n (%) Không SDD n (%) Số lượng lympho 0,882 Không giảm 33 (44,0) 42 (56,0) 1 Giảm 8 (42,1) 11 (57,9) 1,0 (0,5–1,7) Hemoglobin 0,001 Không giảm 20 (31,7) 43 (68,3) 1 Giảm 21 (67,7) 10 (32,3) 2,1 (1,4–3,3) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 127 Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng SDD theo phương pháp SGA và sự giảm nồng độ Hemoglobin. Tỉ lệ SDD ở nhóm có nồng độ Hemoglobin giảm là 67,7% cao gấp 2,1 lần so với nhóm có nồng độ Hemoglobin trong giới hạn bình thường với PR = 2,1 KTC 95% là 1,4 – 3,3 và p = 0,001. Bảng 12: Mối liên quan tình trạng dinh dưỡng theo phương pháp SGA và tình trạng dinh dưỡng theo albumin huyết thanh (n=53) Albumin huyết thanh SGA p PR (KTC 95%) Không SDD n (%) SDD nhẹ n (%) SDD nặng n (%) Bình thường 25(62,5) 13(32,5) 2 (5,0) 0,035* 1 SDD nhẹ - trung bình 5 (50,0) 4(40,0) 1 (10,0) 1,9 (1,3–2,6) SDD nặng 0 (0,0) 1 (33,3) 2 (66,7) 3,5 (1,7–6,9) * Kiểm định chi bình phương có tính khuynh hướng Có mối liên quan có tính khuynh hướng giữa chỉ số albumin huyết thanh và tình trạng dinh dưỡng theo phương pháp SGA. Tỉ lệ SDD theo SGA ở đối tượng có chỉ số albumin huyết thanh giảm nhẹ và nặng lần lượt là 50% và 100%; cao gấp 1,9 lần và 3,5 lần so với nhóm albumin bình thường (p < 0,05). BÀN LUẬN Tình trạng dinh dưỡng theo phương pháp SGA Dựa trên phương pháp SGA để đánh giá có 44,1% đối tượng nghiên cứu bị SDD, trong đó SDD nặng chiếm 5,3%. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh (33,9%) trên các đối tượng UTĐTT, tuy nhiên thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Lưu Ngân Tâm trên các bệnh nhân gan mật tụy (56,7%), của Dương Thị Phượng (2017) trên bệnh nhân phẫu thuật đường tiêu hóa (56,1%)(6,12, 16). So với một số nghiên cứu tương tự được thực hiện ở nước ngoài, tỉ lệ SDD theo SGA do chúng tôi ghi nhận được tương tự với kết quả nghiên cứu của Burden và cộng sự (41,2%); cao hơn so với kết quả của Barbosa (36,4%) và thấp hơn kết quả của Gupta (48%), tất cả đều được thực hiện trên đối tượng UTĐTT. Qua đó có thể thấy do tính chất của công cụ SGA là đánh giá chủ quan và do các nghiên cứu được thực hiện tại nhiều khu vực khác nhau với những nền kinh tế và thói quen ăn uống tập luyện khác nhau nên kết quả tỉ lệ SDD có thể khác nhau. Qua đánh giá, tỉ lệ các đối tượng cần được nâng cao tình trạng dinh dưỡng theo SGA cao hơn nhiều so với đánh giá theo BMI hay albumin huyết thanh. Albumin và một số các dấu ấn huyết thanh khác hiệu quả hơn để phát hiện tình trạng viêm và chỉ nên được sử dụng bổ sung sau khi thăm khám. Chỉ số BMI chủ yếu đánh giá cân nặng hơn là lượng mỡ thừa, tương quan giữa BMI và lượng mỡ trong cơ thể chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố (tuổi, giới, dân tộc và khối cơ) do vậy BMI không phản ánh được những thay đổi kết cấu cơ thể xảy ra do bệnh mạn tính như ung thư. Phương pháp SGA kết hợp cả bệnh sử lẫn thăm khám thực thể do đó SGA là một công cụ giúp phát hiện sớm hơn nguy cơ SDD cũng như tình trạng SDD của bệnh nhân. Điều này cũng giải thích vì sao tỉ lệ SDD theo phương pháp SGA trong nhiều nghiên cứu kể cả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với nhiều phương pháp khác(2,8). Tình trạng dinh dưỡng theo albumin huyết thanh Dựa trên albumin huyết thanh để đánh giá có 24,5% đối tượng nghiên cứu bị SDD, trong đó SDD nặng chiếm 5,6%. Tỉ lệ này tương đương với kết quả của Nguyễn Thùy Linh (23,8%) và cao hơn so với tỉ lệ nghiên cứu của Ngô Thị Linh (8,3%)(14, 15). Nghiên cứu của chúng tôi tuy thực hiện trên cùng một đối tượng bệnh nhân như nghiên cứu của Ngô Thị Linh nhưng kết quả không tương đồng có thể do sự khác biệt về cỡ mẫu cũng như nơi thực hiện. Tình trạng dinh dưỡng theo chỉ số khối cơ thể Dựa trên BMI để đánh giá có 20,2% đối tượng nghiên cứu bị SDD, trong đó SDD nặng chiếm 5,3%. Kết quả này tương đương với Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 128 nghiên cứu của Ngô Thị Linh (19,4%); thấp hơn so với kết quả của Nguyễn Thị Thanh đều thực hiện trên NB UTĐTT (26%), của Lưu Ngân Tâm và Nguyễn Thùy An trên đối tượng phẫu thuật gan mật tụy (25,8%)(12,14,16). Mối liên quan giữa tình trạng SDD theo phương pháp SGA và các đặc điểm khảo sát Tỉ lệ SDD ở các đối tượng có hemoglobin giảm cao gấp 2,1 lần nhóm hemoglobin không giảm. Nguyên nhân gây ra sự thiếu máu ở các đối tượng bệnh nhân UTĐTT có thể do thiếu hụt dinh dưỡng và các yếu tố vi lượng cần thiết cho quá trình tạo máu hoặc xuất huyết tiêu hóa đại thể và vi thể, đây những dấu hiệu thường thấy ở bệnh nhân UTĐTT(13). Chỉ số albumin càng thấp thì nguy cơ SDD của đối tượng càng cao. Kết quả này tương đương kết quả nghiên cứu của Ngô Thị Linh(14). Có thể nói trong dân số nghiên cứu này, chỉ số albumin huyết thanh và đánh giá dinh dưỡng theo SGA phản ánh các quá trình bệnh lý giống nhau(11). KẾT LUẬN Tỉ lệ SDD trước mổ ở bệnh nhân UTĐTT có chỉ định phẫu thuật tại Bệnh viện Bình Dân theo từng phương pháp: Phương pháp SGA: 43,6% (trong đó 38,3% nguy cơ SDD; 5,3% SDD nặng) BMI: 20,2% (14,9% SDD nhẹ - vừa; 5,3% SDD nặng). Albumin huyết thanh: 18,9%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng SDD theo phương pháp SGA với trình độ học vấn, sự giảm nồng độ hemoglobin và chỉ số albumin huyết thanh. KIẾN NGHỊ Kết quả nghiên cứu cho thấy tình trạng SDD ở bệnh nhân UTĐTT cao và cần tiến hành đánh giá dinh dưỡng toàn diện cho bệnh nhân trước khi nhập viện phẫu thuật để phát hiện và can thiệp kịp thời. Đối với những bệnh nhân tình trạng dinh dưỡng tốt theo SGA cần phối hợp kĩ thuật đánh giá khác để xác định tình trạng thừa cân – béo phì. Điều tra khẩu phần ăn cụ thể và sự thiếu hụt vi chất để đưa ra lời khuyên dinh dưỡng thích hợp cho bệnh nhân khi xuất viện. Đặc biệt là ở các bệnh nhân UTĐTT sau khi phẫu thuật lấy khối u phải duy trì được TTDD tốt và phù hợp cho hóa trị, xạ trị sau đó. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Barbosa LR, Lacerda-Filho A, Barbosa LC (2014). Immediate preoperative nutritional status of patients with colorectal cancer: a warning. Arquivos de Gastroenterologia, 51: 331-336. 2. Bharadwaj S, Shaiva G, Parul T, Tushar DG (2016). Malnutrition: laboratory markers vs nutritional assessment. Gastroenterology Report, 4 (4): 272-280. 3. Bộ Y tế (2015) Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế, Hà Nội. 4. Burden ST, Hill J, Shaffer JL, Todd C (2010). "Nutritional status of preoperative colorectal cancer patients". Journal of Human Nutrition and Dietetics, 23 (4), 402-407. 5. Burgos R, Sarto B, Elio I (2012). Prevalence of malnutrition and its etiological factors in hospitals. Nutricion Hospitalaria, 27 (2): 469-476. 6. Dương Thị Phượng, Đinh Đức Thiện, Bùi Thị Phương, Nguyễn Thùy Linh (2017). Tình trạng dinh dưỡng, biến chứng sau phẫu thuật trên bệnh nhân phẫu thuật đường tiêu hóa tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2016 và một số yếu tố liên quan. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 13 (4): 85-91. 7. Garth AK, Newsome CM, Simmance N, Crowe TC (2010). Nutritional status, nutrition practices and post-operative complications in patients with gastrointestinal cancer. Journal of Human Nutrition and Dietetics, 23 (4): 393-401. 8. Gupta D, Lammersfeld CA, Vashi PG (2005). Prognostic significance of Subjective Global Assessment (SGA) in advanced colorectal cancer. European Journal of Clinical Nutrition, 59 (1): 35-40. 9. Gupta D, Lis CG, Granick J (2006). Malnutrition was associated with poor quality of life in colorectal cancer: a retrospective analysis. Journal of Clinical Epidemiology, 59 (7): 704-709. 10. Leandro-Merhi VA, Braga de Aquino JL (2010). Nutritional status and length of hospital stay for surgical patients. Nutricion Hospitalaria, 25 (3): 468-9. 11. Longo DL, Kasper DL, Jameson JL, Fauci AS (2011). Malnutrition and Nutritional Assessment. In: Dan L. Longo (Ed). Harrison's Principles of Internal Medicine, Vol. 1, 18th edition, pp 1578-1592. The McGraw-Hill Companies, Inc., The United States of America. 12. Lưu Ngân Tâm, Nguyễn Thùy An (2011). Tình trạng dinh dưỡng trước mổ và biến chứng nhiễm trùng sau phẫu thuật gan mật tụy tại bệnh viện Chợ Rẫy. Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh, 15 (4): 387-396. 13. Majumdar SR, Fletcher RH, Evans AT (1999). How does colorectal cancer present? Symptoms, duration, and clues to location. The American Journal of Gastroenterology, 94 (10): 3039-3045. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 129 14. Ngô Thị Linh, Hà Nguyễn Kính Long, Nguyễn Xuân Hùng, Trịnh Thị Thanh Bình (2017). Tình trạng dinh dưỡng trước phẫu thuật của bệnh nhân ung thư đại trực tràng tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức và một số yếu tố liên quan. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 13 (4): 124- 130. 15. Nguyễn Thùy Linh, Dương Thị Phượng, Trần Thị Giáng Hương, Nguyễn Thúy Nam (2017). Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2016. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 13 (4): 8- 15. 16. Nguyễn Thị Thanh, Phạm Văn Phú, Trần Hiếu Học, Trần Thị Hằng, Nguyễn Ngọc Trâm Anh (2017). Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư đại trực tràng trước và sau mổ 7 ngày tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bạch Mai năm 2016 – 2017. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 13 (4): 99-105. Ngày nhận bài báo: 01/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 16/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfti_le_suy_dinh_duong_truoc_mo_o_benh_nhan_ung_thu_dai_truc_t.pdf
Tài liệu liên quan