Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019
 68
ĐỘT BIẾN GEN FILAGGRIN VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN 
TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM DA CƠ ĐỊA 
Đặng Thị Hồng Phượng*, Lê Thái Vân Thanh* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Viêm da cơ địa (VDCĐ) là bệnh viêm da mạn tính, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống. 
Sinh bệnh học làtương tác giữa yếu tố di truyền với yếu tố môi trường, trong đó đột biến gen filaggrin đóng vai 
trò thiết yếu trong chức năng hàng rào bảo vệ da. 
Mục tiêu: Xác định kiểu hình đột biến gen filaggrin và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân VDCĐ. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca trên bệnh nhân viêm da cơ 
địa đến khám tại bệnh viện Da Liễu TPHCM. Chẩn đoán VDCĐ dựa vào các đặc điểm được sửa lại từ tiêu 
chuẩn chẩn đoán Hanifin và Rajka cải tiến theo Hội Da Liễu Hoa Kỳ (2014). Xét nghiệm máu giải trình tự 
gen filaggrin. 
Kết quả: Có 16 bệnh nhân VDCĐ được chọn vào nghiên cứu. Tỉ lê đột biến gen filaggrin trên bệnh nhân 
VDCĐ là 31,25% (5/16). Các kiểu đột biến gen filaggrin: c.1217C>G, c.6950del8, c.7189C>T, c.7249C>T, 
c.7264G>T. Tỉ lệ đột biến gen filaggrin cao hơn có ý nghĩa thống kê ở bệnh nhân VDCĐ có lòng bàn tay nhiều 
đường kẻ (p = 0,036), da khô (p = 0,013) và sang thương bàn tay (p = 0,036). 
Kết luận: Đột biến gen filaggrin được tìm thấy trên bệnh nhân VDCĐ Việt Nam. Kiểu đột biến gen 
filaggrin khác với các nước Châu Âu cũng như các nước Châu Á khác. 
Từ khóa: viêm da cơ địa, đột biến gen filaggrin 
ABSTRACT 
FILAGGRIN GENE MUTATION AND ASSOCIATED FACTORS IN PATIENTS WITH ATOPIC DERMATITIS 
Dang Thi Hong Phuong, Le Thai Van Thanh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 23 - No 1- 2019: 68-74 
Background: Atopic dermatitis is chronic inflammatory skin disease which has an impact on the quality of 
life inpatients. This disease has been recognized to be caused by gene–environment interactions. 
Mutations in the filaggrin gene play a key role in skin barrier defects. 
Objectives: Determine the genetic model of filaggrin gene mutation and clinical features of atopic dermatitis. 
Method: We conducted a case series study of patients with atopic dermatitis at Ho Chi Minh City Hospital 
of Dermato-Venereology from November 2017 to June 2018. Diagnosis of atopic dermatitis was based on features 
revised Hanifin and Rajka criteria of the American Academy of Dermatology (2014). A sequencing of the FLG 
coding region in these patients was extracted from the patients’ peripheral blood. 
Results: 16 patients with atopic dermatitis were included. FLG mutations were present in 31.25% (5/16) of 
atopic dermatitis patients. Five FLG null mutations (c.1217C>G, c.6950del8, c.7189C>T, c.7249C>T, 
c.7264G>T) in atopic dermatitis were identified. FLG mutations were significantly associated with palmar 
hyperlinearity (p = 0.036), dry skin (p = 0.013) and lesions on hand (p = 0.036). 
Conclusion: The FLG null mutations in atopic dermatitis were found in Vietnamese patients. The FLG null 
mutations differed not only from that in the European population but also from other Asian subpopulations. 
Keywords: Atopic dermatitis, filaggrin mutation. 
*Bộ môn Da liễu, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Lê Thái Vân Thanh ĐT: 0903774310 Email:
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
 69
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Viêm da cơ địa (VDCĐ) là một bệnh viêm da 
mạn tính, gặp ở mọi lứa tuổi. Tỉ lệ hiện mắc 
bệnh VDCĐ khoảng 10–30% ở trẻ em và 2–10% 
ở người lớn(8). Viêm da cơ địa có thể gây ảnh 
hưởng tâm lý cũng như là gánh nặng lên gia 
đình và xã hội. Sinh lý bệnhlà sự tương tác giữa 
yếu tố di truyền với yếu tố môi trường(8). Trong 
đó, filaggrin (FLG) đóng vai trò thiết yếu trong 
sự biệt hóa thượng bì và chức năng hàng rào bảo 
vệ da(14). FLG có vai trò tạo điều kiện cho các tế 
bào nén lại khi tiến lên trên bề mặt da, góp phần 
tạo các yếu tố giữ ẩm tự nhiên, giúp duy trì pH 
axit trên da và các chất chuyển hóa từ FLG (axit 
urocanic, axit pyrrolidone) có tác dụng ngăn cản 
sự phát triển vi khuẩn Staphylococcus aureus(10). Tỉ 
lệ đột biến gen FLG trên bệnh nhân VDCĐ từ 9 - 
46%(6). Kiểu hình đột biến có sự khác nhau giữa 
các chủng tộc. 
Cho đến hiện nay, chúng ta hoàn toàn chưa 
có dữ liệu về đột biến gen FLG và mối liên quan 
giữa đột biến gen FLG với các đặc điểm lâm 
sàng. Vì thế, chúng tôi tiến hành đề tài “Đột biến 
gen filaggrin và các yếu tố liên quan trên bệnh 
nhân viêm da cơ địa” nhằm cung cấp những 
hiểu biết cơ bản đầu tiên về biểu hiện đột biến 
gen FLG trên người Việt Nam, làm tiền đề cho 
những nghiên cứu và xây dựng kế hoạch quản lí 
hiệu quả bệnh VDCĐ trong tương lai. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định kiểu hình đột biến gen FLG ở bệnh 
nhân viêm da cơ địa. 
Khảo sát mối liên quan giữa đột biến gen 
FLG và các yếu tố dịch tễ, lâm sàng ở bệnh nhân 
viêm da cơ địa. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân VDCĐ đến khám và điều trị tại 
Bệnh viện Da Liễu thành phố Hồ Chí Minh từ 
tháng 11/2018 đến tháng 6/2018. 
Tiêu chuẩn chọn vào 
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định VDCĐ 
theo các đặc điểm được sửa lại từ tiêu chuẩn 
chẩn đoán Hanifin và Rajka cải tiến theo Hội Da 
Liễu Hoa Kỳ AAD 2014 (tạm gọi là tiêu chuẩn 
AAD 2014)(4). 
Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Bệnh nhân là người Việt, sinh sống ở Việt 
Nam 3 thế hệ. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Có các dấu hiệu lâm sàng của các bệnh lý 
sau: bệnh da vảy cá, ghẻ, viêm da tiết bã, viêm 
da tiếp xúc, lymphoma tế bào T da, vảy nến, 
viêm da nhạy cảm ánh sáng, suy giảm miễn 
dịch, đỏ da toàn thân do các nguyên nhân khác. 
Phương pháp chọn mẫu 
Chọn mẫu thuận tiện. 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả hàng loạt ca. 
Phương pháp tiến hành 
Bệnh nhân đến khám và điều trị tại bệnh 
viện Da Liễu TPHCM được chẩn đoán xác định 
là VDCĐ và thỏa các tiêu chuẩn chọn mẫu. Mỗi 
bệnh nhân được hỏi bệnh sử, khám lâm sàng, 
ghi nhận thông tin vào bảng thu thập số liệu, 
chụp hình và thu thập mẫu máu của bệnh nhân, 
thực hiện xét nghiệm tìm đột biến gen FLG. 
Xét nghiệm được thực hiện tạiTrung Tâm Y 
Sinh học phân tử Đại học Y Dược TPHCM. DNA 
được tách chiết bằng Illustra Blood 
GenomicPrep Mini Spin Kit của hãng GE 
Healthcare. Cặp mồi sử dụng cho việc nhân bản 
được tham khảo theo nghiên cứu của Aileen 
Sandilands và cộng sự (2007). Ngoài ra, một số 
cặp mồi được thiết kế đặc hiệu bằng phần mềm 
CLC Main Workbench v5.5. Mồi sẽ được tổng 
hợp tại công ty IDT (Intergrated DNA 
Technologies, Mỹ). Thiết lập phản ứng PCR để 
nhân bản exon 3 của gen FLG với 5 cặp mồi đã 
thiết kế. Điện di kiểm tra sản phẩm PCR. Sản 
phẩm PCR và RT-PCR được tinh sạch bằng kit 
ExoSAP-IT® PCR Product Cleanup của Thermo 
Scientific. Sử dụng BigDye® Terminators V3.1 
Cycle Sequencing của Applied Biosystems, sử 
dụng một mồi xuôi hoặc mồi ngược. Trình tự 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019
 70
nucleotide của đoạn gen được xác định bằng 
máy giải trình tự tự động ABI 3500 Genetic 
Analyzer (Applied Biosystem, Mỹ). Đột biến gen 
FLG được ghi nhận khi có sự thay đổi trong 
trình tự gen FLG và sự thay đổi này ảnh hưởng 
đến cấu trúc (thêm nucleotide hoặc mất 
nucleotide hoặc thay thế nucleotide) hoặc chức 
năng (giảm hoặc tăng chức năng) phân tử 
protein FLG. 
Xử lý số liệu 
Số liệu được nhập, mã hóa và xử lý bằng 
phần mềm thống kê STATA 13.0. 
Thống kê mô tả: tần số, tỉ lệ %, trung bình ± 
độ lệch chuẩn, trung vị. 
Thống kê phân tích: phép kiểm Chi bình 
phương, phép kiểm định chính xác Fisher’s, 
phép kiểm Student, phép kiểm Mann-Whitney U. 
Sự khác biệt được xem có ý nghĩa thống kê 
khi p <0,05 với độ tin cậy 95%. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu được tiến hành trên 16 bệnh 
nhân VDCĐ đến khám tại bệnh viện Da Liễu TP. 
Hồ Chí Minh. 
Một số đặc điểm lâm sàng 
Kiểu hình đột biến gen FLG 
Trong quá trình giải trình tự gen FLG ở 16 
bệnh nhân VDCĐ, chúng tôi ghi nhận 5 đột biến 
trong trình tự gen. 
Các kiểu đột biến gen FLG (hình 1) 
a c 
b d 
e f 
Hình 1: 5 đột biến gen FLG trên 16 bệnh nhân VDCĐ (a, b, c, d, e). Tất cả là đột biến tạo bộ ba mã hóa kết thúc quá 
trình dịch mã (X: tạo bộ ba mã hóa kết thúc quá trình dịch mã). (a) Đột biến c.1217C>G (p.S406X) trên bệnh nhân VDCĐ 
AD1, (b) đột biến c.6950del8 (p.S2317X) trên bệnh nhân VDCĐ AD3, (c) đột biến c.7189C>T (p.Q2397X) trên bệnh nhân 
VDCĐ AD5, (d) đột biến c.7249C>T (p.Q2417X) trên bệnh nhân VDCĐ AD6, (e) đột biến c.7264G>T (p.E2422X) trên 
bệnh nhân VDCĐ AD11. Biến thể p.G2015X được tìm thấy ở tất cả bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu (f). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
 71
Vị trí đột biến gen FLG trên từng kiểu đột biến 
Bảng 1: Vị trí đột biến gen FLG trên từng kiểu đột biến 
Bệnh 
nhân 
Đột biến Kiểu đột biến Vị trí 
AD1 
c.1217C>G 
(p.S406X) 
Thay thế 
nucleotide 
FLG lặp lại không 
hoàn chỉnh 
AD3 
c.6950del8 
(p.S2317X) 
Mất nucleotide FLG lặp lại số 6 
AD5 
c.7189C>T 
(p.Q2397X) 
Thay thế 
nucleotide 
FLG lặp lại số 6 
AD6 
c.7249C>T 
(p.Q2417X) 
Thay thế 
nucleotide 
FLG lặp lại số 6 
AD11 
c.7264G>T 
(p.E2422X) 
Thay thế 
nucleotide 
FLG lặp lại số 6 
Mối liên quan giữa đột biến gen FLG và các 
yếu tố liên quan trên bệnh nhân viêm da cơ địa 
Tìm mối liên quan giữa đột biến gen FLG và 
các đặc điểm kiểu hình của VDCĐ như tuổi khởi 
phát, tiền căn bản thân và gia đình bệnh lý cơ 
địa, điểm SCORAD, tình trạng da khô, lòng bàn 
tay nhiều đường kẻ và vị trí sang thương. Không 
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ đột 
biến gen FLG giữa những bệnh nhân có đặc 
điểm khác nhau về tuổi khởi phát, tiền căn bản 
thân, gia đình bệnh lý cơ địa và điểm SCORAD. 
Đột biến gen FLG và tình trạng da khô 
Bảng 2: Tỉ lệ đột biến gen FLG theo tình trạng da khô 
Yếu tố 
Đột biến gen FLG 
Chỉ số P 
Có Không 
Có 4(80%) 1(20%) 
0,013
b 
Không 1(9%) 10(91%) 
b: kiểm định chính xác Fisher 
Tỉ lệ đột biến gen FLG cao hơn có ý nghĩa 
thống kê ở bệnh nhân có tình trạng da khô so với 
bệnh nhân không có tình trạng da khô (p = 0,013) 
(Bảng 2). 
Đột biến gen FLG và lòng bàn tay nhiều đường kẻ 
Bảng 3: Tỉ lệ đột biến gen FLG theo lòng bàn tay 
nhiều đường kẻ 
Yếu tố 
Đột biến gen FLG 
Chỉ số P 
Có Không 
Có 4(66,7%) 2(33,3%) 
0,036
b 
Không 1(10%) 9(90%) 
b: kiểm định chính xác Fisher 
Tỉ lệ đột biến gen FLG cao hơn có ý nghĩa 
thống kê ở bệnh nhân VDCĐ có lòng bàn tay 
nhiều đường kẻ so với bệnh nhân không có lòng 
bàn tay nhiều đường kẻ (p = 0,036) (Bảng 3). 
Đột biến gen FLG và vị trí sang thương 
Bảng 4: Tỉ lệ đột biến gen FLG theo vị trí sang 
thương 
Vị trí sang thương 
Đột biến gen FLG 
Chỉ số P 
Có Không 
Bàn tay (mặt lưng 
hoặc mặt lòng 
4 (66,7%) 2 (33,3%) 
0,036
b
Vị trí khác 1 (10%) 9 (90%) 
b: kiểm định chính xác Fisher 
Tỉ lệ đột biến gen FLG cao hơn có ý nghĩa 
thống kê ở bệnh nhân VDCĐ có sang thương 
vùng bàn tay so với bệnh nhân VDCĐ không có 
sang thương vùng bàn tay (p = 0,036). Không có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ đột biến 
gen FLG ở bệnh nhân VDCĐ có sang thương các 
vùng khác (mặt gấp chi, mặt duỗi chi, bàn chân, 
má, đầu, thân mình, vùng gấp). 
Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng của 5 bệnh nhân viêm da cơ địa có đột biến 
Bảng 5: Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng của 5 bệnh nhân viêm da cơ địa có đột biến 
Đặc điểm AD1 AD3 AD5 AD6 AD11 
Tuổi khởi phát bệnh 12 10 21 18 34 
Viêm mũi dị ứng Không Không Có Không Không 
Hen phế quản Không Không Không Có Không 
Tiền căn gia đình
* 
Có Không Không Có Không 
Mức độ nặng Trung bình Nặng Trung bình Trung bình Nặng 
Da khô Có Có Có Không Có 
Lòng bàn tay nhiều đường kẻ* Có Có Có Không Có 
Vị trí sang thương mặt lưng bàn tay Có Có Không Không Không 
Đột biến gen FLG c.1217C>G 
dị hợp tử 
c.6950del8 
dị hợp tử 
c.7189C>T 
dị hợp tử 
c.7249C>T 
dị hợp tử 
c.7264G>T 
dị hợp tử 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019
 72
Đặc điểm AD1 AD3 AD5 AD6 AD11 
Kiểu đột biến Thay thế 
nucleotide 
Mất nucleotide Thay thế 
nucleotide 
Thay thế 
nucleotide 
Thay thế 
nucleotide 
Vị trí đột biến FLG lặp lại không 
hoàn chỉnh 
FLG lặp lại số 6 FLG lặp lại số 6 FLG lặp lại số 6 FLG lặp lại số 6 
*: hen phế quản, viêm mũi dị ứng, viêm da cơ địa, *: tăng các đường kẻ và các đường chỉ tay ở cả 2 lòng bàn tay 
BÀN LUẬN 
Đây là nghiên cứu đầu tiên phát hiện đột 
biến gen FLG trên bệnh nhân VDCĐ thực hiện 
tại Việt Nam. 
Kiểu hình đột biến gen FLG ở bệnh nhân viêm 
da cơ địa 
Tỉ lệ đột biến gen FLG 
Tỉ lệ đột biến gen FLG trong nghiên cứu của 
chúng tôi là 31,25% (5/16). Theo tác giả H. 
Zhang, tỉ lệ đột biến gen FLG là 31,4%(17), như 
vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp 
với kết quả của tác giả H. Zhang. Một số nghiên 
cứu khác có tỉ lệ thấp hơn như người miền Bắc ở 
Trung Quốc (26%)(7), người Trung Quốc ở 
Singapore (20,2%)(3). Ở Nhật bản, theo tác giả 
Osawa, tỉ lệ đột biến gen FLG là 26,7%(13). Trên 
người Hàn Quốc tỉ lệ đột biến gen FLG là 16%(14) 
và 15,7%(12). Như vậy, tỉ lệ đột biến gen FLG 
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng chiếm tỉ lệ 
cao so với các nước Châu Á nhưng vẫn thấp hơn 
so với người Châu Âu (lên tới 50%)(1). Sự khác 
nhau về tỉ lệ đột biến gen FLG trên bệnh nhân 
VDCĐ trong các nghiên cứu có thể do các 
nghiên cứu được thực hiện trên chủng tộc khác 
nhau và các dân số khác nhau. 
Kiểu đột biến và vị trí đột biến gen FLG 
Hình 2 tổng hợp tất cả các đột biến gen FLG 
được nghiên cứu trên bệnh nhân VDCĐ ở các 
nước Trung Quốc, Singapore, Nhật Bản, Hàn 
Quốc. Từ hình 2 ta thấy, có 2 đột biến phổ biến 
nhất ở người Châu Âu là p.R501 và c.2282del4(15), 
nhưng lại chiếm tỉ lệ thấp trên người Châu Á, 2 
đột biến này chỉ được tìm thấy trên người Nhật 
Bản(11) và người Trung Quốc ở Singapore(3). Đột 
biến c.3321delA đều được tìm thấy ở các nước 
Châu Á như Trung Quốc, Singapore, Nhật Bản, 
Hàn Quốc và đột biến này chiếm tỉ lệ từ 9,1% 
đến 24%(3,7,12,17). Tuy nhiên đột biến c.3321delA 
không được tìm thấy trong nghiên cứu của 
chúng tôi, điều này có thể cho thấy đột biến gen 
FLG trên bệnh nhân VDCĐ ở Việt Nam khác với 
đột biến trên người Châu Âu, cũng như trên 
người Châu Á. 
Có 5 đột biến gen FLG được tìm thấy: 
c.1217C>G (p.S406X), c.6950del8 (p.S2317X), 
c.7189C>T (p.Q2397X), c.7249C>T (p.Q2417X), 
c.7264G>T (p.E2422X), các đột biến này đều 
được báo cáo trên người Châu Á. Tất cả 5 đột 
biến gen FLG được tìm thấy đều là đột biến mất 
chức năng. Về cấu trúc 5 đột biến trên là đột biến 
vô nghĩa (nonsense) nghĩa là tạo bộ ba mã hóa 
kết thúc quá trình dịch mã dẫn đến quá trình 
tổng hợp protein ngưng lại sớm. Không có bằng 
chứng cho thấy đột biến gen FLG tương ứng với 
biển hiện FLG trong lớp thượng bì, ngay cả khi 
đột biến gen FLG xảy ra ở vùng FLG lặp lại 
không hoàn chỉnh gần vùng đầu tận C cũng cho 
kết quả là giảm biểu hiện của FLG trong lớp 
thượng bì(11), có thể làm thêm xét nghiệm hóa mô 
miễn dịch trên mẫu sinh thiết ở bệnh nhân 
VDCĐ có đột biến gen FLG. 
Một điểm đáng chú ý là trong quá trình giải 
trình tự gen FLG, chúng tôi ghi nhận biến thể 
p.G2025X (hình 1-f) được tìm thấy ở tất cả bệnh 
nhân và phù hợp với nghiên cứu của tác giả 
Joohong Park(14), tuy nhiên biến thể này cũng 
được tìm thấy trên người chứng khoẻ mạnh. Vì 
vậy, chúng tôi chỉ ghi nhận biến thể này trong 
phần kết quả. Từ đó, chúng tôi thấy rằng việc 
phân tích trình tự gen cần phải đúng kĩ thuật 
(đọc cả đoạn mồi ngược và mồi xuôi), đồng thời 
cần có nhóm chứng trên người khỏe mạnh để 
xác định mối liên quan. 
Tỉ lệ đột biến gen FLG cao hơn có ý nghĩa 
thống kê ở bệnh nhân có sang thương vùng bàn 
tay so với bệnh nhân có sang thương ở vị trí 
khác với p = 0,036, không thấy sự khác biệt có ý 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
 73
nghĩa thống kê giữa đột biến gen FLG và các vị 
trí khác (bàn chân, chi, má, thân mình, vùng nếp, 
đầu, vùng quanh miệng, vùng tã lót). Điều này 
phù hợp với nghiên cứu của tác giả Carson, có 
sự khác biệt giữa đột biến gen FLG và vị trí sang 
thương, mặt lòng bàn tay (p <0,0001), mặt lưng 
bàn tay (p <0,0001)(2). Từ đó, đưa ra giả thuyết 
đột biến gen FLG có liên quan đến bệnh VDCĐ 
ở vùng phơi bày, đặc biệt là vùng bàn tay, đây là 
vùng tiếp xúc thường xuyên với các tác nhân 
môi trường, ngoài ra cũng có thể thấy ở những 
vùng khác (mặt gấp, mặt duỗi của chi, bàn chân, 
má). Một nghiên cứu trên chuột đuôi bông thiếu 
hụt FLG có tiếp xúc với môi trường thì mức độ 
viêm da cao hơn so với chuột đuôi bông không 
tiếp xúc với môi trường(5).Vì vậy, mối liên quan 
giữa đột biến gen FLG và vị trí sang thương da 
cần được nghiên cứu nhiều hơn. 
Hình 2: Kiểu đột biến gen FLG giữa Việt Nam và các nước khác 
KẾT LUẬN 
Đột biến gen filaggrin được tìm thấy trên 
bệnh nhân VDCĐ Việt Nam. Kiểu đột biến gen 
filaggrin khác với các nước Châu Âu cũng như 
các nước Châu Á khác. Nên có các nghiên cứu 
trên cỡ mẫu lớn hơn và được giải trình tự toàn 
bộ đoạn gen FLG để có thể xác định chính xác 
kiểu hình đột biến gen FLG trên bệnh nhân 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019
 74
VDCĐ ở người Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Brown SJ, Relton CL, Liao H et al (2009). Filaggrin 
haploinsufficiency is highly penetrant and is associated with 
increased severity of eczema: further delineation of the skin 
phenotype in a prospective epidemiological study of 792 school 
children. British Journal of Dermatology, 161(4):pp.884-889. 
2. Carson CG, RasmussenMA, Thyssen JP et al (2012). "Clinical 
presentation of atopic dermatitis by filaggrin gene mutation 
status during the first 7 years of life in a prospective cohort 
study". PloS one, 7(11):pp.48678. 
3. Chen H, Common JE, Haines RL et al (2011). Wide spectrum of 
filaggrin-null mutations in atopic dermatitis highlights 
differences between Singaporean Chinese and European 
populations. British Journal of Dermatology, 165(1):pp.106-114. 
4. Eichenfield LF, Tom WL, Chamlin SL et al (2014). Guidelines of 
care for the management of atopic dermatitis: section 1. 
Diagnosis and assessment of atopic dermatitis. Journal of the 
American Academy of Dermatology, 70(2):pp.338-351. 
5. Fahy CMR MW, Irvine AD (2011). Variation in the development 
of phenotype in filaggrin-deficiency: a murine model of atopic 
dermatitis. Poster at British Association of Dematologists annual 
meeting. 
6. Li K, Oh WJ, Park KY et al (2016). FLG mutations in the East 
Asian atopic dermatitis patients: genetic and clinical 
implication. Experimental dermatology, 25(10):pp.816-818. 
7. Li M, Liu Q, Liu J et al (2013). Mutations analysis in filaggrin 
gene in northern China patients with atopic dermatitis. Journal of 
the European Academy of Dermatology and Venereology, 27 
(2):pp.169-174. 
8. McAller MA, O'Regan GM, Irvine AD (2018). Atopic Dermatitis. 
In: Bolognia JL, Schaffer JV, Cerroni L (eds). Bolognia's 
Dermatology, 4th ed, pp 208-227. Elsevier, Philadelphia, PA. 
9. Meng L, Wang L, Tang H et al (2014). Filaggrin gene mutation c. 
3321delA is associated with various clinical features of atopic 
dermatitis in the Chinese Han population. PloS one, 
9(5):pp.98235. 
10. Miajlovic H, Fallon PG, Irvine AD et al (2010). Effect of filaggrin 
breakdown products on growth of and protein expression by 
Staphylococcus aureus. Journal of Allergy and Clinical 
Immunology, 126(6):pp.1184-1190. 
11. Nemoto-Hasebe I, Akiyama M, Nomura T et al (2009). Clinical 
severity correlates with impaired barrier in filaggrin-related 
eczema. Journal of Investigative Dermatology, 129(3):pp.682-689. 
12. On HR, Lee SE, Kim SE et al (2017). Filaggrin Mutation in 
Korean Patients with Atopic Dermatitis. Yonsei Medical Journal, 
58 (2):pp.395-400. 
13. Osawa R, Konno S, Akiyama M et al (2010). Japanese-specific 
filaggrin gene mutations in Japanese patients suffering from 
atopic eczema and asthma. The Journal of Investigative 
Dermatology, 130 (12):pp.2834-2836. 
14. Park J, Jekarl DW, Kim Y et al (2015). Novel FLG null mutations 
in Korean patients with atopic dermatitis and comparison of the 
mutational spectra in Asian populations. The Journal of 
Dermatology, 42(9):pp.867-873. 
15. Sandilands A, Terron-Kwiatkowski A, Hull PR et al (2007). 
Comprehensive analysis of the gene encoding filaggrin 
uncovers prevalent and rare mutations in ichthyosis vulgaris 
and atopic eczema.Nature genetics, 39(5):pp.650-654. 
16. Weidinger S, Illig T, Baurecht H et al (2006). Loss-of-function 
variations within the filaggrin gene predispose for atopic 
dermatitis with allergic sensitizations. Journal of Allergy and 
Clinical Immunology, 118(1):pp.214-219. 
17. Zhang H, Guo Y, Wang W et al (2011). Mutations in the 
filaggrin gene in Han Chinese patients with atopic dermatitis. 
Allergy, 66(3):pp.420-427. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019