Định hướng chuyển đổi sang giáo dục đại học 4.0 kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Tài liệu Định hướng chuyển đổi sang giáo dục đại học 4.0 kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam: 165 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0034 Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 2A, pp. 165-172 This paper is available online at ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN ĐỔI SANG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 4.0 KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM Nguyễn Hoàng Đoan Huy Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Giáo dục cần phải có những sự chuẩn bị tối ưu để bắt kịp và phục vụ cho cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Trong công cuộc đổi mới giáo dục đang diễn ra liên tục và toàn diện ở nước ta hiện nay, việc tìm hiểu và rút ra những bài học kinh nghiệm để chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi sang Giáo dục 4.0 là vấn đề cần thiết. Bài báo này đề cập đến những yếu tố đặt ra cho giáo dục đại học trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, những kinh nghiệm quốc tế xung quanh việc chuyển đổi sang Giáo dục đại học 4.0 và những định hướng mang tính chính sách để góp phần giúp các nhà quản lí giáo dục có những tiếp cận đúng hướng trong những đổi mới sắp...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 387 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Định hướng chuyển đổi sang giáo dục đại học 4.0 kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
165 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0034 Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 2A, pp. 165-172 This paper is available online at ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN ĐỔI SANG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 4.0 KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM Nguyễn Hoàng Đoan Huy Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Giáo dục cần phải có những sự chuẩn bị tối ưu để bắt kịp và phục vụ cho cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Trong công cuộc đổi mới giáo dục đang diễn ra liên tục và toàn diện ở nước ta hiện nay, việc tìm hiểu và rút ra những bài học kinh nghiệm để chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi sang Giáo dục 4.0 là vấn đề cần thiết. Bài báo này đề cập đến những yếu tố đặt ra cho giáo dục đại học trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, những kinh nghiệm quốc tế xung quanh việc chuyển đổi sang Giáo dục đại học 4.0 và những định hướng mang tính chính sách để góp phần giúp các nhà quản lí giáo dục có những tiếp cận đúng hướng trong những đổi mới sắp diễn ra ở nước ta. Từ khoá: Cách mạng 4.0, Giáo dục đại học 4.0, kinh nghiệm quốc tế, đổi mới giáo dục. 1. Mở đầu Bước nhảy vọt gần đây về số hóa trong môi trường sống và môi trường làm việc của con người là một trong những động lực chính của sự thay đổi trong thế kỉ mới. Năm 2012, chính phủ Đức đã lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Công nghiệp 4.0" (Industry 4.0) để đề cập đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (The fourth Industrial Revolution) vốn được biết đến trên toàn thế giới với thuật ngữ "Công nghiệp Internet". Công nghiệp 4.0 với sự xuất hiện của công nghệ cao, máy móc thông minh, robot có trí tuệ nhân tạo... đang và sẽ tác động làm thay đổi to lớn đến thị trường lao động và việc làm trên nhiều góc độ khác nhau. Có thể nói, tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đối với việc làm sẽ là sự dịch chuyển từ sản xuất thâm dụng lao động sang thâm dụng tri thức và thâm dụng công nghệ [1]. Theo dự báo của Liên hợp quốc, sẽ có khoảng 75% lao động trên thế giới có thể bị mất việc trong vài thập niên tới [2]. Trong đó, Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ cách mạng công nghiệp 4.0, biểu hiện ở việc một số ngành nghề ở nước ta sẽ biến mất trong tương lai [3]. Tuy nhiên, ở chiều hướng khác, tích cực hơn, cách mạng công nghiệp 4.0 cũng sẽ tạo thêm nhiều ngành nghề, việc làm mới mà người Ngày nhận bài: 4/2/2019. Ngày sửa bài: 12/3/2019. Ngày nhận đăng: 20/3/2019. Tác giả liên hệ: Nguyễn Hoàng Đoan Huy. Địa chỉ e-mail: nguyenhoangdoanhuy@gmail.com Nguyễn Hoàng Đoan Huy 166 máy và robot không thể đáp ứng được, điều đó đòi hỏi người lao động phải có kĩ năng, trình độ cao mới có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Theo đó, giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học và đào tạo nghề cũng đang đối mặt với yêu cầu chuyển dịch và thay đổi mang tính thời đại. Như vậy, cùng với “Công nghiệp 4.0”, một số thuật ngữ tương tự cũng theo đó được ra đời, vượt ra ngoài lĩnh vực công nghiệp. Chẳng hạn, các thuật ngữ như "Thành phố 4.0", "Ngôn ngữ 4.0", “Giáo dục 4.0”... bắt đầu được giới thiệu trong cùng một bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vì các nhà nghiên cứu đã nhìn thấy được những vấn đề mà hiệu ứng này có thể tác động lên các lĩnh vực đời sống khác nhau [4]. Trong bối cảnh này, giáo dục phải thích nghi với các tiếp cận mới để bắt kịp và thậm chí và vượt trước những thay đổi xảy ra trong xã hội phát triển không ngừng, thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0. Một số quốc gia trên thế giới đã và đang đi được những bước tiến lớn trong quá trình chuyển đổi sang Giáo dục 4.0. Việc tìm hiểu những yếu tố cần lưu ý để có thể chuyển đổi sang Giáo dục 4.0 nói chung, Giáo dục đại học 4.0 nói riêng và phân tích những thành tựu các quốc gia trên thế giới đã đạt được liên quan đến vấn đề này là nội dung chính mà tác giả muốn đề cập trong bài báo này. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Một số yếu tố đặt ra cho giáo dục đại học trong Cách mạng công nghiệp 4.0 Sự ra đời của Cách mạng công nghiệp 4.0 dẫn đến việc tạo ra nhiều tri thức mới, và làm thay đổi chương trình dạy học hiện tại, đặc biệt là tác động to lớn đến các nguyên tắc, phương pháp trong giáo dục đại học, đào tạo nghề. Yêu cầu về trình độ và kĩ năng của lực lượng lao động trong xã hội thời đại 4.0 sẽ cao hơn hiện nay, bởi vì các cơ sở sử dụng nguồn nhân lực sẽ sử dụng công nghệ mới và phương tiện thông minh. Vì lí do này, hệ thống giáo dục sẽ thay đổi từ Giáo dục 3.0 sang Giáo dục 4.0 [5]. Theo đó, về cơ bản, những khía cạnh cần tập trung phát triển để chuyển đổi sang Giáo dục 4.0 nói chung và Giáo dục đại học 4.0 nói riêng, bao gồm [6]: - Chú trọng vào các phương tiện di động hỗ trợ giảng dạy, học tập và đào tạo Sự xuất hiện ngày càng nhiều của các thiết bị, phương tiện có thể mang theo bên người (di động) cho thấy dấu hiệu ban đầu của một lĩnh vực công nghệ mới. Các cơ sở giáo dục phải hành động ngay để nắm bắt được tiềm năng rất lớn của thiết bị di động trong việc cách mạng hóa hình thức, phương pháp giảng dạy của giáo viên cũng như hướng dẫn cho học sinh phương pháp học tập phù hợp hơn trong môi trường kĩ thuật số. Trong kỷ nguyên của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, khi sự tồn tại của các hệ thống trực tuyến trở thành một chuẩn mực mới, mô phỏng số đóng một vai trò quan trọng ngày càng tăng trong lĩnh vực giáo dục. Trong lĩnh vực mô phỏng số, phân tích phần tử hữu hạn (FEA) là một kĩ thuật đa năng đã được thực hiện trong các lĩnh vực kĩ thuật khác nhau như phân tích các tòa nhà (Marwala và cộng sự, 2017, Marwala, 2012, Marwala, 2010). FEA hiện đại thường được thực hiện với sự hỗ trợ của máy tính. Kết quả là, sinh viên có thể hiểu các khái niệm chính một cách trực giác hơn; và các kĩ sư có thể thực hiện các mô hình phức tạp và giải thích kết quả một cách dễ dàng. Tuy nhiên, thiết lập như vậy đã hạn chế các quy trình FEA trong một môi trường hoàn toàn ảo và ngoại tuyến. Những giới hạn này lần lượt làm mất Định hướng chuyển đổi sang giáo dục đại học 4.0 - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam 167 đi nhận thức của con người về nhiều khía cạnh (ví dụ như quy mô, ngữ cảnh, chất lượng không gian và vật liệu). - Tập trung phát triển các lớp học trực tuyến mở (Massive open online courses - MOOCs) Giảng dạy từ lâu đã bị hạn chế bởi các kịch bản trong đó sinh viên phải tập trung tại một giảng đường để nghe giáo sư thuyết trình hoặc ngồi quanh một bàn để thảo luận với giáo viên, bạn học của mình. Tuy nhiên, đổi mới công nghệ đang làm giảm bớt những khó khăn đó và thay đổi triệt để nền giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Các lớp học mở trực tuyến khổng lồ, còn gọi tắt là MOOC, là một hình thức giáo dục cung cấp hướng dẫn độc lập trực tuyến (Xing, 2015). Mặc dù nhiều thử nghiệm vẫn đang trong giai đoạn tiến hành, MOOCs cho thấy sự vượt trội của hình thức giảng dạy trực tuyến so với các hình thức giảng dạy truyền thống ở các trường đại học theo một cách rất riêng. Cho đến nay, hai yếu tố lớn gây khó khăn cho hình thức dạy học truyền thống là chi phí để vận hành một trường học và số lượng học sinh tham gia các lớp học tại trường. MOOCs có thể loại bỏ những trở ngại này bằng hình thức tổ chức hoàn toàn khác nhau: ngoài khuôn viên nhà trường và bằng mô hình trực tuyến; và một khi một khóa học trực tuyến được tạo ra, việc giảng dạy cho rất nhiều học sinh trong cùng một lúc lại trở thành một lợi thế. - Ươm mầm những tài năng sáng tạo Hầu hết các quốc gia đang phát triển hoặc kém phát triển đều thiếu tài năng sáng tạo, đặc biệt là ở sáng tạo ở mức cao. Để nắm bắt cơ hội của một làn sóng công nghiệp hóa mới, hệ thống giáo dục nói chung và giáo dục đại học của một quốc gia không chỉ tập trung vào giáo dục và đào tạo những người có tay nghề, mà còn cần có một tầm nhìn về việc phát triển tài năng sáng tạo, đặc biệt là các nhà khoa học và nhà công nghệ cao cấp. Các nhà khoa học này phải được đào tạo trong một môi trường liên ngành, nơi các nhà công nghệ cũng có những hiểu biết sâu sắc về nhân văn và khoa học xã hội và ngược lại. - Học tập tổng hợp Kinh tế vi mô là một chủ đề quan trọng trong giáo dục đại học, có giá trị xã hội và thực tiễn rất cao; tuy nhiên, hầu hết các khái niệm của nó đều có mức trừu tượng cao, thường gây khó khăn cho sinh viên khi học nó. Trong nhiều trường hợp, các khái niệm được cô lập, không có sự hiểu biết toàn diện về mối tương quan của mỗi điểm kiến thức trên toàn bộ bức tranh. Trong học tập tổng hợp, mục tiêu chính của giảng viên là để cho sinh viên có được khái niệm về kiến thức (nghĩa là mối quan hệ thiết yếu giữa các mảng kiến thức và các chức năng của chúng trong toàn bộ hệ thống kiến thức) được áp dụng cho không chỉ về kinh tế vi mô mà còn cho nhiều môn học khác. Các nhà nghiên cứu tin rằng một phương pháp học tập pha trộn tổng quát (nghĩa là phương pháp học tập hỗn hợp và phương pháp học trực tiếp) có thể đóng góp vào việc giải quyết vấn đề này. Nói tóm lại, hệ thống giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng thay vì trở thành những bức tường thành, truyền thống và bảo thủ; đứng trước ngưỡng cửa của cách mạng công nghiệp 4.0, cần phải xem xét cách thức và nghênh đón, chấp nhận và chuyển đổi môi trường giảng dạy và học tập vì lợi ích của cả sinh viên và giảng viên. Nguyễn Hoàng Đoan Huy 168 2.2. Một số điển hình trong việc thực hiện để chuyển đổi sang giáo dục đại học 4.0 Qua những nghiên cứu của mình, Diễn đàn kinh tế thế giới đã tổng hợp một số điển hình thành công cũng như những nỗ lực cải cách hiệu quả của một số quốc gia có nền giáo dục tiến tiến trên thế giới về việc thực hiện một số dự án để chuyển đổi sang giáo dục đại học 4.0. 2.2.1. Dự án nâng cao năng lực người lao động ở Singapore Dự án nâng cao năng lực của người lai động - SkillFuture, một sáng kiến của Bộ Nhân lực Singapore, là một dự án giúp phát triển nguồn nhân lực của quốc gia này bằng cách cung cấp các khóa đào tạo phù hợp với mục tiêu tạo ra lực lượng lao động có kĩ năng cao và có khả năng cạnh tranh, góp phần nâng cao mức sống của người dân trong cả nước. Trước đòi hỏi của cuộc Cách mạng 4.0, chính phủ Singapore đã nhận ra rằng những tiến bộ và đổi mới về công nghệ đã đặt ra những yêu cầu mới và cao hơn trong hệ thống kĩ năng mà nhân lực hiện tại của họ cần phải đáp ứng. Dự án SkillFuture, do Phó Thủ tướng Singapore chịu trách nhiệm thực hiện, tập trung phát triển các kĩ năng định hướng trong tương lai, giúp nâng cao năng suất của người lao động. Mục tiêu của dự án này là đặt trọng tâm vào một nền kinh tế nơi mà người lao động buộc phải học tập suốt đời để phát triển chuyên môn của họ mà không chỉ đơn thuần xuất phát từ yêu cầu hiện tại của công việc đặt ra. Các lĩnh vực trọng tâm chính của dự án này bao gồm: (a) giúp người lao động đưa ra lựa chọn phù hợp bản thân trong giáo dục, đào tạo và nghề nghiệp; (b) phát triển một hệ thống giáo dục và đào tạo tích hợp, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu liên tục phát triển của các ngành nghề lao động trong xã hội; và (c) thúc đẩy văn hóa hỗ trợ học tập suốt đời. Chính phủ Singapore cũng đã chính thức ra thông báo rằng mọi cá nhân từ 25 tuổi trở lên sẽ nhận được khoảng đầu tư 500 đô la Singapore. Học bổng này có thể được người dân sử dụng để đăng ký tham gia một số khóa học được chính phủ hỗ trợ nhắm vào nhiều đối tượng khác nhau, từ sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường đến người lao động đã có nhiều năm kinh nghiệm. SkillFuture dự kiến sẽ đầu tư hơn 1 tỷ đô la Singapore một năm từ 2015 đến 2020 cho các khoá học với nội dung đa dạng như hướng dẫn nghề nghiệp cho sinh viên, tăng cường thực tập, trợ cấp cho học tập nâng cao năng lực nghề nghiệp... Khoảng 600 triệu đô la Singapore một năm trong 5 năm qua đã được dành cho giáo dục và đào tạo liên tục. Ngoài ra, người lao động ở Singapore muốn nâng cao năng lực nghề nghiệp bản thân trong các ngành công nghiệp đang phát triển còn có thể đăng ký nhận giải thưởng quốc gia liên quan. Khoảng 2.000 giải thưởng như vậy sẽ được trao hàng năm. Đồng thời, từ năm 2016, có khoảng 100 học bổng SkillFuture mỗi năm sẽ được trao cho những người muốn phát triển năng lực nghề nghiệp bản thân lên một cấp độ cao hơn. 2.2.2. Mô hình giáo dục nền tảng sẵn sàng trong tương lai ở Phần Lan Đã từ lâu, hệ thống giáo dục Phần Lan đã được công nhận là một trong những thành công nhất trên thế giới. Mô hình giáo dục của quốc gia này dựa trên một số yếu tố thành công cốt lõi, bao gồm: (a) nhấn mạnh trọng tâm vào đào tạo giáo viên, ngành nghề vốn được coi là một trong những ngành nghề ưu tú của xã hội, với tiêu chuẩn đầu vào rất cao; (b) chương trình giảng dạy được chuẩn hóa, dựa trên niềm tin của toàn xã hội vào hệ thống giáo dục chất lượng cao; (c) đặc biệt xem trọng giáo dục hòa nhập và tôn trọng sự đa dạng trong giáo dục tiểu học; (d) định kỳ 10 năm cập nhật chương trình giảng dạy quốc Định hướng chuyển đổi sang giáo dục đại học 4.0 - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam 169 gia trong đó thống nhất khung chương trình tổng thể chung và trao quyền tối đa cho việc phát triển chương trình tại từng địa phương; (e) chất lượng giáo dục của nhà trường không dựa hoàn toàn vào kiểm tra và đánh giá. Hiện nay, một số trường học ở Phần Lan đã thí nghiệm cách thức tự đánh giá trực tiếp, theo đó học sinh được tham gia vào việc xác định sự tiến bộ của chính bản thân mình thông qua tự đánh giá và đánh giá giữa bạn bè trong lớp. Học sinh còn được khuyến khích đưa ra các phản hồi tích cực và phê bình mang tính xây dựng. Ngoài ra, Bộ Giáo dục Phần Lan đã quyết định bãi bỏ các môn học riêng lẻ, thay vào đó học sinh có thể học về các sự kiện và hiện tượng theo một hình thức liên môn, liên ngành. Những thay đổi này dự kiến sẽ được hoàn thành thực nghiệm và cho kết quả cụ thể vào năm 2020. 2.2.3. Cách tiếp cận toàn diện trong hệ thống đào tạo nghề nghiệp ở Đức và Thụy Sĩ Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi người lao động phải làm việc trong môi trường làm việc với các quy trình kĩ thuật cao và phức tạp. Theo đó, năng lực nghề nghiệp của người lao động cũng cần phải được nâng cao theo hướng tự chủ hơn và có trách nhiệm hơn. Việc phát triển hệ thống năng lực nghề nghiệp ngay trong môi trường làm việc thực tiễn là tiếp cận có hiệu quả để hạn chế sự không phù hợp giữa đào tạo nghề ở trường đại học với yêu cầu của công việc trong thực tế. Ở Đức, đào tạo nghề được thực hiện theo cách thức được gọi là “lập trình kép” bao gồm giáo dục tại nhà trường và đào tạo tại nơi làm việc. Người học có thể phân chia thời gian học tập của mình thành 2 phần: hướng dẫn trên lớp và đào tạo nghề tại công ty, trong đó họ thường dành 3-4 ngày trong tuần ở công ty để nhằm trang bị các kĩ năng thực tiễn cần thiết cho lĩnh vực công việc của mình; qua đó cũng mang đến cho họ cơ hội học hỏi thói quen làm việc và tiếp thu văn hóa của công ty. Thời gian học nghề thường kéo dài từ 2-3 năm và trong thời gian này, các học viên cũng được trả tiền cho công việc thực tập của họ. Các nhà tuyển dụng ở Đức đã chứng minh rằng ứng dụng thực tế như vậy giúp phát triển các kĩ năng của nguồn nhân lực quan trọng này, đồng thời cho phép họ thực hiện giai đoạn chuyển đổi một cách dễ dàng và thuận lợi hơn từ lớp học sang môi trường làm việc. Hệ thống đào tạo và dạy nghề của Thụy Sĩ cũng tuân theo một quy trình tương tự, tức là 3-4 năm đào tạo kết hợp giữa học tập ở trường và làm việc với mức lương học việc cho thời gian làm việc tại các cơ sở lao động. Hệ thống chính quyền Thụy Sĩ được quản lí như một quan hệ đối tác công tư: các tổ chức chuyên nghiệp, các bang (chính phủ tiểu bang) và Liên minh Thụy Sĩ (chính phủ liên bang) phối hợp để xác định chương trình giảng dạy, hệ thống kĩ năng, và đặt ra các tiêu chuẩn cho nghề nghiệp trên toàn quốc. Sau khi tốt nghiệp, ngoài việc đi làm, người học có thể lấy được bằng đại học hoặc tham gia các lớp học thêm để có thêm chứng chỉ, tạo cơ sở vững chắc cho việc học tập suốt đời. Các mô hình tương tự như Mạng học nghề toàn cầu (GAN) cũng nhằm mục đích thúc đẩy mô hình học nghề ở các quốc gia khác trong Liên minh Châu Âu. 2.2.4. Kĩ năng dự báo và hợp tác nâng cao ở Anh (LinkedIn và Greater Manchester Agency) và Hoa Kỳ (Chương trình RightSkill ) Tại Vương quốc Anh, LinkedIn, mạng lưới giới thiệu việc làm lớn nhất thế giới và cơ quan kết hợp Greater Manchester (GMCA) đã hợp tác để phân tích các vị trí tuyển dụng địa phương với hơn 600.000 dữ liệu về những kĩ năng và việc làm của người dùng Nguyễn Hoàng Đoan Huy 170 LinkedIn tại địa phương để tạo ra một ảnh chụp chi tiết về kĩ năng và việc làm trong toàn vùng Manchester. Dựa trên thông tin này, các mô đun đào tạo sẽ được GMCA phát triển và cung cấp cho các cơ sở đào tạo đại học và dạy nghề trong toàn vùng. Sự hợp tác lần đầu tiên của loại hình này ở châu Âu, nhằm giải quyết những lo ngại rằng giáo dục không đáp ứng các yêu cầu của lao động xã hội cũng như đang tạo ra các lỗ hổng kĩ năng thực tế trong lực lượng lao động mà hệ thống giáo dục này đang cung cấp cho thị trường lao động ở đây. Tương tự, ở Hoa Kỳ, Capella Learning Solutions - một nhà cung cấp hàng đầu về dịch vụ phần mềm nhân sự và CareerBuilder - một trong những trang web việc làm trực tuyến lớn nhất ở Hoa Kỳ, đã sử dụng kho dữ liệu lịch sử thị trường lao động và thời gian thực tế kết hợp với giáo dục dựa trên năng lực để thiết kế nên Chương trình RightSkill. Chương trình này cung cấp cho những người tìm việc làm những trải nghiệm học tập phù hợp để có thể chuẩn bị đầy đủ kĩ năng cho họ tham gia vào các ngành nghề theo nhu cầu của bản thân và yêu cầu của các nhà tuyển dụng. 2.2.5. Khung và tiêu chuẩn để nhân rộng giáo dục tư thục - Tiêu chuẩn xuất sắc trong giáo dục và phát triển ở Ấn Độ Mặc dù Ấn Độ hiện đang có hơn 300.000 trường tư thục với chi phí học tập thấp có thể đáp ứng cho số lượng lớn người dân có mức sống thấp ở đây, nhưng chương trình giảng dạy cũng như quy trình vận hành của các trường tự thục này hiện không được tổ chức cũng như thống nhất trong toàn lãnh thổ. Standard of Excellence in Education and Development (SEED) là nhà cung cấp các chương trình giảng dạy, đào tạo và quản lí làm việc để giải quyết vấn đề này. Nó hoạt động với việc đánh giá lại tất cả các trường phổ thông tư thục có học phí thấp để xây dựng chương trình giảng dạy chuẩn, đào tạo giáo viên và các quy trình hoạt động khác nhằm nâng cao hiệu quả và giúp các trường này cung cấp giáo dục chất lượng cao ở mức giá phải chăng có thể đáp ứng nhu cầu của đại đa số người dân của quốc gia này. 2.3. Một số định hướng thiết kế kế hoạch chuyển đổi sang Giáo dục đại học 4.0 Dựa trên những yêu cầu đặt ra cho giáo dục đại học cũng như một số kinh nghiệm chuyển đổi giáo dục đại học 4.0 nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều công trình nghiên cứu đã tổng kết những định hướng về chính sách để góp phần cho việc thiết kế các kế hoạch mang tầm quốc gia, trong đó bao gồm những yếu tố cơ bản như sau: 2.3.1. Bình đẳng trong tiếp cận giáo dục Được công nhận bởi các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của cộng đồng quốc tế, giáo dục cơ bản chất lượng cao là nền tảng để các cá nhân có thể xây dựng cuộc sống trang nghiêm, có ý nghĩa. Nó là cơ sở cho sự hưng thịnh của con người, và thúc đẩy sự phát triển và thịnh vượng. Tuy nhiên, gần 263 triệu trẻ em vẫn không đi học ngày hôm nay, chủ yếu ở các vùng của Nam Á và Châu Phi, một khoảng cách hạn chế sự phát triển trong tương lai của chính chúng và cộng đồng của chúng. Hơn 60% những đứa trẻ này là con gái, những người thường là người đầu tiên bị mất khi tài nguyên và quyền truy cập khan hiếm. Như một vấn đề được thêm vào, sự bất bình đẳng tồn tại từ trước được tạo ra trong giáo dục phổ thông thường được củng cố hơn là được cải thiện trong đào tạo tại chỗ, vì những người lao động có tay nghề thấp có xu hướng tiếp xúc thấp nhất với đào tạo tại Định hướng chuyển đổi sang giáo dục đại học 4.0 - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam 171 chỗ trong khi cao hơn công nhân lành nghề có xu hướng lớn nhất. Do đó, điều cần thiết là tất cả trẻ em có thể tiếp cận giáo dục tiểu học và trung học công bằng và toàn diện, bất kể giới tính, chủng tộc, tôn giáo và nền tảng xã hội. Ngoài ra, cách thức đánh giá và lựa chọn được xây dựng thành các hệ thống giáo dục kế thừa, đặc biệt là trong giáo dục tiền đại học, thường xuyên củng cố sự bất bình đẳng, do đó làm giảm tiềm năng lực lượng lao động trong tương lai. 2.3.2. Lãnh đạo và quản trị nhiều bên Trong khi giáo dục tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống công cộng và kinh tế, các hệ thống giáo dục hiện tại thường chỉ tuân theo các chỉ thị từ các cơ quan chính phủ, với rất ít hoặc không có đại diện từ các bên liên quan khác. Một cách tiếp cận liên ngành và đa bên trong quản trị hệ sinh thái giáo dục có thể đảm bảo rằng những tác động trên phạm vi rộng này được công nhận và đưa vào các quyết định hoạch định chính sách rộng lớn hơn. Khu vực công có thể hỗ trợ điều này thông qua sự phối hợp liên bộ lớn hơn nhiều về các vấn đề giáo dục và tăng cường quản trị, quản lí và tài trợ cho giáo dục. Ngoài việc tập hợp các bộ chủ chốt, một cách tiếp cận nhiều bên liên quan đến giáo dục nên tập hợp các chủ nhân, đoàn thể và những người khác để theo đuổi Chiến lược Kĩ năng Quốc gia toàn diện, như được OECD ủng hộ. Điều này có nghĩa là cân bằng cẩn thận quyền tự chủ cho các nhà lãnh đạo giáo dục và các học viên với sự đảm bảo các tiêu chuẩn cao cho tất cả mọi người, cũng như xác định các khung pháp lí rõ ràng cho các chủ thể khu vực tư nhân. Các nhà tuyển dụng, đặc biệt, có một vai trò quan trọng trong việc thiết kế một tổ chức xã hội mới, bao gồm suy nghĩ lại về vai trò của họ với tư cách là người tiêu dùng vốn nhân lực của nhà chế tạo sẵn. Đặc biệt, các công ti phải đầu tư và khuyến khích học tập suốt đời, đào tạo lại và nâng cao trình độ của nhân viên hiện có, ngoài việc hợp tác chặt chẽ với các nhà giáo dục để hỗ trợ phát triển cả kĩ năng chung và chuyên ngành. Phụ huynh, giáo viên và học sinh cũng có vai trò cơ bản trong việc chủ động chuyển đổi hệ sinh thái giáo dục. Cùng với nhau, các bên liên quan có thể làm cho các chính sách giáo dục và chương trình giảng dạy phù hợp hơn và đáp ứng. 2.3.3. Kế hoạch và cải cách dài hạn Theo một số ước tính, thời gian trung bình của nhiệm kì của các bộ trưởng giáo dục trên toàn thế giới là khoảng 1,6 năm. Tuy nhiên, cải cách giáo dục đòi hỏi tư duy lâu dài và ổn định ngoài các chu kì bầu cử, đặc biệt là đưa ra thách thức chuyển đổi của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Một chiến lược kĩ năng quốc gia, được phát triển thông qua cách tiếp cận nhiều bên liên quan đến cải cách, có thể giúp đảm bảo tính liên tục của phương hướng và sự ổn định khi hệ thống phát triển. Điều này có nghĩa là làm việc để đạt được sự đồng thuận về định hướng, tài trợ và tổ chức giáo dục trong tương lai, bằng cách học hỏi và điều chỉnh các ví dụ thực tiễn tốt nhất có sẵn trong các hệ thống khác nhau trên toàn cầu. 3. Kết luận Cách mạng Công nghiệp 4.0 kéo theo sự chuyển đổi của giáo dục sang Giáo dục 4.0 là xu thế tất yếu của thế giới. Một số quốc gia có nền giáo dục tiên tiến đã đi được những bước lớn trong việc chuyển đổi này. Một số thành công trong chuyển đổi về mô hình giáo dục toàn diện, một số là những dự án triển khai trong một lĩnh vực giáo dục cụ thể. Nguyễn Hoàng Đoan Huy 172 Những mô hình chuyển đổi giáo dục đại học và dạy nghề như ở Singapore, Hoa Kỳ, Ấn Độ và một số quốc gia Châu Âu có thể là bài học kinh nghiệm hữu ích cho việc tiếp cận chuyển đổi Giáo dục đại học 4.0 cho chúng ta. Trên cơ sở phân tích những điển hình này, chúng ta có thể thấy được những cách tiếp cận khác nhau cũng như những hướng đi cụ thể để vận dụng vào việc đổi mới giáo dục ở nước ta, đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Lời cảm ơn. Bài báo là sản phẩm nghiên cứu của đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ năm 2018, mã số B2018-SPH-01HT. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Tác động cách mạng công nghiệp 4.0 đến nguồn nhân lực Việt Nam. Truy cập tại https://Vnep.org.vn. [2] thoi-40-140389.html [3] https://www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/14092/nguon-nhan-luc-chat-luong-cao--san- sang-truoc-cach-mang-cong-nghiep-4. [4] A. Abdelrazeq, D. Janssen, C. Tummel, A. Richert, S. Jeschke, 2016. Teacher 4.0: requirements of the teacher of the future in context of the fourth industrial revolution, iceri2016 Proceedings, pp. 8221-8226. [5] Andrea Benešová, Jiří Tupa, 2017. Requirements for Education and Qualification of People in Industry 4.0, 27th International Conference on Flexible Automation and Intelligent Manufacturing, FAIM2017, 27-30 June 2017, Modena, Italy. [6] Bo Xing, Tshilidzi Marwala, 2017. Implications of the Fourth Industrial Age on Higher Education. Truy cập tại https://arxiv.org/pdf/1703.09643.pdf. ABSTRACT Proposed issues in transforming into higher education 4.0 International experiences Nguyen Hoang Doan Huy Institute for Education Research , Hanoi National University of Education There are optimal preparations in education sector to catch up and serve the Industrial Revolution 4.0. In the ongoing and comprehensive education-reform-process in Vietnam, it is necessary to understand and draw lessons to prepare for the transformation to Higher Education 4.0. This paper addresses the elements of education in the Industrial Revolution 4.0, international experiences surrounding the transformation into Education 4.0 and the policy orientations for the upcoming innovations in Vietnam. Keywords: Revolution 4.0, Education 4.0, international experiences, education innovations.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5521_0034_21_hdhuy_9344_2132671.pdf
Tài liệu liên quan