Đề tài Vấn đề mở rộng đối tượng tham gia của bảo hiểm xã hội Việt Nam

Tài liệu Đề tài Vấn đề mở rộng đối tượng tham gia của bảo hiểm xã hội Việt Nam: Lời nói đầu Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Thì bảo hiểm xã hội ngày một phát triển và trưởng thành nhanh chóng. Bảo hiểm xã hội là một trong những bộ phận cấu thành và đóng vai trò quan trọng trong các chính sách xã hội. Quan điểm này thể hiện tính thống nhất cao cả của các nước về tính xã hội của bảo hiểm xã hội. Nó là một bộ phận không thể thiếu và có tính ổn định trong hệ thống chính sách bảo đảm xã hội. Mục tiêu của bảo hiểm xã hội là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập mất việc làm. Nhưng trong thực tế, tại đất nước ta số lượng lao động tham gia vào bảo hiểm xã hội còn rất hạn chế. Sự hạn chế này do những nguyên nhân nào? và làm sao để nghành bảo hiểm xã hội mở rộng được đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội . Do vậy việc nghiên cứu đề tài “vấn đề mở rộng đối tượng tham gia của bảo hiểm xã hội Việt Nam”.Sẽ giúp chúng ta phần nào biết được ng...

doc33 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1071 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vấn đề mở rộng đối tượng tham gia của bảo hiểm xã hội Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Thì bảo hiểm xã hội ngày một phát triển và trưởng thành nhanh chóng. Bảo hiểm xã hội là một trong những bộ phận cấu thành và đóng vai trò quan trọng trong các chính sách xã hội. Quan điểm này thể hiện tính thống nhất cao cả của các nước về tính xã hội của bảo hiểm xã hội. Nó là một bộ phận không thể thiếu và có tính ổn định trong hệ thống chính sách bảo đảm xã hội. Mục tiêu của bảo hiểm xã hội là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập mất việc làm. Nhưng trong thực tế, tại đất nước ta số lượng lao động tham gia vào bảo hiểm xã hội còn rất hạn chế. Sự hạn chế này do những nguyên nhân nào? và làm sao để nghành bảo hiểm xã hội mở rộng được đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội . Do vậy việc nghiên cứu đề tài “vấn đề mở rộng đối tượng tham gia của bảo hiểm xã hội Việt Nam”.Sẽ giúp chúng ta phần nào biết được nguyên nhân từ đó đưa ra một số nhận xét về khó khăn và thuận lợi của việc mở rộng và những kiến nghị giúp cơ quan bảo hiểm xã hội mở rộng được đối tượng tham gia. Từ đó giúp nghành bảo hiểm xã hội phát triển ngày càng vững mạnh. Đáp ứng được yêu cầu xã hội đặt ra. Do có sự hạn chế về khả năng và thời gian nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót và còn nặng về lý luận, em rất mong được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy, cô để bài viết được hoàn thiện hơn. Để hoàn thành đề án này được sự giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn Thạc sỹ Phạm Thị Định, em xin chân thành cảm ơn! Chương I Bảo hiểm xã hội và sự cần thiết mở rộng đối tượng tham gia. I.Thực trạng bảo hiểm xã hội trong thời gian vừa qua. 1.sự phát triển của bảo hiểm xã hội nước ta trong những năm vừa qua. Sau cách mạng tháng 8 thành công, trên cơ sở hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, chính phủ đã ban hành một loạt các sắc lệnh quy định về các chế độ, trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên chức nhà nước (có sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 ; sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 và sắc lệnh ngày 22/5/1950). Cơ sở pháp lý tiếp theo của bảo hiểm xã hội được thể hiện trong hiến pháp năm 1959. Hiến pháp năm 1959 của nước ta đã thừa nhận công nhân viên chức có quyền được trợ cấp bảo hiểm xã hội. Quyền này được cụ thể hoá trong điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức nhà nước, ban hành kèm theo nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 và điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức nhà nước ban hành kèm theo nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của chính phủ. Suốt trong những năm tháng kháng chiến chống xâm lược, chính sách bảo hiểm xã hội nước ta đã đóng góp phần ổn định về mặt thu nhập, ổn định cuộc sống cho công nhân viên chức, quân nhân và gia đình họ, góp phần rất lớn về động viên sức người sức của cho thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống xâm lược thống nhất đất nước. Đặc điểm của thời kỳ này là: Nguồn kinh phí hoàn toàn do ngân sách nhà nước cấp. áp dụng bắt buộc cho công nhân viên chức nhà nước. Quỹ tài chính Bảo Hiểm Xã Hội nằm trong ngân sách nhà nước. Bảo hiểm xã hội được thực hiện bởi tổng liên đoàn lao động và bộ lao động thương binh và xã hội. Bảo hiểm xã hội thực hiện dưới năm chế độ. Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và tiến hành chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Sự thay đổi mới về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính sách bảo hiểm xã hội nói riêng. Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: “Nhà nước thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối công nhân viên chức nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động”. Trong văn kiện Đại hội VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ, cần đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội theo hướng mọi người lao động và các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, thống nhất tách quỹ bảo hiểm xã hội ra khỏi ngân sách. Tiếp đến văn kiện Đại Hội Đảng lần thứ VIII cũng đã nêu lên “mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế.” Như vậy, các văn kiện trên của đảng và nhà nước là những cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội nước ta theo cơ chế thị trường. Ngay sau khi bộ luật lao động có hiệu lực ngày 26/1/1995. chính phủ đã ban hành nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 về điều lệ bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong các thành phần kinh tế. Nội dung của bản điều lệ góp phần thực hiện mục tiêu của đảng và nhà nước đề ra, góp phần công bằng và sự tiến bộ xã hội, góp phần lành mạnh hoá thị trường lao động và đồng thời đáp ứng được sự mong mỏi của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế của cả nước. 2.Bản chất của bảo hiểm xã hội đối với người lao động. 2.1 Khái quát về các chính sách bảo đảm xã hội. ở nước ta ngoài bảo hiểm xã hội chính sách bảo đảm xã hội còn có cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên của xã hội, trong những trường hợp bị bất hạnh, rủi ro, nghèo đói không đủ khả năng để tự lo cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình. Sự giúp đỡ này được thực hiện bằng các quỹ dự phòng của nhà nước, bằng tiền hoặc hiện vật của các tổ chức xã hội và những người hảo tâm. ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất và tinh thần của nhà nước, của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với những người hay một số bộ phận xã hội có nhiều cống hiến cho xã hội. Chẳng hạn những người có công với đất nước, liệt sĩ và thân nhân liệt sĩ, thương binh, bệnh binh v v...đều là những đối tượng được hưởng sự đãi ngộ của nhà nước, của xã hội. ưu đãi xã hội tuyệt nhiên không phải là sự bố trí ban ơn mà nó là chính sách có mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hội, góp phần củng cố thể chế chính trị của nhà nước trước mắt và lâu dài đảm bảo sự công bằng của xã hội. Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về đối tượng và phạm vi song bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội đều là những chính sách xã hội không thể thiếu được của một quốc gia. Những chính sách này luôn bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau và tất cả đều góp phần bảo đảm an toàn xã hội. 2.2 Bản chất của bảo hiểm xã hội Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn ở mặc và đi lại để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì cuộc sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn.như vậy việc thoả mãn các nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng của họ. nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuân lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sống bình thường. Trái lại có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. chẳng hạn bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao dộng và khả năng tự phục vụ bị suy giảm ....khi rơi vào những trường hợp này các nhu cầu trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại còn tăng lên, thậm trí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như cần được điều trị và chữa bệnh khi ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc và nuôi dưỡng v.v... bởi vậy muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng;đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của nhà nước v.v...rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu, người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản v.v...trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi một đồng nào. nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ một lúc phải bỏ ra một khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế mâu thuẫn chủ - thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động đến nhiều mặt đời sống kinh tế xã hội .Do vậy nhà nước phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt tăng cường được vai trò của Nhà Nước mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất xảy ra đối với người làm thuê. Với cách hiểu như trên, bản chất của bảo hiểm xã hội được thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau đây: - Bảo hiểm xã hội là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì bảo hiểm xã hội càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm xã hội không vượt qúa tình trạng kinh tế của mỗi nước. - Mối quan hệ giữa các bên trong bảo hiểm xã hội phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia bảo hiểm xã hội, bên bảo hiểm xã hội, và bên được bảo hiểm xã hội. Bên tham gia bảo hiểm xã hội có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên bảo hiểm xã hội (bên nhận nhiệm vụ bảo hiểm xã hội) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà Nước lập ra và bảo trợ. Bên được bảo hiểm xã hội là người lao động và gia đình họ có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong bảo hiểm xã hội có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp...hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già thai sản v.v...đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. - Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc bị mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia bảo hiểm xã hội đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ của nhà nước. - Mục tiêu của bảo hiểm xã hội là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc mất việc làm. II. Tình hình tham gia bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay. 1.Số người lao động tham gia bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay. Theo bộ luật lao động về bảo hiểm xã hội, trong đó quy định các đối tượng sau đây phải áp dụng các chế độ bảo hiểm xã hội : - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước. - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên. - Người lao dộng việt nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp; trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại việt nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. - Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể. - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang. - Người giữ chức vụ dân cử , bầu cử làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp; người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện. Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác điều dưỡng ở ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tuy nhiên, số người được tham gia vào bảo hiểm xã hội ở nước ta vẫn rất thấp. Theo số liệu thống kê năm 2001 cho chúng ta thấy: tổng số người được tham gia vào bảo hiểm xã hội là:4.403.870 người, tăng 161.140 người so với năm 2000 có nghĩa là số người chỉ tăng 3.8% so với năm 2000. Căn cứ vào những con số trên có thể cho ta thấy một cách rõ nét rằng tốc độ tăng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội vẫn còn rất hạn chế. Có thể khẳng định gần hoàn toàn số đối tượng tham gia này là thuộc loại đối tượng phải tham gia bắt buộc.Trong đó phần lớn là người lao động làm việc trong các khu vực nhà nước. Chúng ta cũng có thể rễ ràng lý giải được tình trạng trên bởi vì những đối tượng này làm công ăn lương, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. ở đây người sử dụng lao dộng chính là nhà nước (đóng 15% so với tổng quỹ lương). Còn lại một tỷ lệ tương đối nhỏ trong tổng số tham gia là người lao động làm việc trong khu vực ngoài quốc doanh có sử dụng 10 lao động trở lên, các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... đây cũng là một thực trạng ở việt nam chúng ta. Có thể đưa ra một số lý do cơ bản chủ yếu sau: Trình độ nhận thức của người lao động về bảo hiểm xã hội chưa cao. Họ chỉ xuy nghĩ trước mắt là không muốn mất đi 5% từ tiền lương của mình. Đây là thu nhập có thể giúp họ chi tiêu cho cuộc sống đặc biệt đối với những gia đình có mức sống thấp, ít có tích luỹ. - Các doanh nghiệp là phía người sử dụng lao động họ phải đóng góp một phần tương đối lớn cho người lao động mà họ sử dụng(15% tổng quỹ lương). Do vậy họ tìm cách né tránh chốn đóng. Điều này dẫn đến số lượng lao động tham gia vào bảo hiểm xã hội chưa cao. - Quy chế quản lý công tác thu của cơ quan bảo hiểm xã hội chưa cao làm cho các chủ sử dụng lao động có thể chốn tránh được. 2.Tổng số lực lượng lao động của nước ta hiện nay. 2.1.Khái niệm lực lượng lao động. Lực lượng lao động là bộ phận của nguồn lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động, đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp song có nhu cầu tìm việc. Như vậy lực lượng lao động là bộ phận tạo ra sản phẩm cho xã hội góp phần phát triển nền kinh tế của đất nước. 2.2.Lực lượng lao động ở nước ta hiện nay. Với đặc thù của nước ta là một đất nước đang phát triển. Nước ta có một cơ cấu dân số trẻ, quy mô của lao động chiếm 59.3% dân số. Với đặc điểm cơ cấu trên cho ta thấy một số lợi thế và hạn chế của nguồn lao động sau: - Thuận lợi: với đặc điểm của dân số nước ta là dân số trẻ. Do đó, đây là lực lượng rồi rào cho việc sản xuất ra sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ phục vụ quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước; lực lượng lao động trẻ có sức khoẻ, năng động ,sáng tạo trong lao động. Đặc biệt có một lực lượng lao động được đào tạo qua trường lớp. Họ có thể làm việc trong những nghành nghề nặng nhọc, những nghành nghề đòi hỏi kỹ thuật cao. - Khó khăn: Đây là lực lượng lao động trẻ mặc dù được qua đào tạo nhưng còn nặng về lý thuyết, thiếu kinh nghiệm thực tiễn do vậy đòi hỏi phải qua rèn luyện trong thực tế. Ngoài ra,tính ổn định trong công việc chưa cao. Lực lượng lao động ở nước ta chủ yếu tập trung ở nông thôn. Theo số liệu thống kê cho thấy 73% lực lượng lao động tập trung ở nông thôn. Đây là khu vực có đặc thù là lao động theo mùa vụ thu nhập thấp chỉ khoảng 255.000(đồng)/1 người/1 tháng.Thu nhập trong gia đình phần lớn là để đáp ứng nhu cầu chi tiêu tối thiểu. Số lao động còn lại (27% ) là lao động làm việc trong lĩnh vực nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... Số lao động làm việc trong lĩnh vực này có thu nhập ổn định được sự quản lý của nhà nước trong việc thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay tình hình đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn hiện tượng trốn tránh và nợ đọng nhiều. Hầu hết các doanh nghiệp có sử dụng lao động mà không thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thì tham gia còn hạn chế. Trong đề tài này, chúng ta sẽ tập trung vào việc nghiên cứu để có thể đưa ra những biện pháp tăng cường công tác thu quỹ đối với các doanh nghiệp còn nợ đọng và chốn tránh. Đây là những doanh nghiệp thuộc diện bắt buộc phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Mở rộng cho những người lao động trong các doanh nghiệp không thuộc diện bắt buộc có thể tham gia vào bảo hiểm xã hội. Đặc biệt là tạo điều kiện cho người lao động làm việc trong khu vực nông thôn có thể tham gia vào bảo hiểm xã hội. Đảm bảo quyền lợi công bằng đối với mọi người lao động trong xã hội( không phân biệt ngành nghề, giàu nghèo... ). III. Sự cần thiết mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội việt nam. 1.Vai trò của bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội ở việt nam. Việt nam là một nước đông dân (77 triệu người, đứng hàng thứ 12 trên thế giới), nhưng lại là một trong những nước nghèo nhất thế giới (với thu nhập bình quân đầu người chưa đến 400USD/năm). Vì vậy, an sinh xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội nói riêng có ý nghĩa rất to lớn đối với người dân và người lao động. Qua gần 40 năm thực hiện, chính sách bảo hiểm xã hội đã phát huy dần từng bước, từ chỗ đối tượng bảo hiểm xã hội chỉ là công nhân viên chức nhà nước, đến nay đã mở rộng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Tính đến nay đã có khoảng 4 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội và gần 2 triệu người đang hưởng các trợ cấp bảo hiểm xã hội thường xuyên. Chính sách bảo hiểm xã hội đã góp phần to lớn vào việc ổn định đời sống cho người lao động thụ hưởng bảo hiểm xã hội; góp phần ổn định chính trị xã hội đất nước. Tuy nhiên, so với tỷ lệ lao động cả nước thì tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội còn thấp. Những người lao động trong khu vực phi kết cấu, lao động trong khu vực nông nghiệp và lao động trong các doanh nghiệp có sử dụng dưới 10 lao động chưa được tham gia vào bảo hiểm xã hội, chưa được sự bảo vệ của hệ thống. Điều này đã làm tăng nguy cơ gánh nặng của hệ thống an sinh xã hội. Nghĩa là tăng nguy cơ cho các chi phí công cộng để trợ giúp cho các đối tượng này. Theo một số dự báo, dân số nước ta tiếp tục tăng trong 20 năm tới, mặc dù tốc độ tăng đã giảm. có thể thấy điều này qua các số liều sau: Đơn vị tính: 1000 (người) năm Dân số Dân số từ 15 – 49 tuổi 2000 77.700 21.066 2005 82.500 23.663 2010 87.400 25.501 2015 92.300 25.958 2020 97.100 26.237 (Nguồn: chương trình mục tiêu phát triển dân số – uỷ ban dân số và kế hoạch hoá gia đình). Đến những năm 30 của thế kỷ này, dân số nước ta sẽ đạt 100 triệu người và lực lượng lao động khoảng 49 triệu người. Đây là lực lượng lao động đông đảo có thể tham gia bảo hiểm xã hội nếu như chính sách bảo hiểm xã hội được mở rộng và như vậy sẽ có khoảng 50% dân cư đã được bảo vệ bởi hệ thống an sinh xã hội quốc gia. Hay nói cách khác, nguy cơ rủi ro trong lao động của gần 50% dân cư đã được bảo vệ bởi các chế độ bảo hiểm xã hội. Điều này đã giảm chi phí công cộng để để thực hiện các trợ giúp xã hội tối thiểu. Xét dưới khía cạnh kinh tế, khi các chi phí công cộng cho trợ giúp xã hội giảm đi thì số tiền từ ngân sách và xã hội sẽ được đầu tư vào các lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân, làm cho đời sống của người dân được “an sinh” hơn. Đây là ý nghĩa rất lớn lao của sự mở rộng và phát triển bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội quốc gia. Hệ thống bảo hiểm xã hội được mở rộng góp phần giảm bớt những đối tượng cần trợ giúp xã hội. Hiện nay ở việt nam, những đối tượng cần trợ giúp rất nhiều như những người già cô đơn không nơi nương tựa ( khoảng 300.000 người), người tàn tật (khoảng 4 triệu), trẻ em mồ côi hoặc có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (khoảng 200 ngàn người),người nghèo (chiếm 11% số hộ cả nước)... những đối tượng này ( không phải tất cả) nếu được tham gia vào các hệ thống bảo hiểm xã hội ( hoặc bắt buộc hoặc tự nguyện ), đặc biệt là lao động nông thôn và nông dân, nơi chiếm 80% dân số và trên 70% lực lượng lao động cả nước, thì họ phần nào được sự bảo vệ của hệ thống, được sự san sẻ của những người cùng tham gia bảo hiểm như vậy gánh nặng của ngân sách, của các quỹ công cộng và của cộng đồng sẽ nhẹ bớt. Điều này cũng có nghĩa là hệ thống an sinh xã hội quốc gia càng đảm bảo và phát triển.Tất nhiên, để đạt được sự an sinh xã hội nói chung, không chỉ là tự thân của hệ thống mà còn phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước. 2. Tỷ lệ tham gia của số người lao động thấp. Tính đến năm 2000 số người tham gia bảo hiểm xã hội tăng 69% so với năm 1995. cũng trong năm 2000 số người hưởng bảo hiểm xã hội trên số người nộp bảo hiểm xã hội là 45,9%. Tuy nhiên, theo số liệu năm 2001 số người tham gia bảo hiểm xã hội còn rất thấp, chỉ chiếm khoảng 10,5% tổng số lực lượng lao động và chiếm 68,3% tổng số lao động phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và đại đa số người tham gia bảo hiểm xã hội là lao động trong khu vực nhà nước (87,4%). Số người tham gia bảo hiểm xã hội của khu vực ngoài nhà nước chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn (12,6%) Nguyên nhân chính là do đại đa số người lao động không hiểu ý nghĩa của bảo hiểm xã hội mà coi đó như là một trong những hoạt động bảo hiểm thương mại. Người sử dụng lao động thường có xu hướng né tránh nộp bảo hiểm xã hội cho người lao động hay chỉ ký kết hợp đồng ngắn hạn dưới 3 tháng. Do những quy định bắt buộc của pháp luật về bảo hiểm xã hội nên một số lớn người lao động và người sử dụng lao động khi tham gia bảo hiểm xã hội. Mặt khác, các biện pháp kiểm tra thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội ít hiệu quả nên nhiều người sử dụng lao động sẵn sàng nộp phạt để không phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Từ năm 1962, nhà nước đã có chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với công nhân viên chức trong biên chế nhà nước. Cho đến năm 1995 chính sách bảo hiểm xã hội được mở rộng đến người lao động làm công ăn lương trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, ở những doanh nghiệp có sử dụng 10 lao động trở lên. Song, trong tổng số khoảng 40 triệu người trong độ tuổi lao động của cả nước thì mới chỉ có 10,5% tham gia vào bảo hiểm xã hội bắt buộc và cũng chủ yếu cho lao động ở khu vực nhà nước. Như vậy, còn khoảng 89,5% lực lượng lao động chưa tham gia bảo hiểm xã hội. Trong đó, 62,27% lao động ở nông thôn (bao gồm: nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ). Do vậy việc thể chế hoá chính sách bảo hiểm xã hội để mọi người lao động đều được quyền tham gia và hưởng bảo hiểm xã hội là cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đặc biệt đối với nông dân, việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tao được môi trường pháp lý để người nông dân tiết kiệm một phần thu nhập và tích luỹ những năm tháng lao động của mình. Nhằm đảm bảo cuộc sống ổn định khi tuổi già và không phải lo dựa vào con cháu cũng như sự cứu tế của xã hội. Đây cũng là giải pháp quan trọng để ổn định chính trị xã hội ở nông thôn trong tình hình hiện nay, đáp ứng mong muốn chính đáng của người nông dân. 3.Bảo hiểm xã hội góp phần thực hiện công bằng xã hội. Bảo hiểm xã hội tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa người tham gia vào bảo hiểm xã hội.Tham gia vào bảo hiểm xã hội bao gồm những người có mức thu nhập khác nhau, lao động trong những nghành nghề khu vực kinh tế khác nhau. hay nói một cách tổng quát, tham gia vào bảo hiểm xã hội bao gồm cả người lao động và người sử dụng lao động. Các bên tham gia vào bảo hiểm xã hội đều phải đóng một tỷ lệ nhất định của tiền lương. Từ đó hình thành nên quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ này được quản lý bởi cơ quan nhà nước. Khi người lao động tham gia không may gặp phải các rủi ro dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống của họ mà còn ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình họ. Nhờ có quỹ bảo hiểm xã hội mà những người này được trợ cấp một phần nào đó đủ để giúp họ vượt qua những khó khăn ổn định cuộc sống. Nhưng số lượng người gặp rủi ro này thường chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, bảo hiểm xã hội thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang, bằng hình thức trợ cấp. Bảo hiểm xã hội phân phối lại thu nhập giữa những người lao động có thu nhập thấp và thu nhập cao, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu nghỉ việc thông qua hình thức đóng góp tạo nên quỹ chung... Như vậy, bảo hiểm xã hội góp phần tạo ra sự công bằng giữa các thành viên trong xã hội. Tạo điều kiện cho các thành viên trong xã hội có thể gián tiếp giúp đỡ hỗ trợ nhau. Khi một số ít các thành viên không may gặp rủi ro. Từ đó, phát huy truyền thống lá lành đùm lá rách của dân tộc ta. 4. Bảo hiểm xã hội góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động khi gặp khó khăn. Khi người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm thì phần thu nhập này sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần. Theo quy luật sinh học thì con người suy cho cùng cũng là một sinh vật sống cũng trải qua các giai đoạn phát triển sinh học. Khi còn trẻ có đầy đủ sức khoẻ thì có thể lao động tạo ra của cải vật chất để nuôi sống mình và gia đình. Nhưng khi về già sức khoẻ bị giảm sút không còn khả năng lao động đây là một tất yếu không một ai có thể tránh khỏi. Như vậy ,sự đảm bảo bù đắp thay thế này chắc chắn sẽ xảy ra. Còn khi người lao động bị mất việc làm hoặc mất khả năng lao động tạm thời (ốm đau, tai nạn....)dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập thì thông qua bảo hiểm xã hội sẽ được trợ cấp một phần thu nhập để họ có thể vượt qua những khó khăn. Việc bù đắp phần thu nhập khi người lao động hết tuổi lao động thì phải theo điều kiện quy định cụ thể. Còn mức hưởng trợ cấp tạm thời phải phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết,thời điểm và thời hạn hưởng phải đúng quy định. 5. Bảo hiểm xã hội góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi người lao động bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già thì lúc này người lao động gặp rất nhiều khó khăn đồng thời trở thành ghánh nặng cho xã hội nhờ có bảo hiểm xã hội mà họ được trợ cấp, thay thế phần thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm gắn bó với công việc, nơi làm việc. Khi người lao động còn khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Bởi vì, do có sự đảm bảo cho cuộc sống của họ cũng như gia đình họ từ đó họ rất tích cực hăng say trong lao động sản xuất, không ngừng tìm tòi đưa ra những sáng tạo trong lao động sản xuất tiết kiệm được nguyên vật liệu. Từ đó nâng cao năng xuất lao động, giảm được chi phí sản xuất dẫn đến tăng lợi nhuận. Tác dụng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng xuất lao dộng cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội. Điều này làm tăng tổng sản phẩm quốc dân góp phần phát triển nền kinh tế đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước hiện nay. 6. Bảo hiểm xã hội gắn bó lợi ích người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương (người sử dụng lao động thì muốn trả một mức tiền công nhỏ để tối đa hoá lợi nhuận còn người lao động lại muốn có tiền công lao động cao để chi tiêu cho cuộc sống), tiền công thời gian lao động v.v...thông qua việc cùng nhau đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội mà những mâu thuẫn này được giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ bảo hiểm xã hội mà mình có lợi và được bảo vệ từ đó làm họ hiểu nhau hơn và gắn bó được lợi ích được lại với nhau. 7.Một số tác dụng khác của bảo hiểm xã hội. Trong trường hợp người lao động bị ốm đau, bệnh tật, mất việc...nếu không có sự trợ cấp của bảo hiểm xã hội hoặc không có một nguồn nào khác để giúp họ chi tiêu cho nhu cầu tối thiểu thì núc đó sẽ dẫn đến chính bản thân người lao động cùng với người phụ thuộc trong gia đình họ lâm vào tình trạng khó khăn (thiếu ăn con cái không có tiền ăn học ...). Điều này có thể dẫn đến các tệ nạn xã hội (trộm cắp, cướp giật) nếu xảy ra trong một phạm vi nhỏ thì làm mất trật tự an ninh ở một khu vực. Nếu xảy ta ở diện rộng thì sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị của đất nước. Nhờ có bảo hiểm xã hội mà đảm bảo cuộc sống của họ thông qua hình thức trợ cấp từ đó bảo hiểm xã hội đã gián tiếp giúp ổn định an ninh, chính trị của đất nước. Xét trên cấp độ của một xã hội thì thông qua hình thức bảo hiểm nói chung, bảo hiểm xã hội nay riêng đã góp phần làm giảm tổng rủi ro cho xã hội hay nay cách khác nó đã làm giảm tính không chắc chắn.Thông qua việc thu phí bảo hiểm. Dựa trên quy luật số lớn để hình thành nên quỹ tài chính bảo hiểm dự trữ để bồi thường những thiệt hại do những rủi ro gây ra. Như vậy, để đảm bảo quy luật số đông bù số ít thì bảo hiểm xã hội phải mở rộng đối tượng tham gia một cách rộng rãi. Thông qua hình thức bảo hiểm xã hội đã giúp các doanh nghiệp giảm được các khó khăn về tài chính, nhân sự khi người lao động của mình không may gặp rủi ro. Đặc biệt đối với những người lao động có vị trí quan trọng trong doanh nghiệp. Qua đó đảm bảo cho nhà sản xuất ổn định được quá trình sản xuất trong mọi điều kiện xảy ra. Như vậy bảo hiểm xã hội đã tạo điều kiện gần như tốt nhất cho sản xuất về mức độ giá, cấu trúc giá. Đặc biệt nó giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ giữ vững vị trí cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn. Do đó, với việc mở rộng đối tượng tham gia ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ (ví dụ ở các doanh nghệp có sử dụng dưới 10 lao động. Sẽ phát huy được các tác dụng trên của bảo hiểm xã hội. ở nước ta hiện nay, chế độ bảo hiểm xã hội mới chỉ do nhà nước thực hiện. Bảo hiểm xã hội đã có 61 chi nhánh ở 61 tỉnh thành trên đất nước ta.Số lượng này phản ánh được chủ trương chính sách của nhà nước ta trong việc thực hiện các chính sách xã hội. Hệ thống bảo hiểm xã hội của đất nước ta là rất lớn nó thu hút một số lượng lớn lao động làm việc trong nghành này. Nếu mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội thì nghành bảo hiểm xã hội phải mở rộng công tác thu phí bảo hiểm, công tác quản lý và đầu tư quỹ, công tác chi trả chế độ. Sẽ cần thêm một số lượng lao động đáng kể làm việc trong nghành này như vậy ta thấy với việc mở rộng thì nó đã góp một phần nào đó trong việc giải quyết vấn đề thất nghiệp hiện nay. Đặc biệt nó đã tạo ra cơ hội việc làm cho các sinh viên chuyên nghành bảo hiểm khi ra trường. Để bảo tồn và phát triển quỹ đảm bảo chi trả thì các công ty bảo hiểm nói chung và cơ quan bảo hiểm xã hội nay riêng phải đem đầu tư quỹ. Hiện nay, trên thế giới nghành bảo hiểm đóng góp từ 10% đến 15% tổng thị trường vốn. Chiếm từ 10% đến 19% GDP. ở việt nam, nghành bảo hiểm cũng chiếm 0,6% GDP. Với đặc thù đất nước ta là một đất nước đang phát triển rất cần các nguồn vốn để phát triển đất nước. Và thực tế hiện nay với chủ trương của Đảng và nhà nước ta, đang có những chính sách kêu gọi, huy động vốn đầu tư từ các nguồn khác nhau. Đảng ta đã nhận định rằng : phải phát triển nền kinh tế bằng nội lực của chính mình. Vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng nhưng yếu tố quyết định lại là vốn đầu tư trong nước. Để huy động vốn đầu tư trong nước thì phải thông qua các tổ chức tài chính, bằng các công cụ tài chính. Mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội sẽ giúp cơ quan bảo hiểm xã hội thu được nhiều phí hơn, quỹ tài chính chung lớn hơn. Từ đó nó đóng góp vào việc đầu tư phát triển đất nước. Ngoài ra thông qua hình thức đóng bảo hiểm xã hội mà có thể huy động được số tiền nhàn rỗi của người lao động, mặc dù số tiền nhàn rỗi của mỗi một người thì nhỏ nhưng nếu huy động của nhiều người thì đó là một số tiền lớn. Mục tiêu của ngành bảo hiểm nước ta là sẽ đóng góp 2% vào GDP của đất nước Thông qua những tác dụng cơ bản trên chúng ta thấy việc mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội là rất cần thiết trong tình hình hiện nay. Chương II Tính khả thi của việc mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội ở nước ta. I.Về phía người lao động. Người lao động là đối tượng đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội và cũng là đối tượng được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Như đã trình bày ở các phần trên. Đất nước ta còn một số lượng lớn người lao động chưa tham gia vào bảo hiểm xã hội. Nên việc triển khai việc mở rộng đối tượng tham gia là rất cần thiết và đòi hỏi việc triển khai một cách nhanh chóng. Trong quá trình triển khai sẽ gặp phải những thuận lợi khó khăn gì? phần này chúng ta sẽ đề cập đến những thuận lợi và khó khăn đối với một số đối tượng lao động chủ yếu. Đối với người nông dân và lao động ở nông thôn. Qua một số cuộc khảo sát cho thấy trong số nông dân và lao động nông thôn, số người ở nhóm tuổi từ 25 –55 chiếm đại đa số (87-90%). Đây là nhóm người đang là lực lượng lao động chủ chốt của các gia đình nông thôn. Đồng thời, những người này cũng là nhóm chủ yếu tham gia bảo hiểm xã hội. Số người này có nguyện vọng tham gia bảo hiểm xã hội rất cao. Nguyện vọng tham gia bảo hiểm xã hội của từng nhóm tuổi như sau: Nhóm tuổi Nam Nữ 16 – 24 25 – 40 41 – 54 55 - 60 88,23 87,50 92,41 71,43 100,00 89,02 92,22 88,89 Nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội ở nhóm 41-54 tuổi là cao nhất. Có lẽ do nhóm này đã bước đầu bước sang “ngưỡng già” theo quan niệm truyền thống ở nông thôn, và vì vậy họ đã nghĩ đến cuộc sống khi về già dưới sự bảo trợ của quỹ bảo hiểm xã hội. Do chưa được hưởng bảo hiểm xã hội nên nhu cầu tham gia vào bảo hiểm xã hội của người nông dân rất lớn. Qua điều tra cho thấy có gần 90% số người có nguyện vọng tham gia vào bảo hiểm xã hội.So với cuộc điều tra trước đây thì hiện nay nhu cầu của người nông đã tăng nên rất nhiều. Giữa các nhóm lao động, nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội có sự khác biệt nhất định. Những người làm diêm nghiệp có nguyện vọng tham gia vào bảo hiểm xã hội rất lớn (98,11%) trong khi đó nhu cầu của những người trồng cây công nghiệp tỷ lệ này lại thấp hơn (76,43%) Nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội không chỉ cho chính bản thân người lao động nông thôn mà còn đối với các thành viên khác trong gia đình. Đây là một đặc điểm trong truyền thống gia đình Việt nam. Do sống nhiều thế hệ trong cùng mái nhà. Các thành viên trong gia đình lo toan cho nhau không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai có một tỷ lệ khá lớn (47%) sẵn sàng tham gia bảo hiểm xã hội cho người thân của mình. Nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội của người dân nông thôn mang đậm nét văn hoá. Họ lo toan cho tuổi già hơn cuộc sống hiện tại. Qua kết quả khảo sát cho thấy, trong số những người có nhu cầu tham gia vào bảo hiểm xã hội thì có tới 91,07% có nhu cầu tham gia tuổi già và khoảng 40,02% muốn tham gia chế độ tử tuất. Xét về khả năng tham gia bảo hiểm xã hội ta thấy: khả năng tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động nông thôn, thông qua tình trạng làm việc và khả năng tạo thu nhập. Ngoài các công việc chính có một tỷ lệ khá lớn(56,36%) có làm thêm các nghề phụ. Như vậy sự đa dạng hoá công việc ở nông thôn đã tạo khả năng lớn hơn cho người lao động ở nông thôn có thêm thu nhập. Thu nhập bản thân người lao động có sư khác biệt giữa các nhóm lao động.Điều này cho thấy khả năng tham gia vào bảo hiểm xã hội của các nhóm lao động là khác nhau. Người lao động nông thôn chi tiêu khá tằn tiện. Do vậy mà họ đã tích luỹ được ở mức độ nhất định (gần 51% tổng thu). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là họ khá giả mà chẳng qua họ đã để giành để chi dùng vào những việc khác của gia đình. Bởi lẽ nếu so sánh mức chi tiêu của người lao động với mức thu nhập bình quân đầu người trong gia đình thì mức chi tiêu cảu người lao động lớn hơn 1,12 lần. Cũng như các đối tượng chưa tham gia bảo hiểm xã hội khác, khả năng tham gia của người nông dân còn rất hạn chế. Điều này do một phần thu nhập thực tế thấp mặt khác do nhận thức về bảo hiểm xã hội của người lao động ở nông thôn còn rất hạn chế. Đây là những khó khăn chủ yếu khi mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội cho những người nông dân. Đối với những lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lao động tự do. Với việc mở rộng bảo hiểm xã hội có những thuận lợi là: đây là một số lượng lớn lao động chưa tham gia bảo hiểm xã hội. Bản chất của bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội do đó những đối tượng này rất mong mỏi được tham gia vào bảo hiểm xã hội. Từ đó họ sẵn sàng giúp đỡ tạo mọi điều kiện cho việc mở rộng, tích cực tham gia vào việc mở rộng. Tuy nhiên, còn một số ít người chưa hiểu rõ về chính sách bảo hiểm xã hội nên họ còn có tư tưởng né tránh không tham gia. Mặt khác, còn cho thấy nhận thức của người lao động về bảo hiểm xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và tổ chức công đoàn còn rất hạn chế, chưa thấy được ý nghĩa của 5% tiền lương tham gia đóng góp, để được hưởng cao hơn do có phần các chủ doanh nghiệp đóng so với quỹ tiền lương và nhà nước hỗ trợ, là lợi ích thiết thân của chính mình, vì lợi ích của những thân nhân và của cả cộng đồng. Bên cạnh đó những đối tượng lao động này rất khó quản lý. Đây cũng là những khó khăn cho việc mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội II. Về phía người sử dụng lao động. Sau một thời gian nước ta thực hiện quá trình đổi mới nền kinh tế thì nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến rõ rệt. Từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết quản lý của nhà nước. Từ nền kinh tế chỉ có thành phần kinh tế nhà nước và hợp tác xã. Đã chuyển thành nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế vận động theo quy luật của thị trường. Từ nền kinh tế không có quan hệ thuê mướn lao động sang có quan hệ thuê mướn lao động. Với sự ra đời của luật doanh nghiệp đã khuyến khích hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời, đáp ứng được nhu cầu phát triển của thị trường hiện nay. Đi đôi với nó là phát sinh nhiều quan hệ thuê mướn lao động giữa người chủ sử dụng lao động với người lao động. Đặc trưng của các doanh nghiệp này là thường thuê mướn số lượng lao động nhỏ. Trong những năm gần đây với sự các chính sách của nhà nước về khu vực nông thôn thì hàng loạt các mô hình kinh tế trang trại ra đời ở những nơi này cũng xuất hiện quan hệ thuê mướn lao động. Như vậy ta thấy khi mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội thì gặp thuận lợi là: số lao động số đơn vị tổ chức có sử dụng lao động chưa tham gia vào bảo hiểm xã hội còn ở mức khá cao đặc biệt ở những nơi có sử dụng dưới 10 lao động (thuộc đối tượng tham gia tự nguyện ). Bên cạnh đó những người sử dụng lao động này họ nhận thức được bảo hiểm xã hội là một chính sách phi lợi nhuận và việc thực hiện chính sách này cho người lao động của mình là một nghĩa vụ để đảm bảo quyền lợi cho người lao động và cũng là quyền lợi của chính mình. Bởi vì như đã trình bày ở phần tác dụng của bảo hiểm xã hội. Khi tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động giúp chủ sử dụng lao động ổn định được mọi điều kiện sản xuất, kinh doanh trong trường hợp sảy ra với người lao động của mình. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện không tránh khỏi một số khó khăn chủ yếu sau: đây là các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có quy mô vừa và nhỏ điều này gây khó khăn cho việc quản lý giám sát việc đóng phí định kỳ của người lao động và người chủ sử dụng lao động. Thực tế hiện nay nhiều doanh nghiệp tư nhân chưa thực hiện ký kết hợp đồng lao động hoặc có ký, lại ký hợp đồng lao động ngắn hạn, hay hợp đồng thời vụ để trốn đóng bảo hiểm xã hội. Một số doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, thậm chí có các doanh nghiệp đang trong tình trạng sụp đổ, đây cũng là khó khăn khi thực hiện vấn đề mở rộng. Chủ sử dụng lao động sẽ né tránh nộp bảo hiểm xã hội cho người lao động. Các “ông chủ” không đời nào muốn mất đi 15% tổng quỹ lương là số tiền đã được hoạch toán vào giá thành sản phẩm. Dĩ nhiên, nếu không nộp bảo hiểm xã hội cho người lao động thì 15% lương ấy được xem như là thu nhập của các “ông chủ”. Ngoài ra, phải thừa nhận là hầu hết trong các doanh nghiệp này còn thiếu tổ chức đại diện bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp cho người lao động. Nên khi người sử dụng lao động chốn tránh không đóng bảo hiểm xã hội thì rất khó có thể đấu tranh buộc chủ sử dụng lao động phải đóng cho người lao động. III. Về phía nhà nước. 1. Việc quản lý thu phí và thực hiện các nghiệp vụ chi trả. Cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội thì đi đôi với nó là việc mở rộng công tác tổ chức quản lý của cơ quan quản lý nhà nước. Vấn đề mở rộng tổ chức quản lý sẽ đáp ứng được nhu cầu về quản lý thu, chi trả trợ cấp. Hơn nữa nó đem lại công ăn việc làm cho một số người lao động. Hiện nay ở nước ta số cán bộ làm việc trong nghành bảo hiểm xã hội có trình độ chuyên môn còn thiếu rất nhiều. Còn nhiều cán bộ vẫn chịu ảnh hưởng của cơ chế quan liêu còn có thái độ chưa đúng đối với cán bộ tham gia vào bảo hiểm xã hội. Khi thực hiện mở rộng cũng gặp khó khăn ở việc tổ chức quản lý nhất là trong tình hình hiện nay chúng ta thực hiện việc chuyển bảo hiểm y tế sang bảo hiểm xã hội khiến cho công việc quản lý cũng gặp không ít những khó khăn. Còn nhiều người sử dụng lao động nợ đọng đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Đối với những người lao động tự do làm việc ở nông thôn có thu nhập không ổn định cũng sẽ gây khó khăn cho công tác thu. Do vậy phải chuẩn bị đào tạo được một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất chính trị, có đủ về trình độ chuyên môn, có tinh thần phục vụ người dân. Điều này cũng ảnh hưởng đến đối tượng tham gia. Bên cạnh đó, Nhà nước ta chưa có pháp chế quy định sử phạt đủ lớn đối với những chủ sử dụng lao động còn nợ đọng. Do vậy, còn có rất nhiều chủ sử dụng lao động mặc dù họ có đầy đủ khả năng tài chính để đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động nhưng họ lại cố tình không đóng và sẵn sàng chịu nộp phạt. Bởi vì họ chỉ cần tính toán một lần bị phạt chỉ có khoảng từ 1 đến 2 triệu. Điều này quá rẻ so với đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Ngoài việc thu phí bảo hiểm xã hội còn đi đôi với nó là thực hiện việc chi trả các chế độ. Hiện nay ở nước ta có khoảng 2 triệu lao động đang hưởng các trợ cấp bảo hiểm xã hội thường xuyên. Việc tăng đối tượng tham gia thì cũng đồng nghĩa với ciệc tăng đối tượng hưởng và sẽ ảnh hưởng đến quỹ. 2. Thực hiện việc đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội. Như chúng ta đã biết, theo quy luật số đông bù số ít và tính trung bình thì số tiền mà mỗi người lao động đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội sẽ nhỏ hơn tổng số tiền mà người lao động được hưởng trợ cấp từ các chế độ bảo hiểm xã hội. Do vậy để có thể đảm bảo đủ khả năng tài chính cho quỹ bảo hiểm xã hội để đảm bảo có thể chi trả cho các đối tượng trong thời gian dài thì phải tiến hành đầu tư quỹ. Việc đầu tư quỹ phải đảm bảo nguyên tắc an toàn có nghĩa là việc đầu tư phải đảm bảo tăng trưởng quỹ và luôn luôn đảm bảo được khả năng chi trả Nước ta là một nước đang phát triển. Toàn Đảng toàn dân ta đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Chúng ta rất cần các nguồn vốn đầu tư từ ngoài nước và trong nước. Có rất nhiều các công trình dự án đầu tư cần các nguồn vốn. Đặc biệt là các công trình vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đảng và nhà nước ta xác định nguồn vốn trong nước là quyết định. Do đó, việc sử dụng quỹ để đầu tư ngoài việc làm tăng trưởng quỹ còn góp phần vào mục tiêu phát triển đất nước. Như đã trình bày ở trên bảo hiểm xã hội như là một biện pháp huy động thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ người lao động trong xã hội. Khi thực hiện mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội thì quỹ bảo hiểm xã hội sẽ tăng nên làm cho công tác đầu tư được thuận lợi hơn có đủ nguồn vốn để đầu tư vào những dự án lớn. Tuy nhiên, trong qua trình đầu tư cũng không tránh khỏi một số khó khăn như đội ngũ cán bộ có hiểu biết về lĩnh vực đầu tư còn thiếu. Trong quá trình đầu tư chưa đảm bảo được nguyên tắc an toàn hoặc qua chú trọng nguyên tắc an toàn dẫn đến lợi nhuận từ việc đầu tư còn thấp. Chương III Giải pháp để thực hiện việc mở rộng đối tượng tham gia. I. Nhà nước cần đưa ra các điều kiện bổ sung, các quy định về đối tượng tham gia tự nguyện cũng như bắt buộc. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách bảo hiểm xã hội ,tổ chức thực hiện bộ máy bảo hiểm xã hội. Bởi vì, đây là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế xã hội. Cho nên, vai trò của nhà nứôc là rất quan trọng. Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự can thiệp của nhà nước, nếu không có sự quản lý vĩ mô của nhà nước thì mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động sẽ không được duy trì bền vững mối quan hệ ba bên sẽ bị phá vỡ. Trước hết, phải khẳng định rằng việc khẳng định chính sách bảo hiểm xã hội là khâu đầu tiên và quan trọng nhất. Sự quản lý của nhà nước về vấn đề này thể hiện ở việc xây dựng các dự án luật, các văn bản pháp quy về bảo hiểm xã hội và ban hành thực hiện. Sau đó là hướng dẫn kiểm tra các tổ chức, các nhân thực hiện chính sách. Đối với việc đảm bảo vật chất cho bảo hiểm xã hội thì vai trò của nhà nước phụ thuộc vào các chính sách bảo hiểm xã hội do nhà nước quy định. Để quản lý bảo hiểm xã hội, nhà nứơc sử dụng các công cụ chủ yếu, như luật pháp bộ máy tổ chức. Theo quy định của bộ lao động về bảo hiểm xã hội ở nước ta về đối tượng tham gia bắt buộc vào bảo hiểm xã hội. Thì hiện nay nước ta có khoảng 15% lực lượng lao động tham gia vào bảo hiểm xã hội. Đây là một tỷ lệ thấp. Do vậy, để mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội thuộc loại bắt buộc. Đòi hỏi, nhà nước phải ban hành các quy định, bắt buộc các đối tượng phải tham gia bảo hiểm xã hội ví như theo quy định hiện hành là: các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng 10 lao động trở nên. Thì nay, có thể quy với viẹc sử dụng lao động thấp hơn đã phải tham gia vào bảo hiểm xã hội bắt buộc cho người lao động (chẳng hạn từ 5 lao động trở lên). Cần ban hành các quy định sao cho phù hợp với hình thức sử dụng lao động hiện nay (ví dụ như hình thức kinh tế trang trại mới chỉ xuất hiện trong một số năm gần đây). Đối với các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội dưới hình thức tự nguyện theo quy định hiện hành. Nhà nước xem xét có thể đưa ra những quy định cụ thể để chuyển một số đối tượng thuộc diện tham gia tự nguyện sang hình thức bắt buộc. Cần có hình thức khuyến khích để số lượng tham gia bảo hiểm xã hội được cao hơn. II. Về bên cơ quan bảo hiểm xã hội việt nam. 1.Cần hoàn thiện và từng bước bổ sung thêm các chế độ hưởng. Bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện nay bao gồm 5 chế độ: chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ cấp tai nạn lao động; bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và tử tuất. Chế độ trợ cấp ốm đau: trong qúa trình thực hiện vẫn còn một số vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu xem xét như: Không quy định thời gian dự bị trước khi hưởng bảo hiểm xã hội, thời hạn hưởng tối đa chưa rõ, thủ tục, danh mục các bệnh dài hạn quy định đã lâu cần phải bổ sung một số bệnh mới.... Chế độ trợ cấp thai sản: qua thực tiễn chế độ này còn một số điểm cần khắc phục như: Còn đam xen giữa chính sách bảo hiểm xã hội với chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình, thời gian dự bị trước khi được hưởng cũng chưa rõ ... Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: chế độ này cần phải xác định rõ hơn tai nạn lao động xảy ra từ nhà đến nơi làm việc và ngược lại, danh mục bệnh nghề nghiệp cần được bổ xung vì có một số loại bệnh mới phát sinh chưa được xếp vào bệnh nghề nghiệp ... Chế độ hưu trí: chế độ này vẫn còn nhiều điểm nổi cộm cần khắc phục như: tuổi đời về hưu giữa các ngành, các nhóm lao động ,những người hưởng trợ cấp một lần đưa vào chế độ là chưa hợp lý, vì những người này vừa chưa đủ tuổi, vừa không đủ tích luỹ cần thiết để hưởng trợ cấp. Chế độ tử tuất: việc quy định đối tượng được hưổng bao gồm cả bố mẹ bên vợ, bên chồng là chưa hợp lý. Vì bố mẹ bên vợ, bên chồng còn có thân nhân của cả hai bên chịu trách nhiệm. Điều này cần phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để thống nhất quy định Căn cứ vào những điểm còn tồn tại trên trong việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội. Ta thấy, để mở rộng được đối tượng tham gia thì công việc trước mắt là nghành bảo hiểm xã hội phải hoàn thiện các chế độ. Trong nền kinh tế thị trường cần huy động nhiều người ở nhiều thành phần kinh tế tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Để chính sách bảo hiểm xã hội đi vào cuộc sống, mở ra không gian rộng lớn cho tất cả người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền tham gia và được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của nhà nước, tạo một mạng lưới bảo vệ vững chắc đời sống của người tham gia bảo hiểm xã hội theo tinh thần nghị quyết đại hội đảng lần thứ VIII cần thực hiện một số nội dụng chủ yếu sau: Cần chống thất thu nợ đọng bảo hiểm xã hội, mở rộng phạm vi và đối tượng thu bảo hiểm xã hội đến mọi thành phần kinh tế nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vì hiện tại không ít doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cố ý ký hợp đồng ngắn hạn hoặc không ký hợp đồng lao động để tránh nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội. Phải coi việc triển khai công tác bảo hiểm xã hội ở khu vực này là đạt tới sự công bằng cho mọi người lao động có quyền tham gia bảo hiểm xã hội, kể cả đối với những người lao động mang tính đặc thù. Đồng thời, triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện để người lao động thuộc các thành phần kinh tế có quyền tham gia thực hiện nghĩa vụ và được hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội, thực hiện công bằng xã hội trong cộng đồng. Tập trung khai thác và đưa ra các biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút và tăng thu bảo hiểm xã hội. Tăng cường chỉ đạo, phối hợp, giám sát việc thực hiện các chính sách chế độ bảo hiểm xã hội, giải quyết tình trạng nợ đọng và phấn đấu thu đủ tiền đóng bảo hiểm xã hội, không để nợ tiếp tục phát sinh kéo dài làm ảnh hưởng đến chính sách bảo hiểm xã hội của đảng và nhà nước ta. Cần sử lý nghiêm minh và kiên quyết những cơ quan, đơn vị cố tình không đóng hoặc đóng chậm bảo hiểm xã hội, mức phạt cần cao hơn. Nếu cần thiết phải đưa một số vụ điển hình ra xét sử trước pháp luật. Đối với các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm xã hội có thể chia thành 3 loại: - Các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và thực hiện nghiêm túc việc đóng bảo hiểm xã hội, chỉ cần có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp làm ăn phát triển, có tiền lương có thu nhập để đóng bảo hiểm xã hội. - Các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả nhưng vi phạm các nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội như: trốn tránh, khai giảm số lao động và quỹ tiền lương, đóng chậm đóng thiếu nợ đọng kéo dài. Đối với các doanh nghiệp này, cần có biện pháp sử lý thích hợp để buộc phải thực hiện nghĩa vụ theo luật định. Các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, phải ngừng sản xuất, giải thể, sát nhập hoặc phá sản. Cần phân loại cụ thể, nếu doanh nghiệp nào xét thấy có khả năng tiếp tục hoạt động và đứng vững được, thì phải có chính sách hỗ trợ vốn, về công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, để có nguồn đóng bảo hiểm xã hội. Các doanh nghiệp còn lại cần giải quyết dứt điểm, hoặc cho giải thể, hoặc cho phá sản, trong trường hợp này cần có hướng dẫn cụ thể, nhất là nguồn để đảm bảo giải quyết chế độ cho người lao động . Cần tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ công nhân viên chức làm việc trong nghành bảo hiểm xã hội. Phải xác định việc phục vụ người lao động là trên hết. Do đó, cần củng cố hoàn thiện công tác tổ chức bộ máy và cán bộ, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, khắc phục mọi biểu hiện quan liêu phiền hà, tiêu cực nảy sinh trong nghành, bảo đảm thu đủ quản lý tốt và chi trả kịp thời đúng chính sách, đúng đối tượng, tăng cường công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ công nhân viên chức, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài. Ngành bảo hiểm xã hội phải xây dựng được chiến lược phát triển, phải quán triệt nội dung tư tưởng sự nghiệp bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của đảng và nhà nước ta, là chính sách ưu việt vì con người, là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người lao động. Xây dựng quỹ bảo hiểm xã hội thành một quỹ tài chính lớn mạnh trong nền tài chính tiền tệ quốc gia. Muốn vậy phải hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tập trung thống nhất trong toàn ngành để một mặt có điều kiện bảo toàn, tăng trưởng mặt khác hạn chế tối đa tiêu cực thất thoát quỹ bảo hiểm xã hội. Do vậy, nhà nước sớm ban hành cơ chế tài chính riêng biệt nhằm kiểm soát chặt chẽ toàn bộ quá trình thu chi bảo hiểm xã hội, đổi mới hoạt động kiểm tra, phối hợp tốt với các ngành chức năng một cách đồng bộ tạo thành sức mạnh, mặt khác phải xây dựng chương trình và đề án cụ thể để đưa các ứng dụng tin học vào công tác quản lý đối tượng tham gia, hưởng bảo hiểm xã hội và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội, đồng thời cần đẩy mạnh công tác thi đua theo những nội dung, hình thức phong phú đa dạng với tinh thần phục vụ cao nhất trở thành động lực mạnh mẽ và thường xuyên thúc đẩy hoàn thành tốt các nhiệm vụ. Cần sớm tiến hành xây dựng luật bảo hiểm xã hội nhằm đáp ứng tiến trình đổi mới kinh tế xã hội của đất nước, đáp ứng mục tiêu chiến lược về con người trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nội dung chính sách bảo hiểm xã hội phải phù hợp với cơ chế đổi mới của đảng và nhà nước, phải thật sự tạo điều kiện cho người lao động làm việc ở bất cứ thành phần kinh tế nào đều có quyền tham gia bảo hiểm xã hội. Luật bảo hiểm xã hội phải xác định rõ hệ thống tổ chức hoạt động bảo hiểm xã hội , phải có cơ chế kiểm tra, kiểm soát, chế định pháp luật đủ mạnh để đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Về việc cấp sổ bảo hiểm xã hội, đối với các trường hợp hồ sơ bị mất, thất lạc do những nguyên nhân khách quan như: thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh, di chuyển đơn vị nhiều lần, tách nhập tỉnh, huyện, đơn vị sát nhập, giải thể, chia tách... Người lao động không còn khả năng bổ sung, hay trường hợp các nông lâm trường, các doanh nghiệp nhà nước trước có tuyển dụng lao động theo danh sách tập thể, không có quyết định cho từng các nhân... không phải do lỗi của người lao động mà do cơ quan sử dụng lao động xem nhẹ công tác quản lý hồ sơ cán bộ .. thì nên căn cứ vào giấy xác nhận của cơ quan ở từng giai đoạn có tổ chức công đoàn, Đảng, đoàn và chính quyền cùng chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đó, thì cơ quan bảo hiểm xã hội nên xem xét, xác minh thêm, nếu thật sự người lao động có công tác và chưa giải quyết chế độ thì nên công nhận để họ khỏi bị thiệt thòi. Theo công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã khuyến nghị các nước thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội là: 1,Chăm sóc y tế. 2,Trợ cấp ốm đau. 3,Trợ cấp thất nghiệp. 4,Trợ cấp tuổi già. 5,Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. 6,Trợ cấp gia đình. 7,Trợ cấp sinh đẻ. 8,Trợ cấp khi tàn phế. 9,Trợ cấp cho người còn sống. Như vậy bảo hiểm xã hội việt nam còn 4 chế độ chưa thực hiện được. Điều này đòi hỏi cơ quan bảo hiểm xã hội phải nghiên cứu chuẩn bị, đưa ra các phương án triển khai thực hiện 4 chế độ còn lại. Từ đó có thể mở rộng được đối tượng tham gia của bảo hiểm xã hội. 2. Điều chỉnh mức đóng góp, hình thức đóng góp phù hợp với từng đối tượng tham gia, từng nghành nghề cụ thể. 2.1.Mức đóng góp. Với mức đóng góp được áp dụng chung cho tất cả các đối tượng lao động là 5%. Điều này đảm bảo được mọi người lao động đều được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với bảo hiểm xã hội, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp... mức đóng góp được xác định tỷ lệ với tiền lương. Nếu tiền lương của người lao động cao thì mức đóng sẽ cao. Cùng với mức đóng góp là mức hưởng cũng bằng một tỷ lệ nhất định so với mức lương. Do đó, những người lao động có mức thu nhập khác nhau thì có mức đóng khác nhau và có mức hưởng khác nhau. Điều này là hoàn toàn hợp lý đảm bảo được công bằng. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho những người có thu nhập thấp có thể tham gia vào bảo hiểm xã hội. Thì đòi hỏi cơ quan bảo hiểm xã hội phải có kế hoạch hỗ trợ điều chỉnh tỷ lệ đóng góp và để đảm bảo công bằng thì phải đi đôi với việc điều chỉnh mức hưởng. Bởi vì những người lao động này có thu nhập thấp. Phần lớn thu nhập của họ dùng để chi tiêu trước mắt cho cuộc sống gia đình.nếu mức đóng cao thì họ sẽ không có thể tham gia. 2.2 Về hình thức đóng góp. Trong nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần kinh tế. Những chủ thể kinh tế này ở các lĩnh vực, nghành nghề khác nhau thì có đặc trưng công việc khác nhau. Sản phẩm của quá trình sản xuất kinh doanh là khác nhau. Sản phẩm của nghành sản xuất chắc chắn sẽ khác sản phẩm của nghành dịch vụ. Bên cạnh đó giá thành sản phẩm sẽ khác nhau. Do đó, để tạo điều kiện cho các đối tượng tham gia một cách thuận lợi thì đòi hỏi cơ quan bảo hiểm xã hội phải có được những quy định về hình thức đóng góp (bằng tiền, bằng sản phẩm) và thời gian đóng phí định kỳ theo tháng, quý, năm hay có thể đóng một lần (đối với những lao động không có quan hệ thuê mướn lao động). Để sao cho phù hợp với từng đối tượng tham gia. Làm việc trong các ngành nghề khác nhau. Chúng ta sẽ xem xét cụ thể trường hợp áp dụng bảo hiểm xã hội cho người nông dân: như chúng ta đã biết, đặc điểm sản xuất của nông thôn Việt nam là theo hộ gia đình, tự tổ chức sản xuất, tự hoạch toán thu chi cùng với cân đối sinh hoạt gia đình. Sản phẩm của nông dân chính là những cây và con gắn liền với hoạt động thời vụ. Do vậy, phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Những khi được mùa cũng như thị trường sản phẩm có cầu lớn hơn cung thì người nông dân có thu nhập cao và ngược lại. Sau mùa vụ thu hoạch, một phần họ đầu tư để sản xuất ra của cải vật chất, mặt khác họ nghĩ ngay đến việc tích luỹ về sau nhằm ổn định cuộc sống khi về già mà đúng ra sẽ được gửi và quỹ bảo hiểm xã hội. Từ thực tế cho thấy nông dân có nhu cầu bảo hiểm xã hội. Nếu chế độ bảo hiểm xã hội cho nông dân được thực hiện thì cần nghiên cứu mấy điểm sau: - Về chế độ áp dụng: nên áp dụng hai chế độ hưu trí và tử tuất. - Về mức đóng, tỷ lệ đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội : + Mức đóng: nên lấy mức lượng tối thiểu làm căn cứ tham gia bảo hiểm xã hội, vì biên chế cũng như quỹ lương của nông dân ổn định, ít biến đổi như công nhân viên chức. + Tỷ lệ đóng: 15% mức tiền lương tối thiểu, trong đó người lao động tham gia bảo hiểm xã hội đóng 10%, nhà nước hỗ trợ 5%. + Thời gian đóng bảo hiểm xã hội: vì sản phẩm thu hoạch theo thời vụ, nên đóng làm 2 đợt trong một năm (6 tháng 1 lần). Riêng đối với những gia đình có thu nhập khá thì có thể đóng một năm một lần, thậm chí có thể đóng hết cả quá trình tham gia bảo hiểm xã hội và ít nhất là 15 năm. Đối với trường hợp đóng một lần cần giảm cho họ một phần chi phí tiền lãi nhằm khuyến khích tập trung huy động quỹ một cách nhanh nhất. - Về mức hưởng bảo hiểm xã hội: người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội 15 năm, khi đủ 55 tuổi, được nghỉ hưu được hưởng 75% mức lương tối thiểu. Sau đó, từ năm thứ 16 trở đi cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được cộng thêm 2% mức lương tối thiểu. Vì đồng tiền có giá trị theo thời gian, nên khi tính toán chúng ta không thể tính một cách đơn giản mà phải đặt nó trong sự vận động. ở đây, bảo hiểm xã hội không phải là một tổ chức kinh doanh, cũng không phải là cơ quan hành chính sự nghiệp; mà nó là một dạng dịch vụ công cộng đặc thù. Nó là nhiệm vụ huy động vốn (quỹ bảo hiểm xã hội ) ngày càng không ngừng tăng lên; nhưng phải bảo toàn và tăng trưởng quỹ đó (hạn chế rủi ro một cách thấp ). Và sử dụng quỹ đó theo chế độ chính sách bảo hiểm xã hội. Vì vậy, chúng ta rất mong muốn nhà nước sớm có chính sách bảo hiểm xã hội cho nông dân, vừa đáp ứng nguyện vọng của hàng triệu người lao động ở khu vực nông thôn; vừa thực hiện “mở rộng chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế” theo tinh thần văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII đề ra. 3. Thực hiện công tác tuyên truyền. Như chúng ta đã biết, khi một nghị định hay một điều luật được nhà nước ban hành nhưng để có được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân thì phải tuyên truyền cho mọi người nắm bắt và hiểu được nội dung của những nghị định, điều luật đó nói gì? quy định ra sao?...chính sách bảo hiểm xã hội cũng vậy, để có được sự hưởng ứng của đông đảo những người lao động thì trước hết phải tuyên truyền cho họ hiểu được chính sách bảo hiểm xã hội là nghĩa vụ và quyền lợi hiển nhiên giành cho tất cả những người tham gia lao động. Vì trên thực tế hiện nay, số người dân trong xã hội hiểu biết về bảo hiểm xã hội rất hạn chế. Khắc phục tình trạng này không gì khác hơn là phải đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin tuyên truyền sâu rộng bằng nhiều hình thức phong phú và đa dạng về nội dung để cho hầu hết các cấp các nghành các đơn vị sử dụng lao động, đặc biệt là người lao động ở các thành phần kinh tế hiểu được chính sách bảo hiểm xã hội không phải là một tổ chức kinh doanh, tham gia chính sách bảo hiểm xã hội ngoài việc hưởng quyền lợi còn góp phần tích cực vào công tác an sinh xã hội. Để mở rộng đối tượng tham gia được thực hiện một cách rễ ràng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các chủ sử dụng lao động nhận rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình khi tham gia bảo hiểm xã hội và số lao động đông đảo đó phải được đảm bảo quyền lợi. Chính sách bảo hiểm xã hội là một vấn đề rất nhạy cảm vì nó liên quan đến yếu tố con người, trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống xã hội trong cơ chế hiện nay. Do vậy, cơ quan bảo hiểm xã hội phải phối hợp tốt với cơ quan bảo chí và các nghành có liên quan tuyên truyền sâu rộng về nhiệm vụ, quyền lợi, về mục đích ý nghĩa của chính sách bảo hiểm xã hội đến các cấp các nghành, đến chủ sử dụng lao động và đến mọi tầng lớp nhân dân. Công tác tuyên truyền trong bảo hiểm xã hội có vai trò trong việc nâng cao nhận thức và hiểu biết cho các thành viên và xã hội về bảo hiểm xã hội. Thông tin tuyên truyền cũng được cơ quan bảo hiểm xã hội dùng để đạt được những hiểu biết tốt hơn về những nhu cầu của thành viên liên quan đến các chính sách các quy trình. Các hoạt động thông tin tuyên truyền nên được gắn két trực tiếp với các chính sách bảo hiểm xã hội và các hoạt động của cơ quan bảo hiểm xã hội. Vẫn còn những lúng túng về điều kiện được hưởng trong chưông trình bảo hiểm của nhà nước trước đây và những thay đổi trong chương trình bảo hiểm xã hội mới. Mức độ nhận thức, hiểu biết và các kiến thức về chính sách bảo hiểm xã hội trong người lao động và người sử dụng lao động ngoài khu vực nhà nước được coi là còn rất thấp. Mức độ tuân thủ thấp trong khu vực tư nhân, liên doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ước tính thấp hơn 15% đã xảy ra vì nhiều nguyên nhân, bao gồm việc thanh tra, kiểm tra, trốn tránh pháp luật thông qua báo cáo thấp số lao động trong lao động và phớt lờ luật pháp và chính sách. Các tư liệu về bảo hiểm xã hội là những công cụ quan trọng để năng cao kiến thức và hỗ trợ các hoạt động tuân thủ, đặc biệt đối với các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước. Thông tin về bảo hiểm xã hội nên được mở rộng từ các thành viên của chương trình và người sử dụng lao động cho đến công chúng nay chung. Nhóm này bao gồm gia đình mở rộng của các thành viên của các thành viên của chương trình, người lao động không thuộc đối tượng bắt buộc của chương trình hiện hành, sinh viên, và các cá nhận khác mà sẽ chắc chắn trở thành thành viên và hoặc người sử dụng lao động những người nên hiểu về bảo hiểm xã hội một cách chung nhất. Một tập hợp thông tin tuyên truyền có thể được thực hiện thông qua diễn thuyết, các ấn phẩm, phương tiện truyền thông như vô tuyến đài phát thanh, báo chí và các cuộc phỏng vấn. Các chiến lược thông tin tuyên truyền mục tiêu cần được xây dựng đối với những nhóm mục tiêu cụ thể trong những nhóm chung rộng hơn của người sử dụng lao động, người lao động và nhà cung cấp dịch vụ. Trong nhóm chung của người sử dụng lao động thì nhóm đặc thù là doanh nghiệp nhà nước, khu vực tư nhân, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh, tự tạo việc làm và người sử dụng lao động trong khu vực phi chính thống. Trong nhóm chung về người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, người lao động làm việc trong khu vực phi chính thống, lao động nữ, người lao động theo mùa vụ, bán thời gian, không ổn định,lao động ngoài nước ngoài, lao động trong gia đình, gia đình của người lao động, người lao động làm việc trong khu vực nông thôn và thành thị và người lao động nông nghiệp, người lao động làm việc trong các nghành nghề độc hại và cán bộ nhà nước. 4. Cải cách việc quản lý. Vì loại hình tự nguyện không phổ biến trong hầu hết các hệ thống bảo hiểm xã hội (và cũng không hiệu quả ở những nơi nó được triển khai), cho nên một trong các điều kiện tiên quyết để mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội dựa trên nguyên tắc đóng góp là quản lý chương trình hiệu quả. Điều này có ý nghĩa là tổ chức bảo hiểm xã hội phải có khả năng: xác định đối tượng dự kiến sẽ tham gia, xác định chính sách mức tiền họ cần phải đóng góp, thu đóng góp bảo hiểm xã hội và duy trì các hồ sơ cần thiết để làm căn cứ hưởng chế độ và trợ cấp bảo hiểm xã hội. Việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội để thực hiện dễ dàng thì vấn đề được đặt ra là việc quản lý công tác thu và việc bảo tồn và sử dụng quỹ. điều này đòi hỏi ngành bảo hiểm xã hội phải không ngừng củng cố xây dựng đội ngũ cán bộ bảo hiểm xã hội có bản lĩnh vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt; có tinh thần phục vụ nhân dân, tinh thông nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Để quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội thì một trong những công việc là thực hiện việc cấp sổ bảo hiểm xã hội cho người tham gia. Mục đích của việc cấp sổ là nhằm quản lý chặt chẽ các đối tượng tham gia và đóng bảo hiểm xã hội giúp người lao động có cơ sở pháp lý kiểm tra giám sát kết quả đóng và thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động. Tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo công bằng cho người lao động khi chuyển nơi làm việc vẫn duy trì được quyền lợi bảo hiểm xã hội ... sổ bảo hiểm xã hội là cơ sở pháp lý giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa người lao động, người sử dụng lao động với cơ quan bảo hiểm xã hội. Đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội càng nhiều thì việc cấp sổ càng trở nên hữu hiệu trong việc quản lý. III. Phía người tham gia bảo hiểm xã hội. 1.Cần nhận thức rõ bản chất của chính sách bảo hiểm xã hội. Hiện nay không ít những người lao động chưa hiểu rõ về chính sách bảo hiểm xã hội. Ngay cả khi họ là những cán bộ, công nhân viên đã và đang hưởng chế độ chính sách của bảo hiểm xã hội. Nhưng vẫn cồn rất mơ hồ mỗi khi nghe đến cụm từ bảo hiểm xã hội. Như vậy để thực hiện được việc mở rộng đối tượng tham gia thì đòi hỏi chính sách bảo hiểm xã hội phải đi vào được từng người dân trong xã hội. Mỗi người lao động phải tự tìm hiểu qua các phương tiện thông tin đại chúng về chính sách bảo hiểm xã hội. Phải nhận thức rõ rằng bảo hiểm xã hội là một chính sách của nhà nước. Được tham gia vào bảo hiểm xã hội là một quyền lợi của mỗi người lao động. Đồng thời, nó cũng là nghĩa vụ của mỗi người đối với việc đóng góp để hình thành nên quỹ chung dựa trên quy luật số lớn. Bởi vì đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội mà không cao thì bảo hiểm xã hội không thực hiện được mục tiêu công bằng, san sẻ rủi ro trong toàn xã hội. Ngoài ra, một số đối tượng lao động thiếu việc làm. Họ chỉ mong muốn có một công việc để tạo ra thu nhập. Do vậy, khi họ có việc làm thì không quan tâm đến việc ký hợp đồng lao động, không đòi hỏi các quyền lợi của mình. Như vậy, để nhiều người lao động có thể tham gia được vào bảo hiểm xã hội thì một trong số những công việc trước mắt là người lao động phải thực hiện việc ký kết hợp đồng lao động theo đúng quy định trong bộ luật lao động. Cần phải kiên quyết đấu tranh khi phát hiện ra mọi hình thức trốn tránh đóng bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động cần coi việc đóng bảo hiểm xã hội là một nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. Đồng thời đóng bảo hiểm xã hội cũng thể hiện được thách nhiệm của mình đối với người lao động. Người sử dụng lao động cần hiểu rằng đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động sẽ tạo cho người lao động hăng hái, yên tâm trong lao động sản xuất. Từ đó góp phần nâng cao năng xuất lao động, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp của mình. Thực hiện ký kết hợp đồng với người lao động theo đúng quy định. 2. Chuẩn bị khả năng tài chính để thực hiện việc đóng góp đầy dủ đúng thời hạn. Theo quy định hiện nay thì người lao động phải đóng góp 5% tiền lương. Người lao động đóng 15% quỹ tiền lương. Nhìn chung, tỷ lệ dóng góp này là hợp lý. Tuy nhiên đối với người lao động có thu nhập thấp thì cũng gặp một số khó khăn. Đặc biệt, đối với người lao động là nâng dân làm việc theo mùa vụ có thu nhập không ổn định. Do vậy, để có thể tham gia vào bảo hiểm xã hội theo phương thức đóng góp định kỳ thì người lao động cần phải có một phương thức dự phòng khi có thu nhập, để đóng phí khi không có thu nhập từ mùa vụ. Người lao động ở các doanh nghiệp, để có thể tham gia vào bảo hiểm xã hội thì đòi hỏi người sử dụng lao động cần phải lập ra phương án sử dụng lợi nhuận, trích lập quỹ dự phòng theo quy định của luật doanh nghiệp. Từ đó đưa ra phương án trích lập nên nguờn quỹ để đóng bảo hiểm xã hội cho nguời lao động trong doanh nghiệp của mình. Từ đó sẽ giúp cho các doanh nghiệp có thể tránh được biến động trong sản xuất khi thực hiện việc tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Bên cạnh đó sẽ giúp cho quá trình đóng bảo hiểm xã hội được ổn định tránh được tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội như một số doanh nghiệp hiện nay. Kết luận Chính sách bảo hiểm xã hội là một chính sách thể hiện bản chất của đảng và nhà nước ta. Nó là một chính sách đảm bảo điều kiện sống cho tất cả những người lao động trong xã hội. Thực hiện công bằng trong xã hội. Do vậy cần thực hiện cho tất cả các đối tượng ở các thành phần kinh tế khác nhau, không tính đến dân tộc tôn giáo chức vụ... do đó việc mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội là một vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiên chúng ta cũng gặp một số thuận lợi và khó khăn. Nhưng căn cứ vào tác dụng hữu ích của của việc mở rộng. Chúng ta có thể khẳng định rằng việc mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội là hoàn toàn có thể thực hiện được trong tình hình hiện nay. Việc thực hiện không những sẽ được sự ủng hộ của các nghành các cấp mà còn được sự ủng hộ của tất cả người dân trong xã hội. Mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội sẽ góp phần gián tiếp vào ổn định chính trị xã hội và phát triển kinh tế của đất nước. Đặc biệt nó thể hiện được chế độ ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tài liệu tham khảo Giáo trình bảo hiểm. Giáo trình luật kinh doanh bảo hiểm. Giáo trình kinh tế lao động. Tạp chí bảo hiểm xã hội(1997 – 2002). Luật doanh nghiệp việt nam. Bộ luật lao động. Nghị định số 12/CP. Thời báo kinh tế việt nam(2000 – 2002). Tạp chí lao động xã hội(2000 – 2002) Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I. Bảo hiểm xã hội và sự cần thiết phải mở rộng đối tượng tham gia 2 I. Thực trạng bảo hiểm xã hội trong thời gian qua 2 II. Tình hình tham gia bảo hiểm xã hội ở Việt nam hiện nay 5 III. Sự cần thiết mở rộng đối tượng tham gia 8 Chương II: Tính khả thi của việc mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội ở nước ta 15 I. Về phía người lao động 15 II. Về phía người sử dụng lao động 17 III. Về phía nhà nước 18 Chương III: giải pháp để thực hiện mở rộng đối tượng tham gia 20 I. nhà nước cần đưa ra các điều kiện bổ sung các quy định về đối tượng tham gia tự nguyện cũng như bắt buộc 20 II. Về cơ quan bảo hiểm xã hội 21 III. phía người tham gia bảo hiểm xã hội 29 Kết luận 31 Tài liệu tham khảo 32

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc63966.DOC
Tài liệu liên quan