Tài liệu Đề tài Triển khai hình thức đào tạo mới trong ngành y tế - Bùi Trung Dũng: Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014 
55
có 1 bệnh nhân Barret và 4 trường hợp u nhú biểu 
mô vảy. 
Khi đối chiếu mức độ triệu chứng lâm sàng với 
hình ảnh nội soi thực quản cho thấy đối với những 
trường hợp có triệu chứng lâm sàng độ I có tới 50% 
bệnh nhân là bình thượng nhưng khi triệu chứng lâm 
sàng ở độ IV chỉ có 9,1% là bình thường và có tới 
36,4% tổn thương thực quản độ IV. Điều này cho 
thấy thường bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng rầm 
rộ thì tổn thương thực quản cũng nặng hơn. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 115 trường hợp trào ngược thực 
quản cho kết quả thu được như sau: 
Bệnh nhân nam giới mắc bệnh ít hơn nữ, nhóm 
tuổi này hay gặp từ 31 - 40 tuổi. 
Thời gian mắc bệnh ít nhất dưới 1 tuần và lớn 
hơn 12 tháng. 
Triệu chứng lâm sàng: 35,7% ợ nóng đơn thuần, 
27% ợ nóng kết hợp với triệu chứng khác, (16,5%) 
nuốt vướng, (13%) triệu chứng ngoài thực quản (ho, 
khàn...). 
Mô bệnh học thực quản: Viêm mạn tính (21,4%), 
viêm loét (42,9%), Barret 7,1%). 
Mô bện...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 702 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Triển khai hình thức đào tạo mới trong ngành y tế - Bùi Trung Dũng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014 
55
có 1 bệnh nhân Barret và 4 trường hợp u nhú biểu 
mô vảy. 
Khi đối chiếu mức độ triệu chứng lâm sàng với 
hình ảnh nội soi thực quản cho thấy đối với những 
trường hợp có triệu chứng lâm sàng độ I có tới 50% 
bệnh nhân là bình thượng nhưng khi triệu chứng lâm 
sàng ở độ IV chỉ có 9,1% là bình thường và có tới 
36,4% tổn thương thực quản độ IV. Điều này cho 
thấy thường bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng rầm 
rộ thì tổn thương thực quản cũng nặng hơn. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 115 trường hợp trào ngược thực 
quản cho kết quả thu được như sau: 
Bệnh nhân nam giới mắc bệnh ít hơn nữ, nhóm 
tuổi này hay gặp từ 31 - 40 tuổi. 
Thời gian mắc bệnh ít nhất dưới 1 tuần và lớn 
hơn 12 tháng. 
Triệu chứng lâm sàng: 35,7% ợ nóng đơn thuần, 
27% ợ nóng kết hợp với triệu chứng khác, (16,5%) 
nuốt vướng, (13%) triệu chứng ngoài thực quản (ho, 
khàn...). 
Mô bệnh học thực quản: Viêm mạn tính (21,4%), 
viêm loét (42,9%), Barret 7,1%). 
Mô bệnh học dạ dày: Viêm mạn tính (37,5%), 
viêm loét (37,5%), viêm teo (6,2%). 
Những bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng rầm rộ 
thì có tổn thương thực quản nặng hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đoàn Thị Hoài, Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, 
hình ảnh nội soi – mô học và đo PH thực quản liên 
tục 24 giờ trong hội chứng trào ngược dạ dày thực 
quản. Luận văn thạc sỹ y học, trường Đại học Y Hà 
Nội. 
2. Tạ Long (2005), “Dịch tễ học, chẩn đoán và xử 
trí bệnh trào ngược dạ dày thực quản”, Đặc san tiêu 
hoá Việt Nam, 3, tr 05-14. 
3. Dương Minh Thắng (2001), Nghiên cứu đặc 
điểm lâm sàng, nội soi, mô bệnh học của trào ngược 
dạ dày thực quản, Luận văn thạc sỹ y học, Học viện 
Quân y, Hà Nội. 
4. Nguyễn Cảnh Bình (2008), Nghiên cứu tổn 
thương bệnh lý tại đoạn nối thực quản dạ dày trong 
bệnh trào ngược dạ dày thực quản, Tạp chí Khoa 
học Tiêu hoá Việt Nam, 9, tr 530-535. 
5. Pal Demeter and Akos Pap (2004), “The 
relationship between Gastroesophageal Reflux 
disease and obstructive sleep apnea”, Journal of 
Gastroenterology, vol 39, pp. 815-520. 
6. Dentetal, Scan.J.Gastr(2008), vol 43, 
Supplement 244, Or8. 
TRIỂN KHAI HÌNH THỨC ĐÀO TẠO MỚI TRONG NGÀNH Y TẾ 
BÙI TRUNG DŨNG - Bệnh viện Bạch Mai 
TÓM TẮT 
Giáo dục trực tuyến (eLearning) trong y tế đã phát 
triển tại nhiều nước trên thế giới nhưng chỉ mới bắt 
đầu hình thành tại Việt Nam. Nhằm đánh giá những 
yếu tố liên quan đến quá trình chuẩn bị triển khai giáo 
dục trực tuyến trong ngành Y tế ở Việt Nam, chúng 
tôi đã tiến hành nghiên cứu tại Bệnh viện Bạch Mai 
theo phương pháp mô tả cắt ngang với nhóm cán bộ 
giảng viên năm 2013. Nghiên cứu tiến hành phỏng 
vấn đối tượng bằng bộ câu hỏi, kết quả cho thấy 
phần lớn đối tượng nghiên cứu có mức độ sẵn sàng 
áp dụng cao, nhu cầu lớn và thực tế đang thường 
xuyên sử dụng các phần mềm vi tính như 
Powerpoint, Word, Excel...Mức độ truy cập Internet 
và giao tiếp qua thư điện tử là rất cao. Hàng tuần, 
giảng viên truy cập chủ yếu vào các diễn đàn trực 
tuyến chuyên ngành để xem và tải tài liệu liên quan. 
Mặc dù nhóm giảng viên này chưa được tiếp cận hay 
làm bài giảng trực tuyến, nhưng nhận thức về lợi ích 
của giáo dục trực tuyến là rất tốt. Các thầy cô giáo 
chấp nhận thay đổi phương pháp giảng dạy, sẵn 
sàng kết hợp với giáo dục truyền thống, liên hệ chặt 
chẽ hơn với học viên để tăng cường hỗ trợ từ xa qua 
các công cụ trực tuyến linh hoạt, qua đó giảm bớt chi 
phí học tập của học viên và giảm tải gánh nặng mất 
nhân lực tại các cơ sở cử học viên đi học. 
Từ khóa: Đào tạo trực tuyến, Bệnh viện Bạch 
Mai. 
SUMMARY 
ELearning in health has been developed in many 
countries around the world, but just began to form in 
Vietnam last few years. This research was conducted 
in one of the three biggest hospitals in Vietnam with 
purposes of assessment some main factors related 
the implement eLearning in Vietnam. The study 
design was cross-sectional survey with teachers and 
facilitators. The result of interviewing research 
subjects by questionnaire reveals that the majority 
had a high application availability, high demand and 
often practical use computer software such as 
PowerPoint, Word, Excel... The level of access 
Internet and communication via e-mail is very high. 
They access mainly to specialized online forums to 
view and download relevant documents every week. 
Although this group have not made online lectures 
yet, but their awareness of the benefits of eLearning 
is very good. The teachers accept to change teaching 
methods, willing to combine with traditional education 
and more closely associate with students to enhance 
remote support through online tools flexibly. There by 
reducing the learning cost and the burden of lacking 
of employees at the lower level health facilities. 
Keywords: ELearning, Bach Mai hospital. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014 
56
Giáo dục trực tuyến đã được hình thành và phát 
triển tại nhiều nước phát triển trên thế giới. Mô hình 
giáo dục trực tuyến (eLearning) đã được hình thành 
tại khoảng 90% các trường đại học, cao đẳng Mỹ với 
số người tham gia học tăng 33% hàng năm trong 5 
năm liên tiếp từ 1999 - 2004. Sự phát triển như vũ 
bão của công nghệ thông tin tại Việt Nam thời gian 
qua dẫn đến số người sử dụng Internet tăng vọt, ví 
dụ năm 2012 có hơn 31 triệu người sử dụng Internet, 
chiếm 35,49 % dân số, đứng thứ 18/20 quốc gia có 
số người dùng Internet lớn nhất thế giới, đứng thứ 8 
khu vực Châu Á và đứng vị trí thứ 3 ở khu vực Đông 
Nam Á (ASEAN). So với năm 2000, số lượng người 
dùng Internet Việt Nam đã tăng khoảng hơn 15 lần và 
đang tiếp tục tăng [1]. Tuy nhiên, những nghiên cứu 
tại Việt Nam về giáo dục trực tuyến trong ngành y 
vẫn còn rất thiếu và chưa toàn diện. 
Trên thế giới, giáo dục trực tuyến trong y tế đã 
được chứng minh có thể làm giảm nhu cầu “mặt đối 
mặt” như phương pháp dạy học truyền thống, nhất là 
với giảng dạy lý thuyết mà không làm suy giảm chất 
lượng đào tạo [2]. Nhiều nghiên cứu còn nhận định 
eLearning và việc sử dụng công nghệ Internet là để 
tăng hiệu suất dạy học, bổ sung cho giảng dạy truyền 
thống [3, 4]. Một cơ sở hạ tầng phát triển để hỗ trợ 
eLearning trong giáo dục y tế bao gồm kho lưu trữ, 
hoặc các thư viện kỹ thuật số, quản lý truy cập tài liệu 
học tập điện tử, sự đồng thuận về tiêu chuẩn kỹ 
thuật, và phương pháp đánh giá ngang hàng các 
nguồn tài nguyên. Sự hội nhập của eLearning vào 
giáo dục y tế có thể xúc tác cho sự thay đổi với việc 
áp dụng lý thuyết học người lớn, nơi mà các nhà giáo 
dục sẽ không còn phục vụ chủ yếu là các nhà phân 
phối nội dung, mà sẽ tham gia nhiều hơn như hỗ trợ 
của các giám định viên học tập và năng lực [3]. Tuy 
nhiên, để triển khai thành công eLearning trong y tế 
lại cần phải chuẩn bị hoàn chỉnh nhiều yếu tố quan 
trọng như nội dung của khóa học phù hợp đặc thù 
của ngành, một môi trường học tập điện tử có cấu 
trúc xã hội, cũng như các công nghệ có sẵn [4]. Giáo 
dục trực tuyến, mặc dù không thể đáp ứng với tất cả 
các nội dung giảng dạy, nhưng một số kết quả báo 
cáo chỉ ra rằng nó là một phương tiện hiệu quả và 
thuận tiện về mặt kinh tế mà khó có thể đạt được với 
giáo dục truyền thống [5]. 
Việc đào tạo cán bộ y tế tại Việt Nam hiện nay dù 
đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn thiếu về số 
lượng và yếu về chất lượng. Số liệu năm 2009 cho 
thấy, số bác sỹ trên một vạn dân mới đạt 6,59, thấp 
hơn một số nước lân cận như Trung Quốc, Phi-líp-
pin [6]. Công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho 
nhân viên y tế cũng gặp một số khó khăn về nguồn 
kinh phí và tổ chức thực hiện. Nhiều nhân viên y tế 
không thích tham gia các khóa đào tạo chuyên môn 
do kinh phí hỗ trợ quá thấp, ảnh hưởng đến phần thu 
nhập thêm. Hình thức bồi dưỡng, nâng cao năng lực 
chưa đa dạng, chủ yếu vẫn là các lớp ngắn hạn, tập 
trung. Nhiều cơ sở y tế, đặc biệt là ở các khu vực khó 
khăn và tuyến huyện, xã, không muốn cử cán bộ đi 
học các khóa đào tạo chính quy, do nhiều nhân viên 
y tế sau khi tốt nghiệp không trở về cơ sở y tế đã cử 
đi học, mà xin chuyển đến các cơ sở lớn hơn, ở 
tuyến cao hơn [6]. 
Trong tình trạng còn nhiều bất cập của giáo dục 
trong y tế, với sự phát triển vượt bậc của khoa học 
công nghệ, giáo dục trực tuyến đã trở thành một lựa 
chọn tối ưu, rất cần phải khẩn trương chuẩn bị và 
triển khai để khắc phục những tồn tại đó. Vì vậy, 
chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu với mục đích 
đánh giá những yếu tố liên quan đến quá trình chuẩn 
bị triển khai giáo dục trực tuyến trong ngành Y tế ở 
Việt Nam. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Đào tạo và Chỉ 
đạo tuyến, Bệnh viện Bạch Mai. 
Đối tượng: 
Là các giảng viên thuộc danh sách chính thức 
của Bệnh viện Bạch Mai năm 2013. 
Không phân biệt tuổi, giới. 
Đủ sức khỏe và tự nguyện tham gia nghiên cứu. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được 
thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang. Tất cả các 
đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn trực tiếp qua 
bộ phiếu câu hỏi điều tra tập trung vào yếu tố liên quan 
đến 2 nhóm chủ đề là thực trạng trang thiết bị, kỹ 
năng, nhu cầu và nhận thức của giảng viên liên quan 
đến giáo dục trực tuyến trong y tế, từ đó đánh giá 
được sự chuẩn bị để triển khai trong thời gian tới. Số 
liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS 15.0. 
KẾT QUẢ 
Kết quả nghiên cứu cho thấy đến 81% đối tượng 
nghiên cứu ủng hộ và sẵn sàng triển khai giáo dục 
trực tuyến trong y tế. 
1. Thực trạng của giảng viên 
Biểu đồ 1: Phân loại đối tượng nghiên cứu theo trình độ 
Tỷ lệ lớn giảng viên có trình độ cao trong đó 42% 
Tiến sỹ và 27% Thạc sỹ với tỷ lệ giảng viên nam cao 
gấp gần 3 lần nữ (73% so với 27%). Tất cả giảng 
viên đều đang công tác tại bệnh viện, thậm chí kiêm 
nhiệm cả giảng viên của trường Đại học Y hoặc 
trường Cao đẳng Y. Nên khi triển khai eLearning, đây 
chính là nhóm cốt lõi quyết định sức hấp dẫn thu hút 
học viên tham gia và phát triển loại hình đào tạo mới 
này bên cạnh các yếu tố về kỹ thuật. 
Lứa tuổi giảng viên tập trung trên 45 tuổi (71%) 
với trên 15 năm thâm niên giảng dạy cho thấy đối 
tượng đã rất quen thuộc và có thể hiểu được những 
Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014 
57
tồn tại của giáo dục truyền thống, từ đó có thể có 
động lực để thay đổi phương pháp giảng dạy. 
Biểu đồ 2: Mức độ truy cập Internet của giảng viên 
Mức độ truy cập Internet, một đặc điểm bắt buộc 
của giáo dục trực tuyến, ở nhóm giảng viên bệnh viện 
chiếm tỷ lệ rất cao (92%), gấp hơn 2,5 lần mức độ truy 
cập chung toàn quốc [1]. Đây là một lợi thế vô cùng 
lớn khi triển khai giáo dục trực tuyến tại bệnh viện. 
Thực trạng sử dụng công cụ giao tiếp qua Internet 
của giảng viên cũng rất khả quan. 100% giảng viên 
có hòm thư điện tử với mức độ thường xuyên sử 
dụng là 88%. Bên cạnh email, 40% giảng viên 
thường xuyên sử dụng những công cụ tương tác chủ 
yếu hỗ trợ cho eLearning như yahoo, skype,... 
Mức độ truy cập vào một diễn đàn trực tuyến 
chuyên ngành hàng tuần của giảng viên chỉ là 38%, 
nhưng có thể thấy rõ nhu cầu chủ yếu của 88% giảng 
viên là xem và tải tài liệu với 76% thấy dễ dàng khi 
tìm kiếm thông tin. 
Biểu đồ 3: Những thiết bị tin học cá nhân của giảng viên 
Giảng viên đã được hoặc tự trang bị những 
phương tiện cần thiết cho giảng dạy trực tuyến như 
92% có máy tính xách tay, 79% có máy tính để bàn, 
hầu hết có mạng Internet hoặc thiết bị truy cập 
Internet di động (3G). Ngoài ra, số lượng thiết bị di 
động như tablet, điện thoại thông minh có khả năng 
truy cập eLearning chiếm đến trên 80% giảng viên. 
Mặc dù chỉ có 24% giảng viên từng tham gia 
eLearning nhưng với những kỹ năng, trang thiết bị 
hiện có, việc triển khai giáo dục trực tuyến trong bệnh 
viện là có cơ sở chắc chắn. 
2. Nhận thức của giảng viên 
Nhận thức của giảng viên về việc triển khai ứng 
dụng tin học trong giảng dạy, học tập là rất tích cực với 
100% giảng viên cho rằng có rất nhiều và nhiều lợi ích. 
Những ưu điểm được đánh giá cao nhất là bài giảng 
sinh động hơn (92%), truyền đạt kiến thức dễ dàng 
hơn (87,5%), tăng tính chủ động trong học tập của học 
viên (79%) và tiết kiệm chi phí cho học viên (71%). 
Khi giảng dạy qua eLearning, giảng viên ý thức 
được việc hạn chế “mặt đối mặt” với học viên, do đó 
họ sẵn sàng chuẩn bị bài giảng chu đáo, chuẩn mực 
hơn và sử dụng nhiều công cụ tạo bài giảng trực 
quan hơn (83%), nhằm đảm bảo học viên có thể hiểu 
được nội dung truyền tải. Những bài giảng trực tuyến 
sẽ cần nhiều thời gian và công sức để biên soạn 
nhưng sẽ tăng hiệu suất đào tạo gấp nhiều lần cho 
nhiều hơn học viên với cùng một nguồn lực (83%). 
ELearning không có nghĩa là bỏ rơi học viên, mà 
ngược lại giảng viên nhận định cần phải giữ liên hệ 
chặt chẽ hơn, hỗ trợ liên tục quá trình học hỏi của học 
viên (75%), nắm vững quá trình học tập của họ (50%). 
Tương đồng với nhận thức về sự chuẩn bị kỹ 
càng của giảng viên, học viên có thêm nhiều lợi ích 
như thời gian và chi phí đi lại, ăn ở được giảm đi 
nhiều so với cách học tập trung (65%), nhưng tính 
chủ động trong học tập hay liên hệ với giảng viên 
phải được phát huy tối đa (96%). Tương tác trong 
eLearning cần phải là hai chiều mới phát huy được 
hiệu quả. 
Giáo dục truyền thống có nhiều điểm khác với 
giáo dục trực tuyến, trong đó 70% giảng viên cho 
rằng phương pháp giảng dạy cũng cần có những 
thay đổi phù hợp theo hướng áp dụng công nghệ 
thông tin vào bài giảng. 
Chi phí dành cho đào tạo điện tử vì thế được 71% 
giảng viên nhận định là sẽ tỷ lệ nghịch với số lượng 
học viên và thời gian đào tạo. Nhận định này tương 
đồng với báo cáo của một nhóm nghiên cứu tại Italia 
năm 2012 [5]. 
Chất lượng đào tạo sẽ chỉ được đảm bảo nếu 
giảng viên chuẩn bị bài giảng tốt, đúng nhu cầu của 
học viên, quản lý giám sát việc học tập chặt chẽ và 
học viên chủ động, tham gia tích cực, dành nhiều thời 
gian cho học tập kết hợp với cơ sở hạ tầng, trang thiết 
bị kỹ thuật tốt theo nhận định của 100% giảng viên. 
Biểu đồ 4: Hình thức giảng dạy mong muốn nhất của giảng 
viên 
Biểu đồ 5: Khả năng thích ứng khi giảng dạy hoàn toàn qua 
Internet của giảng viên 
Nhận định sẽ cần phải có nhiều thay đổi khi triển 
khai giáo dục trực tuyến trong bệnh viện, 54% giảng 
viên cần thêm nhiều thời gian để làm quen với hình 
thức đào tạo mới, khả năng thích ứng vẫn sẽ còn một 
chút khó khăn ở 52% giảng viên, nên đến 81% giảng 
viên mong muốn nếu có triển khai giáo dục trực tuyến 
tại thời điểm hiện tại thì nên kết hợp với giáo dục 
truyền thống, chưa nên tách rời ngay lập tức vì họ 
 Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014 
58
vẫn coi đó là hình thức giáo dục cơ bản. Điều này 
phù hợp với kết quả nghiên cứu tại Mỹ (năm 2006) 
và Hà Lan (năm 2005) [3, 4]. 
KẾT LUẬN 
Giảng viên tại bệnh viện sẵn sàng cho việc triển 
khai giáo dục trực tuyến như một phương pháp giảng 
dạy bổ sung cho giáo dục truyền thống. 
Khi triển khai giáo dục trực tuyến sẽ có nhiều sự 
ủng hộ ngay từ đầu của cả giảng viên và học viên vì 
nhận thức của họ về lợi ích của hình thức đào tạo 
mới này là rất cao. 
Nhóm giảng viên có tuổi đời và thâm niên công 
tác nhiều sẽ có nhiều động lực để ứng dụng công 
nghệ thông tin trong giảng dạy khi đã hiểu rõ những 
khó khăn khi giảng dạy “mặt đối mặt” truyền thống. 
Mức độ truy cập Internet ở giảng viên ở mức rất 
cao, đầy đủ trang thiết bị tin học cơ bản như máy tính 
để bàn, máy tính xách tay, thiết bị truy cập Internet di 
động sẽ giúp giáo dục trực tuyến có thể tiếp cận với 
nhóm liên tục. 
Kỹ năng sử dụng hòm thư điện tử cũng như các 
hình thức đối thoại trực tuyến khác như yahoo, skype 
hay truy cập các diễn đàn trực tuyến chuyên ngành 
cũng như tìm kiếm thông tin trên Internet thành thạo 
cũng làm eLearning trở nên dễ dàng hơn với giảng 
viên bệnh viện. 
Triển khai giáo dục trực tuyến sẽ đáp ứng đúng 
nhu cầu của chính giảng viên hiện nay khi mục đích 
truy cập vào các diễn đàn chuyên ngành theo nghiên 
cứu này chủ yếu là tìm hiểu tài liệu chuyên ngành. 
Tham gia vào giáo dục trực tuyến, giảng viên 
nhận định sẽ cần: 
 Chuẩn bị chu đáo hơn bài giảng, thu thập tài 
liệu chuẩn mực, dành nhiều thời gian và công sức 
cho việc biên tập và ứng dụng công nghệ thông tin 
trong giảng dạy. 
 Thay đổi tư duy và cách thức giảng dạy. 
 Liên hệ chặt chẽ và liên tục hỗ trợ học viên. 
Giảng viên cũng nhận định học viên tham gia học 
trực tuyến sẽ: 
 Có thể giảm chi phí đi lại, thời gian và công 
sức học tập xa nhà. 
 Phải dành nhiều thời gian hơn cho việc học và 
liên hệ giảng viên từ xa. 
 Chủ động, tích cực trong học tập. 
Việc giảng dạy và học tập khi đó được giảng viên 
nhận định sẽ: 
 Tăng hiệu suất đào tạo. 
 Chi phí đào tạo sẽ tỷ lệ nghịch với số lượng và 
thời gian đào tạo. 
 Có sự phù hợp nhất định với giảng viên hiện 
tại. 
 Cần tăng cường kết nối, liên hệ giữa hai phía 
giảng viên và học viên. 
 Chất lượng đào tạo trực tuyến chỉ đảm bảo khi 
kết hợp đồng bộ giữa các yếu tố giảng viên, học viên 
và trang thiết bị kỹ thuật. 
Trên thực tế, khả năng thích ứng của giảng viên 
với giáo dục trực tuyến sẽ có một chút khó khăn, cần 
thời gian cũng như có phương pháp tiếp cận phù hợp 
để làm quen và triển khai thành công. 
KIẾN NGHỊ 
Xác định giảng viên tại các cơ sở y tế là nhóm 
nhân tố quan trọng của giáo dục trực tuyến, việc đầu 
tiên và quan trọng nhất là tiếp tục tăng cường nhận 
thức cho họ, nên để họ là những người đầu tiên trải 
nghiệm thực sự trong môi trường eLearning. Từ đó 
mới có thể biến suy nghĩ của họ thành hành động 
tích cực thực sự đóng góp vào việc bắt đầu triển khai 
hình thức đào tạo mới trong bệnh viện. 
Phát triển mạng lưới đội ngũ giảng viên nguồn có 
đầy đủ kiến thức, kỹ năng và mong muốn khuyếch 
trương giảng dạy trực tuyến vì lợi ích lâu dài của học 
viên. 
Xác định các khu vực trọng tâm, nhóm đối tượng 
ưu tiên cần khuyến khích phát triển hình thức đào tạo 
mới để phát huy được tối đa ưu điểm của giáo dục 
trực tuyến như cán bộ y tế tại các vùng sâu, vùng xa, 
vùng còn khó khăn về nhân lực y tế. 
Lựa chọn đầu tư giáo dục trực tuyến vào một số 
bệnh viện trọng điểm, chuyên ngành có sức hút đào 
tạo lớn tại từng vùng làm thành mô hình điểm, từ đó 
nhân rộng mô hình, tránh đầu tư dàn trải, lãng phí khi 
chưa có kinh nghiệm thực tế. 
Đưa những nội dung giáo dục trực tuyến tiếp cận 
từ từ vào giảng dạy từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến 
phức tạp, từ lý thuyết đến thực hành để giảng viên, 
học viên hình thành được thói quen tiếp cận ngay với 
loại hình đào tạo mới này, sau đó eLearning mới có 
thể phát huy được tối đa những ưu điểm trong thực 
tiễn công việc, khắc phục những hạn chế của giáo 
dục truyền thống trong thời đại tin học ngày nay. 
Đẩy mạnh đầu tư phát triển nhân lực và hệ thống 
phần mềm quản lý đào tạo trực tuyến, thay đổi cách 
thức đánh giá kết quả học tập để phù hợp với loại 
hình mới, đảm bảo chất lượng đào tạo mang tính 
thực tiễn. 
Tóm lại, để có thể triển khai được thành công giáo 
dục trực tuyến tại các cơ sở y tế Việt Nam mặc dù đã 
có nhiều yếu tố thuận lợi, ủng hộ phát triển, nhưng 
cần phải có lộ trình lâu dài, từng bước tiếp cận và 
phối hợp, phát huy được ưu điểm của giáo dục y tế 
truyền thống. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Vietnam Internet Network Center, Vienam internet 
resource report in Vietnam internet development figures 
report. 2012: Hanoi. p. 3. 
2. Nkenke, E., et al., Acceptance of technology-
enhanced learning for a theoretical radiological science 
course: a randomized controlled trial. BMC Med Educ, 
2012. 12: p. 18. 
3. Ruiz, J.G., M.J. Mintzer, and R.M. Leipzig, The 
impact of ELearning in medical education. Acad Med, 
2006. 81(3): p. 207-12. 
4. Spanjers, R., A.F. Rutkowski, and R. Martens, 
Implementation and acceptance of eLearning in a 
hospital environment. International Journal of Healthcare 
Technology and Management, 2005. 6(4): p. 431-453. 
5. Mazzoleni, M.C., et al., Is it worth investing in 
Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014 
59
online continuous education for healthcare staff? Stud 
Health Technol Inform, 2012. 180: p. 939-43. 
6. Vietnam Ministry of Health, Strengthening 
management capacity and reforming health financing to 
implement the five-year health sector plan 2011–2015, in 
Joint Annual Health Review 2011, Ministry of Health: 
Hanoi. p. 32-39. 
7. Goh, J. and M. Clapham, Attitude to eLearning 
among newly qualified doctors. Clin Teach, 2014. 11(1): 
p. 20-3. 
8. Kontio, R., et al., eLearning course may shorten 
the duration of mechanical restraint among psychiatric 
inpatients: A cluster-randomized trial. Nord J Psychiatry, 
2013. 
9. Einarson, E., et al., Interactive eLearning - a safe 
place to practice. Stud Health Technol Inform, 2009. 
146: p. 841. 
NGHI£N CøU §ÆC §IÓM L¢M SµNG, CËN L¢M SµNG 
CñA XUÊT HUYÕT TI£U HãA DO GI·N Vì TÜNH M¹CH THùC QU¶N 
ë BÖNH NH¢N X¥ GAN Cã NGHIÖN R¦îU Vµ KH¤NG NGHIÖN R¦îU 
NguyÔn Duy Cêng*; TrÇn ThÞ H¬ng** 
* Trường Đại học Y Dược Thái Bình 
** Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình 
TÓM TẮT 
Để tìm hiểu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của 
xuất huyết tiêu hóa (XHTH) do giãn vỡ tĩnh mạch 
thực quản (TMTQ) ở bệnh nhân (BN) xơ gan có 
nghiện rượu và không nghiện rượu, nghiên cứu đã 
tiến hành trên 264 BN, kết quả như sau: 
- Tuổi trung bình của nhóm nghiện rượu là 49,04 ± 
8,42, XHTH do giãn vỡ TMTQ gặp 100% ở nam, độ 
tuổi trung bình của nhóm không nghiện rượu là 55,35 
± 1,22, XHTH do giãn vỡ TMTQ gặp 25,3% ở nữ. 
- Có mối liên quan giữa thời gian nghiện rượu với 
thời gian tái phát XHTH trong vòng 1 năm đầu (OR = 
5,2, 95% CI: 1,04 - 29,14, p < 0,05) 
- Có mối liên quan giữa mức độ xơ gan theo phân 
độ Child – Pugh với thời gian tái phát XHTH trong 
năm đầu (OR = 2,75, 95% CI: 1,42 - 5,3) và tần suất 
tái phát XHTH (OR = 3,81, 95% CI: 1,03 - 15,33) 
- Có mối liên quan giữa độ giãn TMTQ với thời 
gian tái phát XHTH trong năm đầu (OR = 2,2, 95% 
CI: 1,03 - 4,75, p < 0,01). 
Từ khóa: Xuất huyết tiêu hóa, xơ gan 
SUMMARY 
STUDY ON CLINICAL, SUBCLINICAL OF 
GASTROINTESTINAL BLEEDING DUE TO RUPTURE OF 
ESOPHAGEAL VEINS STRETCH IN CIRRHOSIS 
PATIENS WITH ALCOHOLISM AND NON-ALCOHOLISM 
SUMMARY 
- The average age of the alcoholics group was 
49.04 ± 8.42, not alcoholics group was 55.35 ± 1.22. 
- Gastrointestinal bleeding due to relaxing break 
esophageal veins in patients with alcoholic cirrhosis 
occurred 100% in men and in non-alcohol group 
occurred in women 25.3%. 
- There is an association between alcoholism time 
to time recurrent gastrointestinal bleeding started 
within 1 year (OR=5.2,95% CI: 1.04 to 29.14, p<0.05) 
- There is an association between the level of liver 
fibrosis as assigned by the Child - Pugh time 
recurrent gastrointestinal bleeding in the first year 
(OR = 2.75,95 % CI : 1.42 to 5.3) and frequency 
recurrent gastrointestinal bleeding (OR = 3.81,95 % 
CI : 1.03 to 15.33) 
- There is an association between esophageal 
variceal recurrence time gastrointestinal bleeding in 
the first year (OR= 2.2,95 % CI: 1.03 to 4.75, p<0.01). 
Keywords: Gastrointestinal bleeding, cirrhosis 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
XHTH là một cấp cứu thường gặp. Tại BV Chợ 
Rẫy trong 2 năm 1994-1995 có 1003 trường hợp 
XHTH cao, trong đó gần 30% do giãn vỡ TMTQ và 
70% do loét dạ dày tá tràng. Theo thống kê của BV 
Việt Đức giai đoạn 1992-1996: có 12-26% XHTH là 
do giãn vỡ TMTQ. Giai đoạn 2001-2005 là 24-30%. 
Tại BV Bạch Mai, tỷ lệ này là 30% [1]. XHTH do giãn 
vỡ TMTQ đứng đầu về mức độ chảy máu. Tỷ lệ giãn 
TMTQ trên BN xơ gan thay đổi từ 40-80%, nguy cơ 
chảy máu từ TMTQ giãn là 30-50% [2]. 
XHTH do giãn vỡ TMTQ có nguyên nhân chủ yếu 
là tăng áp lực tĩnh mạch cửa do xơ gan (khoảng 
90%). Tỷ lệ tử vong cao, có khoảng 30% tử vong ở 
lần xuất huyết đầu tiên, 70% BN sống sót sẽ bị tái 
phát. Tỷ lệ tái xuất huyết khoảng 60 % trong 1 năm, 
trong đó khoảng 30-40 % tái phát trong phạm vi 6 
tuần [3]. BN xơ gan có nghiện rượu thường có tỷ lệ 
mắc các biến chứng và tái phát biến chứng nặng hơn 
và nhanh hơn các BN xơ gan không nghiện rượu, 
đặc biệt là biến chứng XHTH do giãn vỡ TMTQ. 
Chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu: 
Tìm hiểu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của xuất 
huyết tiêu hóa (XHTH) do giãn vỡ tĩnh mạch thực 
quản (TMTQ) ở bệnh nhân (BN) xơ gan có nghiện 
rượu và không nghiện rượu, 
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu 
BN > 16 tuổi được chẩn đoán là XHTH do vỡ 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 de_tai_trien_khai_hinh_thuc_dao_tao_moi_trong_nganh_y_te_bui.pdf de_tai_trien_khai_hinh_thuc_dao_tao_moi_trong_nganh_y_te_bui.pdf