Đề tài Thực trạng công tác thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2007 - 2010

Tài liệu Đề tài Thực trạng công tác thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2007 - 2010: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài BHXH là chính sách an sinh xã hội quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, là yếu tố quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định trong quá trình phát triển đất nước, vì vậy, việc chăm sóc sức khỏe và bảo đảm an sinh xã hội là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, Nhà nước và cộng đồng xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã nhấn mạnh: “Đổi mới hệ thống BHXH, đa dạng hóa hình thức BHXH và phù hợp với kinh tế thị trường; xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp…”. Theo đó, mục tiêu trong giai đoạn hiện nay là tiến tới mọi NLĐ ở mọi thành phần kinh tế đều được tham gia BHXH ở hai loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; bảo đảm cân đối thu chi quỹ BHXH; khắc phục cơ bản những bất hợp lí của chính sách hiện hành và từng bước cải thiện cuộc sống của người về hưu; nhằm góp phần ổn định xã hội trong sự phát triển bền vữ...

doc62 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1171 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng công tác thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2007 - 2010, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài BHXH là chính sách an sinh xã hội quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, là yếu tố quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định trong quá trình phát triển đất nước, vì vậy, việc chăm sóc sức khỏe và bảo đảm an sinh xã hội là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, Nhà nước và cộng đồng xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã nhấn mạnh: “Đổi mới hệ thống BHXH, đa dạng hóa hình thức BHXH và phù hợp với kinh tế thị trường; xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp…”. Theo đó, mục tiêu trong giai đoạn hiện nay là tiến tới mọi NLĐ ở mọi thành phần kinh tế đều được tham gia BHXH ở hai loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; bảo đảm cân đối thu chi quỹ BHXH; khắc phục cơ bản những bất hợp lí của chính sách hiện hành và từng bước cải thiện cuộc sống của người về hưu; nhằm góp phần ổn định xã hội trong sự phát triển bền vững. Trong các khâu của BHXH thì công tác thu là quan trọng nhất, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của hệ thống BHXH. Việc thu đúng, thu đủ, thu kịp thời tạo điều kiện cho công tác chi trả các chế độ BHXH đúng quy định, đảm bảo cuộc sống cho người tham gia khi họ bị mất hoặc giảm nguồn thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động. Ngoài ra, công tác thu được thực hiện có hiệu quả sẽ góp phần tăng trưởng quỹ BHXH, khi đó quỹ BHXH sẽ hạch toán độc lập với ngân sách Nhà nước, chủ động được nguồn chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH. Công tác thu BHXH tại BHXH huyện Hiệp Hòa trong những năm gần đây đã đạt được một số kết quả quan trọng như: số lao động và đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc tăng, số thu BHXH luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch mà ngành BHXH giao cho. Tuy nhiên, BHXH huyện Hiệp Hòa cũng không tránh khỏi những tồn tại, hạn chế trong công tác thu như: còn nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa tham gia BHXH, nhiều chủ sử dụng lao động vẫn cố tình lách luật, tham gia BHXH mang tính đối phó, cầm chừng, NLĐ do áp lực về việc làm không dám đấu tranh để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, tình trạng các đơn vị nợ đọng BHXH làm ảnh hưởng đến việc giải quyết chế độ cho NLĐ. Chính vì vậy trong quá trình thực tập tại BHXH huyện Hiệp Hoà, em đã chọn đề tài: “Thực trạng công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2007 - 2010 ” làm khóa luận tốt nghiệp. 2. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc nghiên cứu thực trạng công tác thu tại BHXH huyện Hiệp Hòa để thấy được những mặt đã đạt được, những mặt chưa đạt được, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH bắt buộc tại đơn vị. 3. Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu + Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến BHXH bắt buộc. + Quá trình thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. - Phạm vi nghiên cứu và thời gian nghiên cứu + Công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. + Thời gian: giai đoạn 2007 – 2010 4. Nội dung nghiên cứu Chương I: Một số vấn đề lí luận chung về BHXH, thu BHXH. Chương II: Thực trạng công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2007 – 2010. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Hiệp Hòa. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp lí luận. - Phương pháp khảo sát, phân tích. - Các phương pháp khác. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ BHXH, THU BHXH 1.1. Khái niệm về BHXH, thu BHXH bắt buộc 1.1.1. Khái niệm về BHXH Theo Công ước số 102 (1952) của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), BHXH có thể hiểu khái quát là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua các biện pháp công cộng, nhằm chống lại các khó khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. Ở góc độ tài chính, BHXH được định nghĩa: là quá trình thành lập và sử dụng quỹ tiền tệ dự trữ của cộng đồng những NLĐ, có sự bảo trợ của Nhà nước, để san sẻ rủi ro, đảm bảo thu nhập cho họ và gia đình trong những trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật. Ở góc độ kiến thức bách khoa, BHXH là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho NLĐ và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Ở góc độ pháp luật, BHXH là một chế độ pháp lí quy định đối tượng, điều kiện, mức độ đảm bảo vật chất và các dịch vụ cần thiết để bảo vệ NLĐ và gia đình họ trong các trường hợp bảo hiểm được Nhà nước xác định. Căn cứ vào mục đích xã hội của bảo hiểm thì BHXH là hình thức bảo hiểm thu nhập và cung cấp các dịch vụ việc làm, chăm sóc y tế thiết yếu cho NLĐ và một số thành viên gia đình họ trong các trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn nghề nghiệp, tàn tật, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp... trên cơ sở đóng quỹ của người tham gia, góp phần đảm bảo ổn định đời sống cho họ và an toàn xã hội. Khái niệm này nhằm xác định tính xã hội, tính phi lợi nhuận của hình thức BHXH, có thể coi là khái niệm BHXH theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, cũng là nghĩa thông dụng ở nước ta, có thể hiểu BHXH là sự bảo đảm bù đắp một phần hoặc thay thế thu nhập của NLĐ khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết... trên cơ sở đóng góp và sử dụng một quỹ tài chính tập trung, nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho họ và an toàn xã hội. Các khái niệm trên, tuy xuất phát ở những góc độ khác nhau nhưng đều xem xét BHXH, trước hết là một hình thức bảo hiểm nhưng mang tính xã hội, hoạt động phi lợi nhuận, có sự bảo hộ của Nhà nước, chủ yếu nhằm mục đích đảm bảo thu nhập cho NLĐ và an toàn xã hội. Như vậy, xuất phát từ nhu cầu của NLĐ, BHXH đã trở thành chính sách xã hội quan trọng của nước ta và hầu hết các nước trên thế giới. Khi NLĐ tham gia BHXH bị mất sức lao động dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập trong các trường hợp được bảo hiểm, quỹ bảo hiểm sẽ giúp họ thăng bằng về thu nhập để ổn định cuộc sống. BHXH trở thành phương thức dự phòng để khắc phục hậu quả của các rủi ro xã hội, đảm bảo an toàn xã hội và tạo động lực hữu hiệu để phát triển kinh tế. 1.1.2. Khái niệm về thu BHXH bắt buộc Thu BHXH là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình bắt buộc các đối tượng tham gia phải đóng BHXH theo mức phí quy định hoặc cho phép những đối tượng tự nguyện tham gia được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Trên cơ sở đó hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích bảo đảm cho việc chi trả các chế độ BHXH và hoạt động của tổ chức sự nghiệp BHXH. Thu BHXH thực chất là quá trình phân phối lại một phần thu nhập của các đối tượng tham gia BHXH, phân phối và phân phối lại một phần của cải xã hội dưới dạng giá trị, nhằm giải quyết hài hòa các mặt lợi ích kinh tế, góp phần đảm bảo sự công bằng xã hội. 1.2. Vai trò của thu BHXH Thu BHXH là hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành BHXH nhằm đảm bảo nguồn tài chính BHXH được tập trung, thống nhất. Thu BHXH là hoạt động của các ban, ngành chức năng trên cơ sở quy định của pháp luật về thực hiện chính sách BHXH nhằm tạo ra nguồn tài chính tập trung từ việc đóng góp của các bên tham gia BHXH; đồng thời tránh được tình trạng nợ đọng BHXH từ các cơ quan, đơn vị, từ người tham gia BHXH. Qua đó, đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện, triển khai và thực hiện chính sách BHXH nói chung và giữa những người tham gia BHXH nói riêng. Thu BHXH có vai trò như một điều kiện cần và đủ trong quá trình tạo lập và thực hiện chính sách BHXH: bởi đây là đầu vào, là nguồn hình thành cơ bản nhất trong quá trình tạo lập quỹ BHXH. Đồng thời, đây cũng là một khâu bắt buộc đối với người tham gia BHXH thực hiện nghĩa vụ của mình. Do vậy, công tác thu BHXH là một công việc đòi hỏi độ chính xác cao, thực hiện thường xuyên, liên tục, kéo dài trong nhiều năm và có sự biến động về mức đóng và số người tham gia. Thu BHXH vừa đảm bảo cho quỹ BHXH được tập trung về một mối, vừa đóng vai trò như một công cụ thanh kiểm tra số người tham gia BHXH biến động ở từng khối lao động, cơ quan, đơn vị ở từng địa phương hoặc trên phạm vị toàn quốc. Bởi công tác thu BHXH cũng đòi hỏi phải được tổ chức tập trung thống nhất, có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài chính, đảm bảo được sự chính xác trong ghi chép kết quả đóng BHXH ở từng cơ quan, đơn vị cũng như của từng NLĐ. Hơn nữa, hoạt động thu BHXH là hoạt động liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của cả một đời người và có tính kế thừa. Số thu BHXH một phần dựa trên số lượng người tham gia để tạo lập nên quỹ BHXH, cho nên nghiệp vụ của công tác thu BHXH có một vai trò hết sức quan trọng và rất cần thiết trong thực hiện chính sách BHXH. Bởi vậy, thu BHXH là khâu đầu tiên giúp cho chính sách BHXH thực hiện được các chức năng cũng như bản chất của mình. Hoạt động thu BHXH ở hiện tại ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi trả và quá trình thực hiện chính sách BHXH trong tương lai: do BHXH cũng như những loại hình BHXH khác đều dựa trên cơ sở nguyên tắc có đóng có hưởng. Nếu không thu được BHXH thì quỹ BHXH không có nguồn để chi trả các chế độ BHXH cho NLĐ. Vậy hoạt động thu BHXH ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi và quá trình thực hiện chính sách BHXH. Do đó, thực hiện công tác thu BHXH đóng vai trò quyết định, then chốt trong quá trình đảm bảo ổn định cuộc sống của NLĐ cũng như các đơn vị, doanh nghiệp được hoạt động bình thường. 1.3. Nội dung thu BHXH bắt buộc 1.3.1. Đối tượng tham gia BHXH * Người lao động (NLĐ) Theo quy định tại điều 2 - Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 và thông tư số 03/2007/TT - BLĐTBXH ngày 30/01/2007, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc được quy định như sau: NLĐ tham gia BHXH là công dân Việt Nam bao gồm: - Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; - Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn theo quy định của pháp luật về lao động; - NLĐ, kể cả cán bộ quản lí làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã; - Công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang; - NLĐ theo quy định nói trên được cử đi học, thực tập, công tác trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công ở trong nước; - NLĐ đã tham gia BHXH bắt buộc mà chưa nhận BHXH một lần trước khi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, bao gồm: + Hợp đồng với tổ chức sự nghiệp, doanh nghiệp được phép hoạt động dịch vụ đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài, doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài dưới hình thức thực tập, nâng cao tay nghề và doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; + Hợp đồng với doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu công trình ở nước ngoài; + Hợp đồng cá nhân. - Đối với quân nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân, công an nhân dân, được quy định tại Nghị định số 68/2007/NĐ - CP ngày 19/4/2007 như sau: + NLĐ thuộc diện hưởng lương, bao gồm: Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; Người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân, công an nhân dân. + NLĐ thuộc diện hưởng trợ cấp, bao gồm: Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân; Hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân. * NSDLĐ tham gia BHXH bắt buộc, bao gồm: - Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; - Các công ty Nhà nước thành lập theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước đang trong thời gian chuyển đổi thành công ty Cổ phần hoặc công ty Trách nhiệm hữu hạn theo Luật Doanh nghiệp; - Cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước; - Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; - Tổ chức, đơn vị hoạt động theo quy định của pháp luật; - Cơ sở ngoài công lập hoạt động trong các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, xã hội, dân số, gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em và các ngành sự nghiệp khác; - Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã; - Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho NLĐ theo quy định của pháp luật lao động; - Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có sử dụng lao động là người Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. - Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc đối với quân nhân, công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu, bao gồm: + Các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ; + Cơ quan, tổ chức khác sử dụng người làm công tác cơ yếu; + Doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ. 1.3.2. Phương thức và mức đóng BHXH Nguyên tắc đóng BHXH Hàng tháng, chậm nhất vào ngày cuối cùng của tháng, NSDLĐ đóng BHXH trên quỹ tiền lương, tiền công của những NLĐ; đồng thời trích từ tiền lương, tiền công tháng của từng NLĐ theo mức quy định để đóng cùng lúc vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH mở tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước. Hàng tháng, NSDLĐ được giữ lại 2% số phải nộp vào quỹ ốm đau, thai sản để chi trả kịp thời 2 chế độ ốm đau, thai sản cho NLĐ. Hàng quý thực hiện quyết toán với cơ quan BHXH, trường hợp tổng số tiền quyết toán nhỏ hơn số tiền giữ lại thì NSDLĐ phải nộp số chênh lệch này vào tháng đầu quý sau. NSDLĐ tham gia BHXH, đóng trụ sở chính ở địa bàn nào thì đăng kí tham gia đóng BHXH tại địa bàn đó theo phân cấp của cơ quan BHXH. Trường hợp, đơn vị không đủ tư cách pháp nhân, không có tài khoản, con dấu riêng thì đóng theo đơn vị quản lí cấp trên. Phương thức đóng BHXH - NSDLĐ đóng bằng hình thức chuyển khoản. Trường hợp NSDLĐ hoặc NLĐ đóng BHXH bằng tiền mặt thì cơ quan BHXH phải hướng dẫn thủ tục nộp tiền vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH. Nếu NSDLĐ hoặc NLĐ nộp tiền mặt trực tiếp tại cơ quan BHXH thì chậm nhất sau 3 ngày làm việc, cơ quan BHXH phải nộp tiền vào tài khoản chuyên thu mở tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước. - NLĐ được cử đi học tập, thực tập, công tác, nghiên cứu, đi điều dưỡng ở trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc sinh hoạt phí ở đơn vị trước khi được cử đi vẫn phải đóng BHXH, NLĐ hợp đồng ở nhiều đơn vị tại một thời điểm thì chỉ đăng kí đóng BHXH theo một hợp đồng lao động. - Số tiền đóng BHXH trong kì được tính đủ số tiền BHXH và tiền lãi do đóng chậm, đóng thiếu (nếu có). - Cơ quan BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ đóng BHXH cho NLĐ, kể cả NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động trong các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang trực tiếp vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH Việt Nam mở tại Kho bạc Nhà nước Trung ương. - NSDLĐ là các doanh nghiệp sản xuất (nuôi, cấy, trồng trọt) thuộc ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp thực hiện trả tiền lương, tiền công cho NLĐ theo mùa vụ hoặc theo chu kỳ có thể đóng BHXH theo quý hoặc 6 tháng một lần nhưng phải xuất trình phương án sản xuất và phương thức trả lương cho NLĐ để cơ quan BHXH có căn cứ giải quyết. - Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, cá nhân có thuê mướn, trả công cho NLĐ, sử dụng dưới 10 NLĐ có thể đóng BHXH theo quý nhưng phải đăng kí và được sự chấp thuận của cơ quan BHXH. - NLĐ đi làm việc ở nước ngoài đóng BHXH theo quý, 6 tháng hoặc 12 tháng một lần hoặc có thể đóng trước một lần theo thời hạn hợp đồng; NSDLĐ thu, nộp BHXH cho NLĐ và đăng kí phương thức đóng với cơ quan BHXH hoặc NLĐ đóng thông qua NSDLĐ mà NLĐ đã tham gia BHXH trước đó hoặc đóng trực tiếp tại cơ quan BHXH nơi NLĐ cư trú trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Trường hợp NLĐ được gia hạn hợp đồng hoặc ký hợp đồng mới tại nước tiếp nhận lao động thì thực hiện đóng BHXH theo quy định này hoặc truy đóng cho cơ quan BHXH sau khi về nước. - Trường hợp tạm dừng đóng BHXH vào quỹ hưu trí và tử tuất (nếu đảm bảo đủ điều kiện quy định) thì trong thời gian tạm dừng đóng này, đơn vị vẫn phải đóng đủ số tiền vào các quỹ ốm đau và thai sản, quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. NLĐ nghỉ việc vì ốm đau từ 14 ngày trở lên trong tháng thì cả NSDLĐ và NLĐ không phải đóng BHXH tháng đó. Thời gian này không được tính là thời gian đóng BHXH. Thời gian NLĐ nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được tính là thời gian đóng BHXH. Thời gian này NLĐ và NSDLĐ không phải đóng BHXH. Mức đóng BHXH Mức đóng BHXH thực hiện theo quy định tại Luật BHXH và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật BHXH như Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính Phủ, Nghị định số 68/2007/NĐ - CP ngày 19/4/2007 của Chính Phủ và Nghị định số 190/2007/NĐ-CP ngày 28/12/2007 của Chính Phủ. Hàng tháng, NLĐ đóng bằng 5% mức tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất. Từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%. Hàng tháng, NSDLĐ đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH của NLĐ như sau: + 3% vào quỹ ốm đau và thai sản, trong đó NSDLĐ giữ lại 2% để trả kịp thời cho NLĐ đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản, ốm đau và thực hiện quyết toán hàng quý với tổ chức BHXH. + 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp + 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất, từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 14%. Căn cứ đóng BHXH NLĐ thuộc đối tượng thực hiện theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định: tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH là tiền lương theo ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có). Mức tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH được tính trên mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng. NLĐ thuộc đối tượng thực hiện theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quy định: tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH là tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng. Trường hợp, NLĐ có tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động bằng ngoại tệ thì tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH được tính bằng đồng Việt Nam trên cơ sở tiền lương, tiền công bằng ngoại tệ được chuyển sang đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm ngày 02 tháng 01 cho 6 tháng đầu năm và ngày 01 tháng 7 cho 6 tháng cuối năm. Trường hợp trùng vào ngày nghỉ mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa công bố thì được lấy tỷ giá của ngày tiếp theo liền kề. Mức tiền lương, tiền công thu nhập tối đa để tính mức đóng BHXH là 20 lần mức lương tối thiểu. 1.3.3. Quy trình tổ chức thu BHXH Quy trình tổ chức thu BHXH được hiểu là tổng thể các công việc (biện pháp) cần phải tiến hành, theo đó là cả một quá trình sắp xếp thứ tự logic trước sau, công việc nào cần phải thực hiện trước, công việc nào cần phải thực hiện sau để đạt được mục tiêu đã đề ra với hiệu quả cao nhất. Phân cấp quản lí thu trong hệ thống BHXH Việt Nam BHXH Việt Nam: Chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra tình hình thực hiện công tác quản lý thu, cấp sổ BHXH trong toàn ngành bao gồm cả BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ. Xác định mức lãi suất bình quân trong năm của hoạt động đầu tư quỹ BHXH và thông báo cho BHXH tỉnh. BHXH tỉnh: - Căn cứ tình hình thực tế của địa phương để phân cấp quản lí thu BHXH cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. - Xây dựng, quản lí cơ sở dữ liệu có liên quan đến NLĐ tham gia BHXH trên địa bàn tỉnh. - Xây dựng kế hoạch và hướng dẫn, kiểm tra tình hình thực hiện công tác thu, cấp sổ BHXH theo phân cấp quản lí và quyết toán số tiền thu BHXH đối với BHXH huyện theo định kì quý, 6 tháng, năm và lập “Biên bản thẩm định số liệu thu BHXH bắt buộc” ( Mẫu số 12- TBH). BHXH huyện: - Tổ chức, hướng dẫn thực hiện thu BHXH; cấp sổ BHXH đối với NSDLĐ và NLĐ theo phân cấp quản lý. BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ: Trực tiếp thu BHXH, cấp sổ BHXH đối với NLĐ do Bộ Quốc Phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ quản lý; xây dựng kế hoạch thu và báo cáo quyết toán thu BHXH, cấp sổ BHXH hàng năm với cơ quan BHXH Việt Nam. 1.3.3.1. Lập và giao kế hoạch thu hàng năm BHXH huyện: Căn cứ tình hình thực hiện năm trước và khả năng mở rộng người lao động tham gia BHXH trên địa bàn, lập 02 bản “Kế hoạch thu BHXH bắt buộc năm sau” ( Mẫu số 13- TBH), gửi 01 bản đến BHXH tỉnh trước ngày 05/11 hàng năm. BHXH tỉnh: lập 02 bản dự toán thu BHXH đối với NLĐ do tỉnh quản lý, đồng thời tổng hợp toàn tỉnh; lập 02 bản “Kế hoạch thu BHXH bắt buộc năm” (Mẫu số 13- TBH), gửi BHXH Việt Nam một bản trước ngày 15/11 hàng năm. Căn cứ dự toán thu của BHXH Việt Nam, tiến hành phân bổ dự toán thu BHXH cho các đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh và BHXH huyện trước ngày 20/01 hàng năm. BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban cơ yếu Chính phủ: Lập kế hoạch thu BHXH gửi BHXH Việt Nam trước ngày 15/11 hàng năm. BHXH Việt Nam: Căn cứ tình hình thực hiện kế hoạch năm trước và khả năng phát triển lao động năm sau của các địa phương, tổng hợp, lập và giao dự toán thu BHXH cho BHXH tỉnh và BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ trước ngày 10/01 hàng năm. 1.3.3.2. Quản lý tiền thu BHXH tỉnh và BHXH huyện không được sử dụng tiền thu BHXH vào bất kì mục đích gì (trường hợp đặc biệt phải được Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam chấp thuận bằng văn bản). Hàng quý, BHXH tỉnh (Phòng Kế hoạch- Tài chính) và BHXH huyện có trách nhiệm quyết toán số tiền 2% đơn vị được giữ lại, xác định số tiền chênh lệch thừa, thiếu; đồng thời gửi thông báo quyết toán cho phòng Thu hoặc bộ phận thu để thực hiện thu kịp thời số tiền NSDLĐ chưa chi hết vào tháng đầu của quý sau. BHXH Việt Nam thẩm định số thu BHXH định kỳ 6 tháng hoặc hàng năm đối với BHXH tỉnh, BHXH thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ. 1.3.3.3. Thông tin, báo cáo thu BHXH tỉnh, huyện: Mở sổ chi tiết thu BHXH bắt buộc (Mẫu số 07- TBH); thực hiện ghi sổ BHXH theo hướng dẫn sử dụng biểu mẫu. BHXH tỉnh, huyện: thực hiện chế độ báo cáo tình hình thu BHXH bắt buộc (Mẫu số 09, 10, 11- TBH) định kì tháng, quý, năm như sau: + BHXH huyện: báo cáo tháng trước ngày 22 hàng tháng, báo cáo quý trước ngày 20 tháng đầu của quý sau. + BHXH tỉnh: báo cáo tháng trước ngày 25 hàng tháng, báo cáo quý trước ngày cuối cùng của tháng đầu quý sau. BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ: thực hiện báo cáo thu bảo hiểm xã hội 6 tháng đầu năm trước ngày 30/7 và báo cáo năm trước ngày 15/02 năm sau. 1.3.3.4. Quản lý hồ sơ, tài liệu thu BHXH tỉnh, huyện: cập nhật thông tin, dữ liệu của người tham gia BHXH để phục vụ kịp thời cho công tác nghiệp vụ và quản lý. BHXH tỉnh: xây dựng hệ thống mã số đơn vị tham gia BHXH áp dụng trong địa bàn tỉnh theo hướng dẫn của BHXH Việt Nam. Mã số tham gia BHXH cấp cho đơn vị để đăng kí tham gia BHXH được sử dụng thống nhất trên hồ sơ, giấy tờ, sổ sách và báo cáo nghiệp vụ. BHXH các cấp: tổ chức phân loại, lưu trữ và bảo quản hồ sơ, tài liệu thu BHXH đảm bảo khoa học để thuận tiện khai thác, sử dụng. Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin để quản lí người tham BHXH, cấp sổ BHXH cho người tham gia BHXH bắt buộc. 1.4. Các trường hợp truy đóng và thủ tục truy đóng Các trường hợp phải truy đóng + Không đóng BHXH + Đóng không đúng thời gian quy định + Đóng không đúng mức quy định + Đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH + NLĐ sau thời gian làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 3 tháng, khi hết hạn hợp đồng lao động mà vẫn tiếp tục làm việc hoặc kí hợp đồng lao động mới với đơn vị đó thì thời gian làm việc theo hợp đồng lao động trước đó phải truy đóng BHXH. Điều kiện truy đóng: NLĐ phải là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, có tên trong danh sách lao động, tiền lương của đơn vị và có đủ hồ sơ liên quan đến thời gian truy đóng BHXH. Thủ tục truy đóng BHXH NSDLĐ: Lập “Danh sách truy đóng BHXH bắt buộc” (Mẫu số 04 - TBH) và công văn kèm theo các hồ sơ liên quan của NLĐ gửi cơ quan BHXH. Cơ quan BHXH: Tiếp nhận hồ sơ, tiến hành kiểm tra, xác định số tiền phải truy đóng; mức truy đóng là 20% BHXH tính theo tiền lương, tiền công và mức lương tối thiểu tại thời điểm đóng. Trong thời gian phải truy đóng nếu NLĐ bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và có khám chữa bệnh thì NSDLĐ phải chịu trách nhiệm bồi hoàn chi phí cho NLĐ. Số tiền BHXH phải truy đóng được nộp vào quỹ BHXH mở tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước. Phân cấp giải quyết: Các trường hợp truy đóng BHXH do BHXH tỉnh quyết định, trừ trường hợp truy đóng để cộng nối thời gian tham gia BHXH trước ngày 01/01/1995 thì phải có ý kiến bằng văn bản của BHXH Việt Nam. 1.5. Thoái trả tiền đã đóng BHXH NSDLĐ không còn là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc (đơn vị giải thể, phá sản) đóng thừa số tiền BHXH thì được thoái trả. Thủ tục thoái trả NSDLĐ lập văn bản gửi cơ quan BHXH kèm theo các hồ sơ có liên quan; BHXH tỉnh tiếp nhận hồ sơ, tiến hành kiểm tra, thẩm định và thoái trả cho đơn vị, không thoái trả cho từng NLĐ. Trường hợp hồ sơ không đủ điều kiện để thoái trả thì có văn bản trả lời đơn vị nhưng không quá 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản của đơn vị. Trường hợp NSDLĐ di chuyển khỏi địa bàn tỉnh nếu có đóng thừa tiền BHXH thì cơ quan BHXH nơi NSDLĐ chuyển đi phải có văn bản báo cáo BHXH Việt Nam giải quyết. 1.6. Một số nhân tố tác động trực tiếp đến công tác thu BHXH Chính sách tiền lương Giữa chính sách tiền lương và chính sách BHXH nói chung và công tác thu BHXH nói riêng có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Chính sách tiền lương là tiền đề và cơ sở cho việc thực hiện chính sách BHXH, bởi vì cơ sở để tính toán mức đóng và hưởng BHXH ở Việt Nam hiện nay là phụ thuộc vào tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Như vậy, khi Nhà nước nâng lương tối thiểu, điều đó đồng nghĩa với việc tăng mức đóng BHXH và số thu BHXH cũng tăng lên. Thêm vào đó đối với các lao động đóng BHXH theo thang, bảng lương Nhà nước quy định, mức đóng còn phụ thuộc vào hệ số lương, vì thế khi nhà nước điều chỉnh lại thang, bảng lương thì mức đóng BHXH cũng tăng lên. Cơ cấu dân số NLĐ là đối tượng tham gia BHXH, đang trong độ tuổi lao động, trực tiếp tạo ra của cải cho xã hội. Như vậy, nếu một nước có dân số già tức là số người trong độ tuổi lao động chiếm một tỉ lệ thấp trong tổng dân số sẽ dẫn đến việc mất cân đối quỹ BHXH vì số người tham gia đóng góp vào quỹ ngày càng ít trong khi số người hưởng các chế độ BHXH đặc biệt là chế độ hưu trí ngày càng tăng. Ngược lại, một nước có dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động chiếm tỉ lệ lớn sẽ là nguồn thu lớn cho quỹ BHXH. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, với dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 54,9% tổng dân số, đang có lợi thế về nguồn lực lao động tham gia đóng góp vào quỹ BHXH. Vì vậy, Việt Nam cần có chính sách phù hợp để những NLĐ này được tham gia BHXH. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của Nhà nước, vì thế nếu một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định thì chắc chắn đời sống của người dân sẽ cao dần lên, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi vì thế các chủ doanh nghiệp cũng sẵn sàng tham gia BHXH cho NLĐ. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững phản ánh nhiều lao động có thu nhập cao thông qua quá trình lao động, đây là điều kiện tiền đề để NLĐ có cơ hội tham gia BHXH. Thêm nữa, khi đời sống kinh tế cao thì nhận thức của NLĐ cũng tăng lên, ngoài việc ý thức đảm bảo cuộc sống hàng ngày cho bản thân và gia đình họ, họ mong muốn có khoản trợ giúp khi không may gặp các rủi ro xã hội như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, thai sản, thất nghiệp khiến họ bị mất hoặc giảm thu nhập. Ngược lại, khi nền kinh tế bị khủng hoảng dẫn đến các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, họ tìm cách né tránh đóng BHXH cho NLĐ đồng thời NLĐ mất việc làm, thu nhập giảm, cuộc sống gặp nhiều khó khăn thì họ không có phần tích lũy để tham gia BHXH. Tình hình này sẽ dẫn đến thất thu ở nhiều đơn vị, doanh nghiệp, gây nhiều cản trở cho công tác thu BHXH. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU BHXH BẮT BUỘC TẠI BHXH HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG GIAI ĐOẠN 2007 - 2010 2.1. Một số đặc điểm kinh tế xã hội có liên quan đến công tác thu BHXH tại BHXH huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang Hiệp Hòa là một huyện trung du, nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Bắc Giang, cách thành phố Bắc Giang 30 km. Phía Bắc giáp huyện Tân Yên. Phía Nam giáp huyện Yên Phong (Bắc Ninh). Phía Đông giáp huyện Việt Yên. Phía Tây giáp tỉnh Thái Nguyên. Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 20.110 ha trong đó đất nông nghiệp chiếm 67%, đất lâm nghiệp chiếm 0,9%. Hiệp Hòa là một huyện đông dân cư nhất của tỉnh Bắc Giang, với 25 xã và 1 thị trấn. Dân số tính đến năm 2009 là khoảng 21 vạn người, trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm 45%. Với khí hậu ôn hòa, địa hình đặc trưng là đồi thấp, giao thông tương đối thuận lợi, đó là những điều kiện tốt để Hiệp Hòa có thể phát triển mạnh về nông nghiệp, lâm nghiệp, thương mại và dịch vụ. Bên cạnh đó, Hiệp Hòa còn là huyện giàu truyền trống văn hóa, lịch sử, cái lôi cách mạng lâu đời, có thôn Xuân Biều - xã Xuân Cẩm là nơi tiền khởi nghĩa cách mạng năm 1945, thôn Vân Xuyên - xã Hoàng Vân là khu cách mạng tiền khởi nghĩa được công nhận là an toàn khu 2 (ATK). Nhân dân Hiệp Hòa có truyền thống cần cù lao động, với nhiều làng nghề truyền thống như: nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, mây tre đan,...mang tính cổ truyền, đậm đà bản sắc dân tộc. Tất cả các yếu tố đó tạo nên sự kết hợp hài hòa giữa cảnh quan thiên nhiên và truyền thống lịch sử của huyện, đó là điều kiện hết sức thuận lợi cho Hiệp Hòa trên đà phát triển. Nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, trong những năm gần đây, Hiệp Hòa đã chú trọng chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa. Kinh tế Hiệp Hòa phát triển theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giảm tỉ trọng nông nghiệp. Với mục tiêu đó, toàn huyện đã nỗ lực phấn đấu thực hiện, đến nay tỷ trọng về nông, lâm, thủy sản đã giảm xuống còn 63,69%; công nghiệp, xây dựng tăng lên 12,94%; thương mại, dịch vụ chiếm 23,37%. Trong nông nghiệp tích cực đưa những giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất cao, chất lượng tốt, giá trị kinh tế cao vào sản xuất đại trà đảm bảo năng suất, sản lượng, giá trị lợi nhuận tăng dần qua các năm. Trong công nghiệp, dịch vụ, huyện đã tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng diện tích hướng dẫn các doanh nghiệp hoàn thiện các thủ tục đầu tư nhanh gọn, đúng quy định của Nhà nước để nhanh chóng đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất. Đến nay có 14 dự án đầu tư trong các lĩnh vực may mặc, sản xuất gạch, khai thác cát sỏi... đã đi vào hoạt động với tổng số vốn đăng kí trên 449,5 tỷ đồng và 3 triệu USD, đã quy hoạch được một số cụm công nghiệp tại thị trấn Thắng, Đức Thắng, Hương Lâm, Xuân Cẩm, Mai Đình,.... Giáo dục và đào tạo huyện Hiệp Hòa chuyển biến tích cực về chất lượng dạy và học; cơ sở, quy mô trường lớp hàng năm được đầu tư kiên cố hóa, xây dựng mới, đảm bảo cho việc dạy và học của các nhà trường. Lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng được quan tâm đầu tư mua sắm trang thiết bị phục vụ khám, chữa bệnh, thường xuyên cải tạo, nâng cấp, xây dựng thêm các phòng khám từ bệnh viện huyện đến trạm y tế xã, thị trấn đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. 2.2. Khái quát về BHXH huyện Hiệp Hòa 2.2.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của BHXH huyện Hiệp Hòa Năm 1995 cùng với cả nước thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội theo cơ chế mới, BHXH huyện Hiệp Hòa được thành lập và đi vào hoạt động theo Quyết định số 32/QĐ-TCCB ngày 18/7/1995 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Là một đơn vị mới thành lập nên cơ quan BHXH huyện Hiệp Hòa cũng gặp những khó khăn, thử thách nhất định. Khi đó, BHXH huyện Hiệp Hòa có 3 bộ phận chức năng. Số cán bộ, công chức là 4 người, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm còn yếu. Công tác của ngành chủ yếu được thực hiện thủ công dẫn tới thời gian giải quyết chế độ cho NLĐ kéo dài. BHXH huyện Hiệp Hòa chưa có trụ sở làm việc riêng, các phương tiện phục vụ công tác của ngành còn thiếu thốn. Năm 1998 được sự quan tâm của Ủy ban nhân dân huyện Hiệp Hòa, BHXH tỉnh Bắc Giang và BHXH Việt Nam, cơ quan BHXH huyện Hiệp Hòa đã xây dựng được trụ sở làm việc mới. Vượt qua những khó khăn ban đầu, bằng tinh thần trách nhiệm và quyết tâm của đội ngũ cán bộ,công chức, BHXH huyện Hiệp Hòa đã nỗ lực phấn đấu xây dựng BHXH huyện nhà ngày càng trưởng thành và phát triển. Thực hiện Quyết định số 20/QĐ-2002/TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc sáp nhập BHYT Việt Nam vào BHXH Việt Nam, ngày 01/01/2003 BHYT Hiệp Hòa chính thức sáp nhập vào BHXH huyện Hiệp Hòa. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của BHXH tỉnh Bắc Giang, bộ máy tổ chức của cơ quan đã nhanh chóng ổn định và đi vào hoạt động có hiệu quả. Đến nay BHXH huyện Hiệp Hòa có 6 bộ phận với 12 cán bộ, công chức, viên chức. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức ngày càng được nâng cao. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác được xây dựng, trang bị đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kì mới. Tập thể lãnh đạo BHXH huyện Hiệp Hòa đã biết phát huy những thế mạnh trong thực hiện nhiệm vụ của ngành. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Hiệp Hòa, BHXH tỉnh Bắc Giang, sự hỗ trợ của các ban, ngành, đoàn thể có liên quan nên việc khai thác và mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT tại BHXH huyện đã đạt được nhiều thành công. Sau 16 năm hoạt động, BHXH huyện Hiệp Hòa đã khẳng định vị thế vững chắc, đồng hành cùng sự nghiệp an sinh xã hội trong công cuộc đổi mới của Đảng, góp phần ổn định chính trị xã hội trên địa bàn huyện Hiệp Hòa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. 2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ và hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH huyện Hiệp Hòa Chức năng BHXH huyện Hiệp Hoà là cơ quan trực thuộc BHXH tỉnh Bắc Giang đặt tại huyện, có chức năng giúp giám đốc BHXH tỉnh Bắc Giang tổ chức thực hiện chế độ chính sách BHXH, BHYT; quản lí thu, chi BHXH, BHYT trên địa bàn huyện Hiệp Hoà theo phân cấp quản lí của BHXH Việt Nam và quy định của pháp luật. BHXH huyện Hiệp Hoà chịu sự quản lí trực tiếp, toàn diện của Giám đốc BHXH tỉnh Bắc Giang và chịu sự quản lí hành chính Nhà nước của Uỷ ban nhân dân huyện Hiệp Hoà. BHXH huyện Hiệp Hoà có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản và trụ sở riêng. Nhiệm vụ - Xây dựng, trình Giám đốc BHXH tỉnh Bắc Giang kế hoạch phát triển BHXH huyện Hiệp Hòa trong dài hạn, ngắn hạn và chương trình công tác hàng năm; tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình sau khi được phê duyệt. - Tổ chức thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chế độ chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT; tổ chức khai thác, đăng kí quản lí các đối tượng tham gia và hưởng BHXH, BHYT theo phân cấp. - Cấp sổ BHXH, thẻ BHYT cho những người tham gia bảo hiểm. - Tổ chức thu các khoản đóng góp BHXH, BHYT đối với các tổ chức và cá nhân. - Hướng dẫn và tổ chức tiếp nhận hồ sơ, giải quyết các chế độ BHXH, BHYT. - Tổ chức chi trả các chế độ BHXH, BHYT theo phân cấp; từ chối việc đóng hoặc chi trả các chế độ BHXH, BHYT không đúng quy định; tổ chức kí hợp đồng với tổ chức, cá nhân làm đại lí do uỷ ban nhân dân xã, thị trấn giới thiệu và bảo lãnh để thực hiện chế độ chính sách BHXH, BHYT ở xã, thị trấn theo chỉ đạo, hướng dẫn của BHXH tỉnh Bắc Giang. - Tổ chức kí hợp đồng với các cơ sở khám chữa bệnh có đủ điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn, kĩ thuật theo phân cấp; giám sát thực hiện hợp đồng và giám sát việc cung cấp dịch vụ khám, chữa bệnh, bảo vệ quyền lợi người có thẻ BHYT và chống lạm dụng quỹ BHYT. - Tổ chức kí hợp đồng với tổ chức, cá nhân làm đại lí do ủy ban nhân dân xã, thị trấn giới thiệu và bảo lãnh để thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT ở xã, thị trấn theo chỉ đạo, hướng dẫn của BHXH tỉnh Bắc Giang. - Kiểm tra, giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo về việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT đối với các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm, cơ sở khám chữa bệnh BHYT theo quy định của pháp luật. - Tổ chức quản lí, lưu trữ hồ sơ các đối tượng tham gia và hưởng các chế độ BHXH, BHYT theo quy định. - Tổ chức hướng dẫn nghiệp vụ BHXH, BHYT cho các tổ chức và cá nhân tham gia bảo hiểm. - Chủ trì, phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội ở huyện, với các tổ chức, cá nhân tham gia BHXH, BHYT để giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện các chế độ BHXH, BHYT theo quy định của pháp luật. - Đề xuất, kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra các tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện BHXH, BHYT. - Cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin về việc đóng, quyền được hưởng các chế độ bảo hiểm, thủ tục thực hiện BHXH, BHYT khi tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu. Cung cấp đầy đủ, kịp thời tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. - Thực hiện chế độ thông tin, thống kê, báo cáo theo quy định. Hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH huyện Hiệp Hòa Sơ đồ tổ chức bộ máy của BHXH huyện Hiệp Hòa Giám đốc Phó Giám đốc Bộ phận kế toán Bộ phận chế độ chính sách Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả Bộ phận thu Bộ phận cấp sổ BHXH, thẻ BHYT Bộ phận giám định BHYT - Giám đốc: có trách nhiệm tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của BHXH huyện Hiệp Hòa theo phân cấp. Quyết định các công việc thuộc phạm vi và thẩm quyền quản lí của BHXH huyện và chịu trách nhiệm về các quyết định đó. Thực hiện các quy định của pháp luật, của BHXH Việt Nam và quy định quản lí hành chính Nhà nước của Uỷ ban nhân dân huyện Hiệp Hoà. Tại BHXH huyện Hiệp Hòa, ngoài việc phụ trách các công tác chung của cơ quan BHXH, Giám đốc BHXH còn trực tiếp phụ trách các bộ phận: bộ phận kế toán, bộ phận chế độ chính sách, bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả. - Phó Giám đốc: là người được Giám đốc phân công hoặc uỷ quyền giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của Giám đốc. Phó giám đốc BHXH huyện Hiệp Hòa trực tiếp quản lí các bộ phận sau: bộ phận thu, bộ phận cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, bộ phận giám định BHYT. - Bộ phận thu: bộ phận này có những nhiệm vụ chính là thu BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BHYT, BHTN trên địa bàn huyện Hiệp Hoà. Lập kế hoạch thu BHXH hàng tháng, quý, năm. Báo cáo tình hình thu theo định kì hàng tháng, quý, năm cho phòng Thu của BHXH tỉnh Bắc Giang. - Bộ phận kế toán: có những nhiệm vụ về kế toán chi BHXH sau: Chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng. Chi trả các chế độ trợ cấp một lần. Chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản và dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ. Thanh toán chi phí khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT với các cơ sở khám chữa bệnh. Chi trả trợ cấp thất nghiệp. Lập kế hoạch chi BHXH hàng tháng. Lập và quản lí chứng từ sổ sách kế toán theo quy định của ngành BHXH, của Nhà nước. - Bộ phận chế độ chính sách: có nhiệm vụ Kiểm tra, xét duyệt hồ sơ, thẩm định việc thực hiện các chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN. Lưu trữ hồ sơ các chế độ BHXH. Giải quyết các khiếu nại, tố cáo của các tổ chức và cá nhân về việc thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT, BHTN. - Bộ phận cấp sổ, thẻ: có nhiệm vụ cấp và quản lí sổ BHXH; cấp và quản lí thẻ BHYT cho người tham gia. - Bộ phận giám định BHYT: có nhiệm vụ giám định việc thực hiện các quyền lợi khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT tại các cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn huyện Hiệp Hoà. - Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả: có trách nhiệm nhận hồ sơ của các đối tượng tham gia BHXH, BHYT; phân loại và chuyển hồ sơ của các đối tượng đến các bộ phận có liên quan để giải quyết sau đó sẽ trả lời họ theo giấy hẹn của cơ quan BHXH. 2.2.3. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của BHXH huyện Hiệp Hoà BHXH huyện Hiệp Hoà có tất cả 12 công chức, viên chức. Trong đó có 8 nam (chiếm 66,67%) và 4 nữ (chiếm 33,33%). Về trình độ học vấn: 10 người có trình độ đại học, 2 người có trình độ cao đẳng. Để tránh sự chồng chéo trong việc thực hiện các nhiệm vụ, giám đốc BHXH huyện đã phân công cho mỗi cán bộ, công chức, viên chức phụ trách những nhiệm vụ cụ thể. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức luôn phát huy tốt truyền thống đoàn kết thống nhất, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ trong công việc và tâm huyết với ngành; có phẩm chất, đạo đức trong sáng. Hàng năm, BHXH huyện Hiệp Hoà thường phối hợp với BHXH tỉnh Bắc Giang tổ chức các buổi tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan với phương châm vừa làm vừa tổng kết thực tiễn, ứng phó linh hoạt, chuyển tác phong làm việc từ hành chính thụ động sang tác phong phục vụ, lấy việc thực hiện tốt chính sách và tác phong phục vụ là công cụ tuyên truyền cho chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã đề ra. Bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ của ngành, các cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan cũng thường xuyên tham gia các phong trào văn nghệ, thể dục thể thao do ủy ban nhân dân huyện Hiệp Hòa, BHXH tỉnh Bắc Giang tổ chức và giành được khá nhiều giải thưởng cao như giải nhất cầu lông đơn nam khối các cơ quan, đơn vị trên địa bàn huyện Hiệp Hòa năm 2008, giải nhì cầu lông toàn ngành BHXH tỉnh Bắc Giang năm 2009.... 2.2.4. Cơ sở vật chất kĩ thuật của BHXH huyện Hiệp Hòa Cơ sở vật chất kĩ thuật cũng là một yếu tố giúp cơ quan BHXH huyện Hiệp Hòa hoàn thành nhiệm vụ của mình. Điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật tốt làm cho công việc được giải quyết nhanh chóng tạo, được niềm tin đối với người tham gia. Trụ sở làm việc của BHXH huyện Hiệp Hoà là toà nhà hai tầng nên được chia ra thành các phòng riêng, bao gồm: phòng họp, phòng giám đốc, phòng phó giám đốc, phòng thu, phòng chi, phòng chế độ chính sách, phòng cấp sổ BHXH, thẻ BHYT. Trang thiết bị làm việc gồm: 6 máy tính, 3 máy in đều được nối mạng internet và có kết nối với máy chủ, nối mạng Lan với BHXH tỉnh Bắc Giang. Ngoài ra, BHXH huyện còn được trang bị các yếu tố vật chất khác như: quạt điện, tivi, bàn ghế làm việc, ghế ngồi cho người tham gia và nhân dân đến làm việc tại cơ quan BHXH.…Tất cả các thiết bị đó đều góp phần để cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan BHXH huyện Hiệp Hoà hoàn thành nhiệm vụ được giao. 2.3. Tình hình thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Hiệp Hòa 2.3.1. Phân công cán bộ làm công tác thu Cơ quan BHXH huyện Hiệp Hoà phân công hai cán bộ trực tiếp làm công tác thu BHXH. Mỗi cán bộ thu được giao quản lí thu ở một số khu vực đơn vị sử dụng lao động cụ thể nên tránh sự chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ thu. Do vậy dù khối lượng công việc thu rất lớn nhưng bằng trách nhiệm làm việc, sự tâm huyết, nhiệt tình thì cán bộ thu luôn hoàn thành nhiệm vụ đề ra. BHXH huyện Hiệp Hoà đã giao nhiệm vụ cho cán bộ thu như sau: - Cán bộ thu tiếp xúc thường xuyên với các đơn vị sử dụng lao động. + Nắm được tổng số lao động thực tế đang làm việc, số lao động thuộc diện tham gia BHXH, tình hình biến động số lượng lao động, thực hiện đối chiếu với số lao động đã đăng kí tham gia BHXH để hạn chế các đơn vị sử dụng lao động kê khai số lao động tham gia BHXH ít hơn so với thực tế, qua đó đảm bảo quyền được tham gia BHXH của mọi người lao động. + Nắm được quỹ lương của đơn vị vì quỹ lương là căn cứ xác định mức đóng BHXH, hạn chế có đơn vị sử dụng lao động đăng kí quỹ lương với cơ quan BHXH thấp hơn với quỹ lương thực tế làm giảm số tiền phải đóng BHXH của họ dẫn đến sau này khi giải quyết chế độ cho NLĐ thì mức hưởng thấp, chất lượng cuộc sống giảm sút có thể không đảm bảo cuộc sống cho họ, đặt gánh nặng lên Nhà nước nhằm ổn định an sinh xã hội. + Nắm được tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị để thấy được khả năng đóng BHXH của đơn vị đó, đưa ra biện pháp truy thu đối với đơn vị sử dụng lao động làm ăn có hiệu quả nhưng cố tình không đóng BHXH, đồng thời cũng phải tạo điều kiện cho những đơn vị sử dụng lao động gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh được hoãn số tiền BHXH phải nộp. + Tuyên truyền chế độ BHXH cho NSDLĐ và NLĐ, giúp họ nhận thức được tham gia BHXH là quyền và nghĩa vụ của họ, những lợi ích mà NLĐ và NSDLĐ nhận được khi tham gia BHXH. + Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động lập danh sách lao động, quỹ tiền lương tham gia đóng BHXH theo mẫu biểu quy định của cơ quan BHXH. + Hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động lập bảng tăng, giảm mức đóng BHXH hàng tháng để nộp cho BHXH huyện Hiệp Hoà. + Quy định và thông báo lịch làm việc của cán bộ thu BHXH cho các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện Hiệp Hoà. Thông thường BHXH huyện Hiệp Hoà thường tiếp nhận các thay đổi từ ngày đầu tháng đến ngày 20 của tháng. - BHXH huyện Hiệp Hoà thường xuyên thực hiện rà soát, lập danh sách các đơn vị đang hoạt động trên địa bàn nhằm phát hiện thêm các đối tượng mới cần tham gia BHXH trên địa bàn quản lí của huyện mình. Để nắm được số đơn vị thuộc diện tham gia, BHXH huyện Hiệp Hoà thường phối hợp với các cơ quan như phòng công thương, phòng Kế hoạch – Đầu tư, chi cục thuế huyện Hiệp Hoà. Đồng thời tiếp xúc với uỷ ban nhân dân các xã, thị trấn để nắm được số hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, hợp tác xã hiện có tại nơi đó. Việc mở rộng đối tượng tham gia làm cho quỹ BHXH ngày càng tăng, thực hiện chi trả kịp thời các chế độ, có nhiều lao động được bảo vệ trước những rủi ro trong cuộc sống thông qua BHXH. - Cán bộ thu BHXH thực hiện ghi chép kết quả đóng BHXH cho người lao động + Hàng tháng, cán bộ thu căn cứ vào danh sách lao động, quỹ tiền lương đơn vị đăng kí và bảng tăng, giảm mức đóng BHXH để xác định số tiền BHXH phải đóng. + Cán bộ thu ghi chép chi tiết và chính xác kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, từng đơn vị vào đầy đủ các mẫu sổ sách, thực hiện đối chiếu với cán bộ thu của BHXH tỉnh Bắc Giang về kết quả đóng BHXH của từng đơn vị của huyện Hiệp Hoà. + Cán bộ thu phải kiểm tra lại số lao động, quỹ tiền lương tham gia BHXH hàng tháng của từng đơn vị, tổng hợp số đơn vị đã đóng BHXH, số đơn vị đóng thiếu, chưa đóng trong kì. 2.3.2. Lập kế hoạch thu BHXH bắt buộc Lập kế hoạch thu có vai trò rất quan trọng trong công tác thu BHXH. Lập kế hoạch là khâu đầu tiên, có tính chất quyết định đến công tác thu BHXH hàng năm của cơ quan BHXH các cấp. Kế hoạch lập ra càng sát với thực tế và phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương thì công tác thu càng hoàn thiện và có hiệu quả. Tại BHXH huyện Hiệp Hòa, lập kế hoạch thu được tiến hành vào đầu tháng 10 hàng năm và được giao cho cán bộ thu thực hiện. Kế hoạch thu được lập chi tiết tới từng đơn vị sử dụng lao động. Để lập kế hoạch thu, trước hết cán bộ thu đã căn cứ vào tình hình biến động số lao động, quỹ tiền lương do các đơn vị sử dụng lao động báo cáo hàng tháng để xác định dự toán thu năm kế hoạch cho từng đơn vị. Số tiền dự toán thu được tính toán theo công thức sau: Số tiền dự toán thu = Số lao động dự toán × Lương bình quân dự toán × Tỉ lệ đóng (%). Ví dụ như: căn cứ vào thực hiện thu BHXH bắt buộc năm 2010 của công ty may Hoàng Ninh (số lao động đang tham gia BHXH là 100 người, lương bình quân là 21 triệu đồng/ người), cán bộ thu dự toán số lao động tham gia BHXH năm 2011 là 120 người, lương bình quân là 21,91 triệu đồng/ người. Như vậy, số tiền thu dự toán năm 2010 của Công ty may Hoàng Ninh = 120 người × 21,91 triệu đồng/ người × 22% = 578,42 triệu đồng. Bảng 1: Kế hoạch thu BHXH bắt buộc tại một số đơn vị tại BHXH huyện Hiệp Hòa năm 2011. Đơn vị Thực hiện năm 2010 Dự toán năm 2011 Số người Lương bình quân (trđ/người) Số tiền thu (trđ) Số người Lương bình quân (trđ/người) Số tiền thu (trđ) DN tư nhân Minh Quang 98 18,72 403,6 102 18,75 420,75 Công ty TNHH Cường Phát 121 15,84 421,66 130 15,96 456,46 Hợp tác xã Hoàng Vân 24 25,44 143,32 27 25,54 151,71 DN vật liệu xây dựng Sơn Uyên 17 9,36 35,01 19 10,23 42,76 Công ty may Kim Mai 65 17,76 253,97 72 18,12 287,02 (Nguồn: BHXH huyện Hiệp Hòa) Sau đó, cán bộ thu sẽ tổng hợp số tiền dự toán thu theo từng khu vực như: khu vực hành chính sự nghiệp, khu vực doanh nghiệp Nhà nước, khu vực ngoài quốc doanh,... và cuối cùng là xác định tổng thu của cả năm kế hoạch. Bên cạnh lập kế hoạch thu cho các đơn vị đang tham gia BHXH bắt buộc, cán bộ thu còn đưa ra dự toán về các đơn vị có thể đăng kí tham gia BHXH năm kế hoạch. Vì cán bộ thu đã dựa vào tình hình phát triển kinh tế xã hội của huyện Hiệp Hòa, dựa vào số doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động tăng để đưa ra dự toán thu BHXH. Bảng 2: Kế hoạch thu BHXH ở một số khu vực tại BHXH huyện Hiệp Hòa năm 2011 Khu vực Thực hiện năm 2010 Dự toán năm 2011 Số đơn vị Số người Số đơn vị Số người DN ngoài quốc doanh 64 1.338 70 1.429 Hợp tác xã 3 79 5 114 Hộ kinh doanh cá thể 15 121 20 148 (Nguồn: BHXH huyện Hiệp Hòa) 2.3.3. Quy trình thu BHXH bắt buộc Đối với các đơn vị sử dụng lao động lần đầu tham gia BHXH bắt buộc: Trước hết, NLĐ tại các đơn vị sử dụng lao động cần phải căn cứ vào quyết định tuyển dụng, quyết định nâng lương hoặc hợp đồng lao động kê khai 3 bản “Tờ khai tham gia BHXH bắt buộc” nộp cho NSDLĐ. Các thông tin kê khai phải đúng sự thật, đầy đủ các nội dung. Đối với những NLĐ đã được cấp sổ BHXH thì không phải kê khai mà chỉ phải nộp sổ BHXH Thứ hai là cán bộ phụ trách BHXH tại đơn vị sử dụng lao động tiến hành kiểm tra, đối chiếu tờ khai tham gia BHXH với hồ sơ gốc của từng NLĐ; sau đó NSDLĐ tiến hành kí, xác nhận và phải chịu trách nhiệm về những nội dung trên tờ khai của NLĐ. Thứ ba, NSDLĐ lập hồ sơ và gửi đến BHXH huyện Hiệp Hòa để tham gia BHXH cho NLĐ. Hồ sơ phải đầy đủ các loại giấy tờ sau: + Công văn đăng kí tham gia BHXH. + Bản sao quyết định thành lập hoặc chứng nhận đăng kí kinh doanh hoặc giấy phép hoạt động. Đối với NSDLĐ là cá nhân thì họ sẽ nộp bản hợp đồng lao động đã kí kết với NLĐ. + Hai bản “Danh sách lao động tham gia BHXH bắt buộc” (Mẫu số 02a - TBH). +Tất cả các bản tờ khai của NLĐ. Thứ tư, tại cơ quan BHXH huyện Hiệp Hòa: BHXH huyện Hiệp Hòa tiến hành tiếp nhận hồ sơ của các đơn vị sử dụng lao động tại bộ phận một cửa. Sau đó hồ sơ được chuyển đến bộ phận thu. Cán bộ thu sẽ tiến hành kiểm tra số lượng, tính hợp pháp của các loại giấy tờ, đối chiếu với hồ sơ của NLĐ. Nếu hồ sơ đã hợp lệ thì cán bộ thu ghi mã số quản lí đơn vị và từng NLĐ trên danh sách và trên tờ khai tham gia BHXH bắt buộc. Nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì cán bộ thu tại BHXH huyện Hiệp Hòa phải hướng dẫn cụ thể để đơn vị hoàn thiện. Tiếp theo là cơ quan BHXH huyện Hiệp Hòa kí, đóng dấu vào “Danh sách lao động tham gia BHXH” (Mẫu số 02a - TBH), trong thời hạn không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ phải trả lại đơn vị 01 bản danh sách để đơn vị thực hiện đóng BHXH. Cơ quan BHXH huyện Hiệp Hòa lưu một bản danh sách. Riêng 03 tờ khai (Mẫu số 01 - TBH) của NLĐ thì sau khi cấp sổ BHXH hoàn chỉnh, cơ quan BHXH huyện Hiệp Hòa sẽ trả lại đơn vị 02 bản tờ khai cùng với sổ BHXH. Đối với các đơn vị sử dụng lao động đang tham gia BHXH bắt buộc NSDLĐ sẽ lập hai bản “Danh sách điều chỉnh lao động hoặc mức đóng BHXH bắt buộc” (mẫu số 03 - TBH), kèm theo hồ sơ như: tờ khai, quyết định tuyển dụng, quyết định tăng, giảm lương nộp cho BHXH huyện Hiệp Hòa trước ngày 20 của tháng. Các trường hợp tăng, giảm từ ngày 16 trở đi thì đơn vị sử dụng lao động lập danh sách và thực hiện nộp hồ sơ vào đầu tháng kế tiếp. BHXH huyện Hiệp Hòa: tiếp nhận, kiểm tra, thẩm định hồ sơ; kí, đóng dấu vào danh sách lao động tham gia BHXH; các tờ khai (nếu có), thông báo cho đơn vị đóng BHXH, cấp sổ BHXH kịp thời cho NLĐ. Hàng tháng hoặc hàng quý, BHXH huyện Hiệp Hòa sẽ thông báo kết quả đóng BHXH bắt buộc gửi đơn vị sử dụng lao động để đơn vị đó kiểm tra, đối chiếu với những số liệu mà họ đã đóng. Với số tiền còn thiếu thì sẽ được các đơn vị đóng vào tháng hoặc đầu quý sau; với số tiền thừa sẽ được trừ trực tiếp vào tháng hoặc quý sau. Nếu số liệu chưa thống nhất thì đơn vị sử dụng lao động phải phối hợp với cán bộ thu BHXH huyện Hiệp Hòa để xác định lại trước ngày 15 của tháng sau, từ ngày 15 trở đi nếu NSDLĐ không có ý kiến phản hồi thì số liệu mà BHXH huyện Hiệp Hòa thông báo là số liệu đúng. 2.3.4. Quản lí tiền thu BHXH bắt buộc BHXH huyện Hiệp Hòa không thu tiền BHXH trực tiếp của bất kì đơn vị sử dụng nào mà hàng tháng họ sẽ chuyển tiền vào tài khoản chuyên thu của BHXH huyện. Các cơ quan hành chính sự nghiệp, Đảng, đoàn thể; khối xã, thị trấn sẽ nộp vào tài khoản của BHXH huyện mở tại kho bạc Nhà nước huyện Hiệp Hòa. Các doanh nghiệp sẽ nộp tiền vào tài khoản mở tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Hiệp Hòa. Sau khi nhận được báo cáo của đơn vị sử dụng lao động và giấy báo có của kho bạc, ngân hàng xác nhận số tiền đã nộp vào tài khoản thì BHXH huyện Hiệp Hòa sẽ tổng hợp số tiền đã thu của các đơn vị. Định kì hàng quý, lãnh đạo BHXH huyện Hiệp Hòa và cán bộ thu sẽ phối hợp với cán bộ kho bạc và ngân hàng để thực hiện đối chiếu số tiền đã thu BHXH với số tiền có trong các tài khoản. Sau đó, cán bộ thu sẽ thực hiện chuyển tiền thu vào tài khoản của BHXH tỉnh Bắc Giang. Theo quy định tại luật BHXH và sự hướng dẫn của BHXH tỉnh Bắc Giang, BHXH huyện Hiệp Hòa đã thực hiện quản lí tiền thu BHXH bắt buộc theo 3 quỹ thành phần, trong đó hai quỹ ngắn hạn là : quỹ ốm đau và thai sản; quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; một quỹ dài hạn là: quỹ hưu trí và tử tuất. Hàng quý, BHXH huyện Hiệp Hòa còn thực hiện quyết toán số tiền 2% đơn vị được giữ lại, xác định số tiền chênh lệch thừa, thiếu, sau đó thông báo quyết toán cho bộ phận thu để cán bộ thu tiến hành thu kịp thời số tiền người sử dụng lao động chưa chi hết vào tháng đầu quý sau. 2.3.5.Thông tin, báo cáo thu BHXH bắt buộc Để đảm bảo số tiền mà BHXH huyện Hiệp Hòa đã thu được quản lí tập trung thống nhất thì cần thiết phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ thông tin, báo cáo. Tại BHXH huyện Hiệp Hòa, hàng tháng cán bộ thu sẽ căn cứ vào các chứng từ chuyển, nộp tiền đóng BHXH bắt buộc để thực hiện ghi chép, phản ánh chi tiết về thu BHXH của từng đơn vị sử dụng lao động vào “Sổ chi tiết thu BHXH bắt buộc” (Mẫu số 07 - TBH). Cán bộ thu chuyên quản trực tiếp đơn vị sử dụng lao động nào sẽ ghi chép cho đơn vị ấy. Sau đó, cán bộ thu sẽ thông báo kết quả đóng BHXH cho các đơn vị có biến động về đóng BHXH (Mẫu số 08 - TBH). Ngoài ra, BHXH huyện Hiệp Hòa cũng thực hiện nghiêm túc việc lập báo cáo thu định kì hàng tháng, quý, năm cho phòng Thu của BHXH tỉnh Bắc Giang để BHXH tỉnh Bắc Giang theo dõi được tiến độ thu nhằm đánh giá được tình hình thu theo từng thời điểm, từ đó công tác lãnh đạo, chỉ đạo của BHXH tỉnh được kịp thời. 2.3.6. Quản lí hồ sơ, tài liệu thu BHXH bắt buộc Các chứng từ mà NSDLĐ lập và gửi đến cơ quan BHXH được cán bộ thu kiểm tra, nhập thông tin cần bổ sung vào phần mềm quản lí thu. Trong đó, mỗi đơn vị sử dụng lao động và NLĐ đều có mã số quản lí riêng. Sau khi ghi chép xong, cán bộ thu thực hiện lưu trữ 1 bản tại BHXH huyện Hiệp Hòa, 1 bản gửi trả lại NSDLĐ, 1 bản để đối chiếu với BHXH tỉnh Bắc Giang. Các chứng từ, mẫu báo cáo thu được phân loại riêng; sắp xếp theo từng tháng, quý, năm và bảo quản trong các tủ hồ sơ chuyên dụng. Có thể thấy việc quản lí hồ sơ tài liệu thu tại BHXH huyện Hiệp Hòa là khoa học, đúng yêu cầu, thuận tiện cho việc tra cứu, khai thác. 2.3.7. Các trường hợp đã truy đóng BHXH bắt buộc Công tác kiểm tra tình hình tham gia BHXH tại các đơn vị sử dụng lao động được BHXH huyện Hiệp Hòa tiến hành định kì hàng tháng, quý. Năm 2010, BHXH huyện đã tổ chức kiểm tra được 10 đơn vị sử dụng lao động và phát hiện được một số sai phạm như: công ty xây dựng CPT không đóng BHXH cho NLĐ và công ty gạch Minh Phú đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Khi phát hiện ra các sai phạm trên, cán bộ thu đã hướng dẫn các đơn vị lập “danh sách truy đóng BHXH bắt buộc” (mẫu số 04 - TBH) và yêu cầu hai đơn vị trên đóng BHXH cho NLĐ. Hai đơn vị trên đã thực hiện nghiêm túc việc truy đóng BHXH và số tiền mà BHXH huyện Hiệp Hòa đã truy đóng được là 56,9 triệu đồng. 2.4. Kết quả thực hiện thu BHXH bắt buộc 2.4.1. Số lao động và số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc Số lao động tham gia BHXH bắt buộc Nhờ có chính sách thu hút đầu tư hiệu quả nên tình hình kinh tế xã hội có những bước phát triển mạnh mẽ đồng thời cũng tạo được nhiều việc làm cho NLĐ trên chính quê hương mình. Không những thế Hiệp Hòa còn thu hút được nhiều lao động ở các vùng lân cận đến làm việc cho các doanh nghiệp đóng trên địa bàn huyện Hiệp Hòa. Bảng 3: Số lao động tham gia BHXH tại BHXH huyện Hiệp Hòa giai đoạn 2007 – 2010 Chỉ tiêu Năm Số lao động tham gia BHXH (người) Lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn (người) Tốc độ tăng liên hoàn (%) 2007 6.982 - - 2008 7.279 297 4,25 2009 7.867 588 8,08 2010 8.019 152 1,93 (Nguồn: BHXH huyện Hiệp Hòa) Biểu đồ 1: Số lao động tham gia BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Hiệp Hòa giai đoạn 2007 - 2010 Nhận xét: Số lao động tham gia BHXH năm 2008 là 7.279 người, tăng 297 người so với năm 2007. Đến năm 2009 số lao động tham gia BHXH là 7.867 người, tăng 588 người so với năm 2008 tương ứng tốc độ tăng liên hoàn là 8,08%. Số lao động tham gia BHXH bắt buộc năm 2010 là 8.019 người tăng 1,93% so với năm 2009, tương ứng tăng 152 người. Tốc độ tăng bình quân của cả bốn năm là 4,72%. Số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc Nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế xã hội, trong những năm gần đây, huyện Hiệp Hòa đã chú trọng chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hàng hóa. Huyện đã đưa ra nhiều chính sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp, các hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể,...đầu tư, mở rộng sản xuất trên địa bàn. Chính điều đó đã làm cho số đơn vị tham gia BHXH tăng lên. Bảng 4: Số đơn vị tham gia BHXH tại BHXH huyện Hiệp Hòa giai đoạn 2007 – 2010. Chỉ tiêu Năm Số đơn vị tham gia BHXH Lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn Tốc độ tăng liên hoàn (%) 2007 197 - - 2008 208 11 5,58 2009 238 38 14,42 2010 246 8 3,36 (Nguồn: BHXH huyện Hiệp Hòa) Biểu đồ 2: Số đơn vị tham gia đóng BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Hiệp Hòa giai đoạn 2007 – 2010. Nhận xét: Số đơn vị tham gia BHXH giai đoạn 2007 – 2010 tăng bình quân 7,69 %/ năm. Năm 2008 có 208 đơn vị tham gia BHXH, tăng 11 đơn vị so với năm 2007 tương ứng tốc độ tăng liên hoàn là 5,58%. Năm 2009 có 238 đơn vị tham gia BHXH, tăng 30 đơn vị so với năm 2008 tương ứng với tốc độ tăng là 14,42%. Đến năm 2010 có thêm 8 đơn vị tham gia BHXH, tăng 3,36% so với năm 2009. 2.4.2. Kết quả thực hiện kế hoạch thu BHXH bắt buộc BHXH huyện Hiệp Hòa luôn chú trọng công tác thu, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm hàng năm của cơ quan. Thu BHXH đầy đủ, kịp thời thì quỹ BHXH mới được hình thành và đảm bảo được chức năng chi trả của mình. Ngoài ra, khi đó quỹ BHXH có thể tham gia đầu tư góp phần tăng trưởng quỹ, nâng cao vị thế, uy tín của cơ quan BHXH. Trong thực hiện công tác thu, lãnh đạo BHXH huyện Hiệp Hòa đã phân công cụ thể trách nhiệm cho từng cán bộ thu để theo dõi, quản lí các đơn vị sử dụng lao động do mình đảm trách; đồng thời thông báo cho lãnh đạo các trường hợp các trường hợp đóng thiếu, nợ đóng.... để đề ra phương thức giải quyết kịp thời. Bảng 5: Kết quả thực hiện kế hoạch thu tại BHXH huyện Hiệp Hòa giai đoạn 2008 – 2010 Chỉ tiêu Năm Kế hoạch thu BHXH (triệu đồng) Thực hiện thu BHXH (triệu đồng) Tốc độ tăng liên hoàn số thu BHXH (%) Tỉ lệ hoàn thành kế hoạch (%) 2007 15.879 15.879 - 100 2008 19.509 19.899 25,32 102 2009 23.417 24.120 21,21 103 2010 32.031 32.672 35,56 102 (Nguồn: BHXH huyện Hiệp Hòa) Biểu đồ 3: Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Hiệp Hòa giai đoạn 2007 – 2010 Nhận xét: Giai đoạn 2007 – 2010, BHXH huyện Hiệp Hòa luôn hoàn thành vượt kế hoạch thu BHXH bắt buộc mà BHXH tỉnh Bắc Giang giao cho. Năm 2007 BHXH hoàn thành 100% kế hoạch thu với số tiền thu là 15879 triệu đồng. Năm 2008 BHXH huyện Hiệp Hoà thực hiện thu 19.899 triệu đồng, vượt kế hoạch đề ra là 2% tương ứng với số tiền vượt là 390 triệu đồng. Năm 2009 kế hoạch thu là 23.417 triệu đồng nhưng thực hiện thu là 24.120 triệu đồng, vượt 703 triệu đồng, với tỉ lệ hoàn thành kế hoạch là 103%, số thu tăng so với năm 2008 là 21,21%. Năm 2010 BHXH huyện Hiệp Hoà được giao nhiệm vụ thu 32.031 triệu đồng tăng 8.614 triệu đồng so với kế hoạch của năm 2009. Nhưng kết quả thu không những hoàn thành kế hoạch đề ra mà còn vượt kế hoạch 2%, số thu BHXH năm 2010 là 32.672 triệu đồng, tăng 35,56% so với thực hiện thu năm 2009 tương ứng với số tiền tăng là 8.642 triệu đồng. Để đạt được kết quả như trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây: Cán bộ thu luôn tận tụy trong công việc, theo dõi, nắm bắt kịp thời tình hình thu BHXH hàng tháng của các đơn vị sử dụng lao động để thông báo, nhắc nhở các đơn vị đóng đúng thời gian và đủ số tiền theo quy định. Tình hình kinh tế của huyện Hiệp Hoà có sự phát triển mạnh mẽ. Số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả tăng. Bên cạnh đó, huyện Hiệp Hoà cũng thu hút được nhiều doanh nghiệp mới tham gia sản xuất, kinh doanh.Từ đó làm tăng số đơn vị và số người lao động tham gia BHXH dẫn đến số thu BHXH không ngừng tăng qua các năm. Tiền lương tối thiểu tăng cũng là một trong những nguyên nhân làm tăng số thu BHXH. Năm 2008 mức lương tối thiểu là 540.000 đồng, đến tháng 5 năm 2009 tăng lên 630.000 đồng và kể từ tháng 5 năm 2010 mức lương tối thiểu là 730.000 đồng. Quỹ tiền lương của các đơn vị sử dụng lao động hiện nay vẫn dựa chủ yếu vào tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định và hệ số thang, bảng lương. Lương tối thiểu tăng đồng nghĩa với việc quỹ lương tăng. Mà quỹ lương là căn cứ để đóng BHXH nên khi lương tối thiểu tăng thì số thu của BHXH huyện Hiệp Hoà cũng tăng theo. 2.4.3. Kết quả thu BHXH phân theo khu vực tại BHXH huyện Hiệp Hòa Cán bộ thu tại BHXH huyện Hiệp Hòa đã tiến hành phân loại số thu BHXH bắt buộc theo từng khu vực. Kết quả thu BHXH bắt buộc phân theo khu vực được thể hiện rõ qua bảng số liệu sau đây: Bảng 6: Kết quả thu BHXH bắt buộc phân theo khu vực tại BHXH huyện Hiệp Hòa giai đoạn 2007 - 2010 Năm Khu vực 2007 2008 2009 2010 Số tiền thu (triệu đồng) Tỉ trọng (%) Số tiền thu (triệu đồng) Tỉ trọng (%) Số tiền thu (triệu đồng) Tỉ trọng (%) Số tiền thu (triệu đồng) Tỉ trọng (%) HCSN, Đảng, đoàn thể 11.927 75,11 13.715 68,92 14.981 62,11 16.993 51,87 Khối ngoài công lập 446 2,81 627 3,15 913 3,79 1.766 5,39 DN Nhà nước 2.112 13,30 3.208 16,12 4.159 17,24 5.841 17,83 DN ngoài quốc doanh 754 4,75 1.222 6,14 2.425 10,05 5.855 17,87 Hợp tác xã 19 0,12 23 0,12 40 0,17 82 0,25 Khối xã, thị trấn 511 3,22 947 4,76 1.404 5,82 1.949 5,95 Hộ kinh doanh cá thể 110 0,69 157 0,79 198 0,82 275 0,84 Tổng 15.879 100,00 19.899 100,00 24.120 100,00 32.762 100,00 (Nguồn: BHXH huyện Hiệp Hòa) Biểu đồ 4: Kết quả thu BHXH bắt buộc phân theo khu vực tại BHXH huyện Hiệp Hòa năm 2007 Biểu đồ 5: Kết quả thu BHXH bắt buộc phân theo khu vực tại BHXH huyện Hiệp Hòa năm 2010 Việc phân loại số thu BHXH bắt buộc theo khu vực có ý nghĩa quan trọng trong công tác thu BHXH bắt buộc, từ kết quả thu thì biết được khu vực nào cần chú trọng thu, lãnh đạo BHXH huyện Hiệp Hòa có được số liệu tổng quát nhất, có chỉ đạo kịp thời để tăng thu, đôn đốc cán bộ thu có trách nhiệm với khu vực mình phụ trách. Việc phân loại cũng giúp cho công tác báo cáo hoặc kiểm tra của BHXH tỉnh Bắc Giang được thuận tiện, nhanh chóng hơn. Qua bảng số liệu có thể thấy nguồn thu chủ yếu của BHXH huyện Hiệp Hòa là từ khối hành chính sự nghiệp, Đảng, Đoàn thể; doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Còn các khối khác số thu chiếm một tỉ trọng nhỏ như: khối ngoài công lập, hợp tác xã, khối xã, thị trấn và hộ kinh doanh cá thể. Số tiền thu từ khối hành chính sự nghiệp, Đảng, Đoàn thể luôn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số thu BHXH bắt buộc. Cụ thể: năm 2007 số thu là 11.972 triệu đồng, năm 2008 số thu là 13.715 triệu đồng chiếm 68,92% tổng số thu. Đến năm 2009 số thu chiếm 62,11%, giảm 6,81% so với năm 2008 nhưng số tiền thu tăng lên là 14.981triệu đồng (tăng thêm 1.266 triệu đồng so với năm 2008). Năm 2010 số tiền thu của khối này tiếp tục tăng so với năm 2009 với số tiền là 16.993 triệu đồng, tỉ trọng chiếm 50,31% tổng số thu. Nguyên nhân số thu BHXH bắt buộc của khu vực hành chính sự nghiệp tăng là do: số lao động được tuyển dụng tăng, tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định tăng. Sự chấp hành các quy định về BHXH tại các đơn vị được thực hiện khá nghiêm túc. Hàng tháng khi có sự biến động về số lao động hoặc hệ số lương của NLĐ tăng thì cán bộ phụ trách BHXH tại các đơn vị luôn có thông báo kịp thời với cán bộ thu BHXH để thực hiện điều chỉnh tăng số tiền đóng BHXH, đảm bảo quyền lợi của NLĐ khi tham gia BHXH bắt buộc. Mặc dù số thu BHXH tăng nhưng tỉ trọng thu so với tổng thu BHXH bắt buộc của khu vực này giảm là do số thu của các khu vực khác tăng nhanh hơn, đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Sau khối hành chính sự nghiệp, số thu của các doanh nghiệp Nhà nước xếp ở vị trí thứ hai. Năm 2009 số thu của khu vực này là 4.159 triệu đồng, chiếm 17,24% tổng thu, tăng 951 triệu đồng và tỉ trọng tăng thêm 1,12% so với năm 2008. Năm 2010 số thu tiếp tục tăng thêm 1.682 triệu đồng và tỉ trọng tăng thêm 0,59% so với năm 2009 đưa số thu BHXH của khu vực doanh nghiệp Nhà nước lên 5.841 triệu đồng, tỉ trọng chiếm 17,83% tổng thu BHXH bắt buộc. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực có sự chuyển biến mạnh mẽ nhất trong công tác thu. Năm 2007 khu vực này chỉ chiếm tỉ trọng 4,75% tổng thu với số tiền là 754 triệu đồng, đến năm 2008 tỉ trọng chiếm 6,14%. Năm 2009 tỉ trọng chiếm 10,05% và số tiền thu là 2.425 triệu đồng, tăng 1.203 triệu đồng với tỉ trọng tăng 3,91% so với năm 2008. Đến năm 2010 khu vực này đã xếp ở vị trí thứ hai với số tiền thu là 5.855 triệu đồng, tỉ trọng chiếm 17,87% tổng thu, tăng 3430 triệu đồng và tỉ trọng tăng thêm 7,82% so với năm 2009. Tiềm năng thu trong những năm tới của khu vực này tiếp tục tăng và có khả năng sẽ trở thành khu vực có số thu lớn nhất trong tổng thu BHXH bắt buộc. Sở dĩ số thu BHXH bắt buộc của khu vực này tăng nhanh trong giai đoạn 2007 - 2010 là do BHXH huyện Hiệp Hòa đã thực hiện tuyên truyền trực tiếp đến người sử dụng lao động của các doanh nghiệp; cán bộ thu thường xuyên kiểm tra, đôn đốc tình hình thu nộp BHXH của các đơn vị. Mặt khác, tình hình sản xuất kinh doanh của các đơn vị đã có sự ổn định, nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh có lợi nhuận nên đã đóng BHXH bắt buộc đầy đủ, đúng quy định để NLĐ yên tâm làm việc, gắn bó lâu dài với đơn vị mình. Bên cạnh sự tăng lên về số thu BHXH ở các khu vực trên cũng phải kể đến sự tăng thu ở các khu vực khác như: Khối ngoài công lập: giai đoạn 2007 – 2010 số thu tăng 1.320 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng định gốc là 195% (từ 446 triệu đồng năm 2007 lên 1.766 triệu đồng năm 2010), tỉ trọng tăng từ 2,18% lên 5,39% tương ứng tăng 3,11%. Khối hợp tác xã: năm 2007 số thu của khối chiếm tỉ trọng rất nhỏ chỉ là 0,12% với số tiền thu là 19 triệu đồng; đến năm 2009 số thu là 40 triệu đồng, tỉ trọng chiếm 0,17%, tăng 21 triệu đồng và tỉ trọng tăng 0,05%. Năm 2010 số thu BHXH tăng lên 82 triệu đồng tương ứng tăng 42 triệu đồng so với năm 2009. Số thu BHXH năm 2010 tăng mạnh là do: hình thức sản xuất kinh doanh theo mô hình hợp tác xã đang phát triển trong toàn huyện dẫn đến số hợp tác xã tham gia BHXH tăng; ngoài ra có một số hợp tác xã nợ đọng tiền đóng BHXH năm trước đã thực hiện nộp vào năm 2010. Khối xã, thị trấn: số thu BHXH bắt buộc cũng tăng từ 511 triệu đồng năm 2007 lên 1.949 triệu đồng năm 2010 tương ứng tăng 1.438 triệu đồng, tỉ trọng tăng từ 3,22% lên 5,95% tức là tăng 2,73%. Nguyên nhân là do huyện Hiệp Hòa có số đơn vị hành chính nhiều với 25 xã và 1 thị trấn, nhu cầu cán bộ xã lớn nên trong những năm qua liên tục tuyển thêm lao động về làm việc tại địa phương. 2.4.4. Số tiền nợ đọng BHXH bắt buộc Bảng 7: Tình hình nợ đọng BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Hiệp Hòa giai đoạn 2007 – 2010 Năm Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Số tiền BHXH phải thu (triệu đồng) 16054 20122 24469 33321 Số tiền BHXH đã thu (triệu đồng) 15879 19899 24120 32762 Số tiền nợ đọng (triệu đồng) 175 223 349 559 Tỉ lệ nợ đọng (%) 1,09 1,11 1,43 1,68 (Nguồn: BHXH huyện Hiệp Hòa) Biểu đồ 6: Tình hình nợ đọng BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Hiệp Hòa giai đoạn 2007 - 2010 Nhận xét: Nhìn chung, tỉ lệ nợ đọng chiếm một tỉ lệ nhỏ so với tổng số tiền BHXH bắt buộc phải thu nhưng tỉ lệ này đang tăng qua các năm. Năm 2007 tỉ lệ nợ đọng là 1,09% nhưng đến năm 2010 tăng lên 1,68%, tăng 0,59% so với năm 2007. Số tiền nợ đọng BHXH có xu hướng năm sau tăng cao hơn so với năm trước. Giai đoạn 2007 – 2010 số tiền nợ đọng tăng 384 triệu đồng, từ 175 triệu đồng năm 2007 tăng lên 559 triệu đồng năm 2010, với tốc độ tăng định gốc là 119,43%. Có thể thấy việc tham gia BHXH của các đơn vị vẫn mang tính chất bắt buộc nên nợ đọng vẫn xảy ra. 2.5. Đánh giá chung về công tác thu BHXH bắt buộc 2.5.1. Ưu điểm Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tăng qua các năm Qua các kết quả đã phân tích về tình hình tham gia BHXH cho thấy, NLĐ thuộc mọi thành phần kinh tế trên địa bàn huyện Hiệp Hòa đều được tham gia BHXH bắt buộc. Giai đoạn 2007 – 2010, số lao động tham gia BHXH bắt buộc tăng 1.037 người (từ 6.982 người năm 2007 tăng lên 8.019 người năm 2010); số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc tăng 49 đơn vị (từ 197 đơn vị năm 2007 tăng lên 246 đơn vị năm 2010). Như vậy, mức độ bao phủ của hệ thống BHXH ngày càng rộng lớn. Số người lao động tại huyện Hiệp Hòa được hệ thống BHXH bảo vệ trước những rủi ro xã hội ngày càng tăng lên. Số thu BHXH bắt buộc tăng nhanh qua các năm Số tiền mà BHXH huyện Hiệp Hoà thu được giai đoạn 2007- 2010 tăng 16.883 triệu đồng với tốc độ tăng bình quân là 27,31%/ năm. Số thu BHXH của các khối, loại hình đều tăng, đặc biệt là sự tăng thu đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Qua 4 năm số thu của khu vực ngoài quốc doanh tăng 5.101 triệu đồng, (từ 754 triệu đồng năm 2007 lên 5.855 triệu đồng năm 2010), tốc độ tăng bình quân của khu vực ngoài quốc doanh là 98,02%/ năm. Điều này cũng thể hiện ý thức tham gia của người lao động và đơn vị sử dụng lao động trong khu vực kinh tế này đang dần thay đổi. Ứng dụng tốt công nghệ thông tin trong công tác thu BHXH bắt buộc Hiện nay, BHXH huyện Hiệp Hòa đã ứng dụng các phần mềm BHXH vào công tác thu, từ đó công tác thu đạt hiệu quả cao hơn. Khi mà đối tượng tham gia BHXH ngày càng đông thì khối lượng công việc mà cán bộ thu phải giải quyết cũng tăng lên nhưng với sự hỗ trợ của phần mềm quản lí thu thì những khó khăn đã giảm bớt. Việc theo dõi tình hình đóng, nộp BHXH của các đơn vị sử dụng lao động được nhanh chóng và cho kết quả chính xác hơn. Nguyên nhân của những kết quả đạt được là do Sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ thu luôn hướng dẫn, giám sát quá trình đóng BHXH cho NLĐ của các đơn vị sử dụng lao động để họ đóng đúng thời hạn quy định của luật BHXH. Sự ra đời của luật BHXH làm cho số lao động và người sử dụng lao động thuộc diện tham gia BHXH tăng. NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên có quyền tham gia BHXH. Hầu hết các chủ sử dụng lao động có tham gia quan hệ lao động đều phải thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH cho NLĐ. Nhận thức về vai trò của BHXH của NLĐ đang dần thay đổi. Qua công tác tuyên truyền, nhiều NLĐ đã thấy rằng tham gia BHXH là một cách để nâng cao hiệu quả tiêu dùng cá nhân, giúp họ tiết kiệm những khoản nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần thiết chi dùng khi về già, mất sức lao động, góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình. Đó không chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn, làm cho họ ổn định về tâm lí, giảm bớt lo lắng khi ốm đau, tai nạn, tuổi già. 2.5.2. Hạn chế - Về nợ đọng BHXH. Mặc dù BHXH huyện Hiệp Hòa luôn hoàn thành kế hoạch thu hàng năm do BHXH tỉnh Bắc Giang giao nhưng vẫn để xảy ra tình trạng nợ đọng. Với số tiền nợ đọng đó thì NLĐ trong chính các đơn vị nợ đọng sẽ chịu thiệt thòi vì quyền lợi của họ bị ảnh hưởng. Chủ sử dụng lao động chưa đóng BHXH đầy đủ nên quyền hưởng BHXH của NLĐ trong các trường hợp theo quy định của pháp luật sẽ không được đảm bảo. - Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và NLĐ làm việc trong các doanh nghiệp này chưa tham gia BHXH còn rất lớn. Theo số liệu thống kê của phòng Thống kê huyện Hiệp Hòa thì tính đến năm 2010, huyện Hiệp Hòa có 128 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ nhưng chỉ có 90 đơn vị đã đăng kí tham gia BHXH tại BHXH huyện Hiệp Hòa, chiếm tỉ lệ là 70,3%. Số lao động đang làm việc theo hợp đồng có thời hạn từ 3 tháng trở lên tại các doanh nghiệp này là khoảng 2212 lao động nhưng chỉ có 1338 lao động được tham gia BHXH (chiếm tỉ lệ là 60,5%), còn 874 người chưa được tham gia BHXH bắt buộc. - Số cán bộ thu ít nhưng địa bàn quản lí rộng lớn nên việc kiểm tra tình hình thực hiện BHXH chỉ thực hiện được ở một số cơ quan, đơn vị. Bộ phận thu của BHXH huyện Hiệp Hòa có hai cán bộ trực tiếp làm công tác thu trong khi khối lượng công việc rất lớn, các đơn vị sử dụng lao động có trụ sở nằm rải rác trong toàn huyện Hiệp Hòa, vì thế, việc liên hệ với các đơn vị này để tiến hành kiểm tra số lao động và quỹ lương thực tế so với số lao động và quỹ lương đăng kí tham gia đóng BHXH mất nhiều thời gian và gặp nhiều trở ngại. 2.5.3. Nguyên nhân của những hạn chế Từ phía Nhà nước - Luật BHXH còn nhiều điểm chưa hợp lí, đặc biệt là chế tài xử phạt đối với các đơn vị trốn đóng, nợ đọng BHXH chưa đủ sức răn đe. Các doanh nghiệp cố tình chiếm dụng quỹ để quay vòng vốn sản xuất kinh doanh, dù biết là vi phạm pháp luật BHXH và sẽ phải bị phạt nhưng chấp nhận nộp phạt. Mức xử phạt tối đa theo quy định trong luật BHXH là còn thấp. Ngoài việc phải đóng số tiền chưa đóng, chậm đóng thì các doanh nghiệp còn phải đóng số tiền lãi do chưa đóng, chậm đóng. Số tiền lãi phải đóng được tính theo công thức sau: Trong đó: L: số tiền lãi phải nộp do chưa đóng, chậm đóng. D: số tiền chưa đóng, chậm đóng. K: tỉ lệ lãi suất của hoạt động đầu tư quỹ BHXH trong năm. t: số ngày chưa đóng, chậm đóng phải tính lãi. Dựa vào công thức trên có thể thấy số tiền lãi phải đóng phụ thuộc rất lớn vào tỉ lệ lãi suất của hoạt động đầu tư quỹ BHXH trong năm. Nhưng thực tế tỉ lệ này lại thấp hơn so với lãi suất vay tại các ngân hàng. - Hệ thống các văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện chính sách BHXH chưa đồng bộ, còn chồng chéo, thiếu tính thống nhất gây khó khăn trong tổ chức thực hiện tại BHXH huyện Hiệp Hòa. - Hoạt động của cơ quan quản lí Nhà nước về BHXH còn yếu, hiệu quả thấp. Việc ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện chính sách BHXH còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu cụ thể trong từng thời kì, chưa phù hợp với điều kiện thực tế. - Thanh tra Nhà Nước, thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chưa thường xuyên tổ chức kiểm tra, xử phạt vi phạm Luật BHXH; thiếu những đợt kiểm tra đột xuất; xử lí vi phạm chưa kiên quyết, thời gian xử lí dài nên tính chất cưỡng chế chưa cao, tình trạng trốn đóng, chậm đóng vẫn còn phổ biến. Từ phía cơ quan BHXH - Quy trình thu BHXH: quy trình thu BHXH còn nhiều bất cập nên đã tạo điều kiện cho các đơn vị sử dụng lao động trốn đóng BHXH cho NLĐ, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của NLĐ. Ví dụ như đối với các đơn vị sử dụng lao động lần đầu tham gia BHXH sẽ lập bản danh sách lao động tham gia BHXH sau đó nộp cho cơ quan BHXH. Cán bộ thu sẽ căn cứ vào bản danh sách đó để xác định quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, số tiền BHXH phải đóng của đơn vị. Như vậy, cơ quan BHXH dựa hoàn toàn vào sự khai báo mà không nắm được số lượng lao động và quỹ lương thực tế của họ. Hay như khi có sự tăng lao động trong các đơn vị sử dụng lao động thì họ cố tình không khai báo hoặc tiến hành khai báo chậm, khai báo không đủ số lao động tăng để giảm số tiền BHXH phải đóng. - Định kì hàng tháng, quý, bộ phận thu có tổng kết tình hình thu, nộp BHXH của từng đơn vị nhưng chưa có biện pháp truy thu hiệu quả. Sự liên kết giữa cơ quan BHXH với các doanh nghiệp và tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp chưa chặt chẽ. - Công tác cấp sổ BHXH cho NLĐ chậm chễ, có nhiều sai sót, gây mất niềm tin ở NLĐ và đơn vị sử dụng lao động do sự phối hợp giữa bộ phận thu và bộ phận cấp sổ BHXH chưa tốt. - Cán bộ thu khi thực hiện nhiệm vụ của mình đi kiểm tra việc thu nộp BHXH vẫn chưa kiên quyết xử lí các trường hợp khất nộp, chậm nộp. Một số cán bộ còn nể nang do quen biết từ trước hoặc người sử dụng lao động là chỗ quen biết nên thường ngại đốc thu nộp BHXH. - Về việc thông tin tuyên truyền chính sách BHXH: cơ quan BHXH đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác tuyên truyền trong việc vận động NLĐ và các đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH. Tuy nhiên công tác này vẫn chưa thực sự đạt được hiệu quả cao nên nhiều NLĐ chưa có hiểu biết đầy đủ về chính sách BHXH. - Sự phối hợp giữa cơ quan BHXH với các ngành có liên quan chưa chặt chẽ. Trong công tác thu chủ yếu chỉ có sự phối hợp giữa các doanh nghiệp và cơ quan BHXH. Sự phối hợp giữa BHXH huyện Hiệp Hòa với các cơ quan có liên quan như: ủy ban nhân dân các xã, thị trấn, cơ quan thuế, ngân hàng, thanh tra lao động,... còn lỏng lẻo. - Cơ quan BHXH chưa dành nhiều thời gian và công sức trong việc tìm kiếm và vận động các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia BHXH, chưa chủ động gặp gỡ, trao đổi với chủ sử dụng lao động ở khu vực này mà vẫn trông chờ vào sự tự giác tham gia BHXH của họ. - Theo quy định tại Luật BHXH thì thẩm quyền xử phạt hành chính thuộc về cơ quan Thanh tra lao động và ủy ban nhân dân cấp tỉnh, ủy ban nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh chứ không phải do cơ quan BHXH trực tiếp thực hiện. Vì vậy, khi phát hiện ra các sai phạm của đơn vị sử dụng lao động, cơ quan BHXH sẽ báo cáo lên ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan thanh tra lao động để các cơ quan này xem xét và xử lí dẫn đến công tác xử phạt chậm, không kịp thời. Từ phía người sử dụng lao động - Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thường tìm cách hạ thấp chi phí sản xuất để có thể cạnh tranh được với các đối thủ cạnh tranh. Mà việc tham gia BHXH cho NLĐ sẽ làm cho phi phí sản xuất tăng nên các doanh nghiệp thường tìm cách trốn đóng BHXH. Bên cạnh đó hoạt động công đoàn tại các doanh nghiệp còn yếu kém, chưa được quan tâm đúng mức, hoạt động của các cán bộ công đoàn vẫn phụ thuộc vào chủ sử dụng lao động do đó quyền lợi của NLĐ không được đảm bảo. - Các hình thức trốn đóng BHXH mà các đơn vị sử dụng lao động thường sử dụng như: kí hợp đồng lao động dưới 3 tháng đối với NLĐ, sau đó lại tiếp tục gia hạn hợp đồng, kéo dài thời gian thử việc của NLĐ; không đăng kí, khai báo hoặc đăng kí, khai báo không đầy đủ về số lao động thực tế đang làm việc tại đơn vị với BHXH huyện Hiệp Hòa. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp có đóng BHXH cho NLĐ thì họ cũng chỉ tham gia với mức tiền lương tối thiểu còn tiền lương thực tế mà NLĐ nhận được cao hơn nhiều. Điều này sẽ dẫn đến số thu BHXH thấp và quan trọng hơn nữa là NLĐ sẽ chịu thiệt thòi vì mức đóng thấp thì mức hưởng sau này cũng sẽ thấp, ảnh hưởng đến cuộc sống của chính bản thân và gia đình họ. Như vậy, thái độ và ý thức chấp hành pháp luật BHXH của đơn vị sử dụng lao động ảnh hưởng rất lớn đến công tác thu BHXH. Từ phía NLĐ - Đa số NLĐ chưa có nhận thức đầy đủ về ý nghĩa nhân văn của chính sách BHXH nên chưa có ý thức tham gia BHXH. Nhiều người chỉ nhận thấy lợi ích trước mắt là nếu tham gia BHXH thì tiền lương, tiền công hàng tháng họ nhận được sẽ ít hơn nên đã không chủ động yêu cầu được tham gia BHXH ngay sau khi kí hợp đồng lao động. - Những NLĐ có ý thức tham gia BHXH là quyền lợi chính đáng đã được quy định rõ trong luật BHXH nhưng ngại không dám đấu tranh vì lo sợ chủ sử dụng lao động sẽ đuổi việc khi đó họ phải tìm kiếm công việc mới, ảnh hưởng đến cuộc sống của bản thân và gia đình mình. Tóm lại, việc thực hiện công tác thu BHXH bắt buộc huyện Hiệp Hòa hiện nay chưa đạt hiệu quả cao là do: NLĐ, NSDLĐ, cơ quan BHXH và Nhà nước. Trong đó, sự phối hợp hoạt động giữa cơ quan BHXH và các cơ quan quản lí Nhà nước có liên quan là quan trọng nhất. Bởi vì hiệu quả của sự phối hợp hoạt động sẽ nâng cao nhận thức của NLĐ, NSDLĐ trong việc tham gia BHXH cho NLĐ, trong việc đóng BHXH đầy đủ, tạo điều kiện để mọi người dân được tham gia BHXH, góp phần ổn định an sinh xã hội. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THU BHXH BẮT BUỘC TẠI BHXH HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG 3.1. Định hướng về công tác BHXH tại BHXH huyện Hiệp Hòa trong thời gian tới Nhằm mục đích triển khai rộng rãi chính sách BHXH tới mọi đối tượng lao động, đảm bảo sự công bằng trong việc tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH, vừa nhằm tăng nguồn thu cho quỹ BHXH, vừa đảm bảo khả năng chi trả của quỹ, BHXH huyện Hiệp Hòa đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ cụ thể như sau: - Tiếp tục tranh thủ sự chỉ đạo của Thường trực huyện ủy - Ủy ban nhân dân huyện và BHXH tỉnh Bắc Giang; phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện Hiệp Hòa tổ chức tốt công tác thu BHXH, tiếp tục khai thác tăng số lao động tham gia BHXH, tích cực đôn đốc thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động còn nợ đọng BHXH, phấn đấu hoàn thành 100% kế hoạch được giao. - Tổ chức tốt công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH cho đối tượng và NLĐ, duy trì ổn định công tác chi trả thường xuyên trước ngày 10 – 15 hàng tháng bằng việc phối hợp chặt chẽ với ủy ban nhân dân các xã, thị trấn để công tác chi được an toàn. - Thực hiện giải quyết dứt điểm công tác thẩm định hồ sơ đề nghị cấp sổ BHXH cho NLĐ, giải quyết kịp thời các chế độ cho NLĐ. - Duy trì tốt công tác cải cách hành chính, thực hiện cơ chế một cửa. Đồng thời duy trì tốt công tác quản lí, lưu trữ hồ sơ đảm bảo thuận tiện, an toàn khi khai thác, đáp ứng mọi yêu cầu của cá nhân và đơn vị về hồ sơ khi cần thiết. - Tổ chức tốt công tác kiểm tra các hoạt động, nhiệm vụ chuyên môn của ngành, kiểm tra việc thực hiện chế độ BHXH đối với các đơn vị sử dụng lao động và các đại lí chi trả. - Tăng cường công tác kỉ luật, kỉ cương hành chính, thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà nước và nội quy của cơ quan, phát huy tốt những kết quả đã đạt được của những năm trước, các bộ phận tham mưu tốt để thực hiện chính sách BHXH trên địa bàn. - Giải quyết kịp thời các đơn thư, khiếu nại, tố cáo của người dân theo đúng quy định của pháp luật. - Tiếp tục bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ. công chức, viên chức, đảm bảo mọi cán bộ, công chức, viên chức đều đạt tiêu chuẩn chuyên môn. - Phấn đấu xây dựng đơn vị vững mạnh, người công chức kiểu mẫu. Thực hiện nói lời hay, làm việc tốt, phấn đấu đưa BHXH huyện Hiệp Hòa luôn đạt danh hiệu tiên tiến xuất sắc trong những năm tới. - Tổ chức tốt các hoạt động văn nghệ, thể thao, tạo khí thế sôi nổi trong cơ quan, động viên kịp thời tới cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan BHXH huyện Hiệp Hòa. 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Hiệp Hòa: 3.2.1. Thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền chính sách BHXH BHXH là lĩnh vực ảnh hưởng đến nhiều người, nhiều tầng lớp trong cộng đồng xã hội cho nên công tác tuyên truyền BHXH là vô cùng cần thiết. Tuyên truyền giúp cho NLĐ, NSDLĐ và toàn bộ người dân nói chung hiểu về vai trò của BHXH, về các chế độ, chính sách BHXH của Nhà nước ta. Từ đó làm thay đổi thái độ của NLĐ, NSDLĐ đối với công tác BHXH theo hướng tích cực. NLĐ, NSDLĐ sẽ có ý thức tự giác tham gia BHXH làm cho luật BHXH dần đi vào cuộc sống. BHXH huyện Hiệp Hòa cần thực hiện tuyên truyền tốt công tác tuyên truyền BHXH cả về nội dung và hình thức như sau: Về nội dung tuyên truyền Đối với NLĐ: tuyên truyền phải giúp họ nhận thức được đóng BHXH là từ cả hai phía NLĐ và NSDLĐ, ngoài ra quỹ BHXH còn được sự bảo trợ của Nhà Nước. Số tiền BHXH mà NLĐ đóng chỉ chiếm ¼ số tiền phải đóng, còn NSDLĐ đóng ¾. Số chế độ mà họ được hưởng là năm chế độ bao gồm: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí và từ tuất. BHXH là sự đảm bảo quan trọng nhất để khi NLĐ do những lí do nhất định nào đó bị giảm nguồn thu nhập sẽ có nguồn thu nhập thay thế, nói cách khác, BHXH là lưới an sinh đầu tiên bảo vệ NLĐ trước rủi ro về việc làm, thu nhập. Hơn nữa, BHXH không chỉ đảm bảo cuộc sống cho bản thân NLĐ mà còn bảo vệ cả gia đình, thân nhân của NLĐ. Đối với NSDLĐ: cần phải cho họ thấy được những lợi ích mà BHXH đem lại cho họ, làm cho họ nhận thức được việc trích một phần quỹ lương để cùng tham gia BHXH cho NLĐ chỉ là một phần nhỏ so với việc họ phải bỏ ra chi phí lớn cho việc chi trả cho NLĐ gặp phải các “rủi ro xã hội” nếu như họ không đóng BHXH. Vì khi NLĐ gặp các rủi ro như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp thì cơ quan BHXH sẽ đứng ra để chi trả các khoản chi phí cho NLĐ. Bên cạnh đó khi tham gia BHXH cho NLĐ còn là một hình thức giữ chân NLĐ một cách văn minh nhất từ đó việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ổn định, NLĐ gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. Về hình thức tuyên truyền Cần thực hiện đa dạng hóa các hình thức, biện pháp tuyên truyền để mọi đối tượng NLĐ có điều kiện tiếp cận và hiểu được chính sách BHXH. BHXH huyện Hiệp Hòa cần phối hợp với ban Tuyên giáo huyện ủy để biên soạn tài liệu tuyên truyền BHXH theo từng chủ đề, phù hợp với từng đối tượng NLĐ như đối với lao động nữ cần tuyên truyền sâu về chế độ thai sản; các doanh nghiệp xây dựng, sản xuất gạch tuyên truyền sâu về chế độ tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp,... Liên hệ với Đoàn thanh niên, chi hội phụ nữ để tổ chức các buổi tuyên truyền, trao đổi với cán bộ đoàn, cán bộ chi hội ở các địa phương về chính sách, các chế độ BHXH. BHXH huyện Hiệp Hòa tiến hành kí kết với đài truyền thanh huyện, xã, thị trấn đưa chuyên mục BHXH vào các buổi phát thanh để tuyên truyền đến mọi người dân trong toàn huyện. Các bài viết gửi đến cơ quan phát thanh cần phải theo các chủ đề để người dân hiểu được dễ dàng. Các bài viết cần biểu dương những đơn vị tham gia BHXH đầy đủ, những trường hợp thực tế của NLĐ đã tham gia BHXH thì họ được những lợi ích như thế nào. Đặc biệt, huyện Hiệp Hòa đã xây dựng được trang Web riêng, có rất nhiều người thường xuyên theo dõi tin tức tại đây vì vậy BHXH huyện Hiệp Hòa nên kí kết với ban biên tập trang Web này để đưa các bài viết tuyên truyền BHXH, đưa tin hoạt động của BHXH huyện vào mục kinh tế xã hội. BHXH huyện nên tuyên truyền trực tiếp đến các xã, thị trấn để tận dụng tối đa các hội nghị, hội thảo của các đơn vị để lồng ghép tuyên truyền về chế độ, chính sách BHXH. Tổ chức hội thảo, tập huấn về tuyên truyền BHXH cho cán bộ làm chính sách BHXH tại cơ sở, cán bộ công đoàn để họ thực hiện tuyên truyền cho NLĐ của địa phương, doanh nghiệp mình. Liên hệ với công đoàn tại các doanh nghiệp, với chủ sử dụng lao động tổ chức các buổi nói chuyện trực tiếp, giải đáp các thắc mắc về chính sách BHXH, các chế độ BHXH cho NLĐ. Dựng pano, áp phích tại các khu vực đông dân cư, đặc biệt là trên các tuyến đường phố chính trên địa bàn huyện, tại một số cụm công nghiệp. Phát hành tờ rơi có hình ảnh hấp dẫn, nội dung ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ. Treo băng rôn, biểu ngữ nhân dịp kỉ niệm các ngày truyền thống của ngành BHXH. BHXH huyện Hiệp Hòa cần giao nhiệm vụ tuyên truyền cho cán bộ có am hiểu về chính sách BHXH, được tín nhiệm trong cơ quan. Cán bộ tuyên truyền cũng phải là người năng nổ, hoạt bát, có khả năng giao tiếp tốt, tạo lập được mối quan hệ với các cơ quan, đơn vị khác trong toàn huyện tạo điều kiện cho công tác tuyên truyền thực sự đi vào chiều sâu. Nguồn kinh phí hàng năm mà BHXH tỉnh Bắc Giang cấp cho công tác tuyên truyền xuống BHXH các huyện còn hạn chế vì vậy cần tranh thủ sự lãnh đạo của ủy ban nhân dân huyện Hiệp Hòa để đề xuất huyện hỗ trợ kinh phí bổ sung để công tác tuyên truyền có hiệu quả. Qua đó chính sách BHXH sẽ được thực hiện tốt, góp phần ổn định cuộc sống nhân dân cũng là tiền đề để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của huyện Hiệp Hòa. 3.2.2. Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, công chức trong cơ quan BHXH huyện Hiệp Hòa Bất kì cơ quan, tổ chức nào muốn hoạt động có hiệu quả đều cần có đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn. Đối với ngành BHXH nói riêng thì yêu cầu nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức, viên chức trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết. Cán bộ BHXH có trình độ chuyên môn thì các công việc của ngành BHXH, đặc biệt là công tác thu sẽ được tiến hành nhanh gọn, đúng kế hoạch, từ đó cán bộ thu có điều kiện đến kiểm tra tình hình tham gia BHXH tại các đơn vị sử dụng lao động nhiều hơn, vận động được nhiều lao động và số đơn vị mới tham gia BHXH hơn. Mặt khác, đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng, khối lượng công việc nhiều, nếu thiếu những cán bộ có trình độ chuyên môn thì mục tiêu đưa chính sách BHXH tới mọi tầng lớp dân cư trong xã hội khó có thể thực hiện được. Tại BHXH huyện Hiệp Hòa, số cán bộ công chức, viên chức đa phần là trẻ tuổi, kinh nghiệm còn thiếu, hầu hết cán bộ chưa được đào tạo về chuyên ngành BHXH nên trong công việc còn gặp nhiều khó khăn, có những lúc kéo dài thời gian chờ đợi của đối tượng đến đăng kí tham gia BHXH. Do vậy, việc nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức trong cơ quan là rất cần thiết. BHXH huyện Hiệp Hòa cần tiếp tục tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ do BHXH tỉnh Bắc Giang và BHXH Việt Nam tổ chức. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các cán bộ, công chức, viên chức được tiếp tục học tập nâng cao trình độ. Phối kết hợp với BHXH tỉnh Bắc Giang tổ chức các hội thi cán bộ BHXH giỏi để cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan được tham gia học hỏi, trao đổi kinh nghiệm và phương pháp làm việc với các cán bộ BHXH khác trong toàn tỉnh. Học hỏi kinh nghiệm của các huyện bạn hoặc các địa phương khác trên toàn quốc để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ trong công tác BHXH. Ngành BHXH đã ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lí các đối tượng tham gia nhằm tạo thuận lợi cho cán bộ trong giải quyết công việc nhưng trình độ công nghệ thông tin của các cán bộ tại BHXH huyện Hiệp Hòa còn hạn chế nên việc khai thác các tính năng của phần mềm chưa hiệu quả, vì vậy BHXH huyện Hiệp Hòa cần tạo điều kiện cho cán bộ tham gia các khóa đào tạo về công nghệ thông tin, tham gia các lớp tập huấn về sử dụng phần mềm quản lí thu, phần mềm xét duyệt, chi trả về BHXH. Giám đốc BHXH huyện Hiệp Hòa nên tiếp tục giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ, từng bộ phận trong cơ quan đồng thời xây dựng các định mức cơ sở để thường xuyên kiểm tra đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng cán bộ, công chức, viên chức, từng bộ phận làm căn cứ đề nghị BHXH tỉnh Bắc Giang, BHXH VN, ủy ban nhân dân huyện Hiệp Hòa,... khen thưởng hoặc phê bình, xử phạt; cần thực hiện kiểm tra, đánh giá công việc theo từng tháng, quý nhằm mục đích để cán bộ, công chức, viên chức tự rút ra những kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn, thay đổi phương thức thực hiện cho phù hợp với điều kiện thực tế trong từng thời kì, có biện pháp thích hợp để nâng cao mức độ hoàn thành. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan cũng cần đề ra cho mình một chương trình kế hoạch làm việc cụ thể, tự học hỏi, tham khảo, nghiên cứu các kiến thức về BHXH để hoàn thành nhiệm vụ được giao qua đó góp phần hoàn thành mục tiêu chung của cơ quan BHXH huyện Hiệp Hòa. 3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong công tác thu BHXH bắt buộc: Việc phối hợp hoạt động giữa các cơ quan có liên quan trong công tác thu BHXH có vai trò rất quan trọng. Nó giúp cho cơ quan BHXH huyện Hiệp Hòa khai thác thêm được những đối tượng NLĐ và NSDLĐ mới tham gia BHXH; làm tăng số thu BHXH. Phối hợp hoạt động còn giúp cơ quan BHXH phát hiện và xử lí kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật về BHXH như trốn đóng, nợ đọng... Phối hợp còn làm tăng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các cơ quan trong toàn huyện, hỗ trợ nhau nhiều hơn trong thực hiện công việc. Do đó sự phối hợp hoạt động này cần được đưa vào kế hoạch hàng năm của BHXH huyện Hiệp Hòa. BHXH huyện Hiệp Hòa cần tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện, đề nghị các cơ quan ban ngành trong toàn huyện thực hiện phối hợp với BHXH huyện Hiệp Hòa để thực hiện chính sách BHXH góp phần thực hiện an sinh xã hội trên toàn huyện. Trong các buổi gặp mặt hàng năm của các doanh nghiệp với ủy ban nhân dân huyện Hiệp Hòa nên đề xuất với ủy ban nhân dân huyện đưa thêm phần tổng kết về tình hình tham gia BHXH cho NLĐ của các đơn vị để họ thấy được trách nhiệm của mình không chỉ là sản xuất kinh doanh mà còn là quan tâm đến các vấn đề về BHXH cho NLĐ. Đề xuất với ủy ban nhân dân huyện biểu dương những đơn vị đóng BHXH đầy đủ, những đơn vị nào đóng BHXH đầy đủ thì tạo điều kiện cho họ mở rộng sản xuất kinh doanh hay như việc tạo thuận lợi về thủ tục hành chính cho các đơn vị cam kết đóng BHXH cho NLĐ. Phối hợp với phòng Kế hoạch và Đầu tư, phòng Thống kê huyện Hiệp Hòa để có được số liệu về số doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh và số doanh nghiệp đang trong quá trình hoàn thiện hồ sơ trên địa bàn huyện. Từ đó, BHXH huyện có kế hoạch vận động các doanh nghiệp tham gia đóng BHXH bắt buộc. Kết hợp kiểm tra tình hình thực hiện BHXH với thanh tra lao động, phòng Nội vụ - Lao động, thương binh xã hội để xác định được số lao động thực tế đang làm việc tại các đơn vị, có biện pháp yêu cầu NSDLĐ thực hiện đóng BHXH cho NLĐ thuộc diện cần tham gia BHXH, truy thu đối với những trường hợp NLĐ chưa được tham gia BHXH. Phối hợp với chi cục thuế huyện Hiệp Hòa nhằm xác định quỹ tiền lương, tiền công thực tế mà doanh nghiệp kê khai với cơ quan thuế. Thực hiện đối chiếu với quỹ tiền lương mà các doanh nghiệp đã đăng kí tại BHXH huyện Hiệp Hòa, từ đó phát hiện được các trường hợp doanh nghiệp đăng kí tham gia BHXH với quỹ tiền lương, tiền công thấp hơn so với thực tế để yêu cầu các cơ quan chức năng của Nhà nước tiến hành xử lí vi phạm. Phối hợp với ngân hàng, kho bạc trong việc xác định số tiền thực tế có trong tài khoản của BHXH huyện Hiệp Hòa, để việc chuyển tiền vào tài khoản của BHXH Bắc Giang tại kho bạc nhà nước tỉnh và ngân hàng tỉnh được nhanh chóng, an toàn. Từ đó tạo điều kiện cho BHXH tỉnh Bắc Giang chuyển tiền thu về BHXH Việt Nam để BHXH Việt Nam thực hiện các công việc như tiến hành phân bổ nguồn kinh phí chi trả, thực hiện các hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH kịp thời. Phối hợp với phòng công nghệ thông tin của BHXH tỉnh Bắc Giang triển khai ứng dụng nhanh các phầm mềm BHXH vào hoạt động, cài đặt các phiên bản phần mềm mới để công tác thu BHXH bắt buộc thuận tiện hơn. Tăng cường phối hợp với ủy ban nhân dân các xã, thị trấn để nắm được số hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể đang hoạt động tại địa phương. Hiện nay chỉ có ủy ban nhân dân xã, thị trấn là nơi có điều kiện nắm chắc tình hình hoạt động cũng như quy mô sử dụng lao động tại các hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể. Do vậy, cơ quan BHXH huyện Hiệp Hòa cần phối hợp chặt chẽ với ủy ban nhân dân xã, thị trấn để xác định được các hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể thuộc đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn. Vì thế, việc triển khai công tác thu BHXH bắt buộc được kịp thời, đầy đủ. Như vậy ủy ban nhân dân xã, thị trấn không chỉ giữ vai trò là đối tượng chi trả chế độ BHXH mà còn là đầu mối quan trọng giúp cơ quan BHXH huyện quản lí các hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, hỗ trợ cơ quan BHXH thu BHXH tại đây. 3.2.4. Tích cực vận động các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia đóng BHXH bắt buộc Kinh tế xã hội càng phát triển thì vai trò của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh càng quan trọng. Vì Việt Nam càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, cơ chế càng thông thoáng càng tạo điều kiện cho mọi người được tự do kinh doanh các ngành nghề không bị pháp luật cấm làm tăng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập và điều tự nhiên là thành phần này sẽ thu hút ngày càng nhiều lao động vào làm việc. Hiệp Hòa là huyện có khá nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh được phép đăng kí hoạt động kinh doanh nhưng số doanh nghiệp đã tham gia BHXH còn hạn chế. Trong khi NLĐ làm việc trong các doanh nghiệp này còn thiếu hiểu biết về chính sách BHXH, chưa đòi hỏi được tham gia BHXH khi kí kết hợp đồng lao động. Có thể thấy tiềm năng khai thác đối tượng tham gia BHXH là khá lớn vì vậy BHXH huyện Hiệp Hòa cần coi trọng vận động các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia BHXH. Cán bộ thu cần lập danh sách số lao động hiện đang tham gia BHXH của mỗi doanh nghiệp; đồng thời cần tìm hiểu đặc điểm ngành nghề kinh doanh, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật của từng đơn vị sử dụng lao động. Cán bộ thu cũng cần nắm được các đặc điểm chính về tình hình sử dụng lao động như: phân chia lao động theo giới tính, theo tuổi, theo trình độ học vấn để thấy được nhận thức pháp luật nói chung cũng như nhận thức về BHXH của NLĐ như thế nào; đơn vị đó có tổ chức công đoàn không, nếu có thì công đoàn hoạt động có hiệu quả không, có đứng ra đấu tranh đòi quyền lợi cho NLĐ hay không. Từ đó, cán bộ thu cần đưa ra nhận xét về khả năng tham gia BHXH của các doanh nghiệp, cùng thảo luận với lãnh đạo BHXH huyện Hiệp Hòa để đề ra các biện pháp cụ thể đối với từng doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc tiếp cận và vận động họ tham gia BHXH bắt buộc. Trong khi vận động đối tượng tham gia BHXH, trên cơ sở tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của NLĐ và NSDLĐ cần phải kết hợp chặt chẽ giữa tính bắt buộc theo quy định của Luật BHXH và tinh thần tự giác của chính chủ sử dụng lao động. BHXH huyện Hiệp Hòa cần phải chủ động hơn trong việc yêu cầu các doanh nghiệp tham gia BHXH cho NLĐ. Cụ thể: trên cơ sở nắm được số lao động, tổng quỹ lương của từng doanh nghiệp, BHXH huyện Hiệp Hòa lập văn bản gửi đến các doanh nghiệp đề nghị họ tham gia BHXH. Văn bản cần nêu rõ: tổng số lao động của doanh nghiệp thuộc đối tượng tham gia BHXH, tổng quỹ lương làm căn cứ đóng BHXH, số tiền BHXH phải nộp, thời gian nộp, phương thức nộp và các căn cứ pháp lí buộc doanh nghiệp tham gia đóng góp vào quỹ BHXH. 3.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về BHXH bắt buộc Để khắc phục tình trạng các đơn vị sử dụng lao động không tuân thủ các quy định của Nhà nước về BHXH đòi hỏi cần tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó cần thiết phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chính sách, pháp luật về BHXH. Thông qua thanh tra, kiểm tra, cơ quan BHXH huyện Hiệp Hòa sẽ đưa ra những tác động phù hợp với những đơn vị sử dụng lao động có hành vi vi phạm pháp luật BHXH nhằm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của các đơn vị vi phạm; góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ về BHXH. Thanh tra, kiểm tra còn có những tác động tích cực trong việc phát hiện, ngăn chặn, phòng ngừa những hành vi vi phạm pháp luật về BHXH. BHXH huyện Hiệp Hòa cần đưa công tác thanh tra, kiểm tra vào kế hoạch hoạt động hàng năm của cơ quan bên cạnh công tác thu, chi. Cần đưa ra được số lượng cụ thể số đơn vị sử dụng lao động sẽ tiến hành thanh, kiểm tra năm kế hoạch. Bố trí cán bộ có kinh nghiệm về công tác BHXH để thực hiện kiểm tra, thanh tra tại các đơn vị sử dụng lao động; không sắp xếp cán bộ BHXH có quen biết với chủ sử dụng lao động trong thanh, kiểm tra tại đơn vị đó. Ngoài phương thức thanh, kiểm tra thường xuyên định kì cần tăng cường kiểm tra, thanh tra đột xuất vì thanh tra đột xuất phản ánh thực tế nhất việc thực hiện BHXH của chủ sử dụng lao động đối với từng NLĐ làm việc tại đơn vị. Phối hợp với thanh tra lao động – thương binh và xã hội, hệ thống kiểm tra của công đoàn để việc thanh, kiểm tra được tiến hành nhanh và có hiệu quả. 3.2.6. Xử lí nghiêm minh những đơn vị trốn đóng, nợ đọng BHXH Trong quá trình thực hiện công tác thu BHXH không tránh khỏi có những đơn vị cố tình trốn đóng, nọ đọng BHXH do hiểu biết về chính sách và pháp luật về BHXH còn thiếu, vì vậy việc áp dụng chế tài xử phạt đối với những đơn vị đó là cần thiế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNGUY7876N TH7882 HI7870U. D3BH4.KLTT.doc
Tài liệu liên quan