Đề tài Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ở công ty da giầy Hà Nội

Tài liệu Đề tài Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ở công ty da giầy Hà Nội: Lời nói đầu Không phải chỉ đến khi nền kinh tế thị trường ra đời, người ta mới biết đến vai trò của việc tiêu thụ sản phẩm đối với sản xuất và tiêu dùng. Lý thuyết và thực tiễn đều chứng minh rằng tiêu thụ là một mắt xích không thể tách rời trong vòng tuần hoàn sản xuất - tiêu thụ - phân phối. Và nền kinh tế thị trường càng phát triển thì người ta càng chú ý nhiều hơn đến khâu tiêu thụ thậm chí trong một chừng mực nào đó tiêu thụ đã tách khỏi vai trò thụ động, phụ thuộc của mình để tác động trở lại đối với khâu sản xuất được coi là quan trọng nhất. Ngày nay trong bối cảnh của nền kinh tế đang phát triển không ngừng ở nước ta cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, công tác kế toán nói chung và kế toán tiêu thụ nói riêng đã được đổi mới hoàn thiện không ngừng để đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế doanh nghiệp là đơn vị trực tiếp tạo ra của cải vật chất cung cấp sản phẩm, lao vụ, dịch vụ cho xã hội do đó nó giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Muốn vậy các doanh nghiệp cần phải sử...

doc105 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1017 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ở công ty da giầy Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Không phải chỉ đến khi nền kinh tế thị trường ra đời, người ta mới biết đến vai trò của việc tiêu thụ sản phẩm đối với sản xuất và tiêu dùng. Lý thuyết và thực tiễn đều chứng minh rằng tiêu thụ là một mắt xích không thể tách rời trong vòng tuần hoàn sản xuất - tiêu thụ - phân phối. Và nền kinh tế thị trường càng phát triển thì người ta càng chú ý nhiều hơn đến khâu tiêu thụ thậm chí trong một chừng mực nào đó tiêu thụ đã tách khỏi vai trò thụ động, phụ thuộc của mình để tác động trở lại đối với khâu sản xuất được coi là quan trọng nhất. Ngày nay trong bối cảnh của nền kinh tế đang phát triển không ngừng ở nước ta cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, công tác kế toán nói chung và kế toán tiêu thụ nói riêng đã được đổi mới hoàn thiện không ngừng để đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế doanh nghiệp là đơn vị trực tiếp tạo ra của cải vật chất cung cấp sản phẩm, lao vụ, dịch vụ cho xã hội do đó nó giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Muốn vậy các doanh nghiệp cần phải sử dụng công cụ quản lý có hiệu quả trong đó công tác kế toán đặc biệt là công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm là một trong những công cụ quản lý có hiệu quả nhất. Trong những năm qua Công ty da giầy Hà Nội không ngừng đầu tư chiều sâu, đa dạng hoá sản phẩm, cải tiến mẫu mã mặt hàng, nâng cao chất lượng và hạ thấp giá thành sản phẩm tìm được chỗ đứng cho mình trở thành niềm tự hào của nền sản xuất Việt Nam. Đạt được những thành tích đó phải kể đến sự đóng góp hết sức lớn lao của công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm. Nói chung công tác kế toán này đã được đổi mới kịp thời nhằm phát huy tác dụng trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại những vấn đề cần tháo gỡ và hoàn thiện. Xuất phát từ mặt lý luận và thực tiễn đặt ra cho công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm sau khi đi sâu vào khảo sát nghiên cứu tình hình thực tế về công tác kế toán này ở công ty tôi đã chọn nghiên cứu đề tài"Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ở công ty da giầy Hà Nội" với mong muốn rèn luyện các kỹ năng nghề nghiệp của mình, có điều kiện tìm hiểu thực tế và đề xuất các giải pháp không ngừng hoàn thiện công tác kế toán ở công ty. Ngoài lời nói đầu, phần kết luận bản luận văn gồm 3 phần: Phần I: Tổ chức công tác kế toán TP và tiêu thụ TP trong các doanh nghiệp. Phần II: Thực trạng tổ chức công tác kế toán TP và tiêu thụ TP ở công ty da giầy Hà Nội. Phần III: Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán TP và tiêu thụ TP ở Công ty da giầy Hà Nội. Do trình độ còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế còn chưa nhiều nên tôi rất mong nhận được sự đóng góp, giúp đỡ của các thầy cô giáo và bạn đọc để hiểu được vấn đề một cách sâu sắc hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn rất tận tình của và đầy trách nhiệm của cô giáo Trần Thị Biết, các cô chú nhân viên phòng tài chính - kế toán của công ty da giầy Hà Nội giúp tôi hoàn thành bản luận văn này. Phần I Tổ chức công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ở các doanh nghiệp I. Thành phẩm - tiêu thu vai trò của kế toán thành phẩm tiêu thụ ở các doanh nghiệp Như chúng ta đã biết thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm có một vai trò rất quan trọng tới đời sống con người. Chúng không chỉ ảnh hưởng đến bản thân doanh nghiệp đến người tiêu dùng mà còn ảnh hưởng đến cả sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất xã hội. Do đó hiểu được khái niệm về thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm cũng như yêu cầu quản lý đối với chúng là hết sức cần thiết. 1. Thành phẩm và yêu cầu quản lý thành phẩm: Các doanh nghiệp sản xuất làm ra các loại sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Đó có thể là thành phẩm, nửa thành phẩm, lao vụ có tính chất công nghiệp... trong đó thành phẩm chiếm tỷ lệ cao. Nói một cách đầy đủ hơn, thành phẩm là sản phẩm đã kết thúc quy trình công nghệ sản xuất do doanh nghiệp thực hiện hoặc thuê ngoài gia công chế biến, đã được kiểm nghiệm phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật, nhập kho hoặc đem bán. Như vậy giữa thành phẩm và sản phẩm có sự khác nhau về phạm vi giới hạn xác định. Thành phẩm là kết quả của sự chế biến theo một quy trình công nghệ nhất định trong doanh nghiệp còn sản phẩm là kết quả của quá trình sản xuất chế tạo ra nó, có thể là thành phẩm nhưng cũng có thể chưa phải là thành phẩm. Trong sản xuất chỉ sản phẩm của bước công nghệ cuối cùng và đủ tiêu chuẩn kỹ thuật mới được coi là thành phẩm, còn các sản phẩm của bước công nghệ trước đó chỉ mới là nửa thành phẩm mà thôi. Tuy nhiên, việc phân định thành phẩm của bán thành phẩm chỉ có ý nghĩa trong.... có một ý nghĩa rất quan trọng. Xét trong phạm vi nền kinh tế thành phẩm do các doanh nghiệp sản xuất cung cấp cho xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thoả mãn các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Trong điều kiện phân công lao động ngày càng phát triển, các doanh nghiệp càng có quan hệ chặt chẽ bổ xung lẫn nhau, thành phẩn của doanh nghiệp này có thể là tư liệu sản xuất của doanh nghiệp khác. Do vậy hoàn thành kế hoạch sản xuất thành phẩm của doanh nghiệp cả về số lượng , chất lượng và thời gian sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị khác đến việc đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của xã hội. Trong phạm vi một doanh nghiệp , khối lượng thành phẩm hoàn thành trong kỳ có ý nghĩa quyết định quy mô trình độ tổ chức quản lý sản xuất của doanh nghiệp đánh giá được tỷ trọng cung ứng sản phẩm của doanh nghiệp trong nền kinh tế . Đồng thời cũng qua đó mà phân tích được tình hình tổ chức của doanh nghiệp, quyết định đến các mối quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp cũng như quan hệ với các đối tượng liên quan ngoài doanh nghiệp . Bởi vậy cần quản lý tốt thành phẩm. Quản lý nói chung cũng như quản lý thành phẩm nói riêng bao giờ cũng phải biểu hiện ở chỉ tiêu kế hoạch, biện pháp cụ thể đo lường, số liệu hạch toán và phân tích thông qua các chỉ tiêu. Thành phẩm là bộ phận chủ yếu hình thành lên tài sản của doanh nghiệp là thành quả lao động của toàn doanh nghiệp bởi vậy phải quản lý tốt thành phẩm trên cả 2 chỉ tiêu số lượng, chất lượng, phải nắm bắt được sự vận động của từng loại thành phẩm trong sản xuất, dự trữ và đưa đi tiêu thụ. Để thực hiện kế hoạch, phải có những biện pháp cụ thể: Trước hết về mặt số lượng, đòi hỏi cá nhân, những đơn vị liên quan phải thường xuyên phản ánh tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, tình hình nhập xuất tồn kho thành phẩm, kịp thời phát hiện những trường hợp hàng hoá tồn đọng kho lâu, tìm biện pháp giải quyết tránh ứ đọng vốn. Bên cạnh việc quản lý về mặt số lượng thành phẩm thì việc quản lý về mặt chất lượng thành phẩm là một yêu cầu không thể thiếu được phải quản lý chặt chẽ khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm, không được đưa ra thị trường các sản phẩm kém chất lượng sẽ làm giảm uy tín của doanh nghiệp giảm khả năng cạnh tranh, có thể sẽ không tiêu thụ được. Đồng thời doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến mẫu mã mặt hàng đa dạng hoá chủng loại để đáp ứng nhu câù ngày càng cao của xã hội. Muốn vậy doanh nghiệp phải nắm bắt được thị hiếu tiêu dùng xã hội để kịp thời đổi mới mặt hàng, phát hiện những sản phẩm kém phẩm chất hoặc đã lỗi thời để loại ra khỏi quá trình sản xuất tránh ứ đọng vốn. Doanh nghiệp phải thiết lập các biện pháp quản lý khoa học đến từng khâu đến từng bộ phận quản lý phải phân công rõ ràng trong công tác quản lý thành phẩm giáo dục mọi thành viên không ngừng nâng cao ý thức tự giác trong việc bảo vệ tài sản. Bên cạnh đó, việc tổ chức hạch toán phải kịp thời, khoa học đúng với chế độ TC - KT của nhà nước bảo đảm phản ánh trung thực khách quan tình hình biến động của thành phẩm. 2. Tiêu thụ - yêu cầu quản lý tiêu thụ: Tiêu thụ thành phẩm hay còn gọi là bán hàng, là quá trình trao đổi để thực hiện giá trị của "hàng" (thành phẩm) tức là chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị (từ hàng - tiền). Ngoài thành phẩm là bộ phận chủ yếu, "hàng" đem tiêu thụ còn có thể là hàng hoá, vật tư hay lao vụ dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Điều kiện để hàng được coi là tiêu thụ. + Hàng đã chuyển cho người mua + Người mua đã trả tiền hay chấp nhận trả tiền. Tiêu thụ được hàng hoá có một ý nghĩa rất quan trọng đối với nền kinh tế và có ý nghĩa sống còn đối với bản thân doanh nghiệp sản xuất ra nó. Bên cạnh đó việc tiêu thụ còn liên quan đến lợi ích kinh tế của nhiều bên liên quan như người tiêu dụng, nhà đầu tư... Để hiểu rõ hơn ta phân tích ý nghĩa của tiêu thụ trên góc độ: Đối với nền KTQD: tiêu thụ là tiền đề cho cân đối sản xuất và tiêu dùng, cần đối tiền và hàng trong lưu thông cũng như cân đối giữa các ngành các khu vực trong nền kinh tế . Giữa các doanh nghiệp trong nền KTQD có mối quan hệ với nhau. Thành phẩm của ngành này có thể là tư liệu của ngành kia. Do đó tiêu thụ thành phẩm có ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ cân đối sản xuất giữa các ngành, các đơn vị trong nền kinh tế và tác động đến quan hệ cung - cầu trên thị trường . Mặt khác kết quả tiêu thụ của mỗi doanh nghiệp biểu hiện sự tăng trưởng của doanh nghiệp và chính nó là những nhân tố tích cực để tạo lên bộ mặt nền KTQD. - Đối với nền kinh tế quốc dân: Tiêu thụ là tiền đề vật chất để tiếp tục thực hiện toàn bộ quá trình tái sản xuất mở rộng xã hội. Ttiêu thụ thực hiện mục đích của nến sản xuất xã hội phục phụ tiêu dùng, phục vụ đời sống nhân dân. Bên cạnh đó tiêu thụ thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động biến thu nhập của người lao động thành hàng hoá phục vụ đời sống nhân dân và góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội do đó nó thoả mãn về nhu cầu tiêu dùng tạo điều kiện tái sản xuất sức lao động. - Tiêu thụ còn có ý nghĩa đặc biệt đối với doanh nghiệp. Trước hết tiêu thụ giúp doanh nghiệp thu hồi được vốn nhanh tăng tốc độ vòng quay của vốn, bổ sung nguồn vốn cho việc mở rộng và hiện đại hoá sản xuất . Quá trình tiêu thụ thành phẩm tốt không những làm cho hoạt đọng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt mà nó còn tác động trực tiếp đến từng thành viên của doanh nghiệp , thu nhập cao sẽ là động lực thúc đẩy mọi người làm việc tốt hơn. Như vậy, tiêu thụ có vai trò to lớn đối với sự tồn tại phát triển và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường . Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng trên của công tác tiêu thụ bởi vậy các doanh nghiệp cần phải quản lý tốt khâu tiêu thụ. Như chúng ta đã biết thành phẩm luôn biểu hiện trên hai mặt: giá trị và hiện vật. Hơn thế nữa tình hình về số lượng, chất lượng và giá trị của thành phẩm luôn biến động thông qua các nghiệp vụ nhập, xuất kho. Nghiệp vụ bán hàng lại liên quan đến nhiều khách hàng khác nhau, các phương thức bán hàng, thể thức thanh toán phong phú, đa dạng. Do vậy quản lý quá trình tiêu thụ là quản lý tốt cả về mặt kế hoạch và mức độ hoàn thành kế họach tiêu thụ sản phẩm cả về số lượng, chất lượng, chủng loại mặt hàng, chi phí bán hàng. Cụ thể. - Phải nắm bắt theo dõi chặt chẽ từng phương thức bán hàng, hình thức tiêu thụ sao cho phù hợp với từng thị trường, từng khách hàng để thúc đẩy quá trình tiêu thụ. Phải nắm bắt được sự vận động của từng loại thành phẩm, hàng hoá trong quá trình nhập xuất, tồn kho trên các chỉ tiêu số lượng chất lượng và giá trị. Đồng thời giám sát chặt chẽ cả chi phí bán hàng phát sinh trong quá trình tiêu thụ xác định giá vốn đúng đắn của thành phẩm tiêu thụ để tính chính xác kết quả tiêu thụ và thực hiện nghiêm túc cơ chế phân phối lợi nhuận. - Phải quản lý chặt chẽ tình hình thanh toán của mỗi khách hàng đôn đốc khách hàng thanh toán đúng hạn nhằm tránh mất mát ứ đọng vốn cũng như bị chiếm dụng vốn. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải làm tốt công tác thăm dò nghiên cứu thị trường để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng cũng như tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ. 3. Vai trò nhiệm vụ của kế toán thành phẩm và tiêu thụ. Ngày nay trong điều kiện nền kinh tế thị trường kế toán được quan niệm như một ngôn ngữ kinh doanh, một thứ "nghệ thuật" ghi chép, phân loại tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhằm phục vụ cho yêu cầu quản lý. Với các chức năng cung cấp thông tin kiểm tra kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kế toán là công cụ quản lý đắc lực đặc biệt là kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm. Đối với một doanh nghiệp tổ chức tốt công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm sẽ tạo điều kiện phát triển sản xuất, từng bước hạn chế được sự thất thoát thành phẩm, phát hiện những thành phẩm chậm luân chuyển để có biện pháp xử lý kịp thời. Thông qua số liệu kế toán thành phẩm và tiêu thụ cung cấp chủ doanh nghiệp có thể đánh giá được mức độ hoàn thành kế hoạch về sản xuất , giá thành, tiêu thụ, lợi nhuận. Dựa vào đó chủ doanh nghiệp có biện pháp tối ưu duy trì sự cân đối thường xuyên giữa các yếu tố đầu vào sản xuất đầu ra. Cũng từ số liệu của báo cáo tài chính do kế toán thành phẩm và tiêu thụ cung cấp, nhà nước có thể nắm bắt được tình hình tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp từ đó thực hiện chức năng quản lý và kiểm soát vĩ mô nền kinh tế . Đồng thời qua đó nhà nước có thể kiểm tra giám soát việc chấp hành luật pháp kinh tế - tài chính. Trong nền kinh tế mở, ngoài mối quan hệ với nhà nước, doanh nghiệp còn có thể liên doanh, liên kết với đơn vị bạn, cải tiến công nghệ thu hút vốn đầu tư. Với những số liệu của kế toán thành phẩm và tiêu thụ họ biết được khả năng sản xuất và tiêu thụ các mặt hàng của doanh nghiệp trên thị trường, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó ra quyết định đầu tư, cho vay hoặc có quan hệ làm ăn với doanh nghiệp . Để thực sự là công cụ quản lý, kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ sau: - Tổ chức theo dõi phản ánh chính xác đầy đủ, kịp thời và giám đốc chặt chẽ về tình hình hiện có và sự biến động của từng loại thành phẩm hàng hoá trên các mặt hiện vật cũng như giá trị. - Theo dõi phản ánh và giám đốc chặt chễ quá trình tiêu thụ ghi chép kịp thời đầy đủ các khoản chi phí bán hàng cũng như chi phí và thu nhập các hoạt động khác. - Xác định chính xác kết quả của từng loại hoạt động trong doanh nghiệp phản ánh và giám đốc tình hình phân phối kết quả đôn đốc thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. - Cung cấp thông tin kinh tế cần thiết cho các bộ phận liên quan định kỳ tiến hành phân tích kinh tế đối với hoạt động bán hàng, thu nhập và phân phối kết quả. II/ Tổ chức công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm trong các doanh nghiệp 1. Đánh giá thành phẩm: Đánh giá thành phẩm là việc xác định giá trị của chúng theo những nguyên tắc nhất định. Việc xác định đúng giá trị của thành phẩm sẽ ảnh hưởng lớn không chỉ đến BCĐK T mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Theo nguyên tắc phương pháp đánh giá thành phẩm phải thống nhất giữa các kỳ. Nếu có sự thay đổi doanh nghiệp phải có giải trình cụ thể. Kế toán nhập xuất tồn kho thành phẩm phải phản ánh theo trị giá thực tế nghĩa là khi nhập kho phải tính toán phản ánh theo trị giá thực tế nghĩa là khi xuất kho cũng phải xác định giá thực tế xuất kho theo đúng phương pháp quy định. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu hạch toán hàng ngày đơn giản và giảm bớt khối lượng ghi chép tính toán người ta có thể dùng giá hạch toán để phản ánh tình hình nhập, xuất một cách thường xuyên, kịp thời song dù đánh giá theo giá hạch toán để hạch toán tình hình nhập xuất thành phẩm trên các tài khoản, sổ kế toán tổng hợp theo giá thực tế. 1.1. Đánh giá thành phẩm theo giá thực tế. a) Giá thực tế nhập kho. Trong doanh nghiệp sản xuất thành phẩm có thể được nhập từ nhiều nguồn từ sản xuất, nhập từ thuê ngoài gia công, nhập từ mua ngoài. Trong trường hợp giá trị thực tế của thành phẩm nhập kho cũng được xác định khác nhau, đặc biệt là khi áp dụng thuế GTGT cụ thể: * Đối với doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT. - Đối với thành phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra được đánh giá theo giá thành công xưởng thực tế (giá thành sản xuất thực tế) bao gồm chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công, chi phí sản xuất chung không bao gồm thuế GTGT. - Đối với thành phẩm thuê ngoài gia công được đánh giá theo giá thành thực tế gia công bao gồm chi phí NVL trực tiếp đem đi gia công, chi phí gia công và các chi phí khác liên quan trực tiếp đến thành phẩm loại trừ thuế giá trị gia tăng. - Đối với thành phẩm mua ngoài được tính theo trị giá vốn thực tế: giá vốn thực tế mua, chi phí mua không bao gồm thuế GTGT. * Đối với doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính trực tiếp giá trị gia tăng, và không chịu thuế GTGT các trường hợp nhập kho cũng được đánh giá tương tự nhưng bao gồm cả thuế GTGT. b. Giá thực tế xuất kho. Đối với thành phẩm xuất kho, người ta cũng phản ánh theo giá thực tế. Do thành phẩm nhập từ nhiều nguồn khác nhau, giá thực tế của từng lần nhập đợt nhập không hoàn toàn giống nhau. Kế toán phải xác định giá thực tế xuất kho đã đăng ký và áp dụng đảm bảo tính nhất quán trong niên độ kế toán. Để tính trị giá thực tế thành phẩm xuất kho có thể áp dụng một trong các phương pháp sau; - Theo đơn giá thực tế đích danh - Tính theo đơn giá thực tế bình quân gia quyền - Theo đơn giá thực tế tồn cuối kỳ trước - Theo đơn giá thực tế nhập trước xuất trước. Mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng và những điều kiện áp dụng nhất định. Do vậy các doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh khả năng trình độ nghiệp vụ của cán bộ kế toán, yêu cầu quản lý cũng như điều kiện trang bị các phương tiện tính toán, xử lý thông tin để lựa chọn và đăng kỳ phương pháp phù hợp. * Tính theo giá thực tế tồn đầu kỳ. - Theo phương pháp này giá thực tế của thành phẩm xuất kho được tính trên cơ sở số lượng thành phẩm xuất kho và đơn giá thành phẩm thực tế tồn đầu kỳ. Giá thực tế xuất kho = Số lượng xuất kho x đơn giá thực tế tồn đầu kỳ Trị giá thực tế thành phẩm tồn đầu kỳ Đơn giá thực tế tồn đầu kỳ = Số lượng thành phẩm tồn đầu kỳ Phương pháp này có ưu điểm việc áp dụng rất đơn giản, đơn giá tồn đầu kỳ co thể áp dụng để tính toán hàng ngày. Tuy nhiên nhược điểm lớn nhất của phương pháp này khiến nó ít sử dụng rộng rãi là độ chính xác không cao đặc biệt là đối với những doanh nghiệp có lượng nhập kho lớn giá thành biến động lớn so với các kỳ thậm chí giá thành sản xuất của sản phẩm giảm mạnh việc áp dụng phương pháp trên có thể đưa đến số dư có trên tài khoản 155. Do vậy, phương pháp này chỉ thích hợp với những doanh nghiệp có giá thành sản xuất ổn định qua các kỳ, tỉ trọng của thành phẩm đầu kỳ lớn so với lượng nhập trong kỳ. * Tính theo giá thực tế bình quân gia quyền (giá thực tế bình quân của số tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ) Theo phương pháp này giá thực tế thành phẩm xuất kho được tính căn cứ vào số lượng thành phẩm xuất kho và đơn giá thực tế bình quân . Giá thực tế xuất kho = số lượng xuất kho x đơn giá thực tế bình quân. Trị giá thực tế tồn đầu kỳ + Trị giá thực tế nhập trong kỳ Đơn giá thực tế = bình quân Số lượng tồn đầu kỳ + Số lượng nhập trong kỳ Thông thường đơn giá thực tế bình quân được xác định vào cuối tháng tuy niên doanh nghiệp cũng có thể xác định đơn giá sau mỗi lần nhập xuất gọi là bình quân gia quyền liên hoàn. Ưu điểm nổi trội của phương pháp này là độ chính xác tương đối cao việc tính toán cũng không quá phức tạp nếu ta chỉ tính đơn giá thực tế bình quân vào cuối tháng. Tuy nhiên nếu áp dụng đơn giá bình quân gia quyền liên hoàn thì khối lượng công tác tính toán tăng nhiều phải theo dõi số lượng và giá trị trong từng lần nhập. Do đặc điểm trên nên phương pháp này thường phù hợp với các doanh nghiệp chỉ sử dụng một loại giá thực tế để ghi số kế toán, việc tổ chức hạch toán nhập, tồn, xuất của từng thứ sản phẩm được theo dõi về số lượng giá trị trong từng lần nhập. * Tính theo giá đích danh: Theo phương pháp này giá thực tế xuất kho được căn cứ vào đơn giá thực tế thành phẩm nhập kho theo từng lô, từng lần nhập số lượng xuất kho theo từng lần. Phương pháp này có ưu điểm là tính chính xác cao nhưng lại có nhược điểm là khối lượng công việc tính toán khá nhiều đòi hỏi việc quản lý thành phẩm phải khoa học hợp lý. Do vậy phương pháp này chỉ áp dụng ở những doanh nghiệp mà thành phẩm có giá trị cao, ít nhưng loại sản xuất theo đơn đặt hàng. * Tính theo giá nhập trước xuất trước, nhập sau xuất trước. Về cơ bản việc tính toán theo hai phương pháp đối với thành phẩm cũng tương tự như đối với NVL . Song do sự khác nhau giữa thành phẩm và vật liệu là thành phẩm dù nhập kho bao nhiêu lần trong tháng cũng chỉ dựa trên giá thành sản xuất đơn giá thực tế nhập kho của mọi lần đều như nhau nên hai phương pháp này ít được sử dụng trong việc đánh giá thành phẩm. Vả lại ở công ty da giầy Hà nội không sử dụng hai phương pháp này nên em xin phép không trình bày kỹ phần này. 1.2. Đánh giá thành phẩm theo giá hạch toán. Do sự biến động thường xuyên của thành phẩm và do cả việc xác định giá thực tế của thành phẩm chỉ xảy ra theo định kỳ nên để ghi chép kịp thời giá thành phẩm nhập xuất doanh nghiệp cần sử dụng một loại giá hạch toán . Giá hạch toán là loại giá ổn định được sử dụng thống nhất trong một thời gian dài có thể là giá thành kế hoạch để xác định. Tuy nhiên cuối kỳ ta phải điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thành thực tế của thành phẩm xuất kho theo công thức sau: Trị giá thực tế Trị giá hạch toán thành phẩm = thành phẩm xuất x Hệ số giá xuất kho kho Trong đó: + Trị giá thực tế TP Trị giá thực tế TP nhập tồn kho đầu kỳ kho trong kỳ Hệ số giá = + Trị giá hạch toán TP Trị giá hạch toán TP Tồn kho đầu kỳ nhập kho trong kỳ Hệ số giá được tính cho từng nhóm, từng loại từng thử thành phẩm tuỳ thuộc vào trình độ quản lý của doanh nghiệp . 2. Kế toán thành phẩm: 2.1. Kế toán chi tiết thành phẩm. Các hoạt động nhập kho và xuất kho thành phẩm đem tiêu thụ làm cho thành phẩm trong doanh nghiệp luôn luôn biến động. Để quản lý và theo dõi chặt chẽ thành phẩm, mọi hoạt động nhập xuất kho thành phẩm phải được kế toán ghi chép, phản ánh kịp thời và đầy đủ vào đúng mẫu biểu quy định. Những chứng từ này là cơ sở pháp lý tiến hành hạch toán. Các chứng từ chủ yếu bao gồm - Phiếu nhập kho - hoá đơn GTGT - Phiếu xuất kho - biên bản kiểm kê thành phẩm Kế toán chi tiết thành phẩm là việc hạch toán chi tiết theo từng danh điểm từng nhóm, từng loại sản phẩm về chỉ tiêu hiện vật và giá trị được tiến hành ở kho và cả bộ phận kế toán theo từng kho và từng người chịu trách nhiệm bảo quản. Phương pháp kế toán chi tiết thành phẩm là sự phối hợp kết hợp giữa thủ kho và kế toán thành phẩm trong việc tổ chức và kế toán thành phẩm theo từng danh điểm từng nhóm, từng loại cả về số lượng và giá trị ở từng kho theo từng người có trách nhiệm bảo quản thành phẩm. Mỗi một cách thức thay đổi sự phối hợp giữa thủ kho và kế toán lại tạo ra một phương pháp khác. Hiện nay có 3 phương pháp kế toán chi tiết thành phẩm. - Phương pháp thẻ song song - Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển. - Phương pháp sổ số dư. ở cả 3 phương pháp công việc của thủ kho ở kho đều giống nhau. Khi nhận các chứng từ nhập xuất thành phẩm, thủ kho phải kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của chứng từ rồi tiến hành ghi chép số thực nhập, thực xuất vào chứng từ và thẻ kho. Cuối ngày tính ra số tồn kho ghi vào thẻ kho. Định kỳ thủ kho gửi lên hoặc kế toán xuống kho nhận các chứng từ nhập xuất đã được phân loại theo từng loại thành phẩm . Chỉ riêng phương pháp sổ số dư là ngoài các công việc trên cuối tháng thủ kho phải ghi số tồn kho đã tính trên thẻ kho sang sổ số dư vào cột số lượng. Sự khác nhau giữa 3 phương pháp chính là công việc ở phòng kế toán đối với phương pháp thẻ song song kế toán sử dụng sổ (thẻ) kế toán chi tiết thành phẩm để theo dõi thành phẩm theo từng danh điểm cả về chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị. Về cơ bản sổ kế toán chi tiết thành phẩm có kết cấu giống thẻ kho nhưng có thêm cột để ghi chép chỉ tiêu giá trị. Việc ghi sổ chi tiết được tiến hành hàng ngày cuối tháng kế toán cộng sổ chi tiết để kiểm tra đôí chiếu với thẻ kho. Ngoài ra để có số liệu đối chiếu kế toán tổng hợp cần phải tổng hợp số liệu từ sổ kế toán chi tiết vào bảng tổng hợp nhập - xuất - tồn kho theo từng nhóm từng loại sản phẩm . Ưu điểm của phương pháp này là việc ghi chép rất đơn giản , dễ kiểm tra, đối chiếu do đó nó được áp dụng một cách rất phổ biến. Tuy nhiên phương pháp này lại có nhược điểm là việc ghi chép giữa kho và phòng kế toán còn trùng lặp về chỉ tiêu số lượng, việc đối chiếu kiểm tra chủ yếu tiến hành vào cuối tháng nên hạn chế chức năng kiểm tra kịp thời của kế toán. Do vậy phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có ít chủng loại thành phẩm, các nghiệp vụ nhập xuất ít không thường xuyên và trình độ chuyên môn của kế toán còn hạn chế. - Đối với phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển ở phòng kế toán không dùng sổ chi tiết thành phẩm mà dùng sổ đối chiếu luân chuyển ở từng kho, dùng cho cả năm. Sổ đối chiếu luân chuyển cũng theo dõi theo từng danh điểm trên cả hai chỉ tiêu hiện vật và giá trị như sổ chi tiết thành phẩm nhưng chỉ ghi một lần vào cuối tháng. Để có số liệu ghi vào sổ đối chiếu luân chuyển, kế toán phải lập các bản kê nhập, xuất thành phẩm trên cơ sở các chứng từ do thủ kho gửi lên cuối tháng kế toán tiến hành đối chiêú số liệu giữa sổ đối chiếu luân chuyển với thẻ kho và số liệu kế toán tổng hợp. Do cách làm như trên nên khối lượng ghi chép của kế toán giảm bớt (chỉ ghi vào cuối tháng) nhưng việc ghi số vẫn trùng lắp giữa phòng kế toán và kho về chỉ tiêu hiện vật. Việc kiểm tra và đối chiếu giữa thủ kho và kế toán cũng được tiến hành vào cuối tháng nên tác dụng kiểm tra bị hạn chế. Phương pháp này do vậy chỉ thích hợp với các doanh nghiệp có ít nghiệp vụ nhập, xuất chưa bố trí riêng nhân viên kế toán chi tiết thành phẩm để có điều kiện ghi chép theo dõi tình hình nhập xuất hàng ngày. - Còn ở phương pháp sổ số dư kế toán mở sổ số dư theo từng kho dùng chung cho cả năm. Từ các bảng kê nhập, bảng kê xuất kế toán lập bảng luỹ kế nhập, luỹ kế xuất rồi từ các bảng luỹ kế nhập, luỹ kế xuất lập bảng nhập xuất tồn kho theo từng nhóm thành phẩm và chỉ ghi theo chỉ tiêu giá trị. Cuối tháng nhận sổ số dư do thủ kho gửi lên kế toán căn cứ vào sổ tồn cuối tháng do thủ kho tính ghi trên sổ số dư và đơn giá hạch toán tính ra giá trị tồn kho để ghi vào cột số tiền trên sổ số dư và cột số tiền tồn kho trên bảng tổng hợp nhập xuất tồn và số liệu kế toán tổng hợp. Phương pháp này đã tăng hiệu suất của công tác kế toán giảm được sự ghi chép trùng lắp giữa kho và phòng kế toán, công việc được tiến hành đều trong tháng. Tuy nhiên phương pháp này thường làm cho việc phát hiện sai sót giữa kho và phòng kế toán trở nên khó khăn, kế toán muốn biết tình hình tăng giảm hiện vật lại phải xem trên thẻ kho. 2.2. Kế toán tổng hợp thành phẩm. a. Kế toán thành phẩm theo phương pháp kê khai thường xuyên. Phương pháp kê khai thường xuyên có đặc điểm là: - Theo phương pháp này kế toán theo dõi một cách thường xuyên liên tục tình hình nhập xuất tồn của hàng tồn kho trên các tài khoản tồn kho căn cứ trực tiếp vào các chứng từ nhập, xuất. - Định kỳ một năm từ 1 đến 2 lần phải tiến hành kiểm kê hàng tồn kho để điều chỉnh chênh lệch nếu có. Với phương pháp này các tài khoản được sử dụng là TK 155, 157, TK632, TK154 và một số tài khoản liên quan. - Tài khoản 1 55 "Thành phẩm" dùng để phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động của các loại thành phẩm của doanh nghiệp . -Tài khoản 157 "Hàng gửi đi bán" được dùng để phản ánh trị giá của hàng hoá , sản phẩm đã gửi hoặc đã chuyển cho khách hàng hoặc nhờ bán đại lý, ký gửi , trị giá của lao vụ dịch vụ đã hoàn thành bàn giao cho người đặt hàng, nhưng chưa được chấp nhận thanh toán hàng hoá , thành phẩm phản ánh trên TK này vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp . - TK 632: "Giá vốn hàng bán": được dùng để phản ánh trị giá vốn thành phẩm, hàng hoá, lao vụ dịch vụ xuất bán trong kỳ. b. Kế toán thành phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ. Kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ có đặc điểm : - Không theo dõi thường xuyên trên các tài khoản hàng tồn kho tình hình nhập xuất của hàng tồn kho mà chỉ phản ánh số tồn kho đầu kỳ, cuối kỳ - Sử dụng thêm TK TK 611 - mua hàng, để hạch toán tình hình mua và nhập kho của vật tư trên cơ sở các chứng từ mua và nhập kho như đôí với phương pháp kê khai thường xuyên. - Cách tính và hạch toán trị giá thực tế xuất kho thành phẩm. + Không hạch toán thường xuyên và không căn cứ vào chứng từ xuất + Chỉ xác định và hạch toán một tháng một lần vào cuối tháng trên cơ sở kết quả kiểm kê. Trị giá thực tế của thành phẩm xuất kho = Trị giá thực tế của thành phẩm tồn đầu kỳ + Trị giá thực tế của thành phẩm nhập trong kỳ - Trị giá thực tế của thành phẩm tồn cuối kỳ Khác với phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp có thể áp dụng với mọi loại hình doanh nghiệp thì phương pháp kiểm kê định kỳ thích hợp với những vật tư, thành phẩm khó cân đo đong đếm một cách chính xác có nhiều chủng loại nhưng giá trị của mỗi chủng loại thấp. * Sơ đồ kế toán tổng hợp thành phẩm theo phương pháp kê khai thường xuyên 1 7 3 5 TK 157 2 TK 911 TK 632 TK 155 TK 154 6 TK 338 TK 138 4a 4b (1). Nhập kho thành phẩm do doanh nghiệp sản xuất hoặc thuê ngoài gia công chế biến căn cứ vào giá thành sản xuất thực tế. (2). Xuất kho để giao bán hay trả lương công nhân viên, đổi vật tư hàng hoá (3). Trị giá thực tế thành phẩm xuất gửi đi bán hoặc xuất cho cơ sở nhận đại lý, ký gửi. (4) kiểm kê phát hiện thừa thiếu thành phẩm (5) sản xuất xong không nhập kho mà giao bán hoặc gửi bán đại lý ngay (6) Đối với thành phẩm hàng hoá lao vụ dịch vụ để gửi bán lúc này mới xác định là tiêu thụ. * Sơ đồ kế toán thành phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ TK 911 TK 632 TK 155,157 (4) (3) (3) (1) TK 631 (2) (1) Kết chuyển giá trị thực tế của thành phẩm tồn kho đầu kỳ. (2) Giá thành sản xuất của sản phẩm hoàn thành nhập kho , giá thành lao vụ dịch vụ đã hoàn thành. (3) Cuối kỳ căn cứ vào kết quả kiểm kê thành phẩm tồn kho (trong kho và đang gửi bán chưa được xác định là tiêu thụ) (4) kết chuyển trị giá vốn của thành phẩm xuất kho đã được xác định là tiêu thụ để tínhkết quả kinh doanh . 3. Tổ chức kế toán tiêu thụ thành phẩm. 3.1. Các phương thức bán hàng: Ngày nay cùng với sự phát triển đa dạng của các mối quan hệ kinh tế các phương thức bán hàng cũng trở nên rất phong phú. Việc phân định rạch ròi các phương thức bán hàng có một ý nghĩa lớn không chỉ đồi với công tác kế toán tiêu thụ mà còn đối với công tác quản lý sản xuất kinh doanh nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp . Hiện nay nhìn chung người ta chia phương thức tiêu thụ về hai loại chính đó là bán hàng ra bên ngoài và bán hàng nội bộ. Bán hàng ra bên ngoài là việc bán thành phẩm cho các đơn vị tổ chức cá nhân ở bên ngoài doanh nghiệp như dùng chi quỹ của doanh nghiệp . Còn bán hàng nội bộ là việc cung cấp hàng hoá dịch vụ lẫn nhau giữa các đơn vị thành viên trong một cùng một đơn vị, tổng công ty, liên hiệp... trong đó mỗi thành viên đều có tư cách pháp nhân không đầy đủ và có bộ máy kế toán riêng . Ngoài ra dựa vào đặc điểm của vốn trong quá tình tiêu thụ người ta chia thành các phương thức tiêu thụ sau: - Phương thức bán hàng trực tiếp: là phương thức giao hàng cho người mua trực tiếp tại kho (hay tại các phân xưởng không qua kho của doanh nghiệp). Thành phẩm khi bàn giao cho khách hàng được chính thức coi là tiêu thu, số hàng không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp - Phương thức hàng gửi bán: là phương thức giao hàng dựa trên hợp đồng gửi bán. Thành phẩm khi giao cho khách hàng chưa được coi là tiêu thụ mà chờ đến khi khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. - Phương thức bán hàng trả góp: theo phương thức này khi giao hàng cho người mua thì lượng hàng chuyển giao thì coi như là tiêu thụ. Người mua sẽ thanh toán một phần ngay tại thời điểm mua phần còn lại người mua chấp nhận trả dần ở các kỳ tiếp theo và chịu một tỷ lệ lãi suất nhất định. 3.2. Kế toán bán hàng 3.2.1. Doanh thu bán hàng Tiêu thụ là quá trình trao đổi để thực hiện giá trị thành phẩm, chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị, Trong quá trình tiêu thu doanh nghiệp phải chi ra những khoản chi phí bán hàng đồng thời sẽ thu lại những khoản doanh thu bán hàng. Doanh thu bán hàng là tổng giá trị thực hiện được do hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho khách hàng. Do áp dụng luật thuế GTGT thay cho luật thuế doanh thu, doanh thu ở cơ sở áp dụng phương pháp nộp thuế khác nhau thì cách xác định doanh thu cũng khác nhau. * Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. - Doanh thu bán hàng cung cấp dịch vụ là toàn bộ tiền bán hàng tiền cung cấp dịch vụ (chưa có thuế VAT) bao gồm cả phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán (nếu có) mà cơ sở kinh doanh được hưởng. * Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên GTGT và đối với hàng hoá dịch vụ không thuộc đối tượng nộp thuế GTGT. Doanh thu bán hàng cung cấp dịch vụ là toàn bộ tiền bán hàng, tiền cung ứng dịch vụ bao gồm cả thu và phí thu thêm ngoài giá bán (nếu có) mà cơ sở kinh doanh được hưởng tổng giá thanh toán bao gồm cả thuế. 3.2.2. Kế toán bán hàng Do việc nhà nước ban hành luật thuế mới thuế GTGT thay thế thuế doanh thu có sự thay đổi trong công tác kế toán doanh thu. Khi tiêu thụ hàng kế toán vừa phản ánh doanh thu đồng thời phản ánh thuế GTGT. Kế toán bán hàng sử dụng các TK sau: TK 511, TK 512, TK 133, TK3331 và một số TK liên quan. TK 511 dùng để phản ánh doanh thu bán hàng thực tế của doanh nghiệp thực hiện trong một kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh . - TK 511 có 4 TK cấp II + TK 5111 doanh thu bán hàng hoá + TK 5112 doanh thu bán thành phẩm + TK 5113 doanh thu cung cấp dịch vụ + TK 5114 doanh thu trợ cấp trị giá. - TK 512 "doanh thu bán hàng nội bộ" TK 512 dùng để phản ánh doanh thu của sản phẩm hàng hoá , lao vụ dịch vụ tiêu thụ nội bộ. TK này chỉ sử dụng ở các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc trong một công ty hay tổng công ty. Kết cấu vào nội dung phản ánh của TK 512 về cơ bản tương tự như TK 511 doanh thu bán hàng. TK 512 cũng mở 3 TK cấp hai tương ứng như TK 511 nhưng không có doanh thu trợ cấp trợ giá. TK 3331 "Thuế GTGT phải nộp" dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu ra số thuế GTGT phải nộp, số thuế đã nộp, số thuế còn phải nộp vào NSNN. TK này áp dụng chung cho đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp trực tiếp. TK 3331 có 2 TK cấp II TK 3331.1 thuế GTGT đầu ra của hàng hoá , dịch vụ TK 3331.2 thuế GTGT của hàng nhập khẩu. * Trình tự kế toán các nghiệp vụ chủ yếu Đối với cơ sở nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ: 1. Bán hàng hoá TP, lao vụ dịch vụ được thanh toán ngay bằng tiền mặt hoặc tiền gửi ngân hàng Nợ TK 111, 112 (Tổng số tiền thanh toán) Có TK 511 (doanh thu bán hàng không có thuế) Có TK 3331 (thuế GTGT phải nộp) 2. Bán hàng hoá TP, lao vụ dịch vụ khách hàng chấp nhận thanh toán nhưng chưa thanh toán Nợ TK 131 (Tổng số tiền thanh toán) Có TK 511 (doanh thu bán hàng không có thuế) Có TK 3331 (thuế GTGT phải nộp) 3. Bán hàng để đổi lấy hàng hoá sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế Nợ TK 152, 153, 156 Nợ TK 133 Có TK 511 Có TK 3331 * Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp. Trình tự hạch toán một số nghiệp vụ chủ yếu 1. Bán hàng hoá thành phẩm lao vụ dịch vụ khách hàng chấp nhận trả tiền nhưng chưa trả Nợ TK 131 (Tổng giá thanh toán) Có TK 511 (Tổng giá thanh toán) 2. Bán hàng thanh toán ngay bằng tiền mặt hay TGNH Nợ TK 111, 112 (Tổng giá thanh toán) Có TK 511 (Tổng giá thanh toán) 3. Bán hàng đổi lấy hàng hoá để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ không chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Nợ TK 152, 153, 156 Có TK 3331 Có TK 511 TK 3331 1a 4 3 2 TK 111,112 TK 511 TK 911 TK 632 TK 155 1b 1a. Phản ánh doanh thu bán hàng, khách hàng đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán 1b. Thuế GTGT tương ứng với số hàng đã bán. 2. Phản ánh trị giá vốn thành phẩm xuất bán cho khách hàng 3. Cuối kỳ kết chuyển giá vốn vào TK 911 xác định kết quả kinh doanh 4. Cuối kỳ kết chuyển doanh thu thuần để xác định kết quả kinh doanh . b. Trường hợp bán hàng trả góp. TK 911 TK 111,112,131 TK 511 TK 632 TK 155 4b 4a 1 2a TK3331 2b TK711 3 1. Phản ánh trị giá vốn thành phẩm xuất cho khách hàng. 2a. Doanh thu bán hàng (giá bán trả một lần có thuế GTGT) 2b. Thuế GTGT phải nộp 3. Lãi do bán trả góp. 4a, 4b. Cuối kỳ kết chuyển giá vốn hàng bán và doanh thu thuần vào TK911 xác định kết quả kinh doanh. c. Trường hợp hàng đổi hàng. TK152,153,156 TK 155 TK632 TK911 TK511 TK131 4b 4a 3 TK 133 1b 1a TK 333 1 2a 2b 1 a. Doanh thu bán hàng đổi lấy vật tư hàng hoá khác 1b. Thuế GTGT đầu ra tương ứng với số hàng đem đổi 2a. Phản ánh NVL hàng hoá nhập kho giá mua chưa có thuế 2b. Thuế GTGT đầu vào tương ứng với số hàng hoá , NVL nhập kho 3. Thành phẩm xuất kho đem đi đổi hàng. 4a, 4b. Cuối kỳ kết chuyển giá vốn hàng bán và doanh thu thuần vào TK911 xác định kết quả kinh doanh. d. Trường hợp gửi bán đại lý. TK 155 TK 157 TK 632 TK 911 TK 511 131 641 5b 5a 4 1 3 2b 2a TK 3331 TK 133 1. Xuất kho gửi hàng cho đơn vị nhận đại lý 2a Phản ánh doanh thu hàng hoá đem gửi bán đã bán được (giá chưa có thuế) 2b. Số thuế VAT đầu ra tương ứng với số hàng đại lý đã bán. 3. Phần hoa hồng đơn vị nhận đại lý được hưởng 4. Kết chuyển giá vốn thành phẩm được xác định là tiêu thụ. 5a, 5b. Cuối kỳ kết chuyển giá vốn hàng bán và doanh thu thuần vào TK911 xác định kết quả kinh doanh. Trường hợp sử dụng thành phẩm hàng hoá đem biến tặng 3bb 3a 1a 2 TK 155 TK 632 TK 911 TK 511 TK 431 TK 3331 1b 1a.b. Doanh thu và thuế GTGT của hàng hoá đem biếu tặng 2. Thành phẩm kho đem đi biếu tặng 3a, 3b. Cuối kỳ kết chuyển giá vốn hàng bán và doanh thu thuần vào TK911 xác định kết quả kinh doanh. * Trường hợp tiêu thụ nội bộ Các nghiệp vụ nhập xuất kho kết chuyển giá vốn, doanh thu và thuế GTGT đều hạch toán như các trường hợp trên thay TK 111 bằng TK 512; TK 131 bằng TK 136. 3.3. Kế toán các khoản giảm trừ doanh thu a. Nội dung các khoản giảm trừ doanh thu Các khoản làm giảm doanh thu bán hàng bao gồm khoản doanh thu bị chiết khấu (thường gọi là khoản chiết khấu bán hàng) khoản doanh thu bị giảm giá (giảm giá hàng bán) và doanh thu (doanh số của hàng bán bị khách hàng trả lại. - Khoản chiết khấu bán hàng là chiết khấu thanh toán được áp dụng đối với bán hàng trả chậm (thường được gọi là chiết khấu bán hàng) được xác định và thanh toán khi người mua thanh toán tiền hàng, được coi là một khoản chi phí trực tiếp làm giảm doanh thu của doanh nghiệp . Chiết khấu bán hàng cần theo dõi riêng biệt đối với từng loại hàng tiêu thụ. - Khoản giảm giá hàng bán bao gồm giảm giá bớt giá và hối khấu mà doanh nghiệp chấp nhận cho khách hàng được hưởng. - Doanh thu (doanh số) hàng bán bị khách hàng trả lại do lỗi thuộc về doanh nghiệp như vi phạm cam kết, vi phạm hợp đồng, hàng sai quy cách. b. Phương pháp kế toán các khoản giảm trừ doanh thu Để phản ánh các khoản làm giảm doanh thu kế toán tiêu thụ sử dụng những tài khoản: 521, 531, 532 và một số tài khoản liên quan. TK 521 : chiết khấu hàng bán: dùng để phản ánh toàn bộ số tiền giảm trừ cho khách hàng do việc khách hàng thanh toán tiền mua hàng trước thời hạn đã thoả thuận (đã ghi trên hợp đồng mua bán hoặc cam kết thanh toán tiền hàng) hoặc về một lý do ưu đãi khác. + TK 5211 chiết khấu hàng hoá TK 5212 chiết khấu thành phẩm TK 5213 chiết khấu dịch vụ. - TK 531 hàng hoá bị trả lời : phản ánh doanh số của hàng hoá , thành phẩm đã tiêu thụ bị khách hàng trả lại do lỗi của doanh nghiệp - TK 532: giảm giá hàng bán: dùng để phản ánh các khoản giảm giá, hàng bớt giá, hồi khấu của việc bán hàng trong kỳ. * Kế toán hàng bán trả lại: - Hàng bị trả lại ngay trong kỳ kế toán TK 632 TK 154,155 (611) TK111,112 641TK (2) (1) TK 111,112 TK 531 TK511 4 3a 3b TK 131 TK 3331 1. Phản ánh giá vốn hàng bán bị trả lại nhập kho 2. Chi phí liên quan đến hàng bán bị trả lại 3a. Doanh số hàng bị trả lại trừ vào tiền phải thu hoặc thanh toán với người mua 3b. Phản ánh số tiền trả lại cho người mua hoặc giảm khoản phải thu về thuế GTGT của hàng bán bị trả lại. 4. Kết chuyển doanh số hàng bán bị trả lại. - Hàng phải trả vào kỳ hoặc niên độ sau: Giá vốn hàng bị trả lại Doanh nghiệp đã nhận lại TK 632 TK 155, 156 (611) TK 131, 111, 112 TK 531 TK 511 Kết chuyển doanh số hàng hoá trả lại Doanh số hàng bán trả lại Giảm thuế GTGT về số hàng hoá bị trả lại TK 3331 4. Kế toán chi phí bán hàng: 4.1. Nội dung của chi phí bán hàng: Trong quá tình tiêu thụ sản phẩm , hàng hoá doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản chi phí cho khâu lưu thông bán hàng như vận chuyển, bao gói, giao dịch... Chi phí bán hàng là chi phí lưu thông và tiếp thị phát sinh trong quá tình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá lao vụ dịch vụ. Chi phí bán hàng bao gồm nhiều khoản cụ thể khác nhau. Theo quy định hiện hành chi phí bán hàng bao gồm các nội dung sau: - Chi phí nhân viên: là các khoản trả cho nhân viên bán hàng, đóng gói , bảo quản, vận chuyển... sản phẩm hàng hoá , bao gồm tiền công tiền lương và các khoản phụ cấp trích BHXH, BHYT, KPCĐ. - Chi phí vật liệu bao bì: Các chi phí về công cụ dụng cụ đồ dùng để bao gói sản phẩm chi phí vật liệu nhiên liệu dùng để vận chuyển sản phẩm , hàng hoá, dùng cho sửa chữa bảo quản TSCĐ - Chi phí dụng cụ đo lường: chi phí về công cụ dụng cụ đo lường tính toán làm việc trong quá trình tiêu thụ sản phẩm - Chi phí khấu hao TSCĐ: chi phí khấu hao tài sản dùng trong khâu tiêu thụ như nhà kho cửa hàng, phương tiện bốc dỡ, vận chuyển - Chi phí dịch vụ mua ngoài: các chi phí về dịch vụ mua ngoài phục vụ cho khâu bán hàng như: chi phí thuê ngoài sửa chữa TSCĐ, tiền thuê kho, bãi, hoa hồng trả cho các đại lý. - Chi phí bằng tiền khác: chi phí bằng tiền phát sinh trong khâu bán hàng ngoài các chi phí đã kể trên như: chi phí tiếp khách ở bộ phận bán hàng , chi phí giới thiệu sản phẩm hàng hoá chi phí bảo hành sản phẩm . 4.2. Chi phí bán hàng. Kế toán chi phí bán hàng sử dụng TK 641 và một số TK liên quan khác như TK 152, 153, 334, 338, 111, 112, 331... TK 641 : chi phí bán hàng: dùng để phản ánh tổng hợp và kết chuyển các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm , hàng hoá , lao vụ dịch vụ. TK 641 có 6 TK cấp II TK 6411 chi phí nhân viên TK 6412 chi phí vật liệu, bao bì TK 6413 chi phí dụng cụ, đồ dùng TK 6414 chi phí khấu hao TSCĐ TK 6417 chi phí dịch vụ mua ngoài TK 6418 chi phí bằng tiền khác Nội dung phản ánh trong từng TK cấp II tương ứng với nội dung của từng loại chi phí bán hàng đã nêu ở trên. Trình tự kế toán chủ yếu: (9) (3) (2) (1) TK 334 TK 641 TK 111,112 TK 338 TK 152 TK 911 (11) (10) TK 153 (4) TK 142 TK 142 (6) (5) TK 214 TK 111,112 (7b) (7a) TK 331 TK 335 Trong đó : (1) Tiền lương phụ cấp phải trả nhân viên bán hàng, đóng gói, bảo quản... (2) Trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tiền lương nhân viên (3) Trị giá vật liệu xuất dùng cho khâu bán hàng (4) Trị giá công cụ dụng cụ đồ dùng tính vào chi phí bán hàng (5) Trích khấu hao TSCĐ (6) Chi phí dịch vụ thuê ngoài (7) Trường hợp có trích trước chi phí sửa chữa TSCĐ 7a. Khi chi phí sửa chữa TSCĐ phát sinh 7b. Trích trước CF sửa chữa TSCĐ 8. Trường hợp doanh nghiệp có kế hoạch trích trước chi phí sửa chữa TSCĐ 9. Các khoản ghi giảm chi phí bán hàng (nếu có) 10. Kết chuyển chi phí bán hàng Trường hợp hạch toán chi phí bảo hành sản phẩm , kế toán sử dụng TK 6415. Tuy nhiên do thực tế công ty không phát sinh chi phí bảo hành nên em không đi sâu trình bầy phần này. 5. Kế toán chi phí quản lý doanh nghiệp : 5.1. Khái niệm và nội dung chi phí quản lý doanh nghiệp : Chi phí quản lý doanh nghiệp là những khoản chi cho việc quản lý kinh doanh quản lý hành chính và phục vụ khác liên quan đến hoạt động của cả Doanh nghiệp . Chi phí quản lý doanh nghiệp ngoài 6 nội dung giống như chi phí bán hàng có thêm 2 nội dung sau: - Thuế, phí, lệ phí: chi phí về thuế môn bài thuế nhà đất và các khoản lệ phí khác. - Chi phí dự phòng: các khoản trích dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng phải thu khó đòi. 5.2. Kế toán chi phí QLDN: Kế toán sử dụng TK 642 " chi phí quản lý doanh nghiệp " để phản ánh tập hợp và kết chuyển các chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và chi phí chung khác liên quan đến hoạt động của cả doanh nghiệp. TK 642 có 8 TK cấp II TK 6421 : chi phí nhân viên quản lý TK 6423: chi phí đồ dùng văn phòng TK 6424: chi phí khấu hao TSCĐ TK 6425: thuế, phí, lệ phí TK 6426: chi phí dự phòng TK 6427: chi phí dịch vụ mua ngoài TK 6428: chi phí bằng tiền khác. Sơ đồ kế toán chi phí quản lý doanh nghiệp (14) (3) (2) (1) TK 334 TK 642 TK 111 TK 338 TK 152 TK 911 (15) (4) TK 153 (16) TK 142 TK 142 (6) (5) TK 214 TK 333 (7)(10)(11)(12) TK 111,112 TK 139 (8) TK 159 (9)(10)(11)(12)(13) TK 331, 335 Trong đó: (1) Tiền lương và các khoản phụ cấp (nếu có) phải trả cho cán bộ, nhân viên QLDN (2) Trích BHXH, BHYT, KPCĐ của cán bộ nhân viên quản lý của doanh nghiệp (3) Trị giá vật liệu nhiên liệu xuất dùng cho quản lý doanh nghiệp (4) Trị giá công cụ dụng cụ đồ dùng VP (5) Trích khấu hao TSCĐ dùng chung của Doanh nghiệp (6) Các khoản thuế nhà đất, môn bài (7) Chi về lệ phí giao thông cầu phà (8) Trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, nợ khó đòi (9) Chi phí dịch vụ mua ngoài (10) Các khoản chi về hội nghị tiếp khách (11) Lãi vay vốn dùng cho sản xuất kinh doanh (12) chi phí sửa chữa TSCĐ phát sinh một lần với mức độ nhỏ (13) Chi phí sửa chữa TSCĐ trong trường hợp có trích trước - Trích trước CP sửa chữa lớn TSCĐ - Chi phí sửa chữa TSCĐ phát sinh (14) Phát sinh giảm chi phí QLDN (nếu có) (15) Cuối kỳ hạch toán kết chuyển CFQLDN để xác định kết quả kinh doanh (16) Trường hợp doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh không có hoặc có ít sản phẩm tiêu thụ cuối kỳ tính toán kết chuyển toàn bộ. III. Các sổ kế toán được sử dụng trong kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm: Số lượng và loại sổ kế toán dùng để kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm tuỳ thuộc vào hình thức kế toán mà doanh nghiệp đó áp dụng. Hiện nay doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các hình thức kế toán: Nhật ký chung, nhật ký sổ cái, chứng từ ghi sổ, nhật ký chứng từ các sổ kế toán áp dụng trong từng hình thức gồm: 1. Trong hình thức nhật ký chung: - Sổ nhật ký chung - Sổ nhật ký thu tiền - Sổ nhật ký chi tiền - Sổ nhật ký bán hàng - Sổ cái các TK TK 155, 157, 632, 511, 521... - Các sổ (thẻ) kế toán chi tiết TK 155, TK 157, TK 511, 131, 133... 2. Trong hình thức nhật ký sổ cái: - Sổ nhật ký sổ cái - Các sổ, thẻ kế toán chi tiết TK 155, 157, 511, 131, 333... 3. Trong hình thức chứng từ ghi sổ: - Sổ cái các TK : 155, 157, 632, 511, 521, 531... - Các sổ , thẻ, kế toán chi tiết. 4. Trong hình thức nhật ký chứng từ: - Nhật ký chứng từ số 8 - Bảng kê số 8,9,10,11 - Sổ cái TK - Sổ, thẻ kế toán chi tiết TK 155, 157, 511, 137, 333, 133... Phần II Thực trạng tổ chức công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ở công ty da giầy Hà Nội I/ Đặc điểm sản xuất kinh doanh và tình hình quản lý của Công ty da giầy Hà Nội trong những năm qua 1. Quá trình hình thành phát triển và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty Công ty da giầy Hà Nội ngày nay tiền thân là nhà máy da Thuỵ Khuê do một nhà tư bản Pháp đầu tư xây dựng năm 1912 theo thiết kế của Pháp với nhiệm vụ sản xuất da thuộc, các sản phẩm chế biến từ da phục vụ cho các ngành công nghiệp đặc biệt là phục vụ cho cuộc chiến tranh của thực dân Pháp. Từ khi thành lập cho đến nay nhà máy đã trải qua quá trình phát triển khá dài có một số thay đổi trong nhiệm vụ sản xuất kinh doanh cũng như tên gọi và cơ quan chủ quản. Từ năm 1912-1954, một tư bản đã đầu tư vào ngành thuộc da và thành lập công ty thuộc da Đông Dương - một công ty thuộc da lớn nhất Đông Dương thời đó. Nhiệm vụ sản xuất thời kỳ này là sản xuất ra sản phẩm phục vụ cho chiến tranh như bao súng, bao đạn, thắt lưng... Lúc này quy mô hoạt động của công ty còn nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu. Máy móc được đưa từ Pháp sang, điều kiện lao động thì ẩm ướt, độc hại... Sản lượng đạt khoảng 5000đ8000 da/1 năm. Giai đoạn từ 1954đ1960, Công ty thuộc da Đông Dương nhượng lại cho tư sản Việt Nam. Sau đó nhà nước quốc hữu hoá một phần chuyển thành xí nghiệp công ty hợp doanh lấy tên là "Công ty thuộc da Việt Nam". Công ty đã đề ra nhiệm vụ mới bên cạnh việc sản xuất thuộc da, các sản phẩm chế biến từ thuộc da công ty phải đẩy mạnh được sản xuất sản phẩm thuộc da phục vụ cho các ngành công nghiệp khác. Giai đoạn từ 1960đ1987, Công ty thuộc da Việt Nam từ một công ty hợp doanh mang tên mới "Nhà máy da Thuỵ Khuê" trực thuộc Công ty tạp phẩm của Bộ Công nghiệp nhẹ. Trong giai đoạn này Công ty đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cung cấp da công nghiệp phục vụ các ngành công nghiệp trong nước. Đây là giai đoạn phát triển nhất của Công ty. Bởi thời kỳ này nước ta chỉ có 2 đơn vị sản xuất thuộc da đó là nhà máy da Thuỵ Khuê và nhà máy da Sài Gòn. Giá đầu vào và đầu ra khá ưu đãi do Công ty tự xây dựng thông qua cấp trên không cần phải lo đến việc thị trường có chấp nhận hay không, do đó trong giai đoạn này công ty có lãi khá cao. Số lượng công nhân lúc này lên tới 600 người, sản lượng tăng vọt từ 5,3 tỷ năm 1986 lên tới 6,7 tỷ năm 1987. Tỷ lệ tăng trung bình 25%. Công ty luôn hoàn thành kế hoạch từ 5%-31%/năm. Giai đoạn từ năm 1989-1990: Khi nhận thấy ngành da giầy có những nét đặc trưng riêng và có triển vọng nhà nước đã cho phép nhà máy da Thuỵ Khuê được tách khỏi công ty tạp phẩm và thành lập liên hiệp da giầy với nhiệm vụ tập trung vào công nghiệp da giầy, cung cấp đầy đủ NVL cho các công ty giầy, sản xuất thêm các mặt hàng tiêu dùng bán ra thị trường. Giai đoạn từ năm 1990đ1992: Cùng với sự thay đổi của cơ chế quản lý của nhà nước mô hình liên hiệp không còn hiệu quả nhà nước đã cho phép tất cả các doanh nghiệp được tách ra hoạt động độc lập, nhà máy da Thuỵ Khuê cũng nằm trong số đó lúc này nhà máy trực thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ và xuất khẩu trực tiếp. Đến tháng 12/1992 nhà máy da Thuỵ Khuê được đổi tên thành Công ty da giầy Thuỵ Khuê Hà Nội theo quyết định số 1310/CNN-TCLD ngày 17/12/1992 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ kèm theo điều lệ công ty. Thời kỳ này do hệ thống XHCN ở Đông Âu sụp đổ công ty mất đi một thị trường lớn các hợp đồng bị huỷ bỏ nhiều làm cho doanh thu giảm xuống còn có 4,2 tỷ năm 1990, các kế hoạch đề ra không hoàn thành Công ty rơi vào tình trạng khủng hoảng đến năm 1991 doanh thu chỉ còn 2,3 tỷ. Để khắc phục tình trạng trên Công ty đã đặt ra nhiệm vụ mới đi tìm nguồn hoá chất để phục vụ công nghiệp giầy da bên cạnh nhiệm vụ sản xuất thuộc da. Giai đoạn 1993 đ nay: Theo quyết định số 338/CNN - TCLD ngày 29/4/1993 Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ ra quyết định thành lập lại Công ty lấy tên: Tên doanh nghiệp: "Công ty da giầy Hà Nội" Tên giao dịch quốc tế: HALEXIM Từ tháng 6/96 Công ty trở thành thành viên của Tổng Công ty da giầy Việt Nam. Chuyển sang cơ chế thị trường, bên cạnh việc phải lo đầu vào, đầu ra công ty còn phải chịu sự cạnh tranh gay gắt với sản phẩm của công ty khác như Công ty da Sài gòn, Công ty da Mê Cô... Nhu cầu tiêu thụ giảm các khách hàng truyền thống hầu hết chuyển sang hình thức gia công bằng nguyên vật liệu của nước ngoài. Bên cạnh đó mặc dù là doanh nghiệp nhà nước nhưng mấy năm gần đây nguồn vốn ngân sách cấp giảm dần trang thiết bị máy móc được đầu tư từ những năm 60 nay đã cũ lạc hậu cũng làm cho sản phẩm của công ty bị hạn chế. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất cũng như tăng sản lượng năm 94 công ty đã đưa một dây chuyền thuộc da hoàn chỉnh và một số thiết bị nhập từ Italia vào lắp đặt. Lúc này sản lượng của công ty đã tăng lên: Sản lượng da cứng 25đ32 tấn/năm Sản lượng da mền 450.000ha/năm Keo CN 25 tấn/1năm Đến năm 96 do sự nỗ lực tìm hiểu thị trường, bạn hàng công ty đã đầu tư một dây chuyển sản xuất giầy. Với nhiệm vụ mới là sản xuất và xuất khẩu giầy vải bên cạnh phát triển những mặt hàng truyền thống. Tuy mới bước đầu nhưng công ty cũng đã hoàn thành nhiệm vụ của mình đặc biệt là mặt hàng giầy vải. Doanh thu đạt 2,3 tỷ đ/1năm. Đến nay Công ty da giầy Hà Nội vừa có chức năng sản xuất, vừa có chức năng thương mại trong và ngoài nước. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh chính của công ty là: - Sản xuất các loại da và thiết bị ngành da phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Công ty sản xuất 2 loại da: da cứng để chế biến thành các dụng cụ, thiết bị ngành da phục vụ chủ yếu là công nghiệp dệt và công nghiệp da còn da mềm dùng để chế biến các loại quân trang quân dụng, các hàng tiêu dùng khác phục vụ đời sống nhân dân. - Sản xuất da công nghiệp phục vụ các ngành công nghiệp khác. - Sản xuất giầy vải tiêu dùng trong nước và xuất khẩu - Kinh doanh xuất nhập khẩu các vật tư thiết bị hoá chất ngành da Tuy đã có gắng nhiều nhưng do thích nghi và hoà nhập chưa tốt với cơ chế mới cộng thêm những tác động khách quan cho nên hiệu quả kinh tế của công ty vẫn còn chưa cao. Để tiếp tục phát triển hơn nữa công ty đã đặt ra hướng đi cho năm 99: - Tập trung phát triển ngành da nâng cao sản phẩm da cả về số lượng và chất lượng, mở rộng quy mô sản xuất. - Xây dựng đầu tư thêm máy móc thiết bị cho ngành da. - Thực hiện dự án đưa dây chuyền công nghệ sản xuất giầy da hợp tác với Đài Loan. Một số chỉ tiêu công ty đã đạt được trong những năm gần đây: Biểu số 1a: Tình hình sản lượng Năm Sản lượng da mềm (bia) Sản lượng da cứng 1994 450.000 28,5 tấn 1995 370.000 25,5 tấn 1996 320.000 29,7 tấn 1997 450.000 32 tấn 1998 500.000 35 tấn Biểu số 1b: Một số chỉ tiêu chủ yếu STT Chỉ tiêu ĐVT 1996 1997 1998 1 Giá trị Tổng sản lượng tỷ 9,2 11,9 15,3 2 Doanh thu - 8,760 10,1235 11,019 3 Nộp ngân sách - 0,788 0,912499 0,93758 4 Lợi nhuận thực hiện - 2,012 2,105 3,623 5 Vốn kinh doanh: - 15,324 20,005 21,712071 Vốn cố định - 11,035 12,018 14,320 Vốn lưu động - 4,289 6,987 7,39 6 Thu nhập BQ CNV 1000đ 500 550 580 2. Đặc điểm quy trình công nghệ và tổ chức sản xuất 2.1. Đặc điểm quy trình công nghệ Hiện nay công ty đang tập trung vào 2 mặt hàng truyền thống đó là da cứng, da mềm và sản phẩm mới, sản phẩm giày vải. Mỗi một loại sản phẩm đều có một quy trình công nghệ riêng. Quy trình công nghệ thuộc da ở Công ty da giầy Hà Nội là một quy trình công nghệ sản xuất kiểu phức tạp chế biến liên tục nhưng phân bước không rõ ràng sản phẩm da (da thành phẩm, da công nghiệp là kết quả chế biến của nhiều công đoạn). Thời gian đưa da nguyên liệu vào sản xuất đến khi nhập kho thành phẩm ngắn nhất là 3 ngày, dài nhất là 15 ngày đến 1 tháng. Trong sản xuất ngoài việc sử dụng NVL chính là da còn sử dụng nhiều loại hoá chất như axits sufuric H2S04, Nacl, phẩm nhuộm các loại. Máy móc thiết bị sử dụng như pulông, máy xẻ, máy bào, sàn giấy...) chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng nhiều đến chất lượng thành phẩm. Còn quy trình công nghệ giầy vải thì đơn giản hơn. Sản phẩm giầy vải cũng là kết quả của nhiều công đoạn. Nguyên vật liệu chính để sản xuất giầy vải là vải và cao su. Thời gian đưa nguyên liệu vào sản xuất nhanh hơn, nhập kho hàng ngày. Các bước quy trình công nghệ giầy vải Chuẩn bị gò Cách luyện Cao su May Chặt mảnh Vải Gò ráp Hấp Cắt riềm, dán kín, sỏ dây Hoàn tất sản phẩm Kiểm nghiệm Sản phẩm giày Nhập kho Qui trình công nghệ sản xuất thuộc da Da tươi Kiểm nghiệm Hồi ẩm vò, xén, đánh bóng Thuộc crôm Tẩy vôi làm mềm Xẻ Ngâm vôi Tẩy lòng, cắt riềm Hồi tươi Rửa, ướp muối Nghiền đóng Gelatine CN Nấu Cô đặc Trung hoà Rửa Ăn dầu ép nước, bào, thuộc lại Da thuộc Thuộc ta min ép Nhập kho 2. Đặc điểm tổ chức sản xuất Hiện nay để phù hợp với quy trình công nghệ sản xuất 3 loại sản phẩm công ty tổ chức 4 phân xưởng và 1 xưởng giầy vải với những nhiệm vụ cụ thể như sau: - Phân xưởng da keo: Đây là phân xưởng sản xuất chính. Nguyên vật chính đưa vào sản xuất là các loại da trâu, bò tươi hoặc da muối, vật liệu sử dụng là các loại hoá chất. Sản phẩm của phân xưởng là các loại da cứng, da mềm, keo công nghiệp. Nhìn chung dây truyền công nghệ sản xuất mới đưa vào phân xưởng so với các công ty khác ở Việt Nam là mới nhưng vẫn còn lạc hậu so với thế giới. Máy chưa sử dụng hết công suất là do vấn đề đầu ra còn thấp. - Phân xưởng chế biến I: Chế biến các mặt hàng đồ da phục vụ công nghiệp dệt như (gông, takê, dây curoa...) một số khác phục vụ cho quốc phòng (dây đeo, bao súng, bao đạn...). Nguyên vật liệu của phân xưởng này là da cứng, da mềm lấy từ phân xưởng da keo. - Phân xưởng chế biến II: Từ nguyên liệu là da mềm, da cứng do phân xưởng da keo cung cấp. Phân xưởng chế biến ra các sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng dân dụng và quốc phòng: đóng giầy, máy găng. Gần đây hai phân xưởng đã thay thế máy móc thiết bị mới đã đảm bảo được phần nào cho môi trường làm việc cho công nhân. Dây truyền công nghệ cũng đã được hiện đại hoá nhưng mức độ thủ công còn cao. - Phân xưởng cơ khí: Đây là phân xưởng sản xuất phụ có nhiệm vụ cung cấp lao vụ cho các phân xưởng chính đồng thời tận dụng các loại phế liệu phế phẩm để sản xuất ra các sản phẩm cung cấp trên thị trường. Bao gồm 3 bộ phận: + Bộ phận cơ khí: Có nhiệm vụ gia công sửa chữa và phục hồi các loại máy móc thiết bị. + Bộ phận mộc nề: Có nhiệm vụ đóng các trang thiết bị phục vụ cho ngành và các phân xưởng khác như bệ máy, bệ nồi hơi, các dụng cụ cho đóng giầy. + Tổ nồi hơi: Có nhiệm vụ cung cấp hơi nước cho sản xuất trong đó chủ yếu cung cấp hơi nước cho phân xưởng da keo. Ngoài ra còn có tổ pha chế hoá chất nhằm tạo ra các loại hoá chất phù hợp với yêu cầu kỹ thuật của công nghệ thuộc da. - Xưởng giầy: Bao gồm các bộ phận cắt may, gò ráp và hoàn thiện. Nguyên vật liệu chủ yếu của xưởng giầy là vài và cao su. Do mới đưa vào sản xuất máy móc thiết bị của phân xưởng rất hiện đại, việc sẵp ếp lao động rất hợp lý. Việc tổ chức sản xuất như trên hoàn toàn phù hợp với quy trình công nghệ sản xuất của công ty. Giữa các phân xưởng có mối quan hệ chặt chẽ giúp cho quá trình sản xuất có hiệu quả. Chẳng hạn phân xưởng cơ khí phục vụ đồng thời cho các phân xưởng còn lại hay phân xưởng da keo ngoài cung cấp da các loại cho thị trường còn cung cấp nguyên liệu cho 2 phân xưởng chế biến. Quá trình sản xuất được chia thành các phân xưởng, các xưởng bên cạnh đó công ty còn khoán gọn tới từng công ty đòi hỏi công ty phải quản lý thông qua các phân xưởng. Tổ chức hạch toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm cũng phải theo các xưởng đặc biệt là việc xuất nhập thành phẩm phải theo dõi từng thứ thành phẩm mà các phân xưởng nhập kho. Mối quan hệ giữa các phân xưởng theo sơ đồ sau: Bộ phận cơ khí Cơ khí Mộc nề Nồi hơi Phân xưởng da keo Xưởng gò ráp, hoàn thiện PX chế biến II PX chế biến I Xưởng cắt, may 4. Đặc điểm tổ chức quản lý của doanh nghiệp Là một đơn vị hạch toán độc lập, có đầy đủ tư cách pháp nhân trực thuộc Tổng công ty da giầy Việt Nam, Công ty da giầy Hà Nội tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng. Ban giám đốc trực tiếp điều hành quản lý. Bên cạnh đó công ty còn thực hiện cơ chế khoán đến từng phân xưởng để giải quyết công ăn việc làm cho công nhân, các quản đốc phân xưởng phải tự đôn đốc công nhân trong quá trình sản xuất. Với 523 lao động ngoài ban giám đốc hiện nay công ty có 7 phòng ban và 5 phân xưởng. Mỗi phòng ban có những chức năng nhiệm vụ sau: - Ban giám đốc: gồm đồng chí giám đốc và 2 đồng chí phó giám đốc. Giám đốc điều hành chung cả công ty đặc biệt là về mặt kinh tế. Một phó giám đốc thường trực quản lý về mặt đời sống, đầu tư XDCB. Một phó giám đốc phụ trách kỹ thuật. - Văn phòng: bao gồm 4 bộ phận: Phòng tổ chức, phòng hành chính, phòng bảo vệ, phòng y tế. + Phòng tổ chức: Có nhiệm vụ tham mưu cho ban lãnh đạo về cán bộ, tổ chức bộ máy, quản lý lao động, ban hành một số quy chế về công tác tiền lương của cán bộ công nhân viên trong công ty. + Phòng hành chính: Có chức năng xây dựng lịch trình làm việc của ban giám đốc, đón tiếp khách của công ty tham mưu tổng hợp cho bộ phận văn phòng, nhà trẻ... + Phòng bảo vệ: Có nhiệm vụ bảo vệ tài sản của công ty, duy trì trật tự an ninh trong công ty, theo dõi việc thực hành nội quy, quy chế đã đề ra. + Phòng y tế: Có nhiệm vụ chăm lo sức khoẻ đời sống công nhân viên, khám chữa bệnh cấp thuốc và giải quyết nghỉ ốm cho cán bộ công nhân viên trong toàn công ty. - Phòng kế hoạch vật tư: có 2 chức năng: Chức năng thứ nhất là xây dựng kế hoạch tháng, quý, năm, điều hành sản xuất kinh doanh trên cơ sở nhu cầu tiêu thụ của khách hàng. Chức năng thứ hai là căn cứ vào nhu cầu và các thông tin trên thị trường đưa ra kế hoạch giá thành, kế hoạch sản lượng nhằm thu lợi nhuận cao nhất. - Phòng tài chính kế toán: Giúp lãnh đạo trong công ty hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh của công ty. Báo cáo tình hình tài chính với các cơ quan chức năng của nhà nước, xây dựng kế hoạch tài chính của công ty. Xác định nhu cầu về vốn tình hình hiện có và sự biến động của các loại tài sản trong công ty. - Phòng kinh doanh - XNK: Giúp giám đốc trong việc tìm thị trường trong nước, nước ngoài để tiêu thụ sản phẩm, thực thi kế hoạch bán hàng. Phòng có nhiệm vụ xuất những sản phẩm do công ty sản xuất ra hoặc xuất uỷ thác khi có khách hàng. Bên cạnh đó phòng kinh doanh chịu trách nhiệm khâu nhập vật tư máy móc thiết bị cầnthiết cho sản xuất và gọi vốn đầu tư nước ngoài, xây dựng các phương án đầu tư. - Phòng kỹ thuật: Có nhiệm vụ xây dựng các quy trình quy phạm trong quá trình sản xuất. Bên cạnh đó phòng còn xây dựng kế hoạch trung đại tu và sửa chữa máy móc thiết bị đồng thời xây dựng quy trình sử dụng và quản lý máy móc thiết bị. - Phòng XDCB: Có nhiệm vụ quản lý, đề nghị và tham mưu do lãnh đạo xây dựng đề ra kế hoạch và các hạng mục đầu tư, gọi vốn đầu tư. Giám sát quá trình xây dựng chịu trách nhiệm trước ban giam đốc về chất lượng công trình. Giám đốc công ty đứng đầu bộ máy quản lý trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh hoặc gián tiếp thông qua các phó giám đốc. Các phòng ban có một sự độc lập tương đối nhưng cũng có mối quan hệ gần gũi tương tác, phối hợp nhịp nhàng để bộ máy của công ty vận hành trôi chảy. Sơ đồ bộ máy quản lý của công ty Giám đốc PGĐ phụ trách đời sống, XDCB PGĐ phụ trách kỹ thuật Phòng XDCB Phòng kinh doanh XNK Phòng Kế hoạch vật tư Văn phòng Phòng Tài chính kế toán Phòng kỹ thuật Phòng Tổ chức Quản đốc PX Giầy Quản đốc PX chế biến II Quản đốc PX da keo Quản đốc PX chế biến I Quản đốc PX cơ khí 5. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán của côngty 5.1. Tổ chức bộ máy kế toán: Hiện nay công ty là một đơn vị hạch toán độc lập trong Tổng công ty da giầy Việt Nam. Hình thức công tác kế toán ở đây là hình thức tập trung. Toàn bộ công việc kế toán được tập trung thực hiện tại phòng kế toán từ khâu tập hợp số liệu, ghi sổ kế toán đến báo cáo tài chính. Các phân xưởng không có bộ máy kế toán riêng chỉ có quản đốc phân xưởng quản lý sản xuất và các nhân viên kinh tế. Do địa bàn hoạt động của công ty tập trung tại một điểm phương tiện kỹ thuật ghi chép thông tin được trang bị khá đầy đủ nên hình thức kế toán nêu ở trên tỏ ra rất phù hợp với công ty đảm bảo sự kiểm tra giám sát của kế toán trưởng và sự lãnh đạo kịp thời của ban giám đốc. Theo biên chế phòng kế toán của công ty có 7 người: 1 kế toán trưởng kiêm trưởng phòng, 1 phó phòng và 5 kế toán viên. Nhiệm vụ và chức năng của từng người như sau: - Kế toán trưởng: Có nhiệm vụ điều hành bộ máy kế toán thực thi theo đúng chế độ chính sách, hướng dẫn chỉ đạo kiểm tra hoạt động của các nhân viên kế toán. - Phó phòng kế toán (kế toán tổng hợp): Thực hiện công tác kế toán tổng hợp (ghi sổ cái) theo dõi mạng kế toán tài chính, lập báo cáo kế toán. - Kế toán TSCĐ, vật liệu và công cụ dụng cụ: Theo dõi tình hình tăng giảm TSCĐ và tình hình nhập xuất tồn nguyên vật liệu. - Kế toán tiền gửi ngân hàng, tập hợp chi phí sản xuất tính giá thành sản phẩm, XDCB: Theo dõi việc gửi tiền hoặc rút tiền ở ngân hàng. Theo dõi chi phí cho đầu tư XDCB và nguồn hình thành, đồng thời kiêm kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm. - Kế toán thanh toán: Theo dõi chi tiết thanh toán với người khác, thanh toán lương bảo hiểm cho công nhân. Đồng thời theo dõi tình hình trích lập và sử dụng các quỹ, tình hình thu chi tồn quỹ tiền mặt. - Kế toán thành phẩm và phụ trách vấn đề tiêu thụ thành phẩm, theo dõi công nợ đối với người mua. - Thủ quỹ: Có nhiệm vụ giữ quỹ tiền mặt, thu chi tiền mặt và ghi sổ quỹ. Dưới các phân xưởng không có bộ máy kế toán riêng mà chỉ biên chế các nhân viên hạch toán kinh tế. Các nhân viên kinh tế làm nhiệm vụ hạch toán ban đầu thu nhận và kiểm chứng từ ghi chép sổ sách phục vụ cho nhu cầu quản lý sản xuất dưới phân xưởng. Định kỳ lập báo cáo chuyển chứng từ và báo cáo về phòng tài chính kế toán để xử lý và tiến hành công tác kế toán. Đặc biệt cuối tháng thống kê các phân xưởng phải lập 2 loại báo cáo gửi về phòng kế toán công ty: - Báo cáo chi phí phát sinh trong kỳ - Báo cáo tái chế phẩm cuối kỳ Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán Kế toán trưởng Phó phòng kế toán Thủ quỹ Kế toán TP và tiêu thụ TP theo dõi công nợ Kế toán tập hợp CF và Zsx XDCB, TGNH Kế toán NVL, CCDC, TSCĐ Kế toán tiền lương tiền mặt, theo dõi tính toán hàng bán Nhân viên kinh tế ở các phân xưởng 5.2. Hình thức ghi sổ kế toán - Căn cứ vào quy mô, đặc điểm tổ chức quản lý và sản xuất, trình độ nghiệp vụ chuyên môn của nhân viên kế toán, Công ty da giầy Hà Nội tổ chức ghi sổ kế toán theo hình thức nhật ký chứng từ với hệ thống sổ bao gồm NKCT số 1,2,4,5,7,9,10; bảng kê số 1,2,3,4,5,6; bảng phân bổ số 1,2,3 và các sổ cái TK. - Công ty đang hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên. Công ty không dùng giá hạch toán để đánh giá vật tư, hàng hoá, tài sản mà đánh giá theo giá thực tế vận dụng phương pháp bình quân gia quyền. - Trình tự ghi sổ theo sơ đồ sau: Sổ kế toán chi tiết Sổ quỹ Nhật ký chứng từ Bảng phân bổ Chứng từ gốc Bảng tổng hợp chi tiết Sổ cái các TK Bảng cân đối SPS Ghi hàng ngày Đối chiếu Ghi cuối tháng Báo cáo tài chính * Một điều đặc biệt trong công tác kế toán ở công ty là kế toán quản trị ở đây đang được hình thành một cách rõ nét, hỗ trợ một cách đắc lực cho công tác quản lý điều hãnh với hệ thống báo cáo nội bộ sau: STT Tên báo cáo Nơi lập Nơi nhận 1 Báo cáo ngày - Báo cáo quỹ TM P. Kế toán BGĐ - Báo cáo tiêu thụ trong ngày P. Kinh doanh BGĐ, P. KH - Báo cáo N, XT kho TP P. Kinh doanh BGĐ, BPQL kho, KTT 2 Báo cáo định kỳ (10 ngày) - Báo cáo tình hình tiêu thụ P. Kinh doanh BGĐ - Báo cáo tình hình công nợ, tài chính P. Kế toán BGĐ 3. Báo cáo tháng - Kết quả SX và phân tích kết quả SX của từng phân xưởng P. Kế hoạch BGĐ, Kế toán trưởng, các quản đốc PX - Bảng sử dụng vật tư của từng PX P. Kế hoạch nt - Bảng tổng hợp tình hình công nợ P. Kế toán BGĐ, P. Kinh doanh - Tình hình thu chi tài chính nt BGĐ - Tình hình cung cấp và bảo quản vật tư Bộ phận quản lý kho BGĐ, Kế toán trưởng 4. Báo cáo quý - Tiêu thụ SP chi tiết cho từng chủng loại P. Kinh doanh BGĐ, Kế toán trưởng - Biểu tính thưởng, chiết khấu nt nt II/ Thực trạng tổ chức công tác kế toán và tiêu thụ thành phẩm ở Công ty da giầy Hà Nội 1. Tổ chức kế toán thành phẩm 1.1. Đặc điểm của thành phẩm: Hiện nay công ty đang sản xuất ra 3 nhóm mặt hàng đó là da thuộc, keo công nghiệp, giầy vải. Trong đó da thuộc, theo công nghiệp là sản phẩm truyền thống của công ty. Da thuộc do phân xưởng da keo sản xuất ra, một phần được bán ra ngoài phần còn lại chuyển sang phân xưởng chế biến để chế biến ra hàng tiêu dùng. Thành phẩm của công ty rất đa dạng phong phú. Sản phẩm da là sản phẩm thuộc ngành công nghiệp chế biến và là nguyên vật liệu chính của ngành da giầy và ngành dệt nên sản phẩm da đóng vai trò quyết định trong việc cung cấp nguyên vật liệu cho các ngành này. Do yêu cầu của khách hàng và kết cấu của thành phẩm nên thành phẩm của công ty được chia thành nhiều loại có nhiều quy cách, đặc tính khác nhau. Việc phân loại thành phẩm của công ty căn cứ vào giá trị sử dụng và chỉ số kỹ thuật của từng thành phẩm do phòng kỹ thuật quy định. 1.2. Phân loại và công dụng của thành phẩm của công ty: - Da mềm: dùng làm dây curoa, băng truyền tải, bao súng, bao đạn... Da mềm có nhiều loại như da bò boxcal A, bò boxcal B, da trâu gông, da trâu mộc... Đơn vị tính của sản phẩm da mềm là bia (1bia = 30cm x 30cm). - Da cứng: dùng làm nguyên liệu sản xuất ra dụng cụ thể thao dây đai thang cao su và làm phụ liệu cho ngành sản xuất giầy. Da cứng có các loại trâu curoa, da takê, da trâu đế, keo công nghiệp v.v... đơn vị tính là kg. - Giầy vải: Phục vụ cho tiêu dùng. Giầy vải chỉ có 1 loại nhưng có nhiều kích cỡ khác nhau: X, XL, LL... Thành phẩm của công ty đều chịu mức thuế suất GTGT là 10%. 1.3. Tình hình quản lý thành phẩm Để quản lý chặt chẽ thành phẩm về mặt số lượng - chất lượng công tác quản lý phải được tiến hành chủ yếu ở 3 bộ phận chính đó là phòng kế toán, phòng kinh doanh, kho thành phẩm. Ngoài ra còn một số phòng ban chức năng khác có liên quan như phòng kỹ thuật, nhân viên thống kê, quản đốc, trưởng ca, đội bảo vệ... Trách nhiệm của từng bộ phận như sau: - Phòng kỹ thuật: Kiểm tra chất lượng thành phẩm trước khi nhập kho - Phòng kinh doanh: ngoài công tác chỉ đạo sản xuất kinh doanh và lập kế hoạch cho sản xuất, cũng cần phải nắm chắc số liệu nhập xuất tồn thành phẩm từng loại để có hướng cho việc xuất hàng và chỉ đạo sản xuất. - Kho thành phẩm: Là nơi tiếp nhận sản phẩm từ sản xuất chuẩn bị cho lưu thông, do vậy đây là nơi mà số lượng và chất lượng thành phẩm dễ bị sai lệch nhất. Vì vậy yêu cầu trong công tác này là nhân viên quản lý kho (thủ kho) phải tiến hành sắp xếp theo thứ tự từng loại thành phẩm riêng để khi nhập cũng như khi xuất không gây ra khó khăn, đồng thời phải có sổ ghi chép kiểm tra số lượng thành phẩm nhập, xuất từ đó tính ra được số tồn cuối ngày cho từng loại thành phẩm. Cuối tháng phải tiến hành đối chiếu, kiểm kê giữa kho và phòng kế toán đảm bảo tính pháp lý của công việc. Bên cạnh đó phòng kế toán cụ thể là nhân viên tính giá thành và nhân viên kế toán thành phẩm phải thường xuyên kiểm tra, giám sát số thành phẩm nhập - xuất - tồn hàng ngay với kho và sổ sách của mình để hạch toán nghiệp vụ nhập xuất được chính xác cung cấp thông tin kịp thời cho lãnh đạo. Ngoài việc theo dõi số lượng thành phẩm về mặt hiện vật kế toán cần theo dõi cả về mặt giá trị của thành phẩm xác định mức độ biến động về mặt giá trị cho từng loại sản phẩm. Hơn nữa phải đôn đốc kiểm tra, giám sát việc ghi chép dưới kho để có thông tin kịp thời và hoàn thành chức năng kiểm tra giám sát của kế toán. Nhìn chung công tác quản lý thành phẩm ở Công ty da giầy Hà Nội thực hiện rất chặt chẽ đảm bảo tính phản ánh và giám đốc của công tác kế toán. 1.4. Đánh giá thành phẩm Thành phẩm ở Công ty da giầy Hà Nội được tính toán phản ánh theo một loại giá duy nhất đó là giá thực tế. Thành phẩm là một bộ phận của TSLĐ do đó nào có thể giám đốc được tình hình luân chuyển vốn lưu động nói chung và vốn thành phẩm nói riêng thì cần phải xác định giá trị của thành phẩm bằng phương pháp đánh giá thành phẩm. Hàng năm Công ty da giầy Hà Nội có xây dựng giá thành kế hoạch cho mỗi loại sản phẩm song trong công tác hạch toán thành phẩm chỉ được tính toán phản ánh theo một loại giá duy nhất đó là giá thực tế (giá thành công xưởng thực tế). Về giá thành kế hoạch: Vào đầu quý I ban giám đốc và phòng kế hoạch vật tư căn cứ vào định mức tiêu hao NVL, tiền lương và các chi phí khác trên cơ sở giá cả vật tư năm nay đồng thời dựa vào tình hình thực hiện kế hoạch giá thành năm trước và nhiệm vụ hạ giá thành năm nay để xây dựng giá thành kế hoạch cho mỗi loại sản phẩm. Cụ thể giá thành kế hoạch của mỗi loại sản phẩm như sau: Biểu số 2a: Đơn vị tính Giá thành kế hoạch Trâu mộc bia 9500 Váng bóng - 10500 Váng lót - 6000 Váng găng - 15000 Bò boxcal - 16000 - Đối với giá thực tế của thành phẩm nhập kho: Kế toán căn cứ vào giá thành sản xuất thực tế của từng loại sản phẩm. Cuối mỗi tháng bộ phận tập hợp chi phí và tính giá thành sản xuất căn cứ vào sản lượng thực tế của từng loại sản phẩm và tính giá thành công xưởng cho từng loại sau đó bộ phận tính giá thành chuyển số liệu này cho kế toán thành phẩm và tiêu thụ. Cụ thể giá thành công xưởng của từng loại như sau: Biểu số 2b: STT Tên sản phẩm ĐVT Số lượng Zsx Z đơn vị SX 1 Trâu mộc bia 18.109,5 16.607.400 9.200 2 Bò Boxcal B bia 10.200 158.100.000 15.500 3 Váng bóng bia 28.100 295.050.000 10.500 4 Trâu curoa kg 11.200 392.000.000 35.000 5 Keo CN kg 1.890 31.185.000 16.500 1.544.320.000 Đối với giá thực tế xuất kho công ty áp dụng tính giá thực tế xuất kho theo phương pháp đơn giá bình quân gia quyền (bình quân gia quyền tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ) Trị giá TP tồn đầu kỳ + Trị giá TP nhập trong kỳ Đơn giá bình quân gia quyền = Số lượng TP tồn đầu kỳ + Số lượng TP nhập trong kỳ Trị giá TP xuất kho = Đơn giá bình quân x Số lượng TP xuất kho Ví dụ: Tính trị giá thực tế xuất kho của da bò boxcal B: 230.416.840 + 158.100.000 Đơn giá bình quân = = 15.230 15.199 + 10.200 Trị giá xuất kho: 12.084,3 x 15.230 = 184.043.880 - Căn cứ vào sổ chi tiết nhập kho phần số dư đầu tháng có được trị giá thực tế tồn đầu kỳ 230.416.840 và số lượng tồn đầu kỳ: 15.199 bia. - Căn cứ vào số tổng các phần ghi nợ TK155 trên bảng tổng hợp nhập xuất thành phẩm để ghi giá trị thực tế nhập trong kỳ: 158.100.000. - Căn cứ vào phần ghi có TK 155 trên bảng tổng hợp nhập xuất thành phẩm có được số lượng thành phẩm xuất trong kỳ là 12.084,3 bia. 1.5. Kế toán chi tiết thành phẩm Để đảm bảo về quản lý đối với thành phẩm là phản ánh và theo dõi tình hình nhập xuất tồn kho thành phẩm theo từng thứ loại, giá trị kế toán phải thực hiện kế toán chi tiết thành phẩm. ở Công ty da giầy Hà Nội kế toán chi tiết thành phẩm theo phương pháp ghi thẻ song song. Phương pháp này rất phù hợp với tình hình thực tế ở công ty. a) Mọi thủ tục luân chuyển chứng từ: Mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh phải được phản ánh vào các chứng từ kế toán. Các hoạt động nhập xuất kho thành phẩm đều được lập chứng từ đầy đủ, kịp thời là cơ sở pháp lý để tiến hành hạch toán nhập xuất kho thành phẩm và là khâu hạch toán ban đầu đối với xuất kho thành phẩm. Hiện nay để kế toán chi tiếp thành phẩm công ty sử dụng các chứng từ sau: - Phiếu kiểm nghiệm nhập kho - Phiếu xuất kho - Phiếu nhập kho - Phiếu xuất kho gửi đại lý - Biên bản kiểm kê thành phẩm - Hoá đơn GTGT * Thủ tục nhập kho thành phẩm: Hiện nay thành phẩm của công ty nhập kho từ 2 nguồn đó là nhập kho từ sản xuất, nhập do đại lý trả lại hàng. Trước khi nhập kho toàn bộ sản phẩm đều phải qua 1 bước kiểm nghiệm của bộ phận kiểm nghiệp bộ phận này sẽ lập 1 phiếu kiểm nghiệm nhập kho. Phiếu này có mẫu như sau: Biểu số 2c: Công ty da giầy Hà Nội Bộ phận kiểm nghiệm Phiếu kiểm nghiệm nhập kho Số 12 ngày 05/01/99 Ngày sản xuất : Tháng 1 Loại sản phẩm : Da mềm Quy cách : Bò boxcal B Số lượng : 10200 bia Kết luận : đủ tiêu chuẩn Đề nghị : Nhập kho Cán bộ kiểm nghiệm Sau khi có phiếu kiểm nghiệm nhập kho, số lượng hàng nhập kho sẽ được ghi vào phiếu nhập kho. Phiếu nhập kho do thủ kho lập thành 3 liên và được tính với phiếu kiểm nhập kho. Hàng ngày, sau mỗi ca thống kê phân xưởng phải xuống kho lấy phiếu nhập kho về để theo dõi số lượng sản xuất của phân xưởng và làm cơ sở tính lương cho công nhân theo sản lượng hoàn thành nhập kho. Định kỳ kế toán bán hàng và 1 nhân viên xuống phòng kinh doanh xuống kho và hoặc thủ kho gửi lên 1 phiếu nhập kho để vào bảng nhập kho thành phẩm, lấy đó làm căn cứ hàng hoá có trong kho để bán hàng. Còn 1 liên giao cho thủ kho (liên này đính kèm với phiếu kiểm nghiệm nhập kho) để làm căn cứ ghi vào thẻ kho định kỳ kiểm kê đối chiếu với nhân viên kế toán. Trình tự luân chuyển chứng từ nhập kho thành phẩm PNK Kho TP Thành phẩm 1 2a 2d Thủ kho lập phiếu NK Thống kê phân xưởng (liên 1) Thủ kho ghi thẻ kho (liên 4) 2c 2b Phòng kế hoạch (liên 3) Kế toán TP (liên 2) 1. Sau khi đã được bộ phận kiểm nghiệm chấp nhận nhập kho. Thủ kho nhập kho, lập phiếu nhập kho. 2a. Một liên giao cho thống kê phân xưởng 2b. Một liên giao cho kế toán thành phẩm. Khi lấy chứng từ kế toán phải ký nhận vào phiếu giao chứng từ. 2c. Một liên giao cho phòng kinh doanh 2d. Liên còn lại thủ kho giữ liên này kèm với phiếu kiểm nghiệm nhập kho. Chứng từ nhập kho TP có mẫu như sau: Biểu số 2d: Đơn vị: Công ty da giầy Hà Nội Địa chỉ: 409 Nguyễn Tam Trinh Mẫu số 01 VT QĐ số 1141-TC/QĐ/CĐKT Ngày 1/11/10995 của BTC Phiếu nhập kho Số 12 Ngày 5 tháng 1 năm 1999 Họ tên người giao hàng: Phân xưởng da keo Theo PKN nhập kho số 12 ngày 5-1-99 của bộ phận kiểm nghiệm Nhập tại kho: Thành phẩm STT Tên nhãn hiệu quy Mã Đơn vị Số lượng Đơn giá Thành cách phẩm chất số tính Theo chứng từ Thực nhập tiền 1 Bò boxcal B bia 10.200 10.200 Cộng 10.200 10.200 Cộng thành tiền: Nhập, ngày 5/1/99 Phụ trách cung tiêu Người giao hàng Kế toán trưởng Thủ kho Trên đây là phiếu nhập kho từ sản xuất. Trường hợp nhập kho do khách hàng trả lại cũng dùng phiếu nhập kho có mẫu tương tự nhưng có thêm dòng nhập trả lại dưới dòng chữ in phiếu nhập kho. Với thủ tục luân chuyển chứng từ nhập kho như trên ta thấy trình tự nhập kho của công ty rất chặt chẽ do vậy công ty đã xoá bỏ được tình trạng thất thoát tài sản ở khâu này đảm bảo thành phẩm nhập kho theo đúng số lượng, chất lượng yêu cầu. Tuy nhiên do không sử dụng giá hạch toán thành phẩm nhập kho chỉ theo dõi về mặt số lượng còn về mặt giá trị không theo dõi được. * Thủ tục xuất kho: Thành phẩm của công ty chủ yếu được xuất dùng phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội, ngoài ra còn được xuất phục vụ nội bộ để phù hợp với nội dung này kế toán sử dụng loại chứng từ tương ứng. - Phiếu xuất kho - Phiếu xuất kho (nội bộ) - Hoá đơn GTGT - Phiếu xuất kho gửi đại lý Phiếu xuất kho thông thường và hoá đơn GTGT phản ánh xuất kho thành phẩm bán cho khách hàng. Khi khách hàng đến mua hàng phòng kinh doanh sẽ lập hoá đơn GTGT và phiếu xuất kho. Hoá đơn và phiếu xuất kho được phòng kinh doanh lưu lại số liệu trên máy. Cuối ngày cán bộ phòng kinh doanh theo dõi thành phẩm căn cứ vào số liệu nhập, xuất để làm báo cáo hàng ngày và tổng hợp số liệu vào cuối tháng. Phiếu xuất kho và hoá đơn GTGT được lập này chuyển sang phòng kế toán để làm các thủ tục pháp lý. Thủ kho sau khi xem và kiểm tra tính pháp lý của chứng từ mà hóa đơn mang xuống, nếu đảm bảo tính hợp pháp của chứng từ rồi sẽ tiến hành xuất kho. Phiếu xuất kho được lập thành 3 liên Liên 1: Lưu lại phòng kinh doanh Liên 2: Giao cho khách hàng. Liên còn lại giao cho thủ kho sau đó thủ kho chuyển lên phòng kế toán để kế toán hoàn thiện chứng từ. Hoá đơn GTGT cũng được lập thành 3 liên giao cho phòng kế toán. Nếu khách hàng thanh toán ngay bằng tiền thì kế toán đóng dấu đã thu tiền và đính kèm với phiếu thu nếu khách hàng mua chịu thì kế toán sẽ đóng dấu "chấp nhận sau". Sau khi đóng dấu 1 liên được chuyển trả về phòng kinh doanh, liên 2,3 khách hàng cầm xuống kho, liên 4 phòng kế toán giữ. Trình tự luân chuyển chứng từ xuất kho. 1 Phòng Kinh doanh Phòng kinh doanh lập 4 liên xuất 4 2 Thẻ kho Ghi thẻ kho 3 Khách hàng Kế toán TP và tiêu thụ 1. Phòng Kinh doanh lưu liên gốc 2. Giao cho thủ kho 1 liên để làm căn cứ ghi thẻ kho 3. Định kỳ thủ kho gửi liên cho phòng kế toán 1 liên 4. Thủ kho sau khi kiểm tra mọi thủ tục hợp lý ký nhận, giao hàng và chuyển 1 liên cho khách hàng. Chứng từ xuất kho có mẫu như sau: Biểu số 2e: Đơn vị: Công ty da giầy Hà Nội Địa chỉ: 409 Nguyễn Tam Trinh Phiếu xuất kho Số 29 Ngày 9/1/99 Xuất cho: Xuất tại: kho thành phẩm STT Tên nhãn hiệu quy Mã Đơn vị Số lượng Đơn giá Thành cách phẩm chất số tính Theo chứng từ Thực nhập tiền 1 Bò boxcal B bia 1.296 Cộng Cộng thành tiền: Nhập, ngày 6/1/99 Phụ trách cung tiêu Kế toán trưởng Thủ kho Trường hợp xuất kho gửi đại lý - xuất nội bộ cũng sử dụng chứng từ xuất kho tương tự nhưng có thêm dòng gửi đại lý hoặc xuất nội bộ dưới dòng chữ in. Tóm lại việc vận dụng chế độ ghi chép ban dầu cũng như mọi trình tự luân chuyển chứng từ của công ty đẩm bảo phản ánh một cách theo dõi chính xác chặt chẽ tình hình nhập, xuất kho thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm theo đúng chế độ quy định. Biểu số 2g: Mẫu: Hoá đơn GTGT Mẫu số 01 GTGT-3LL Hoá đơn GTGT (Liên 3 - dùng để thanh toán) Ngày 6/1/99 No: 0366725 Đơn vị bán hàng: Công ty da giầy Hà Nội Địa chỉ: 403 Nguyễn Tam Trinh Điện thoại: 8626889 Mã số thuế: 0100101315 Họ tên người mua: A. Du - Xí nghiệp Minh Xuân Địa chỉ: 40 Hình thức thanh toán: tiền mặt STT Tên hàng hoá, dịch vụ ĐVT Số lượng Đơn giá Thành tiền 1 2 3 4 5 6 1) Bò boxcal B bia 1296 18.000 23.328.000 Thuế suất VAT: 10% Cộng tiền hàng: 23.328.000 Thuế GTGT: 2332.800 Tổng cộng tiền thanh toán: 25.660.800 Người mua Kế toán trưởng Thủ trưởng đơn vị 6. Kế toán chi tiết thành phẩm Như phần trên đã trình bày, một trong những yêu cầu quản lý đối với thành phẩm là phản ánh và theo dõi chặt chẽ tình hình nhập xuất tồn kho cho từng thứ hàng loại cả giá trị và số lượng. Để đảm bảo đáp ứng yêu cầu này kế toán. * ở kho: Hàng ngày, khi nhận được các chứng từ nhập xuất kho thành phẩm thủ kho phải kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của chứng từ rồi tiến hành nhập, xuất kho theo đúng số luợng, chất lượng ghi trên chứng từ sau đó thủ kho ghi vào thẻ kho một cách chính xác số lượng thành phẩm thực nhập, thực xuất vào thẻ kho. Với mỗi sản phẩm mở thẻ kho. Mẫu thẻ kho như sau: Biểu số 3a: Tên kho : Kho TP công ty QĐ 1141 - TC/QĐ/CCKT Thẻ kho Ngày 1/1/95 của BTC Ngày lập thẻ: 1/1/99 Tờ số: 02 Tên nhãn hiệu quy cách sản phẩm: Bò boxcal B Mã số: Đơn vị tính: bia STT Chứng từ Diễn giải Ngày Số lượng Số Ngày N, X Nhập Xuất Tồn Tồn kho 1/1/99 15199 12 5/1/99 Nhập kho 10200 41 6/1/99 Xuất bán 1296 24103 45 7/1/99 Xuất bán 1263 022840 52 8/1/99 Xuất chào hàng 182 022658 ... .... ... ... ... ... Cộng 10.200 12.084,3 13.496,7 Thẻ kho dùng để theo dõi trong cả năm. Số liệu ghi trên thẻ kho là căn cứ vào từng phiếu nhập, hoá đơn GTGT chứ không căn cứ vào từng lãi xuất, nhập. Bở công ty có một số khách hàng thường xuyên hàng với số lượng khá nhiều. Mỗi hoá đơn không xuất ngay 1 lần mà phải xuất làm nhiều lần. Do đó để theo dõi tình hình xuất kho hàng ngày, từng lãi xuất kho thủ kho còn mở thêm sổ chi tiết ở kho. Sổ chi tiết ở kho chỉ phản ánh việc xuất thành phẩm không phản ánh việc thành phẩm. Sổ có mẫu như: Biểu số 3b: Sổ chi tiết ở kho (xuất thành phẩm) Hoá đơn Phiếu X. kho Ngày thực xuất Da trâu mộc Da bò găng Trâu curoa Da bò đế Bò boxcal 0366711 2/1 18 2/1 1200 0366718 5/1 26 5/1 2000 16/1 3000 0366720 5/1 33 5/1 500 2150 0366725 6/1 41 6/1 1296 0366730 7/1 45 7/1 1263 .... 49 8/1 182 0366768 24/1 83 24/1 3216 28/1 1534 .... 0366758 29/1 29/1 300 (Các sản phẩm khác ghi tương tự) Mỗi 1 lần xuất thủ kho ghi vào 1 dòng đến khi ghi đủ số lượng trên hoá đơn thủ kho sẽ cộng lại số liệu này đối chiếu phải trùng khớp với thẻ kho. Trên thẻ kho với mỗi loại HĐ kế toán tính ngay ra lượng tồn, cột ngày xuất không ghi. Bên cạnh việc ghi thẻ kho thủ kho căn cứ vào sổ chi tiết ở kho lấy số liẹu ghi vào bảng kê nhập xuất tồn kho thành phẩm. Bảng kê này được mở cho từng nhóm sản phẩm (nhóm da cứng, nhóm da mềm, sản phẩm giầy...) để theo dõi tình hình nhập, xuất, tồn của từng chủng loại, từng khách hàng. Khác với thẻ kho bảng kê chỉ ghi theo ngày và chỉ theo dõi lượng nhập, lượng nhập không theo dõi số hoá đơn. Biểu số 3c: Kê nhập, xuất sản phẩm nhóm da mềm Ngày 6/1/99 Diễn giải Bò boxcal B Bò boxcal A Da trâu gông Da trâu mộc Váng bóng Da bò gắng 1. Nhập kho 10.200 3.950 1.150 6.200 2. Xuất kho - XN Minh Xuân 1.296 300 - NM Gạch Thái Nguyên 2.450 3.800 - Ô. Sinh Hải Phòng 200 5.870 - A. Thắng Dệt Hà đông 1.300 3150,5 Tổng xuất 1.296 1.300 2.650 3150,5 5870 3.800 Biểu số 3d: Kê nhập xuất sản phẩm nhóm da cứng Ngày 6/1 Diễn giải Trâu curoa Da takê Da trâu đế Da bò đế Da trâu mổ Keo CN 1. Nhập kho 5.500 21750,5 3152 920,5 1550 2. Xuất kho - A. Tân HTX Tân Tiến 78,5 - A. Xoa gạch chịu lửa TN 2065 1100 - Dệt chí nhân HĐ 96,5 - A. Tiến Nam Định 86,5 Tổng xuất 2065 78,5 96,5 1100 (Kê nhập suất sản phẩm giầy mở tương tự) Hàng ngày thủ kho gửi bảng kê nhập, xuất thành phẩm lên phòng kinh doanh. Định kỳ 10 ngày kế toán tiêu thụ nhận chứng từ nhập xuất do thủ kho gửi lên. Cuối tháng thủ kho đối chiếu với phòng kế toán. * ở phòng kế toán Căn cứ vào chứng từ mà định kỳ thủ kho gửi lên kế toán mở sổ chi tiết nhập kho và sổ chi tiết xuất kho theo dõi tình hình nhập xuất kho theo từng tháng trong năm. Biểu số 4a: Sổ chi tiết nhập kho Năm 1999 Tên sản phẩm ĐV tính Tồn đầu năm Tháng 1 Tháng 2 .... Tháng 12 SL GT I. Da thuộc mềm bia 1.083.200.000 - Bò boxcal B - 15.199 230.416.840 10.200 - Bò boxcal A - 1686,5 16.522.800 1892 - Da trâu Gông - 120 1.860.000 6.200 - Da trâu mộc - 11.206 104.215.800 18.109,5 - Váng bóng - 781,75 327.866.000 28.100 - Do bò găng - 12270,5 103.072.200 8.600 ...... - II. Da thuộc cứng kg 585.940.000 - Trâu curoa - 2788,5 97.580.000 11200 - Da takê - 1215,5 38.962.000 3159,75 - Da trâu đế - 1300 37.700.000 2500 - Da trâu mỡ - 8061,75 201.600.000 2920,5 - Keo CN - 1132,5 19.252.500 1890 - Da bò đế - 1185 76.832.000 6500 .... - III. Giầy vải đôi 12500 316.250.000 (Sổ chi tiết xuất kho mở tương tự) Sổ chi tiết xuất kho và sổ chi tiết nhập kho được dùng trong cả năm để theo dõi tình hình nhập, xuất thành phẩm của từng thứ thành phẩm trong từng tháng về mặt số lượng. Ngoài ra, sổ chi tiết xuất kho còn phản ánh số tồn kho theo hai chỉ tiêu số lượng và giá trị. Căn cứ để ghi sổ chi tiết nhập kho là dòng tổng cộng của cột "số thực nhập" của tất cả các phiếu nhập kho trong tháng (kể cả phiếu nhập trả lại). Còn căn cứ để ghi vào sổ chi tiết xuất kho là tổng cộng của cột "số thực xuất" trên các phiếu xuất kho. Cuối tháng căn cứ vào sổ chi tiết xuất, nhập kho kế toán tính ra lượng tồn kho cuối tháng của từng loại theo công thức. Số lượng TP tồn cuối kỳ = Số lượng TP tồn đầu kỳ + Số lượng TP nhập trong kỳ - Số lượng TP xuất trong kỳ * ở phòng kinh doanh: Các phòng ban trong công ty có một sự độc lập tương đối nhưng cũng có sự gắn bó mật thiết, đặc biệt là mặt thông tin. Do việc quản lý thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm gắn bó chặt chẽ với nhau nên ngoài phòng kế toán phòng kinh doanh cũng tham gia việc theo dõi chi tiết thành phẩm. Cuối ngày khi thủ kho gửi lên bảng kê nhập, xuất thành phẩm kế toán căn cứ vào bảng kê này đồng thời căn cứ vào số liệu xuất nhập kho, cán bộ phòng kinh doanh sẽ lập 1 bản báo cáo tình hình "Nhập kho - tiêu thụ và tồn kho thành phẩm". Báo cáo này gồm 4 phần (mẫu trang sau). Đây là một báo cáo nội bộ mang tính chất cập nhật bản báo có tác dụng không chỉ trong công tác theo dõi chi tiết thành phẩm mà còn có tác dụng điều hành sản xuất kinh doanh của công ty cụ thể: - Cho biết chi tiết tình hình nhập xuất tồn kho thành phẩm về chỉ tiêu số lượng. - Giúp cho phòng kinh doanh biết được lượng tồn kho không viết hoá đơn quá số đó. - Giúp tính toán được lượng dự trữ vật tư cần thiết. - Làm cơ sở xây dựng ước tính lượng tiền sẽ thu nhập, lượng đủ cần thiết... Báo cáo này do máy tính lập dựa trên chương trình do công ty tự soạn. Chương trình đó chủ yếu dựa trên phương trình sau: (1) Tổng số khách còn gửi = Số tồn sổ sách - số tồn thực tế (2) Tổng số khách còn = Số hàng còn gửi của mỗi khách gửi Nếu 1 trong 2 phương trình không thoả mãn chương trình sẽ không cho ra báo cáo Trong 4 phần của báo cáo phần I là phần tổng quát được lập từ các phần còn lại. Phần "xuất hàng tại kho" được tổng hợp lại lấy số liệu tổng cộng ghi vào cột thực xuất trong phần "nhập kho và tiêu thụ" Phần "tồn kho" là phần IV, phần này phản ánh lượng hàng xuất từ đầu tháng đến ngày lập báo cáo và tồn kho theo. Biểu số 4b: Phần IV: - Xuất kho từ 1/1 -> 15/1 Da thuộc mềm 15.960bia Da thuộc cứng: 26.500kg Tồn kho sản phẩm da mềm đến ngày 15/1/99 Sản phẩm Tồn sổ sách Tồn thực tế Hàng nhập lại Hàng nhập kho SX từ đầu tháng Xuất khác - Bò boxcal A 13.400 13.400 898 - Bò boxcal B 22.658 22.658 10.200 182 - Da trâu gông 9872,5 9872,5 3.000 - Da trâu mộc 6.852 6.852 9.800 - Váng bóng 781 781 16.500 - Váng lót 11.227 14.227 687 - Da bò găng 7.093 7.093 - B/can bò màu mộc 119.000 119.000 - Da váng bóng 8.632 8632 1.200 - Trâu đế bọc đệm 5818,5 6218 - Da bóng vàng 1563,8 1563,8 5.000 - Da trâu phèn 3832,7 3832,7 1.200 (Sản phẩm cứng, sản phẩm giầy mở tương tự) Phần "Nhập kho sản xuất từ đầu tháng" sẽ được cộng lại để vào cột "sản phẩm nhập kho" (phần luỹ kế từ đầu tháng) của phần I. Phần "Số lượng tồn kho theo sổ sách sẽ cộng lại để ghi vào cột "sản phẩm tồn kho" (phần tồn kho theo thẻ). Phần tồn thực tế được ghi vào cột "sản phẩm tồn kho" phần "số thực tồn". Định kỳ 1 tuần, phòng kinh doanh sẽ đối chiếu với thẻ kho. Nếu có sự chênh lệch thì sẽ tìm hiểu xem sai ở đâu và tiến hành điều chỉnh, cuối tháng kế toán tiêu thụ sẽ cộng lại toàn bộ phần nhập kho để đối chiếu với thủ kho và báo cáo của phòng kinh doanh. Tóm lại việc hạch toán chi tiết thành phẩm ở công ty da giầy Hà Nội được thực hiện theo phương pháp ghi thẻ song song về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu công tác quản lý thành phẩm. Song ở phòng kế toán không hạch toán hàng ngày việc nhập xuất kho thành phẩm. Đây cũng là một hạn chế của công ty em xin hoàn thiện ở phần sau. 1.5. Kế toán tổng hợp thành phẩm Kế toán tổng hợp thành phẩm ở công ty sử dụng các TK TK 154 "Chi phí SXKD dở dang" TK 155 "Thành phẩm" TK 632 giá vốn hàng bán. Công ty có gửi hàng đại lý nhưng không sử dụng TK 157. Các sổ kế toán chủ yếu được sử dụng. NKCT 8 - Bảng tổng hợp nhập xuất thành phẩm, sổ chi tiết xuất nội bộ công ty không mở bảng kê 8. - Về nhập kho thành phẩm: Công ty da giầy Hà Nội nhập kho xẩy ra 2 trường hợp: - Sản phẩm hoàn thành ở các phân xưởng đem về nhập kho. - Sản phẩm nhập kho do khách hàng trả lại. Cuối tháng sau khi tính được giá thành sản xuất của sản phẩm kế toán sẽ ghi vào NKCT số 7 theo định khoản Nợ TK 155 Có TK 154, khi nhập kho thành phẩm do khách hàng trả lại kế toán ghi Nợ TK 155 có TK 632. - Về xuất kho thành phẩm ở Công ty hiện nay xuất kho trong các trường hợp: + Xuất kho để bán + Xuất kho đem biếu tặng quảng cáo + Xuất kho tái chế Căn cứ vào các nghiệp vụ kinh tế phát sinh kế toán ghi Nợ TK liên quan (TK 632, 641...) có TK 155 chẳng hạn khi xuất kho thành phẩm đem bán kế toán ghi Nợ TK 632 Có TK 155. Sau khi tính giá bình quân của từng thứ thành phẩm (đã trình bày ở phần đánh giá thành phẩm) kế toán thành phẩm lập bảng "nhập xuất tổng hợp thành phẩm". (mẫu biểu 5a) Bảng tổng hợp được lập vào cuối tháng cho biết tình hình nhập xuất trong tháng của tất cả TP cả về mặt hiện vật và giá trị. Kết cấu và cơ sở lập bảng. Bảng tổng hợp nhập xuất thành phẩm bao gồm 2 phần: Nhập kho trong tháng và xuất kho trong tháng. Mỗi TP được phản ánh trên 1 dòng. Phần nhập kho trong tháng: - Căn cứ vào sổ chi tiết nhập kho, phiếu nhập kho đã được phân loại theo từng thứ thành phẩm và bảng tính giá thành do kế toán chuyển sang kế toán ghi vào cột ghi nợ TK 155 có TK 154 theo hai chỉ tiêu số lượng và giá trị. - Căn cứ vào PNK trả lại, bảng tổng hợp nhập xuất tháng trước kế toán ghi vào cột Nợ TK 155 có TK 632. Phần xuất kho trong tháng: - Căn cứ vào chứng từ xuất thành phẩm (phiếu xuất kho, phiếu xuất kho gửi đại lý... hoá đơn GTGT đã được phân loại theo từng thứ thành phẩm để ghi theo chỉ tiêu số lượng vào phần ghi có TK 155 nợ các TK sau đó tính ra đơn giá bình quân nhân với số lượng xuất kho để ghi vào chỉ tiêu giá trị. Số liệu trên bảng tổng hợp nhập xuất là căn cứ để ghi vào sổ chi tiết TK 911 và NKCT số 8. Nợ TK 632 673.891.000 Có TK 155 673.891.000 Nợ TK 641 7.441.860 Nợ TK 642 4.048.000 Nợ TK 627 15.918.000 Có TK 155 27.407.860 Để theo dõi riêng số TP xuất nội bộ (dùng để biếu tặng, quảng cáo) kế toán còn sử dụng "Sổ chi tiết xuất nội bộ). * Sổ chi tiết xuất nội bộ Để hạch toán chi tiết TP xuất dùng cho các bộ phận trong công ty, kế toán sử dụng "Sổ chi tiết xuất nội bộ" (Mẫu ****) Sổ này được dùng để theo dõi tình hình xuất sản phẩm để sử dụng trong các phòng ban của công ty theo từng tháng, từng bộ phận sử dụng và từng chủng loại được sử dụng. Sổ được ghi căn cứ vào các phiếu xuất kho có dấu "xuất nội bộ" do kế toán tiêu thụ phân loại ra, phần tính giá xuất kho trong SCT nhập kho. Các phiếu xuất được ghi theo thứ tự thời gian. Sổ bao gồm 6 cột cho biết số và ngày xuất dùng, đối tượng sử dụng. Đến cuối tháng kế toán tính ra trị giá xuất dùng căn cứ vào giá thực tế TP xuất kho. Số liệu tổng hợp của sổ là căn cứ để cuối tháng ghi vào bảng kê 5 (mẫu biểu 11a) Biểu số 5b: Sổ chi tiết xuất nội bộ Tháng 1 năm 1999 Chứng từ Diễn giải Sản phẩm SH NT Bò boxcal Da trâu đế Da trâu curoa Giầy vải PXK52 8/1/99 Xuất cho PXD chào hàng 182 bia Nợ TK 641 7441860 PXK68 12/1 BGĐ chào hàng 60kg Nợ TK 6424048000 PXK71 15/1 Tặng trường 10/10 130 đôi CóTK155 11.489.860 PXK74 20/1 VP chào hàng 50kg Bò boxcal=182x15230 =2771860 PXK88 28/1 Tặng VP đoàn TN quận Hai Bà Trưng 30 đôi Da trâu đế = 80x29500 =2360000 PXK108 26/1 BGĐ chào hàng 20kg 20 đôi Da trâu curoa 35000x50=1750000 Giầyvải=180x25300 =4554000 Cộng 182 bia 80kg 80 đôi 9.711.860 Qua nghiên cứu cách ghi chép trên sổ chi tiết xuất nội bộ ta thấy sổ đã theo dõi được chi tiết số TP đem đi biếu tặng, chào hàng theo từng loại cả về mặt hiện vật và giá trị. Tuy nhiên theo cách hạch toán này chứng tỏ doanh nghiệp không xác định đây là trường hợp xuất có doanh thu và không tính thuế GTGT. Việc hạch toán như vậy là chưa đúng với chế độ. Đây cũng là một vấn đề mà công ty cần hoàn thiện. Cuối tháng, sau khi đã kiểm tra đối chiếu số liệu trên các NKCT só 7, NKCT số 8 kế toán mở sổ cái TK 155, TK632. Biểu số 5c: Công ty da giầy Hà Nội Sổ cái TK 155 Số dư đầu năm Nợ Có 1976. 390.000 Ghi có các TK ghi nợ TK này Tháng 1 ..... Tháng 12 Cộng Có TK 154 Có TK 632 1.544.320.000 38.936.000 Cộng số phát sinh nợ 1.583.256.000 Tổng số phát sinh có 701.298.860 Nợ Số cuối tháng Có 2.858.347.200 Biểu số 5d: Công ty da giầy Hà Nội Sổ cái TK 632 Số dư đầu năm Nợ Có Ghi có các TK ghi nợ TK này Tháng 1 ..... Tháng 12 Cộng Có TK 155 Có TK 152 673.891.000 60.783.000 Cộng số phát sinh nợ 734.674.000 Tổng số phát sinh có 734.676.000 Nợ Số cuối tháng Có 2. Tổ chức công tác kế toán tiêu thụ ở Công ty da giầy Hà Nội 2.1. Các phương thức bán hàng và hình thức thanh toán Công ty da giầy Hà Nội đã phải trải qua bao giai đoạn thăng trầm nhưng vẫn có một chỗ đứng như hiện nay đó là nhờ chất lượng đảm bảo song trong nền kinh tế thị trường phải cạnh tranh khốc liệt không chỉ với hàng ngoại nhập mà với cả hàng nội địa mà công ty vẫn đứng vững thì đó quả thực là sự đóng góp không nhỏ của công tác tiêu thụ ở công ty. Hiện nay trong 3 mặt hàng chính của công ty, trong đó mặt hàng da cứng, da mềm là những mặt hàng truyền thống đang phải cạnh tranh với chính hàng trong nước sản xuất ra đặc biệt là sự cạnh tranh với công ty da Sài gòn một trong những thành viên của Tổng công ty da giầy Việt Nam. Do đó đến nay sản phẩm của da giầy Hà Nội mới chỉ chiếm ưu thế trên thị trường miền Bắc 80-90% doanh thu còn thị trường miền Trung, miền Nam vẫn đang là tiềm năng. Để đẩy mạnh công tác tiêu thụ công ty đã có áp dựng nhiều phương thức bán hàng thích hợp. Phương thức bán hàng trực tiếp, theo phương thức này khách hàng đến mua hàng có thể khách hàng trả ngay tiền hàng hoặc chậm trả, số hàng hoá đã bán không thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Bên cạnh phương thức này công ty còn áp dụng phương thức gửi đại lý tại Hà Nội công ty có các cửa hàng đại lý, giới thiệu sản phẩm của công ty. Mỗi khách hàng muốn làm đại lý cho công ty phải tiến hành làm thủ tục cần thiết đó là ký hợp đồng đại lý. Trước khi nhận hàng khách hàng cũng phải thế chấp (có thể là đất đai, nhà cửa, tiền...) tuy nhiên lượng tiền này là một con số không nhiều và không định đối với từng đại lý. Như vậy việc giao hàng đạilý dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Mặc dù là phương thức đại lý nhưng việc theo dõi hạch toán là hoàn toàn như phương thức trên chỉ khác phương thức trực tiếp là đại lý bán đúng giá mà công ty quy định được hưởng 10% hoa hồng được trả lại công ty nếu số hàng đó không bán được. Hàng xuất ra khỏi doanh nghiệp coi như là hàng đã tiêu thụ công ty vẫn phải nộp thuế GTGT. Bên cạnh công ty áp dụng nhiều phương thức bán hàng, cùng với việc xúc tiến quảng cáo thiết lập một hệ thống mạng lưới phân phối trên 20 tỉnh trên cả nước công ty còn áp dụng hình thức rất linh hoạt và hiệu quả như: - Bán hàng thanh toán ngay: Khách hàng thanh toán ngay-TM hoặc TGNH - Bán trả chậm: Công ty cho khách hàng thanh toán chậm trong một thời gian nhất định. Tuỳ thuộc vào mỗi khách hàng mà công ty áp dụng hình thức thanh toán khác nhau Công ty chia khách hàng ra làm 2 loại khách hàng: khách hàng chính là khách hàng thường xuyên, khách hàng có hợp đồng mua bán số còn lại là khách hàng lẻ. Những khách hàng thường xuyên để khuyến khích khách hàng mua nhiều công ty cho hưởng mức chiết khấu nhất định khi khách hàng này mua với khối lượng lớn. Trong những khách hàng đó cũng có khách hàng có thời hạn tín dụng rộng rãi. Thông thường công ty cho khách hàng chịu tiền từ 30-40 ngày khi ký hợp đồng phải thanh toán 30% giá trị lô hàng, sau 15 ngày thanh toán 30% giá trị lô hàng, hết thời hạn thanh toán khách hàng phải thanh toán số còn lại. Nếu khách hàng thấy sản phẩm hỏng do lỗi thuộc về công ty sẽ được đổi lại sản phẩm mới. Đối với những khách hàng trả tiền ngay sẽ được công ty thưởng theo tỷ lệ % trên tổng giá trị thanh toán nhằm mục đích khuyến khích khách hàng trả tiền hàng, doanh nghiệp không bị chiếm dụng vốn. Bên cạnh đó, để mở rộng thị phần ở khu vực miền Trung và miền Nam những khách hàng ở đây được hưởng những ưu đãi như giá ở đây sẽ thấp hơn giá thị trường miền Bắc, công ty sẽ chịu tiền vận chuyển tới nơi tiêu thụ. 2.2. Tổ chức quản lý khâu bán hàng ở công ty. Mục đích của bất kỳ hoạt động sản xuất nào cũng là sản xuất ra sản phẩm đạt chất lượng cao, số lượng lớn đảm bảo tiêu thụ một cách nhanh nhất tạo điều kiện thuận lợi để thu hồi vốn nhanh, quay vòng vốn có hiệu quả và thu được lợi nhuận. Do vậy trong công tác bán hàng công ty luôn coi trọng chữ "tín" và luôn coi khách hàng là thượng đế qua đó đẩy nhanh được khối lượng hàng bán. Đạt được điều đó là do công ty đã chú trọng đúng mức vào một số điểm sau: - Về quy cách phẩm chất sản phẩm xuất bán: Trước khi đi vào sản xuất chính thức bộ phận sản xuất thử phải tiến hành lấy mẫu sau khi được bộ phận kiểm nghiệm kiểm tra xác nhận đảm bảo đúng quy định kỹ thuật thì mới tiến hành sản xuất. Khi sản xuất sản phẩm xong bộ phận kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm lại kiểm tra về quy cách chất lượng một lần nữa loại các sản phẩm không đủ quy cách số sản phẩm còn lại cho nhập kho. - Về số lượng sản phẩm: Hạch toán chi tiết thành phẩm phải đảm bảo cho bộ phận kinh doanh nắm chắc được tình hình hiện có của từng loại từng thứ thành phẩm làm cơ sở ký kết các hợp đồng mua bán tạo điều kiện cho khách hàng nhận hàng đầy đủ. Do vậy việc thực hiện việc theo dõi và hạch toán TP ở công ty được thực hiện cả ở kho, phòng kế toán, phòng kinh doanh. Khi phát sinh nghiệp vụ nhập xuất kho thủ kho căn cứ vào chứng từ nhập xuất ghi vào thẻ kho. Kế toán thành phẩm tiến hành hạch toán TP vào các sổ kế toán chi tiết và tổng hợp như: SCT xuất kho, SCT nhập kho, bảng tổng hợp nhập xuất, NKCT 8. Còn ở phòng kinh doanh lưu giữ hoá đơn, phiếu xuất kho trên máy và theo dõi tình hình nhập xuất thành phẩm trên bảng báo cáo "nhập kho - tiêu thụ và tồn kho" hàng ngày. - Về giá bán: Giá bán được xác định vừa dựa trên cơ sở của giá thành vừa dựa trên sự biến động cung cầu trên thị trường. Việc xác định giá bán được giám đốc giao cho phòng kế hoạch - kinh doanh đảm nhận. - Về

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20021.DOC
Tài liệu liên quan