Đề tài Thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán Việt Nam

Tài liệu Đề tài Thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán Việt Nam: Mục lục Danh mục sơ đồ, bảng biểu ………………………………………… 04 Danh mục các từ viết tắt quy ước ……………………………. 06 Lời nói đầu ……………………………………………………………….. 07 Chương I: Lý luận chung về thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính …………………………………….. 09 1.1 Thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính ………………… 09 1.1.1. Bản chất của thủ tục phân tích ………………………………………….. 09 1.1.2. Các loại hình phân tích …………………………………………………. 16 1.1.3. ý nghĩa của thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính ……… 26 1.1.4. Mức độ tin cậy của thủ tục phân tích …………………………………... 28 1.2 Vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính ……… 29 1.2.1. Vận dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán …... 30 1.2.2. Vận dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn thực hiện kiểm toán ………. 33 1.2.3. Vận dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn kết thúc kiểm toán ………... 45 Chương II: Thực tế vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại công ty kiể...

doc150 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1122 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Danh mục sơ đồ, bảng biểu ………………………………………… 04 Danh mục các từ viết tắt quy ước ……………………………. 06 Lời nói đầu ……………………………………………………………….. 07 Chương I: Lý luận chung về thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính …………………………………….. 09 1.1 Thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính ………………… 09 1.1.1. Bản chất của thủ tục phân tích ………………………………………….. 09 1.1.2. Các loại hình phân tích …………………………………………………. 16 1.1.3. ý nghĩa của thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính ……… 26 1.1.4. Mức độ tin cậy của thủ tục phân tích …………………………………... 28 1.2 Vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính ……… 29 1.2.1. Vận dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán …... 30 1.2.2. Vận dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn thực hiện kiểm toán ………. 33 1.2.3. Vận dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn kết thúc kiểm toán ………... 45 Chương II: Thực tế vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán Việt Nam …………………………………………………........................... 47 2.1 Đặc điểm của công ty kiểm toán Việt Nam ảnh hưởng tới việc thực hiện thủ tục phân trong kiểm toán Báo cáo tài chính ……………………... 47 2.1.1. Sự ra đời và phát triển của công ty kiểm toán Việt Nam ……………….. 47 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty kiểm toán Việt Nam ………………………. 51 2.1.3. Đặc điểm quy trình hoạt động kiểm toán của công ty kiểm toán Việt Nam …………………………………………………………………………… 55 2.2 Thực tế vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán Việt Nam ……………………………………………... 59 2.2.1. Thực hiện thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty TNHH TTT do VACO thực hiện ....................................................... 59 2.2.1.1. Thực hiện thủ tục phân tích sơ bộ trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty TNHH TTT ………………………………. 59 2.2.1.2. Thực hiện thủ tục phân tích chi tiết trong giai đoạn thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty TNHH TTT ………………………………. 72 2.2.1.3. Thực hiện thủ tục phân tích soát xét trong giai đoạn kết thúc kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty TNHH TTT ………………………………. 81 2.2.2. Thực hiện thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty cổ phần ABC do VACO thực hiện ………………............................. 86 2.2.2.1. Thực hiện thủ tục phân tích sơ bộ trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty cổ phần ABC ……………………………... 87 2.2.2.2. Thực hiện thủ tục phân tích chi tiết trong giai đoạn thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty cổ phần ABC ……………………………... 95 2.2.2.3. Thực hiện thủ tục phân tích soát xét trong giai đoạn kết thúc kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty cổ phần ABC ……………………………... 98 Chương III: Một số nhận xét và kiến nghị về thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán Việt Nam ……………………………………... 105 3.1 Nhận xét về quá trình vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán Việt Nam ………………………… 105 3.1.1. Về phạm vi áp dụng thủ tục phân tích ………………………………….. 106 3.1.2. Về phương pháp phân tích ……………………………………………… 108 3.1.3. Về phương pháp trình bày hồ sơ kiểm toán khi áp dụng thủ tục phân tích …………………………………………………………………………….. 110 3.2 Phương hướng hoàn thiện thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán Việt Nam …………………………………... 111 3.2.1. Về phạm vi áp dụng thủ tục phân tích ………………………………….. 111 3.2.2. Về phương pháp phân tích ……………………………………………… 112 3.2.3. Về phương pháp trình bày hồ sơ kiểm toán khi áp dụng thủ tục phân tích …………………………………………………………………………….. 113 3.3 Một số kiến nghị để thực hiện thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính ………………………………………………………………….. 114 3.3.1. Kiến nghị đối với các cơ quan chức năng ………………………………. 115 3.3.2. Kiến nghị đối với các đơn vị được kiểm toán …………………………... 116 Kết luận …………………………………………………………………... 118 Danh mục tại liệu tham khảo …………………………………… 119 danh mục sơ đồ, bảng biểu Sơ đồ 2.1 Qui mô lao động của VACO qua các năm Sơ đồ 2.2 Cơ cấu doanh thu theo loại hình dịch vụ năm 2004 Sơ đồ 2.3 Bộ máy tổ chức và quản lý của VACO Sơ đồ 2.4 Trình tự vận dụng thủ tục phân tích trong các giai đoạn kiểm toán Báo cáo tài chính Bảng số 1.1 Hướng dẫn chọn loại hình phân tích Bảng số 1.2 Căn cứ xác định mức độ trọng yếu theo doanh thu Bảng số 1.3 Tính giá trị Threshold Bảng số 2.1 Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của VACO Bảng số 2.2 Quy trình kiểm toán theo phương pháp AS/2 Bảng số 2.3 Thu thập thông tin khách hàng TTT Bảng số 2.4 Độ tin cậy của thông tin khách hàng TTT Bảng số 2.5, 2.7 Phân tích Bảng cân đối kế toán công ty TTT Bảng số 2.6, 2.8 Phân tích Báo cáo kết quả kinh doanh công ty TTT Bảng số 2.9 Phân tích các tỷ suất đối với công ty TTT Bảng số 2.10 Rủi ro được xác định cụ thể đối với công ty TTT Bảng số 2.11 Ước tính doanh thu tiêu thụ sản phẩm năm 2004 công ty TTT Bảng số 2.12 Tính toán giá trị trọng yếu MP đối với công ty TTT Bảng số 2.13 Doanh thu hàng bán bị trả lại công ty TTT Bảng số 2.14 Phân tích Bảng cân đối kế toán công ty TTT Bảng số 2.15 Phân tích Báo cáo kết quả kinh doanh công ty TTT Bảng số 2.16 Phân tích các tỷ suất công ty TTT Bảng số 2.17 Phân tích soát xét Báo cáo tài chính công ty TTT Bảng số 2.18 Thu thập thông tin về khách hàng ABC Bảng số 2.19 Phân tích Bảng cân đối kế toán khách hàng ABC Bảng số 2.20 Phân tích Báo cáo kết quả kinh doanh công ty ABC Bảng số 2.21 Phân tích các tỷ suất công ty ABC Bảng số 2.22 Phân tích sơ bộ công ty ABC Bảng số 2.23 Ước tính chi phí khấu hao công ty ABC Bảng số 2.24 Tính toán giá trị trọng yếu MP đối với công ty ABC Bảng số 2.25 Phân tích soát xét BCKQKD đối với công ty ABC Bảng số 2.26 Phân tích soát xét Bảng cân đối kế toán đối với công ty ABC Bảng số 2.27 Phân tích các tỷ suất đối với công ty ABC Bảng số 2.28 Phân tích soát xét công ty ABC Bảng số 3.1 So sánh chỉ tiêu ngành Bảng số 3.2 Tổng hợp kết quả phân tích chi tiết Danh mục các từ viết tắt quy ước Tên đầy đủ Tên viết tắt 1. Công ty Kiểm toán Việt Nam VACO 2. Doanh nghiệp Nhà Nước DNNN 3. Nghiệp vụ NV 4. Phòng dịch vụ quốc tế ISD 5. Tài sản cố định TSCĐ 6. Tài sản TS 7. Xây dựng cơ bản XDCB 8. Kiểm toán K’T 9. Tài khoản TK 10. Báo cáo tài chính BCTC 11. Công cụ dụng cụ CCDC 12. Khấu hao KH 13. Hàng tồn kho HTK 14. Sản xuất SX 15. Trách nhiệm hữu hạn TNHH 16. Giá trị gia tăng GTGT 17. Giá trị chênh lệch có thể chấp nhận được Threshold 18. Giá trị trọng yếu chi tiết MP Lời nói đầu Trong nền kinh tế thị trường, kiểm toán đã trở thành nhu cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng quản lý của các doanh nghiệp. Sự phát triển nhanh chóng của các công ty kiểm toán độc lập trong những năm qua ở nước ta đã chứng minh cho sự cần thiết của hoạt động này. Một trong những loại hình nghiệp vụ chủ yếu mà các công ty kiểm toán cung cấp cho khách hàng là hoạt động kiểm toán tài chính, đó là xác minh và bày tỏ ý kiến về Báo cáo tài chính của đơn vị. Để cho các doanh nghiệp thật sự tin tưởng vào dịch vụ do các công ty kiểm toán cung cấp thì các công ty kiểm toán phải tìm mọi cách nâng cao chất lượng của cuộc kiểm toán. Muốn vậy các công ty kiểm toán phải không ngừng xây dựng và hoàn thiện các phương pháp kiểm toán. Điều này rất quan trọng đối với các công ty kiểm toán ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Một trong những phương pháp kỹ thuật tiên tiến được đánh giá rất cao về tính hiệu quả của nó trong kiểm toán Báo cáo tài chính nhưng vẫn còn mới mẻ đối với các công ty kiểm toán ở Việt Nam, đó là thủ tục phân tích. Thủ tục phân tích là một trong những thủ tục kiểm toán cơ bản và được sử dụng xuyên suốt quá trình kiểm toán. Đó là quá trình đánh giá các thông tin tài chính được thực hiện qua một cuộc nghiên cứu các mối quan hệ giữa các dữ kiện có tính tài chính và không có tính tài chính. Các thủ tục phân tích có thể cung cấp những bằng chứng kiểm toán rất hữu ích và trong một số trường hợp, thủ tục phân tích giúp tiết kiệm rất lớn chi phí, thời gian cũng như thu hẹp phạm vi của cuộc kiểm toán. Nhận thức được điều này nên trong quá trình thực tập tại công ty kiểm toán Việt Nam em đã chọn đề tài: “ Thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán Việt Nam”. Chuyên đề tập trung nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn vận dụng thủ tục phân tích tại công ty kiểm toán Việt Nam, nhận xét việc áp dụng và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện việc áp dụng các thủ tục phân tích trong quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính. Nội dung chủ yếu của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có ba chương chính: Chương I: Lý luận chung về thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính. Chương II: Thực tế vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán Việt Nam. Chương III: Nhận xét và kiến nghị về thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán Việt Nam. Các chương của chuyên đề có sự liên kết với nhau. Theo đó, thực tiễn xuất phát trên cơ sở lý luận và được thể hiện bằng những dẫn chứng cụ thể. Nhận xét và kiến nghị trên cơ sở thực tiễn chưa phù hợp với lý luận hoặc chưa phù hợp với tình hình hiện nay. Tuy nhiên do hạn chế về thời gian nghiên cứu, trình độ có hạn nên chuyên đề chưa nêu bật được thực tế áp dụng toàn bộ các kỹ năng phân tích mà chỉ nêu lên được mức cơ bản, chung nhất của kỹ thuật phân tích được vận dụng ở công ty kiểm toán Việt Nam. Chính vì vậy, em rất mong có được sự tham khảo và đóng góp ý kiến của thầy cô cùng các anh chị kiểm toán viên để chuyên đề được hoàn thiện hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn. Chương I: Lý luận chung về thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính 1.1. Thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính 1.1.1. Bản chất của thủ tục phân tích Kiểm toán tài chính là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về tính trung thực hợp lý của các bảng khai tài chính cũng như việc các bảng khai tài chính này có được lập phù hợp với nguyên tắc, chuẩn mực kế toán được chấp nhận rộng rãi hay không. Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là đưa ra ý kiến xác minh rằng báo cáo tài chính của đơn vị có được lập dựa trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận, có tuân thủ pháp luật có liên quan và có phản ánh trung thực tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các khía cạnh trọng yếu. Bên cạnh đó, kiểm toán tài chính còn giúp đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị được kiểm toán. Với các mục tiêu đó, để đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán, nâng cao lòng tin đối với các đối tượng sử dụng thông tin đã được kiểm toán, cần sử dụng các phương pháp kiểm toán một cách hợp lý. Trong quan hệ với đối tượng kiểm toán, cần đặc biệt quan tâm tới hai phần riêng biệt: Một phần là thực trạng hoạt động tài chính đã được phản ánh trong tài liệu kế toán và phần khác chưa được phản ánh kể cả phản ánh chưa trung thực (kể cả gian lận và sai sót) trong tài liệu này. Đối với phần thứ nhất, việc xác minh và bày tỏ ý kiến đã có cơ sở chứng minh là các tài liệu kế toán (kể cả tài liệu lưu giữ tại khách hàng). Do vậy, kiểm toán có thể kế thừa cơ sở phương pháp kế toán, phân tích để xây dựng phương pháp riêng của mình như: Kiểm toán cân đối kế toán, đối chiếu các chỉ tiêu theo quan hệ trực tiếp hoặc lôgic. Đối với phần thứ hai (ngoài chứng từ) kiểm toán chưa có cơ sở dữ liệu và do đó cần có những phương pháp thích hợp để có bằng chứng kiểm toán: Điều tra, kiểm kê hay thực nghiệm. Như vậy hệ thống phương pháp kiểm toán bao gồm hai phân hệ rõ rệt: Kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ. Xét về đối tượng cụ thể, đối tượng của kiểm toán tài chính là hệ thống các bảng khai tài chính được lập theo trình tự xác định, bao gồm nhiều khoản mục thể hiện quan hệ kinh tế pháp lý đa dạng. Do vậy, trong kiểm toán tài chính hình thành những trắc nghiệm để đưa ra ý kiến về các thông tin được trình bày trên bảng khai tài chính. Chi phối kỹ thuật kiểm toán tài chính còn có mối liên hệ giữa nội kiểm và ngoại kiểm trên quan điểm hiệu quả. Xét về nguyên tắc, để bày tỏ ý kiến về bảng khai tài chính, việc xác minh về độ tin cậy của các con số và mức tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực phải được thực hiện trong mọi cuộc kiểm toán. Trong kiểm toán tài chính, để đảm bảo tính hiệu quả, trình tự phổ biến được thực hiện là tiến hành kiểm toán theo trình tự ngược với trình tự kế toán. Tuy nhiên, cách khái quát này chỉ mang tính phổ biến. Trên thực tế, trình tự kiểm toán rất đa dạng cho từng loại khách thể và từng loại đối tượng kiểm toán. Nhưng dù theo trình tự thế nào đi nữa thì nguyên tắc chung của mọi cuộc kiểm toán tài chính là phải thẩm tra lại các thông tin biểu hiện bằng tiền phản ánh trên Báo cáo tài chính bằng việc kết hợp các phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ theo trình tự và cách thức xác định. Trong kiểm toán báo cáo tài chính, bằng trình tự xác định cách vận dụng các phương pháp kiểm toán vào việc xác minh các nghiệp vụ, số dư tài khoản hoặc các khoản mục cấu thành Báo cáo tài chính đã hình thành các trắc nghiệm. Tuỳ thuộc vào yêu cầu và đối tượng cụ thể cần xác minh, trắc nghiệm cơ bản được chia thành các loại: Trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm trực tiếp số dư, trắc nghiệm phân tích ( quy trình phân tích hay thủ tục phân tích). Trắc nghiệm công việc: Là cách thức và trình tự rà soát các nghiệp vụ hay hoạt động cụ thể trong quan hệ với sự tồn tại và hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ trước hết là hệ thống kế toán. Trắc nghiệm công việc bao gồm có hai loại: Trắc nghiệm đạt yêu cầu: Là trình tự rà soát thủ tục kế toán hay thủ tục quản lý có liên quan đến đối tượng kiểm toán. Trắc nghiệm đạt yêu cầu được tiến hành theo hai trường hợp: Có để lại dấu vết (có sự hiện diện của thủ tục kiểm soát nội bộ): Trong trường hợp này, thường sử dụng phương pháp kiểm tra tài liệu (khi các thủ tục kiểm soát để lại dấu vết rõ ràng) hoặc thực hiện lại những thủ tục kiểm soát của đơn vị (khi các thủ tục kiểm soát để lại dấu vết nhưng gián tiếp trên tài liệu). Không để lại dấu vết (không có sự hiện diện rõ ràng của thủ tục kiểm soát nội bộ): Bao gồm các nguyên tắc quản lý của đơn vị như nguyên tắc phân công phân nhiệm, nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn. Trong trường hợp này, có thể quan sát hoặc phỏng vấn nhân viên của đơn vị. Trắc nghiệm độ vững chãi công việc: Là trình tự rà soát các thông tin trong hành tự kế toán. Trong trắc nghiệm này, cần tính toán lại số tiền trên chứng từ kế toán đã làm và so sánh số tiền trên các chứng từ kế toán với các sổ sách kế toán khác có liên quan. Trắc nghiệm phân tích: Là cách thức xem xét các mối quan hệ kinh tế và các xu hướng biến động của các chỉ tiêu kinh tế thông qua việc kết hợp giữa đối chiếu trực tiếp, đối chiếu lôgic, cân đối… giữa trị số bằng tiền của các chỉ tiêu hoặc bộ phận cấu thành chỉ tiêu. Tuỳ đối tượng và yêu cầu kiểm toán, các hướng phân tích có thể áp dụng khác nhau hoặc kết hợp phân tích ngang, phân tích dọc, phân tích chéo. Trắc nghiệm phân tích sử dụng các phương pháp kiểm toán chứng từ trước hết là đối chiếu trực tiếp và đối chiếu lôgic và cả phương pháp toán học, thống kê. Trắc nghiệm trực tiếp số dư: Là cách thức kết hợp các phương pháp cân đối, phân tích, đối chiếu trực tiếp với kiểm kê và điều tra thực tế để xác định độ tin cậy của các số dư cuối kỳ (hoặc tổng số phát sinh) ở sổ cái ghi vào Bảng cân đối kế toán hoặc vào Báo cáo kết quả kinh doanh. Việc lựa chọn trắc nghiệm cụ thể với những phương pháp xác định nói trên phải xuất phát từ mục đích chung của mỗi cuộc kiểm toán là thu thập bằng chứng đầy đủ và có hiệu lực. Đây là vấn đề trọng yếu nhất trong việc lựa chọn trắc nghiệm cụ thể cũng như sự kết hợp giữa các trắc nghiệm trong một cuộc kiểm toán. Để có được bằng chứng đầy đủ với chi phí kiểm toán thấp nhất, cần bắt đầu từ trắc nghiệm phân tích, đến trắc nghiệm công việc qua trắc nghiệm các số dư. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp trắc nghiệm công việc lại được thực hiện trước tiên nếu hợp đồng (hoặc quyết định) kiểm toán cùng quá trình thực hiện hợp đồng (quyết định) này triển khai trước khi lập Báo cáo tài chính chẳng hạn. Cũng có trường hợp trắc nghiệm công việc ở một số khách thể kiểm toán cụ thể có thể thực hiện nhanh, đơn giản và có hiệu quả… Trong những trường hợp như vậy, không thể máy móc ấn định một trình tự chung của sự kết hợp giữa các trắc nghiệm. Do vậy, nguyên tắc chung của sự kết hợp này là hướng đến bằng chứng đầy đủ và có hiệu lực kết hợp với giảm chi phí, tăng hiệu quả kiểm toán. Thủ tục phân tích (hay quy trình phân tích, trắc nghiệm phân tích) là một trong những thủ tục kiểm toán quan trọng trong cuộc kiểm toán. Để tìm hiểu sâu về thủ tục phân tích, trước hết cần hiểu rõ khái niệm về thủ tục phân tích. Phân tích trong kiểm toán nếu hiểu theo nghĩa chung nhất đó là việc phân chia các hiện tượng, các quá trình và các kết quả kinh doanh thành nhiều bộ phận cấu thành. Trên cơ sở đó, bằng các phương pháp liên hệ, so sánh, đối chiếu và tổng hợp lại nhằm rút ra tính quy luật và xu hướng phát triển của các hiện tượng nghiên cứu. Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế 56 (AU 318): “Thủ tục phân tích là quá trình đánh giá các thông tin tài chính được thực hiện qua một cuộc nghiên cứu các mối quan hệ đáng tin cậy giữa các thông tin tài chính và phi tài chính… bao gồm cả quá trình so sánh số liệu được phản ánh trên sổ sách với số liệu ước tính của kiểm toán viên”. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 520: “Quy trình phân tích là việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất quan trọng, qua đó tìm ra những xu hướng biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến”. Các định nghĩa trên tuy khác nhau nhưng thực chất thủ tục phân tích là phương pháp tổng hợp bao gồm các công việc: dự đoán, so sánh, đánh giá các mối quan hệ để xác định tính hợp lý của các số dư trên tài khoản. Các mối quan hệ này bao gồm quan hệ giữa các thông tin tài chính với nhau và quan hệ giữa các thông tin tài chính và các thông tin phi tài chính. Các khái niệm so sánh, dự đoán, đánh giá được hiểu: - Dự đoán: Là việc ước đoán về số dư tài khoản, giá trị tỷ suất hoặc xu hướng liên quan đến các dữ kiện về tài chính và dữ kiện về hoạt động. - So sánh: Là việc đối chiếu về số liệu trên các Báo cáo tài chính với số liệu dự đoán hay so sánh số liệu trên Báo cáo của đơn vị với chỉ số chung của toàn ngành. - Đánh giá: Là việc phân tích để đưa ra các kết luận về mức chênh lệch và tìm nguyên nhân của chênh lệch đó nếu chênh lệch là lớn và mang tính trọng yếu. Trên đây ta đã hiểu được thế nào là thủ tục phân tích nhưng để thực hiện được nó thì ta cần phải nắm được quy trình thực hiện thủ tục phân tích. Một thủ tục phân tích chuẩn nó thường bao gồm các bước cơ bản sau: Bước 1: Chọn loại hình phân tích phù hợp Nhìn chung các loại hình phân tích áp dụng hiệu quả đối với các tài khoản trong Báo cáo kết quả kinh doanh và các loại nghiệp vụ liên quan hơn là đối với các tài khoản trong Bảng cân đối kế toán. Các tài khoản trong Báo cáo kết quả kinh doanh dễ dự đoán hơn, trong khi đó tài khoản trong Bảng cân đối kế toán thường kết hợp nhiều loại hình nghiệp vụ phức tạp. Bảng số 1.1: Hướng dẫn chọn loại hình phân tích Loại hình phân tích Đối tượng kiểm toán Phân tích xu hướng Phân tích tỷ suất Kiểm tra tính hợp lý Khoản mục trong Bảng cân đối kế toán Hạn chế Hữu ích Hạn chế Khoản mục trong Báo cáo kết quả kinh doanh Hữu ích Rất hữu ích Rất hữu ích Bước 2: Đưa ra mô hình để dự đoán những số liệu tài chính hoặc những xu hướng hay những tỷ suất về số liệu tài chính và số liệu hoạt động. Bước này bao gồm các công việc sau: Xác định các biến tài chính và các biến hoạt động cũng như mối quan hệ có thể dự đoán được giữa hai loại biến này. Ví dụ, xét trong chu trình kiểm toán tiền lương và nhân công thì biến tài chính có thể là tổng quỹ lương thực hiện trong một niên độ kế toán, biến hoạt động có thể là tổng số sản phẩm sản xuất ra trong kỳ, hay tổng số thời gian lao động của cán bộ công nhân viên trong đơn vị được kiểm toán. Đưa ra mô hình để kết hợp thông tin. ở bước này, kiểm toán viên xác định mô hình về mối quan hệ giữa các biến phù hợp với đơn vị được kiểm toán. Trong ví dụ kiểm toán tiền lương và nhân công nói trên, nếu đơn vị trả lương chủ yếu theo hình thức khoán sản phẩm hoàn thành, thì mô hình hợp lý là mô hình mô tả mối quan hệ giữa tổng quỹ lương thực hiện và tổng số lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ. Ngược lại, nếu đặc điểm của đơn vị phù hợp với hình thức trả lương theo thời gian thì mô hình hợp lý là mô hình mô tả mối quan hệ giữa tổng quỹ lương thực hiện và tổng thời gian làm việc của người lao động trong đơn vị được kiểm toán. Thu thập số liệu cơ sở. Kiểm toán viên thu thập số liệu về các biến đã xác định ở trên từ thực tế của đơn vị được kiểm toán. Xem xét tính độc lập và độ tin cậy của những số liệu cơ sở về hoạt động và về tài chính. Đưa ra dự đoán sử dụng mô hình mà kiểm toán viên đã triển khai. Bước 3: Dự đoán và so sánh dự đoán của kiểm toán viên với số liệu của đơn vị được kiểm toán. Nếu có chênh lệch, có thể do các nguyên nhân: có những sai sót trong mô hình của kiểm toán viên; hoặc có sai sót đáng kể trong số dư tài khoản. Để tìm nguyên nhân của chênh lệch, kiểm toán viên có thể phỏng vấn nhà quản lý hiểu biết về những vấn đề tài chính và hoạt động của công ty… để được giải thích hay để thu thập thông tin giúp hoàn thiện hơn mô hình. Đồng thời, kiểm toán viên cần theo dõi và kiểm tra những thông tin này. Tất cả những điều giải thích cần được chứng thực bằng một bằng chứng độc lập. Có thể phỏng vấn nhiều nhân viên trong đơn vị được kiểm toán và kiểm tra xem những lời giải thích của họ có thống nhất hay không; hoặc có thể kiểm tra chứng từ có liên quan. Bước 4: Sử dụng đánh giá chuyên môn để rút ra kết luận về bằng chứng kiểm toán thu thập được Nếu chênh lệch giữa dự đoán của kiểm toán viên với số liệu thực tế lớn hơn rất nhiều so với mức chênh lệch theo kế hoạch (là mức chênh lệch có thể chấp nhận được do kiểm toán viên đặt ra trước khi thực hiện thủ tục phân tích), kiểm toán viên không thu được bằng chứng kiểm toán như dự tính. Khi đó kiểm toán viên phải điều tra tình chất và nguyên nhân của chênh lệch và xem xét ảnh hưởng của nó tới hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm toán. Nếu chênh lệch thấp hơn đáng kể mức chênh lệch theo kế hoạch, kiểm toán viên kết luận rằng mục tiêu kiểm toán đã đạt được. Tuy nhiên, kiểm toán viên vẫn cần xem xét xem liệu những phát hiện của kiểm toán viên có thu được từ những theo dõi thích hợp đối với kiểm soát nội bộ, hệ thống thông tin và các vấn đề khác hay không. Nếu chênh lệch này xấp xỉ độ chênh lệch theo kế hoạch, kiểm toán viên sẽ sử dụng đánh giá của mình để xem xét có nên: Chấp nhận chênh lệch này là chênh lệch kiểm toán và chuyển nó vào bảng tóm tắt những chênh lệch kiểm toán chưa được điều chỉnh. Tiếp tục hoàn thiện dự đoán của mình, đưa vào nhiều biến hơn và đưa ra ít số xấp xỉ hơn, cho đến khi số chênh lệch đạt đến mức có thể chấp nhận được. Tiến hành kiểm tra chi tiết. 1.1.2. Các loại hình phân tích Trong kiểm toán Báo cáo tài chính, kiểm toán viên thường áp dụng các loại hình phân tích sau đây để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như để thu thập các bằng chứng kiểm toán. Kiểm tra tính hợp lý Kiểm tra tính hợp lý thường bao gồm những so sánh cơ bản như: so sánh giữa số liệu thực tế và số liệu kế hoạch, dự toán… Từ kết quả so sánh, nếu có chênh lệch cần tiến hành điều tra tìm nguyên nhân, phát hiện những sai sót trong Báo cáo tài chính hoặc các biến động lớn trong tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị để xem xét tính hợp lý của các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính và đánh giá một cách sơ bộ về tình hình tài chính của đơn vị. Các so sánh chủ yếu gồm: So sánh giữa số liệu thực tế với số liệu kế hoạch, dự toán. Thông qua việc so sánh các chỉ tiêu tài chính giữa số liệu thực tế với số liệu kế hoạch hoặc dự toán, sẽ giúp cho kiểm toán viên điều tra phát hiện được những sai lệch lớn giữa số liệu thực tế và kế hoạch hoặc dự toán. Từ đó có thể cho thấy những sai sót trong Báo cáo tài chính hoặc những biến động lớn về sản xuất kinh doanh mà kiểm toán viên cần xem xét, thẩm định. Thí dụ có sự chênh lệch quá lớn giữa giá thành thực tế và giá thành kế hoạch hoặc hàng tồn kho thực tế với định mức hàng tồn kho, giữa giá trị sản lượng thực tế và kế hoạch… So sánh giữa các chỉ tiêu của đơn vị với các chỉ tiêu bình quân trong ngành. Thông thường, trong phạm vi nhất định thì các chỉ tiêu của đơn vị cá thể với chỉ tiêu bình quân của ngành có mối quan hệ tương đồng với nhau. (Như các chỉ tiêu: mức lợi nhuận, hệ số vòng quay vốn, giá thành…). Do vậy, kiểm toán viên có thể so sánh giữa các chỉ tiêu của đơn vị với chỉ tiêu bình quân của ngành, để phát hiện những sai biệt lớn, không bình thường, không hợp lý. Từ đó sẽ tìm ra những sai sót hoặc giúp cho kiểm toán viên tìm hiểu kỹ hơn về hoạt động của doanh nghiệp. Khi so sánh giữa chỉ tiêu của đơn vị với chỉ tiêu bình quân của ngành cần lưu ý đến nhân tố về quy mô cũng như tổ chức quản lý, phương pháp hạch toán khác nhau giữa các đơn vị trong ngành. Tuy nhiên, khi so sánh cần kết hợp so sánh trong một khoảng thời gian nhất định, chứ không chỉ so sánh ở một thời điểm để có những kết luận xác đáng hơn. So sánh số liệu của doanh nghiệp với các kết quả dự kiến của kiểm toán viên. Theo cách so sánh này, kiểm toán viên ước tính số dư của một tài khoản nào đó bằng cách dựa vào số liệu liên quan của một hoặc một số tài khoản có mối liên hệ với chỉ tiêu ước tính, sau đó kiểm toán viên so sánh số liệu thực tế trên sổ kế toán của doanh nghiệp với số liệu ước tính đó. Nếu có sự khác biệt trọng yếu giữa số liệu ước tính với số liệu thực tế, thì cần được điều tra xem xét để xác định nguyên nhân cụ thể. Thí dụ, khi kiểm toán viên xem xét mức hợp lý của chi phí lãi tiền vay thì có thể vận dụng cách thức so sánh thực tế chi phí lãi tiền vay phát sinh với lãi tiền vay ước tính của kiểm toán viên. Việc đó được tiến hành bằng cách: Trước hết kiểm toán viên có thể ước tính chi phí lãi tiền vay bằng cách nhân lãi suất tiền vay bình quân tháng với số dư cuối tháng của tài khoản tiền vay. Sau đó so sánh với chi phí lãi vay thực tế của doanh nghiệp để tìm sai lệch và đánh giá mức độ trọng yếu của sự sai lệch đó. Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin tài chính và thông tin phi tài chính. Các thông tin không có tính chất tài chính là các dữ kiện kinh tế kỹ thuật do các hệ thống hạch toán cung cấp. Thí dụ như : số lượng công nhân viên; số lượng phòng, giá phòng, hiệu suất phòng của một khách sạn, hoặc diện tích kho chứa hàng của doanh nghiệp… Mặc dù, những thông tin này không có tính chất tài chính, nhưng lại có mối quan hệ với các chỉ tiêu tài chính. Chẳng hạn, khi xem xét tính hợp lý về doanh thu của khách sạn, kiểm toán viên có thể xem xét tính hợp lý của nó so với số lượng phòng, giá phòng và hiệu suất của phòng… Hoặc khi xem xét, thẩm tra quỹ lương, mức lương bình quân, kiểm toán viên sẽ xem xét trong mối quan hệ của nó với số lượng công nhân viên của doanh nghiệp… Phân tích xu hướng (phân tích ngang) Phân tích xu hướng (hay còn gọi là phân tích ngang) là sự phân tích dựa trên cơ sở so sánh các chỉ số của cùng một chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính. Phân tích xu hướng thường được kiểm toán viên sử dụng qua so sánh thông tin tài chính kỳ này với kỳ trước, hay so sánh giữa các tháng trong kỳ, hoặc so sánh số dư (số phát sinh) của các tài khoản cần xem xét giữa các kỳ nhằm phát hiện biến động bất thường để tập trung kiểm tra, xem xét. Đồng thời thông qua phân tích sự biến động của một số dư tài khoản hay khoản mục giữa các kỳ kế toán trước, kiểm toán viên có thể đưa ra dự kiến của kỳ hiện tại. Có thể chia thủ tục phân tích xu hướng ra thành hai dạng là phân tích xu hướng giản đơn và phân tích hồi quy. Phân tích xu hướng giản đơn là xác định con số ước tính dựa trên số dư tài khoản của kỳ trước. Thí dụ, Tỷ suất giá vốn hàng bán trên doanh thu của đơn vị không tăng so với năm trước có thể do giá cả thị trường ổn định nhưng cũng có thể do đơn vị cố tình điều chỉnh cho hợp lý với tỷ suất của ngành… Phân tích hồi quy là sử dụng phương pháp toán học trong phân tích tài chính để biểu hiện và đánh giá mối quan hệ tương quan giữa các chỉ tiêu kinh tế. Phương pháp này xác định độ biến thiên của tiêu thức kết quả theo sự biến thiên của tiêu thức nguyên nhân. Phân tích hồi quy là phương pháp sử dụng phổ biến vì có tính chính xác cao hơn so với phân tích xu hướng giản đơn vì nó phản ánh được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Thí dụ, khi phân tích doanh thu của đơn vị thì kiểm toán viên có thể phân chia doanh thu theo từng loại sản phẩm tiêu thụ hoặc theo thị trường… Trên cơ sở đó sẽ đánh giá được biến động của doanh thu là do biến động tiêu thụ của sản phẩm nào hoặc của thị trường nào… Phân tích tỷ suất (phân tích dọc) Phân tích tỷ suất là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các tỷ lệ tương quan của các chỉ tiêu và khoản mục khác nhau trên Báo cáo tài chính. Đây là loại thủ tục phân tích phổ biến thứ hai trong các thủ tục phân tích. Nếu phân tích xu hướng tập trung vào một tài khoản cụ thể và không đi vào phân tích mối quan hệ về số dư các tài khoản thì phân tích tỷ suất lại tập trung vào phân tích mối quan hệ này. Phân tích tỷ suất chủ yếu áp dụng đối với Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh. Tuy nhiên, phân tích tỷ suất đối với các tài khoản trong Bảng cân đối kế toán thường không đem lại hiệu quả cao do số dư các tài khoản trên Bảng cân đối kế toán được đưa ra tại một thời điểm. Trong khi đó, phân tích tỷ suất giữa số dư các tài khoản trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lại hiệu quả do nó phản ánh sự biến động kết quả hoạt động kinh doanh trong mối quan hệ với các khoản mục khác và qua thời điểm. Kiểm toán viên thường sử dụng ba nhóm tỷ suất là nhóm tỷ suất khả năng thanh toán, nhóm tỷ suất khả năng sinh lời, nhóm tỷ suất về cấu trúc tài chính để thực hiện thủ tục phân tích. Nhóm tỷ suất khả năng thanh toán, gồm có: Tỷ suất khả năng thanh toán hiện thời; Tỷ suất khả năng thanh toán nhanh; Số vòng thu hồi nợ; Số vòng luân chuyển hàng tồn kho; Tỷ suất khả năng thanh toán hiện thời. Đây là tỷ suất khả năng thanh toán thông dụng nhất. Công thức tính: Tổng tài sản lưu động Tổng nợ ngắn hạn Tỷ suất khả năng thanh toán hiện thời Tỷ suất này đo lường khả năng thanh toán, xem tổng tài sản lưu động gấp bao nhiêu lần nợ ngắn hạn phải trả. Tài sản lưu động là những tài sản có thể chuyển đổi thành tiền trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Tài sản lưu động gồm: Vốn bằng tiền, đầu tư ngắn hạn, các khoản phải thu, ứng và trả trước, hàng tồn kho. Tổng số nợ ngắn hạn là toàn bộ các khoản nợ dưới một năm, kể từ ngày lập Báo cáo tài chính gồm: Vay ngắn hạn, nợ dài hạn đến hạn trả, phải trả người cung cấp, phải trả ngân sách, phải trả công nhân viên, phải trả nội bộ và các khoản phải trả, phải nộp khác. Khi tỷ suất này bằng 1, nghĩa là tài sản lưu động vừa đủ để thanh toán nợ ngắn hạn. Để đảm bảo vốn vừa thanh toán đủ nợ ngắn hạn, vừa tiếp tục hoạt động được, tỷ suất bằng 2 được xem là hợp lý, tỷ suất cao hơn 2 có thể xem là đầu tư thừa tài sản lưu động. Tỷ suất khả năng thanh toán nhanh. Tỷ suất khả năng thanh toán nhanh mô tả khả năng thanh toán tức thời với tiền và các phương tiện có thể chuyển hoá ngay thành tiền. Công thức tính: Tỷ suất khả năng thanh toán nhanh Vốn bằng tiền Đầu tư tài chính ngắn hạn Các khoản phải thu Tổng số nợ ngắn hạn Tỷ số này bằng 1 là thoả đáng, càng lớn hơn 1 thể hiện doanh nghiệp càng có khả năng thanh toán nhanh, nếu càng nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp càng khó khăn trong thanh toán công nợ ngắn hạn. Số vòng thu hồi nợ. Số vòng thu hồi nợ thể hiện số vòng thu hồi nợ trong một niên độ, có nghĩa là số dư nợ khách hàng thu được vào quỹ mấy lần. Số vòng thu hồi nợ càng nhiều, thời gian thu hồi nợ càng ngắn. Công thức tính: Số vòng thu hồi nợ Doanh thu bán chịu (thuần) Số dư các khoản phải thu bình quân Trong đó: Số dư các khoản phải thu bình quân Số dư các khoản phải thu đầu năm Số dư các khoản phải thu cuối năm 2 Nếu lấy một niên độ là 365 ngày để tính thì thời gian thu hồi nợ một vòng là: Thời gian thu hồi nợ 1 vòng 365 Số vòng thu hồi nợ Số vòng luân chuyển hàng tồn kho. Một vòng luân chuyển hàng hoá được tính từ lúc suất tiền mua hàng cho đến khi bán hàng thu lại được tiền. Số vòng luân chuyển hàng tồn kho cho biết mỗi năm hàng hoá luân chuyển được mấy lần. Số vòng luân chuyển càng nhiều, thời gian luân chuyển một vòng càng ngắn. Công thức tính: Số vòng luân chuyển hàng tồn kho Giá vốn hàng bán Số dư tồn kho bình quân Cách tính số dư tồn kho bình quân tương tự như các khoản phải thu bình quân. Nếu lấy một năm là 365 ngày thì: Thời gian 1 vòng luân chuyển hàng tồn kho 365 ngày Số vòng luân chuyển hàng tồn kho Cách tính số vòng luân chuyển của vật tư và thành phẩm cũng tương tự như hàng hoá. Vòng luân chuyển của vật tư tính từ lúc mua cho đến khi xuất kho để đưa vào sản xuất. Vòng luân chuyển thành phẩm tính từ lúc nhập kho cho đến khi thu được tiền bán hàng. Nhóm tỷ suất khả năng sinh lời, gồm: Tỷ suất khả năng sinh lời của tài sản; Tỷ suất hiệu quả kinh doanh; v.v… Tỷ suất khả năng sinh lời của tài sản. Tỷ suất này dùng để đo lường tiền lãi do một đồng tài sản mang lại. Công thức tính: Tỷ suất khả năng sinh lời của tài sản Lãi kinh doanh trước thuế Chi phí tiền lãi Tổng giá trị tài sản bình quân Do tổng tài sản được tài trợ từ cả nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay nên chi phí tiền lãi (thu nhập của người cho doanh nghiệp vay) phải được cộng vào lãi kinh doanh của doanh nghiệp để tính tỷ suất này. Tỷ suất hiệu quả kinh doanh. Tỷ suất này cho biết cứ 1 đồng doanh thu thuần mang lại bao nhiêu tiền lãi cho doanh nghiệp. Công thức tính: Tỷ suất hiệu quả kinh doanh Tổng lãi kinh doanh trươc thuế Tổng doanh thu bán hàng thuần Để đánh giá tỷ suất này, ngoài việc so sánh giữa các năm hoặc so sánh vói tỷ suất dự kiến, nhằm thấy rõ chất lượng và xu hướng phát triển của doanh nghiệp, kiểm toán viên còn phải xem xét tính chất của ngành nghề kinh doanh mà doanh nghiệp đang hoạt động. Ngoài 2 tỷ suất chủ yếu nói trên, đối với các công ty cổ phần, kiểm toán viên còn có thể sử dụng thêm các tỷ suất vốn cổ phần thường, tỷ suất cổ tức… để phân tích, đánh giá thêm. Nhóm tỷ suất về cấu trúc tài chính: Thông qua nhóm tỷ suất này, ngoài việc phân tích sự bất thường, kiểm toán viên còn có thể nhìn nhận những khó khăn tài chính mà doanh nghiệp phải đương đầu và có thể dẫn dắt các nhà quản lý đến sai phạm. Đồng thời, có thể xem xét thêm khả năng tiếp tục hoạt động của doanh nghiệp. Thuộc nhóm này có: Tỷ suất đầu tư; Tỷ suất nợ (hoặc tỷ suất tài trợ); Tỷ suất tự tài trợ; Tỷ suất khả năng thanh toán lãi vay; v.v… Tỷ suất đầu tư. Tỷ suất này dùng để đánh giá năng lực hiện có của doanh nghiệp, đánh giá trình độ trang bị máy móc, thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật… Công thức tính: Tỷ suất đầu tư Tài sản cố định và đầu tư dài hạn Tổng số tài sản Tỷ suất này luôn luôn nhỏ hơn 1 và mức độ cao thấp của nó tùy theo doanh nghiệp hoạt động trong ngành nào, lĩnh vực nào. Tỷ suất này càng lớn càng chứng tỏ vị trí quan trọng của tài sản cố định trong tổng số tài sản hiện có của doanh nghiệp. Thông thường, tỷ suất đầu tư được coi là hợp lý trong từng ngành nếu đạt mức cụ thể sau: Công nghiệp thăm dò và khai thác dầu khí: Tỷ suất này khá cao, khoảng 0,9 (90% tổng tài sản); Công nghiệp luyện kim: khoảng 0,7 (70% tổng số tài sản); Công nghiệp chế biến thực phẩm: khoảng (10% đến 30%); v.v… Tỷ suất nợ. Tỷ suất nợ được tính bằng cách so sánh tổng số nợ phải trả so với tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp. Công thức tính: Tỷ suất nợ Tổng số nợ phải trả Tổng nguồn vốn Hoặc có thể dùng tỷ suất tài trợ ngược với tỷ suất nợ để đánh giá: Tổng số nguồn vốn Tổng số nguồn vốn Nguồn vốn chủ sở hữu Tổng số nợ phải trả 1 – Tỷ suất nợ Tổng số nguồn vốn Tỷ suất tài trợ Tỷ suất tài trợ phản ánh khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập của doanh nghiệp đối với các chủ nợ (ngân hàng, chủ đầu tư, các đối tượng khác), hoặc những khó khăn tài chính mà doanh nghiệp phải đương đầu. Tỷ suất tài trợ càng lớn, càng chứng tỏ đơn vị có nhiều vốn tự có và hoạt động chủ yếu dựa trên nguồn vốn chủ sở hữu, không phải lo lắng trong việc vay và trả nợ. Tỷ suất tự tài trợ. Tỷ suất tự tài trợ phản ánh mối quan hệ giữa nguồn vốn chủ sở hữu với giá trị TSCĐ và các khoản đầu tư dài hạn. Công thức tính: Tỷ suất tự tài trợ Nguồn vốn chủ sở hữu TSCĐ và đầu tư dài hạn Tỷ suất này cho biết nguồn vốn chủ sở hữu đã dùng vào TSCĐ và các khoản đầu tư dài hạn là bao nhiêu. Nếu doanh nghiệp có khả năng tài chính tốt thì nguồn vốn chủ sở hữu phải đủ đầu tư TSCĐ và các khoản đầu tư dài hạn để hoạt động. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rõ mặt trái ở đây là TSCĐ chu chuyển chậm., nếu đầu tư quá nhiều nguồn vốn chủ sở hữu vào mua sắm TSCĐ thì sẽ bất lợi, vì lợi nhuận trong kinh doanh thu được chủ yếu do chu chuyển các tài sản lưu động. Tỷ suất khả năng thanh toán lãi vay. Tỷ suất khả năng thanh toán lãi vay phản ánh lợi nhuận sinh ra từ hoạt động kinh doanh do sử dụng vốn để đảm bảo khả năng thanh toán lãi vay. Công thức tính: Chi phí lãi vay Lợi tức thuần từ hoạt động kinh doanh Tỷ suất khả năng thanh toán lãi vay Có thế so sánh tỷ suất này giữa các kỳ hoặc với tỷ suất trung bình về khả năng thanh toán lãi vay của ngành. Trong cả ba loại hình phân tích nêu trên, thông thường kiểm toán viên không sử dụng một cách riêng rẽ mà kết hợp với nhau. Kiểm tra tính hợp lý thường có độ chính xác, mức độ tin cậy cao. Phân tích tỷ suất dựa trên mối quan hệ giữa các báo cáo có liên quan có thể cung cấp được các bằng chứng có giá trị. Phân tích xu hướng được xem là phương pháp cung cấp dữ liệu có độ tin cậy thấp nhất vì kỹ thuật này dùng nhiều vào việc xem xét các dữ liệu của năm trước. 1.1.3. ý nghĩa của thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính Báo cáo tài chính được các doanh nghiệp lập hàng năm và theo thông lệ quốc tế thì các doanh nghiệp phải công bố Báo cáo tài chính của mình. Do Báo cáo tài chính luôn được các tổ chức và cá nhân quan tâm nên nó là đối tượng trực tiếp và thường xuyên của kiểm toán. Đối tượng quan tâm tới Báo cáo tài chính là các chủ doanh nghiệp, các cổ đông, các thành viên của Hội đồng quản trị, Ngân hàng, các nhà đầu tư, khách hàng… Các đối tượng quan tâm tới Báo cáo tài chính là rất khác nhau nhưng đều có một mong muốn chung là sử dụng thông tin trên Báo cáo tài chính với độ tin cậy cao, trung thực, chính xác. Để đạt được điều này đòi hỏi phải nâng cao chất lượng của cuộc kiểm toán. Quá trình kiểm toán Báo cáo tài chính thực chất là quá trình áp dụng các thủ tục kiểm toán, kỹ thuật nghiệp vụ vào kiểm tra thực tế nhằm thu thập các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp làm cơ sở cho ý kiến nhận xét từng bộ phận được kiểm toán cũng như toàn bộ Báo cáo tài chính của đơn vị. Một trong các thủ tục kiểm toán không thể thiếu được đó là thủ tục phân tích bởi thủ tục phân tích có những ý nghĩa quan trọng sau đây: Thủ tục phân tích giúp hiểu được công việc kinh doanh của khách hàng. Kiểm toán viên nhất thiết phải có kiến thức, sự hiểu biết về ngành nghề kinh doanh và công việc kinh doanh của khách hàng. Các thủ tục phân tích là công cụ được dùng trong việc thu thập kiến thức đó. Để lập kế hoạch cho cuộc kiểm toán năm hiện hành, kiểm toán viên cần thu thập các thông tin về hoạt động của công ty khách hàng trong những năm trước. Bằng cách tiến hành các thể thức phân tích kiểm toán viên sẽ có những hiểu biết về các thông tin chưa được kiểm toán ở các năm trước, các biến động về tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Những biến động này có thể đại diện cho những xu hướng quan trọng hoặc các hiện tượng đặc biệt mà tất cả đều có thể ảnh hưởng đến việc lập kế hoạch kiểm toán. Chẳng hạn, một sự sụt giảm về các tỷ lệ tổng số dư hàng tồn kho qua các năm có thể chỉ rõ rằng cạnh tranh đang tăng lên trong khu vực thị trường của công ty và sự cần thiết phải xem xét kỹ lưỡng hơn về cách đánh giá hàng tồn kho khi kiểm toán. Một sự tăng lên đáng kể về số dư TSCĐ có thể chỉ rõ rằng có một khoản mua đáng kể cần phải được xem xét lại. Thủ tục phân tích giúp đánh giá khả năng tiếp tục hoạt động của công ty. Các thủ tục phân tích thường có tác dụng cung cấp các dấu hiệu cho thấy công ty đang đứng trước những khó khăn về mặt tài chính. Khả năng thiếu hụt về mặt tài chính phải được kiểm toán viên xem xét trong quá trình đánh giá các rủi ro liên hệ với kiểm toán cũng như liên hệ với giả định doanh nghiệp sẽ hoạt động tốt trở lại trong tương lai của Ban giám đốc khi lập các Báo cáo tài chính. Một số thủ tục phân tích có thể trở nên rất hữu ích cho việc xem xét này. Ví dụ, nếu tỷ lệ nợ dài hạn so với tổng giá trị tài sản ròng cao hơn bình thường được kết hợp với một tỷ lệ dưới mức trung bình của lợi nhuận so với tổng tài sản thì có thể chỉ ra mức rủi ro tương đối cao của sự thiếu hụt tài chính. Những điều kiện đó không chỉ ảnh hưởng đến kế hoạch kiểm toán mà còn có thể chỉ rõ những nghi ngờ đáng kể về khả năng tiếp tục hoạt động của công ty. Thủ tục phân tích chỉ ra các sai số tồn tại trên các Báo cáo tài chính. Những chênh lệch đáng kể giữa số liệu tài chính chưa được kiểm toán ở năm hiện hành với số liệu khác được dùng để so sánh thường được xem như những dao động bất thường. Những dao động bất thường xảy ra khi những chênh lệch đáng kể không được dự kiến nhưng lại tồn tại hoặc khi những chênh lệch đáng kể được dự kiến nhưng lại không xảy ra. Trong cả hai trường hợp, một trong những lý do khả dĩ đối với một dao động bất thường là sự hiện diện của một sai số về kế toán hoặc sai quy tắc. Như vậy, nếu dao động bất thường lớn, kiểm toán viên phải xác định lý do của nó, nếu nguyên nhân là một sự kiện kinh tế hợp lý thì đó không phải là sai số hoặc sai quy tắc, còn ngược lại thì nó sẽ là sai số hoặc sai quy tắc. Ví dụ, khi so sánh tỷ lệ của mức dự phòng khoản phải thu khó đòi với tổng các khoản phải thu với tỷ lệ năm trước đó, giả sử tỷ lệ này đã giảm đi trong khi đó hệ số quay vòng các khoản phải thu cũng giảm đi. Tổng hợp hai mảng thông tin này sẽ chỉ rõ khả năng báo cáo dưới mức dự phòng. Khía cạnh này của thủ tục phân tích thường được gọi là sự quan tâm có định hướng vì nó dẫn đến các thể thức chi tiết hơn trong các lĩnh vực kiểm toán đặc thù mà ở đó có thể tìm thấy sai số hoặc sai quy tắc. Thủ tục phân tích giúp giảm bớt các cuộc khảo sát kiểm toán chi tiết. Khi một thể thức phân tích không làm nổi lên các dao động bất thường thì khả năng của sai số hoặc sai quy tắc là rất nhỏ. Trong các trường hợp đó, thủ tục phân tích cấu thành bằng chứng thật sự để chứng minh cho sự trình bày trung thực của các số dư tài khoản có liên quan và việc tiến hành khảo sát chi tiết các tài khoản này có thể giảm bớt. Ví dụ, các thủ tục phân tích dẫn đến các số dư của một tài khoản là nhỏ như phí bảo hiểm chưa được hưởng là thích hợp thì không cần phân tích nữa. Trong các trường hợp khác, một số thủ tục kiểm toán khác có thể được loại trừ, quy mô mẫu có thể giảm bớt hoặc thời gian của các thủ tục có thể được kéo dài hơn kể từ ngày lập Bảng cân đối tài sản. 1.1.4. Mức độ tin cậy của thủ tục phân tích Việc áp dụng thủ tục phân tích được dựa trên cơ sở mối quan hệ sẵn có của các chỉ tiêu số liệu, mối quan hệ này thường xuyên và liên tục, không có mối quan hệ giữa các chỉ tiêu số liệu thì không áp dụng được phương pháp phân tích. Sự hiện diện của các mối quan hệ nói trên sẽ cung cấp cho kiểm toán các số liệu được hệ thống kế toán xử lý một cách đồng bộ, chuẩn xác và có giá trị. Tuy nhiên, độ tin cậy vào kết quả của phương pháp phân tích còn tuỳ thuộc vào sự đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro mà trên thực tế phương pháp phân tích có thể sai lầm nghiêm trọng do xác định sai các mối quan hệ. Độ tin cậy của kiểm toán viên vào kết quả của phương pháp phân tích còn tùy thuộc vào các nhân tố sau: Tính trọng yếu của các tài khoản hoặc loại nghiệp vụ (Ví dụ: Hàng tồn kho là trọng yếu thì không chỉ dừng lại ở quy trình phân tích mà còn thực hiện một số thủ tục kiểm tra chi tiết khác trước khi kết luận. Ngược lại khoản mục nợ phải thu được coi là không trọng yếu thì có thể chỉ căn cứ vào kết quả phân tích để kết luận); Các thủ tục kiểm toán khác có cùng một mục tiêu kiểm toán (Ví dụ: Thủ tục kiểm tra nghiệp vụ thu tiền sau ngày khoá sổ của các khoản phải thu sẽ khẳng định hoặc phủ nhận kết quả của quy trình phân tích nợ phải thu theo thời hạn); Dự kiến độ chính xác của các kết quả sẽ thu được do áp dụng thủ tục phân tích (Ví dụ: Kiểm toán viên thường so sánh, phân tích tỷ lệ lãi gộp giữa năm nay với năm trước hơn là so sánh các chi phí bất thường giữa năm trước với năm nay…); Đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát (Ví dụ: Nếu việc kiểm soát nội bộ của bộ phận bán hàng là yếu kém thì nên dựa vào kiểm tra chi tiết hơn là dựa vào quy trình phân tích…). 1.2. Vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế và tính hiệu lực của cuộc kiểm toán, đồng thời để thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm căn cứ cho kết luận của kiểm toán viên về tính trung thực và hợp lý của các số liệu trên Báo cáo tài chính, cuộc kiểm toán thường được tiến hành theo trình tự ba bước: Lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán, kết thúc kiểm toán. Chất lượng của cuộc kiểm toán còn phụ thuộc vào trình độ và phán đoán của kiểm toán viên trong việc lựa chọn và ứng dụng các phương pháp kiểm toán một cách hợp lý và có hiệu quả. Trong đó, thủ tục phân tích đóng vai trò hết sức quan trọng. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 520 quy định: “Kiểm toán viên phải thực hiện quy trình phân tích khi lập kế hoạch, giai đoạn soát xét tổng thể về cuộc kiểm toán. Quy trình phân tích cũng được thực hiện ở giai đoạn khác trong quá trình kiểm toán”. 1.2.1. Vận dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán Mục tiêu: Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các kiểm toán viên cần thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như các điều kiện cần thiết khác cho kiểm toán. Trong giai đoạn này kiểm toán viên cần thu thập các thông tin cơ sở và thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300, lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên cần: Tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng đủ để nhận thức và xác định dữ kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động của đơn vị mà theo đánh giá của kiểm toán viên có thể ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo tài chính, đến việc kiểm tra của kiểm toán viên hoặc đến Báo cáo kiểm toán. Xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán trước và hồ sơ kiểm toán chung, qua đó kiểm toán viên sẽ tìm thấy những thông tin hữu ích về công việc kinh doanh của khách hàng. Việc cập nhật và xem xét sổ sách của công ty là rất cần thiết vì qua đó kiểm toán viên không chỉ xác định được các quyết định của nhà quản lý có phù hợp với luật pháp của Nhà nước, với các chính sách hiện hành của công ty hay không mà còn giúp kiểm toán viên hiểu được bản chất của các số liệu cũng như sự biến động của chúng trên Báo cáo tài chính được kiểm toán. Thu thập các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng bao gồm: Giấy phép thành lập và điều lệ công ty; các Báo cáo tài chính, Báo cáo kiểm toán, thanh tra hay kiểm tra của năm hiện hành hay của vài năm trước đó; biên bản các cuộc họp hội nghị cổ đông, hội đồng quản trị và ban giám đốc; các hợp đồng và cam kết quan trọng. Sau khi đã thu thập được các thông tin trên, kiểm toán viên tiến hành thực hiện các thủ tục phân tích đối với các thông tin đó để hỗ trợ cho việc lập kế hoạch về bản chất, thời gian và nội dung các thủ tục kiểm toán sẽ được sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán. Việc sử dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch nhằm các mục tiêu sau: Đạt được sự hiểu biết về nội dung các Báo cáo tài chính và những biến đổi quan trọng trong hoạt động kinh doanh của khách hàng. Thấy được những thay đổi về chính sách kế toán năm hiện hành so với các năm trước. Xác định các vấn đề nghi vấn về khả năng hoạt động liên tục của khách hàng. Đánh giá sự hiện diện của các sai số có thể có trên Báo cáo tài chính từ đó phát hiện ra các rủi ro, các sai sót trọng yếu nhằm thiết lập các thủ tục kiểm toán thích hợp để xử lý các rủi ro đó. Thực hiện các thủ tục phân tích sơ bộ: Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, thủ tục phân tích sơ bộ thường được tiến hành 3 bước sau: Bước 1: Thu thập các thông tin tài chính và phi tài chính Trong bước này nhiệm vụ của kiểm toán viên là cần phải thu thập đầy đủ các thông tin về khách hàng nhằm phục vụ cho việc triển khai các bước tiếp theo. Các thông tin cần thu thập bao gồm các thông tin sau: Thu thập thông tin tài chính do khách hàng lập cho kỳ kế toán hiện tại và các kỳ kế toán trước. Thu thập các số liệu kế hoạch, ngân sách, hoặc các tài liệu khác của khách hàng mà kiểm toán viên tin tưởng số liệu đó được lập trên cơ sở các giả định hợp lý. Đối với khách hàng hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau hoặc khách hàng có nhiều chi nhánh hoạt động trên nhiều địa bàn khác nhau, kiểm toán viên cần thu thập các thông tin tài chính cho từng hoạt động trọng yếu. Thu thập các thông tin phi tài chính như năng lực sản xuất, số công nhân viên… Thông tin phi tài chính chủ yếu được sử dụng để xác định sự phù hợp của số liệu trên Báo cáo tài chính của khách hàng với hiểu biết của kiểm toán viên về hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Bước 2: So sánh thông tin Sau khi đã thu thập được các thông tin tài chính và thông tin phi tài chính, kiểm toán viên tiến hành so sánh, phân tích. Mục tiêu chủ yếu của việc phân tích này là xác định các vùng có thể xảy ra rủi ro. Trong khi thực hiện so sánh, kiểm toán viên phải chú ý đến các vấn đề sau: Những biến động bất thường hoặc những số dư tài khoản lẽ ra phải có biến động bất thường nhưng không thấy xuất hiện. Ví dụ: Thông tin về nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của đơn vị trong năm lớn nhưng doanh thu trong năm của đơn vị không tăng đáng kể đặt ra nghi vấn về việc ghi chép doanh thu. Những biến động bất thường của các tài khoản có liên quan mà theo xét đoán của kiểm toán viên phải chịu ảnh hưởng từ biến động bất thường của các tài khoản khác. Ví dụ: Doanh thu trong quý I tăng mạnh nhưng số dư các tài khoản tiền hoặc các khoản phải thu lại biến động nhỏ. Xem xét mối quan hệ giữa thông tin tài chính và thông tin phi tài chính. Ví dụ: Đơn vị mở thêm đại lý tiêu thụ sản phẩm tại một số tỉnh sẽ có thể ảnh hưởng tới số dư hàng gửi bán hoặc số phát sinh chi phí bán hàng. Tuỳ thuộc vào quy mô và tính phức tạp trong hoạt động kinh doanh của khách hàng mà kiểm toán viên sẽ xác định mục tiêu và các chỉ tiêu phân tích như so sánh số biến động tuyệt đối, so sánh số liệu kỳ này với kỳ trước, so sánh số liệu thực tế với số liệu dự toán hoặc số liệu ước tính, so sánh dữ kiện của khách hàng với số liệu chung của ngành… Bước 3: Đánh giá kết quả Sau khi phân tích sơ bộ, kiểm toán viên sẽ đánh giá kết quả so sánh ban đầu để xem xét sự biến động của số dư tài khoản có phù hợp với nhận định và những hiểu biết của kiểm toán viên hay không. Trong trường hợp xảy ra những biến động lớn so với dự đoán, kiểm toán viên cần thảo luận với nhà quản lý của đơn vị và xem xét tính hợp lý của lời giải thích vế sự biến động đó. Nếu như kiểm toán viên chưa hoàn toàn thoả mãn với những bằng chứng mà mình đã thu thập được thì có thể tiến hành thêm các thủ tục phân tích ở cấp độ cao hơn nhằm mục đích làm sáng tỏ các biến động trên một tài khoản cụ thể. Phân tích ở cấp độ cao hơn có thể là so sánh thông tin năm hiện tại với các nguồn thông tin độc lập hoặc nguồn thông tin chuẩn. Sau khi đã tiến hành thực hiện các thủ tục phân tích ở cấp độ cao hơn mà vẫn có những biến động không hợp lý chưa giải thích được, kiểm toán viên cần ghi chú vấn đề này khi lập chương trình kiểm toán và nhận định sai sót tiềm tàng có thể ảnh hưởng tới số dư tài khoản. 1.2.2. Vận dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn thực hiện kiểm toán Mục tiêu: Thực hiện kiểm toán là quá trình sử dụng các phương pháp kiểm toán thích ứng với đối tượng kiểm toán cụ thể để thu thập bằng chứng kiểm toán. Đó là quá trình triển khai một cách chủ động và tích cực kế hoạch, chương trình kiểm toán nhằm đưa ra ý kiến xác thực về mức độ trung thực và hợp lý của Báo cáo tài chính trên cơ sở những bằng chứng kiểm toán đầy đủ và tin cậy. Trong giai đoạn này, thủ tục phân tích được xem như là một thử nghiệm cơ bản bên cạnh các thử nghiệm chi tiết. Việc sử dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn này nó nhằm các mục đích sau: Hiểu biết thêm hoạt động kinh doanh của khách hàng và chính sách quản lý của khách hàng. Thu thập bằng chứng kiểm toán có chất lượng, đáng tin cậy với chi phí thấp, giảm thiểu các thử nghiệm chi tiết, giảm thời gian của cuộc kiểm toán. Đánh giá các khoản mục trên Báo cáo tài chính xem có sai sót nào phát sinh gây ảnh hưởng trọng yếu đến số dư tài khoản và các nghiệp vụ phát sinh. Thực hiện thủ tục phân tích chi tiết Việc quyết định sử dụng thủ tục phân tích trong quá trình thực hiện thử nghiểm cơ bản phụ thuộc vào xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên về hiệu quả đã dự kiến và để đạt được mục tiêu kiểm toán cá biệt. Để đạt được mục đích của cuộc kiểm toán nếu không sử dụng thủ tục phân tích thì kiểm toán viên sẽ gặp khó khăn. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào thủ tục phân tích thì kiểm toán viên cũng không thể đạt được mục đích của cuộc kiểm toán. Vì vậy, kiểm toán viên thường sử dụng kết hợp giữa thủ tục phân tích và kiểm tra chi tiết số dư trong thử nghiệm cơ bản. Thông thường, thủ tục phân tích được áp dụng cho các tài khoản mà trong lập kế hoạch kiểm toán không phát hiện thấy rủi ro chi tiết và cũng đòi hỏi nhiều ở sự phán đoán của kiểm toán viên. Thực hiện thủ tục phân tích chi tiết trải qua những bước sau đây: Bước 1: Phát triển một mô hình: Với mỗi một tài khoản nó thường có một mô hình ước tính riêng. Thậm chí trong một tài khoản có nhiều khoản mục thì mỗi khoản mục nó cũng có một mô hình ước tính phù hợp với khoản mục đó vì vậy trước khi xây dựng mô hình ước tính chúng ta cần phải biết được là xây dựng mô hình ước tính cho tài khoản nào, khoản mục nào để có thể xây dựng được mô hình ước tính phù hợp với mục tiêu đặt ra. Cho nên trong bước này chúng ta cần thực hiện 2 công việc sau: Xác định số dư tài khoản, khoản mục cần kiểm tra: Xác định số dư tài khoản cần kiểm tra: Số dư tài khoản cần kiểm tra là số dư của một tài khoản hoặc một nhóm tài khoản trên Báo cáo tài chính. Việc xác định số dư tài khoản đơn lẻ hay của một nhóm tài khoản để áp dụng thủ tục phân tích chi tiết là tuỳ thuộc vào mục đích và phạm vi kiểm tra của kiểm toán viên. Phân tách số dư tài khoản, khoản mục cần kiểm tra: Sự phân tách số dư cần kiểm tra là việc chia nhỏ nó theo một số tiêu thức nhất định để áp dụng so sánh các giá trị ước tính khác nhau. Kiểm toán viên chia nhỏ số dư cần kiểm tra khi việc tính toán số ước tính cho số dư đó không hiệu quả và không đảm bảo được tính chính xác và độ tin cậy hợp lý cho kết quả kiểm tra. Nếu chia nhỏ số dư cần kiểm tra và tính toán số ước tính cho các tiểu số dư đó thì độ chính xác và độ tin cậy của số dư ban đầu được tổng hợp lại từ các tiểu số dư sẽ hợp lý hơn, đảm bảo không tồn tại sai sót báo cáo. Kiểm toàn viên thực hiện thủ tục phân tích ở mức độ nhóm số dư cao nhất có thể vì nếu thoả mãn được kết quả kiểm tra thì kiểm toán viên sẽ không phải thực hiện các bước kiểm tra tiếp theo. Các mức độ nhóm số dư từ cao đến thấp bao gồm: các khoản mục đơn lẻ trên Báo cáo tài chính, nhóm tài khoản có cùng bản chất, số dư tài khoản riêng lẻ. Việc chia nhỏ số dư cần kiểm tra sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kiểm toán, tăng độ chính xác của việc ước tính, dễ dàng giải thích sự khác biệt, tăng độ tin cậy của số liệu được phân tách và xác định được bản chất của các nghiệp vụ trong số dư được kiểm tra. Thông thường, các số dư được kiểm tra có thể được phân tách thành từ 2 đến 12 tiểu số dư. Ví dụ, khi áp dụng thủ tục phân tích đối với tài khoản doanh thu bán hàng thì kiểm toán viên có thể phân tách tài khoản này thành doanh thu nội địa và doanh thu xuất khẩu để thực hiện thủ tục phân tích. Xây dựng mô hình phân tích: Khi phát triển một mô hình, chúng ta xác định các biến tài chính hoặc hoạt động và mối quan hệ giữa chúng. Việc lựa chọn những biến cụ thể để xây dựng mô hình cần căn cứ vào mục đích cụ thể của việc áp dụng thủ tục phân tích và nguồn thông tin về các dữ liệu. Như vậy, với mỗi mô hình cần xác định rõ việc phát triển mô hình là để kiểm tra số dư tài khoản hiện tại hay để dự đoán thay đổi so với số dư năm trước. Thông thường, việc dự đoán thay đổi so với năm trước sẽ có hiệu lực khi số dư năm trước đã được kiểm toán, khi đó có thể loại khỏi mô hình những biến độc lập không đổi so với năm trước. Trong trường hợp phát triển mô hình để kiểm tra số dư tài khoản hiện tại, thì tuỳ từng trường hợp và phụ thuộc vào chỉ số tin cậy mà kiểm toán viên có thể áp dụng cả thủ tục phân tích chi tiết và thủ tục kiểm tra chi tiết. ở giai đoạn này kiểm toán viên cũng cần phải xác định sai sót tiềm tàng có liên quan tới số dư tài khoản cần kiểm tra để định hướng cách thức kiểm tra. Sự hợp lý của mô hình có liên quan tới sự tồn tại của mối quan hệ giữa số liệu sử dụng để ước tính và số dư thực tế của tài khoản cần kiểm tra. Mối quan hệ của các tài khoản phản ánh trong Báo cáo kết quả kinh doanh thường dễ ước tính hơn các tài khoản phản ánh trên Bảng cân đối kế toán. Nguyên nhân là do số liệu trên Báo cáo kết quả kinh doanh là số liệu dồn tích qua các tháng, trong khi số dư các tài khoản trên Bảng cân đối kế toán là số triệt tiêu giữa giá trị phát sinh bên Nợ và bên Có của tài khoản. Bước 2: Xem xét tính độc lập và tin cậy của dữ liệu tài chính và nghiệp vụ: Tính độc lập và tin cậy của dữ liệu tài chính và nghiệp vụ sử dụng trong mô hình có ảnh hưởng trực tiếp đến tính chính xác của các ước tính và tới bằng chứng kiểm toán thu được từ thủ tục phân tích. Để đảm bảo tính độc lập của dữ liệu cần chi tiết hoá các ước tính. Các ước tính càng chi tiết thì độ tin cậy càng cao do tính độc lập với tài khoản được ước tính tăng lên. Để đánh giá tính tin cậy của dữ liệu cần xem xét trên nhiều mặt như: Nguồn của dữ liệu: Dữ liệu có nguồn từ bên ngoài có độ tin cậy cao hơn nguồn dữ liệu từ bên trong. Với nguồn dữ liệu từ bên trong, nếu chúng độc lập với người chịu trách nhiệm cho giá trị được kiểm toán thì độ tin cậy cũng cao hơn. Tính kế thừa và phát triển của thủ tục kiểm toán dữ liệu từ những năm trước. Mở rộng phạm vi dữ liệu sử dụng. Các nguồn thông tin được sử dụng trong mô hình ước tính bao gồm: Các thông tin nội bộ khách hàng: Số liệu năm trước (Báo cáo tài chính và các báo cáo khác có liên quan) đã được kiểm toán hoặc chưa kiểm toán hoặc được kiểm toán bởi công ty khác. Số liệu tài chính năm nay (Báo cáo tài chính và các báo cáo khác có liên quan). Kế hoạch tài chính. Các số liệu phi tài chính khác. Các thông tin cung cấp từ bên ngoài: Các quy định tài chính của Nhà nước: các Nghị định, thông tư hướng dẫn…, tỷ giá ngoại tệ, chỉ số giá tiêu dùng, các thông tin thị trường… Các quy định trong nội bộ ngành: Quy chế tài chính ngành, quy chế tiền lương ngành, quy chế sử dụng và phân phối các quỹ trong ngành… Bước 3: Ước tính giá trị và so sánh với giá trị ghi sổ: Số ước tính kiểm toán là số do kiểm toán viên xác định dựa vào bước thu thập thông tin ở giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán đối với tài khoản cần kiểm tra. Số ước tính của kiểm toán viên có ý nghĩa rất quan trọng giúp kiểm toán viên đưa ra những nhận xét chính xác đối với số kiểm toán. Để tính toán giá trị ước tính, kiểm toán viên cần xác định mô hình ước tính, đó là cơ chế mà kiểm toán viên áp dụng để ước tính cho số dư tài khoản cần kiểm tra. Điểm quan trọng nhất của mô hình ước tính là độ tin cậy của thông tin sử dụng để ước tính (đã nêu ở Bước 2). Trong bước này chúng ta cần phải giải quyết 3 vấn đề là ước tính giá trị, xác định số chênh lệch có thể chấp nhận được và xác định chênh lệch trọng yếu cần kiểm tra. Ước tính giá trị Khi tính toán giá trị ước tính, kiểm toán viên cần làm việc với khách hàng để xác định các yếu tố kinh doanh cơ bản có ảnh hưởng tới sự biến động của số dư tài khoản nhằm tìm ra các số liệu có liên quan hợp lý và khả năng ước tính của các mối quan hệ về số liệu. Sự hiểu biết chung về hoạt động kinh doanh và tình hình kinh tế cũng giúp kiểm toán viên xác định được tính hợp lý và khả năng ước tính của các mối quan hệ về số liệu này. Mối quan hệ giữa các số liệu sử dụng để tính toán giá trị ước tính được chia làm 4 loại sau: Số dư năm trước biến động hợp lý dẫn đến số dư năm nay. Mối quan hệ với các số liệu tài chính khác. Mối quan hệ với các số liệu phi tài chính khác. Sự biến động giữa các số kế hoạch với số thực tế. Xác định số chênh lệch có thể chấp nhận được (Threshold) Sau khi đã tính toán được giá trị ước tính, kiểm toán viên sẽ so sánh chúng với giá trị ghi sổ của một tài khoản hoặc khoản mục cần kiểm tra. Chênh lệch giữa giá trị ước tính và giá trị ghi sổ sẽ được dùng để đánh giá mức độ trọng yếu của số dư tài khoản. Điều này có liên quan tới một khái niệm khác là “chênh lệch có thể chấp nhận được (Threshold)”. Số chênh lệch chấp nhận được thể hiện số chênh lệch tối đa có thể chấp nhận được giữa số ước tính của kiểm toán viên và giá trị ghi sổ của một tài khoản hoặc khoản mục được kiểm tra. Như vậy Threshold cần được tính toán trước khi kiểm toán viên xem xét phân tích số chênh lệch giữa giá trị ước tính và giá trị ghi sổ. Threshold thường là đủ nhỏ để giúp cho kiểm toán viên tìm ra các sai sót của báo cáo có thể coi là trọng yếu với một tiểu số dư hoặc khi nhóm các sai sót lại theo mức số dư, khoản mục được kiểm tra. Vì vậy, nếu số chênh lệch giữa giá trị ước tính của kiểm toán viên và giá trị ghi sổ của tài khoản nhỏ hơn Threshold thì kiểm toán viên không cần kiểm tra thêm. Ngược lại, nếu lớn hơn thì kiểm toán viên cần làm rõ nguyên nhân gây ra số chênh lệch đó vì nó chỉ ra rằng số dư đang được kiểm tra có thể tồn tại sai sót hoặc rủi ro ảnh hưởng tới số liệu trên Báo cáo tài chính. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc tính toán Threshold: Giá trị trọng yếu chi tiết (MP). Trong giai đoạn lập kế hoạch, kiểm toán viên tính được giá trị trọng yếu chi tiết dựa trên mức độ trọng yếu (PM). Giữa PM và MP tồn tại mối quan hệ tỷ lệ thuận vì giá trị trọng yếu chi tiết MP thường chiếm khoảng từ 80% đến 90% mức độ trọng yếu PM. Mức độ trọng yếu thường được xác định như sau: 2% tổng tài sản hoặc nguồn vốn chủ sở hữu. 10% thu nhập sau thuế từ hoạt động sản xuất kinh doanh. 3% xuống 0,5% doanh thu (căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp). Bảng số 1.2: Căn cứ xác định mức độ trọng yếu theo doanh thu Doanh thu (USD) Mức xác định (bằng % của doanh thu) Tới 500.000 4 600.000 3,5 700.000 3,2 800.000 3 900.000 2,5 1.000.000 2 2.000.000 1,5 6.000.000 1 10.000.000 0,8 50.000.000 0,7 300.000.000 0,6 Trên 1.000.000.000 0,5 Chỉ số về độ tin cậy. Thủ tục phân tích được sử dụng khi mức độ tin cậy vào khoản mục được kiểm toán đạt ở mức độ cơ bản (R=0,7). Trong trường hợp chỉ số về độ tin cậy đạt ở mức độ trung bình (R=2.0), nghĩa là kết quả kiểm tra của kiểm toán viên cần phải đạt ở mức độ chính xác hơn với mức Threshold nhỏ hơn. Vì vậy, khả năng số chênh lệch giữa giá trị ước tính và số dư thực tế lớn hơn Threshold sẽ dễ xảy ra. Nói cách khác, việc kiểm tra sẽ mất nhiều thời gian hơn và kết quả kiểm tra sẽ kém hiệu quả hơn. Số lượng các tiểu số dư (phần phân tách) trong số dư được kiểm tra. Số lượng các tiểu số dư càng nhiều thì giá trị của Threshold áp dụng cho mỗi tiểu số dư càng nhỏ. Mục đích của việc phân tách một số dư lớn thành nhiều những phần nhỏ hơn là giúp cho kiểm toán viên có thể tính toán số ước tính chính xác hơn, từ đó sẽ tăng được độ tin cậy đối với số dư cần kiểm tra khi nhóm các mức độ tin cậy đạt được thông qua kiểm tra và phân tích các tiểu số dư. Các số dư cần kiểm tra là nhỏ. Yếu tố này liên quan tới việc kiểm tra các số dư chỉ lớn hơn giá trị MP không nhiều, hoặc nhỏ hơn. Đối với trường hợp này thì Threshold sẽ được tính, tùy theo chỉ số về độ tin cậy áp dụng, bằng 15% hoặc 20% giá trị số dư được kiểm tra. Tính chính xác của số ước tính. Tính chính xác của số ước tính liên quan tới sự thoả mãn của kiểm toán viên đối với mối quan hệ giữa thông tin sử dụng trong việc tính toán số ước tính và giá trị ghi sổ của tài khoản được kiểm tra. Trong quá trình đánh giá mối quan hệ này, kiểm toán viên cần xem xét đến tính hợp lý và khả năng dự tính của nguồn thông tin được sử dụng, độ lớn của số dư được kiểm tra, và số lượng tiểu số dư được phân tách. Về cơ bản, Threshold luôn được đặt ở mức độ nhỏ hơn MP và có xu hướng nhỏ hơn khi kiểm toán viên đòi hỏi mức độ tin cậy cao hơn, phân tách nhỏ số dư cần kiểm tra, hoặc kiểm toán viên tin tưởng rằng số ước tính được lập ra là chính xác. Bảng số 1.3: Tính giá trị Threshold Số lượng tiểu số dư được phân tách Độ tin cậy vào khoản mục được kiểm tra là cơ bản (R=0,7) Độ tin cậy vào khoản mục được kiểm tra là trung bình (R=2.0) Giá trị Threshold (% của MP) Nếu giá trị tiểu số dư lớn hơn MP nhân với Giá trị Threshold (% của MP) Nếu giá trị tiểu số dư lớn hơn MP nhân với 1 90.0% 4.50 45.0% 3.00 2 85.0% 4.25 40.0% 2.67 4 75.0% 3.75 35.0% 2.33 6 65.0% 3.25 30.0% 2.00 12 50.0% 2.50 25.0% 1.6667 Lớn hơn 12 40.0% 2.0 20.0% 1.3333 Nếu giá trị tiểu số dư (số dư) nhỏ hơn MP nhân với giá trị tương ứng ở bảng thì giá trị Threshold sẽ được tính như sau: Nếu R = 0.7 Threshold = Tiểu số dư (số dư) x 20% Nếu R = 2.0 Threshold = Tiểu số dư (số dư) x 15% Xác định chênh lệch trọng yếu cần kiểm tra. Sau khi tính toán được giá trị Threshold, kiểm toán viên sẽ so sánh giá trị ước tính và giá trị ghi sổ của số dư tài khoản cần kiểm tra rồi so sánh số chênh lệch với threshold. Nếu số chênh lệch lớn hơn giá trị Threshold tính được thì được coi là chênh lệch trọng yếu. Kiểm toán viên cần quan tâm đến số chênh lệch trọng yếu vì nó là một yếu tố cho biết có thể có sai sót tồn tại trong số dư đang được kiểm tra. Trong trường hợp này, cần xác định và kiểm tra bản chất và nguyên nhân dẫn đến số chênh lệch trọng yếu đó. Các bằng chứng mà kiểm toán viên thu thập được nhằm giải thích cho số chênh lệch trọng yếu cần phải được lượng hoá bằng giá trị số liệu cụ thể. Khi thu thập bằng chứng cho số chênh lệch trọng yếu, cần xác định bằng chứng cho toàn bộ số chênh lệch chứ không chỉ riêng cho phần chênh lệch vượt quá Threshold. Theo đó cần lượng hoá bằng giá trị để giải thích số chênh lệch. Trường hợp kiểm toán viên chỉ tìm được bằng chứng có thể lượng hoá cho phần chênh lệch vượt quá Threshold thì phần còn lại, nếu nhỏ hơn Threshold và kiểm toán viên cảm thấy yên tâm và chấp nhận số chênh lệch nhỏ hơn Threshold đó, thì kiểm toán viên có thể kết luận về số dư được kiểm tra mà không cần thực hiện thêm các bước kiểm tra khác. Bước 4: Phân tích nguyên nhân chênh lệch Khi xác định được số chênh lệch giữa giá trị ước tính và giá trị ghi sổ lớn hơn Threshold, kiểm toán viên cần tiến hành thêm các bước phân tích và kiểm tra để giải thích cho sự chênh lệch đó. Sự giải thích hợp lý cho sự chênh lệch gắn liền với các nghiệp vụ, với các sự kiện bất thường hoặc những thay đổi về kinh doanh và chính sách kế toán. Sự tham gia của khách hàng trong giai đoạn này là hết sức quan trọng, giúp cho kiểm toán viên thực hiện công việc được mau chóng và hiệu quả vì chính khách hàng là những người hiểu rõ nhất những thay đổi đó có hợp lý và phù hợp với tình hình kinh doanh của mình hay không. Kiểm toán viên có thể tìm kiếm sự giải thích hợp lý thông qua việc xem xét các yếu tố sau: Sự ghi chép đầy đủ số dư các tài khoản khác của khách hàng. Báo cáo của khách hàng về những biến động giữa số kế hoạch và số thực hiện. Dựa trên sự giải thích có được khi lập kế hoạch kiểm toán và phân tích sơ bộ. Biên bản họp Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Thông tin về sự biến động bất thường của các khoản mục đã được xác định từ năm trước. Kiểm toán viên cần hợp lý hoá số chênh lệch trọng yếu bằng cách thu thập các bằng chứng đáng tin cậy. Các thủ tục mà kiểm toán viên áp dụng để hợp lý hoá giải thích sẽ phụ thuộc vào bản chất của sự giải thích. Một trong những cách hiệu quả cho việc đưa ra bằng chứng hợp lý hoá sự giải thích là kiểm tra chi tiết chứng từ kế toán có liên quan. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi số chênh lệch trọng yếu bị gây bởi các nghiệp vụ kế toán phát sinh bất thường nằm ngoài sự hiểu biết của kiểm toán viên. Ngoài ra kiểm toán viên có thể áp dụng các cách sau để thu thập bằng chứng cho sự giải thích hợp lý là: Tìm kiếm thông tin từ bên thứ ba (các tổ chức, cá nhân…) có quan hệ với khách hàng. Tìm kiếm và đối chiếu thông tin thu thập được từ các cá nhân khác nhau trong khách hàng. Dựa vào bằng chứng thu thập được qua việc thực hiện các thủ tục kiểm toán khác. Sau cùng là kiểm toán viên cần lượng hoá cho sự giải thích hợp lý bằng giá trị cụ thể cho số chênh lệch qua đó có thể phát hiện được sai sót. Đồng thời lượng hoá cho sự giải thích có thể giúp kiểm toán viên đánh giá lại số chênh lệch trọng yếu, khi số chênh lệch này nhỏ hơn Threshold thì có thể bỏ qua các bước kiểm tra tiếp theo. Trong quá trình lượng hoá nếu kiểm toán viên tìm thấy các yếu tố gây ảnh hưởng tới sự chênh lệch mà cần được xem xét khi tính toán số ước tính thì kiểm toán viên có thể tính lại số ước tính và so sánh lại giá trị ghi sổ của số dư tài khoản được kiểm tra. Tuy nhiên kiểm toán viên cần thận trọng khi bổ sung các yếu tố ảnh hưởng cho mô hình ước tính bằng cách soát xét lại giá trị Threshold và cân nhắc tính chính xác của nó trong mô hình mới. Ngoài ra kiểm toán viên cũng phải xem xét lại số lượng các tiểu số dư được chia nhỏ liệu có còn hiệu quả không khi áp dụng mô hình ước tính mới. Bước 5: Xem xét những phát hiện qua kiểm toán Bằng chứng kiểm toán thu thập được từ thủ tục phân tích chi tiết cần được đánh giá lại do những phát hiện qua thủ tục phân tích chi tiết không chỉ bao gồm những sai sót trong tài khoản mà cả những quan sát hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ thống thông tin và những vấn đề khác. Do vậy, mọi chênh lệch được phát hiện trong thủ tục phân tích cần được điều tra về tính chất và nguyên nhân cả về cơ sở dẫn liệu, cả về mục tiêu kiểm toán và cả tình hình kinh doanh của khách hàng. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 520 quy định: “Trường hợp quy trình phân tích phát hiện được những chênh lệch trọng yếu hoặc mối liên hệ không hợp lý giữa các thông tin tương ứng hoặc có chênh lệch lớn so với dự tính, kiểm toán viên phải thực hiện các thủ tục điều tra để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp”. Kiểm toán viên cần xem xét đến các sai sót định lượng được và các giá trị chênh lệch chưa giải thích được nhằm tìm ra các sai sót định lượng được và không định lượng được phát sinh từ các sai sót đó. Trong trường hợp những sai sót này ảnh hưởng trọng yếu tới Báo cáo tài chính thì kiểm toán viên cần thảo luận với Ban quản lý của khách hàng để điều chỉnh hoặc tiến hành các thủ tục kiểm toán thay thế để đạt được độ tin cậy cần thiết cho số dư tài khoản cần kiểm tra. Việc tiến hành các thủ tục kiểm toán thay thế đồng thời cũng làm tăng tính hiệu quả của thủ tục phân tích chi tiết. Nếu như vẫn không có được sự giải thích hợp lý cho các sai sót ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo tài chính thì kiểm toán viên có thể xem xét đến sự gian lận số dư tài khoản ở đây. Về tổng quát nếu kiểm toán viên xét thấy việc áp dụng mô hình ước tính đạt hiệu quả và độ chính xác cao thì có thể kết luận rằng kết quả của thủ tục phân tích chi tiết là đáng tin cậy. Ngược lại nếu phát hiện thấy những rủi ro và yếu kém trong hệ thống kiểm soát nội bộ mà khi lập kế hoạch kiểm toán viên chưa phát hiện ra thì cần phải hoài nghi về độ tin cậy của số liệu được sử dụng trong mô hình ước tính. Do đó kiểm toán viên phải tiến hành kiểm tra chi tiết nhằm tăng cường mức độ tin cậy cũng như bổ sung thêm các thủ tục kiểm tra cần thiết khác. Khi xử lý các sai sót phát hiện được thì kiểm toán viên cần chú ý đối với những sai sót định lượng được, kiểm toán viên cần xác định các tài khoản bị ảnh hưởng bởi sai sót, thu thập bằng chứng để giải thích cho sự tồn tại của các sai sót sau đó lượng hoá chúng và xem xét ảnh hưởng tới Báo cáo tài chính. Sự thảo luận với Ban quản lý khách hàng là cần thiết để thống nhất việc điều chỉnh. Các bút toán điều chỉnh cần phải lưu vào file kiểm toán để phục vụ cho việc đánh giá tổng quát số liệu. Còn đối với các sai sót không định lượng được cũng cần lưu vào file để xem xét ảnh hưởng tổng thể của các sai sót. Thông thường kiểm toán viên không điều chỉnh các sai sót không định lượng được. 1.2.3. Vận dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn kết thúc cuộc kiểm toán Mục tiêu Kết thúc kiểm toán là giai đoạn cuối cùng của một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính. Trong giai đoạn này, nhiệm vụ của kiểm toán viên là soát xét lại toàn bộ kết quả thu được trong quá trình kiểm toán để đưa ra ý kiến nhận xét về Báo cáo tài chính của đơn vị khách hàng phù hợp với những hiểu biết của kiểm toán viên. Để thực hiện mục tiêu này, kiểm toán viên thường tiến hành thủ tục phân tích soát xét để đánh giá tính đồng bộ và tính xác thực của các khoản mục trên Báo cáo tài chính cũng như mọi biến động bất thường của các thông tin này so với số liệu của doanh nghiệp, số liệu kế hoạch, số liệu năm trước, số liệu bình quân ngành, các thông tin tài chính và phi tài chính khác có liên quan. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam quy định: “Trong giai đoạn soát xét tổng thể cuộc kiểm toán, kiểm toán viên phải áp dụng quy trình phân tích để có kết luận tổng quát về sự phù hợp trên các khía cạnh trọng yếu của Báo cáo tài chính với những hiểu biết của mình về tình hình kinh doanh của đơn vị. Quy trình phân tích giúp kiểm toán viên khẳng định lại những kết luận có được trong suốt quá trình kiểm tra các tài khoản hoặc các khoản mục trên Báo cáo tài chính. Trên cơ sở đó, giúp kiểm toán viên đưa ra kết luận tổng quát về tính trung thực, hợp lý của toàn bộ Báo cáo tài chính”. Như vậy thủ tục phân tích trong giai đoạn này giúp kiểm toán viên đánh giá sự hợp lý về mặt tổng thể của Báo cáo tài chính, của từng khoản mục. Ngoài ra nó còn giúp kiểm toán viên phát hiện những vấn đề chưa hợp lý, những lĩnh vực cần phải kiểm tra thêm. Thực hiện thủ tục phân tích soát xét Về bản chất, thủ tục phân tích soát xét tương tự như thủ tục phân tích sơ bộ nhưng mục tiêu của chúng thì lại hoàn toàn khác nhau. Thủ tục phân tích soát xét là để khẳng định những thay đổi trên Báo cáo tài chính là hoàn toàn phù hợp với hiểu biết của kiểm toán viên về khách hàng, phù hợp với bằng chứng mà kiểm toán viên thu thập được trong quá trình kiểm toán và bảo đảm tất cả các thay đổi đều có thể giải thích thoả đáng. Thủ tục phân tích soát xét trong giai đoạn kết thúc kiểm toán được thực hiện qua hai bước: Bước 1: So sánh thông tin Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, cơ sở để tiến hành so sánh là số liệu của năm nay so với số liệu của năm trước. Còn trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên sẽ so sánh kết quả được kiểm toán của năm nay so với năm trước (số liệu sau điều chỉnh). Từ đó kiểm tra xem liệu tất cả thay đổi đã được giải thích thoả đáng chưa, nếu chưa thì những thủ tục kiểm toán cần thiết tiếp theo là gì. Cũng tương tự như thủ tục phân tích sơ bộ, phân tích soát xét cũng sử dụng phân tích ngang và phân tích tỷ suất. Bước 2: Phân tích kết quả Căn cứ để tiến hành phân tích soát xét là dựa trên hiểu biết của kiểm toán viên về khách hàng và những bằng chứng mà kiểm toán viên thu thập được trong quá trình kiểm toán. Đối với những thay đổi đã được giải thích thoả đáng và không có sai sót trọng yếu thì có thể bỏ qua. Còn đối với những thay đổi mà không tìm được giải thích thoả đáng thì cần tiến hành các thủ tục kiểm toán bổ sung. ở đây kiểm toán viên nên tập trung vào những tài khoản đã xác định mức độ rủi ro lớn ở phần lập kế hoạch kiểm toán. Chương II: Thực tế vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán việt nam 2.1. Đặc điểm của công ty Kiểm toán Việt nam ảnh hưởng tới việc thực hiện thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính 2.1.1. Sự ra đời và phát triển của công ty Kiểm toán Việt nam Công ty Kiểm toán Việt Nam, tên giao dịch quốc tế là Vietnam Auditing Company (VACO) được thành lập theo quyết định số 165/TC/QĐ/TCCB ngày 13/5/1991 của Bộ Tài chính. Khi mới thành lập VACO chỉ có văn phòng chính tại Hà nội với số lượng cán bộ nhân viên là 9 người song VACO cũng đã thực hiện cung cấp các dịch vụ kiểm toán và kế toán cho khách hàng có nhu cầu. Các năm tiếp sau,VACO mở rộng dần quy mô và lĩnh vực hoạt động của mình bằng việc mở 2 chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, đồng thời tăng số lượng nhân viên của mình lên 54 người vào năm 1993. Bên cạnh đó, ngay từ 2 năm đầu kể từ khi thành lập, VACO là công ty kiểm toán đầu tiên của Việt Nam đã sớm hoà nhập và bắt tay hợp tác kinh doanh với các hãng kiểm toán lớn trên thế giới như: Deloitte Touche Tohmatsu (DTT), Anthur Andersen(A.A), Price waterhouse cooper (P.W.C), KPMG, Ernst and Young (E&Y) nhằm tiếp thu những kiến thức kiểm toán quốc tế, kỹ thuật, phương pháp và kinh nghiệm kiểm toán của thế giới. Đồng thời VACO cũng là chiếc cầu giúp cho các hãng kiểm toán lớn tiếp cận và hiểu được môi trường kinh doanh ở Việt Nam cũng như hệ thống pháp luật của Việt Nam. Trên cơ sở hợp tác kinh doanh đó, tháng 4/1995 VACO đã liên doanh với DTT thành lập liên doanh VACO-DTT đánh dấu bước phát triển mới của ngành kiểm toán Việt Nam, điều này giúp VACO có điều kiện tiếp cận một cách đầy đủ và có hệ thống quy trình kiểm toán tiên tiến của thế giới. Cũng trong năm này, theo chủ trương của Bộ Tài chính hai chi nhánh của VACO tại thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đã tách ra thành hai công ty độc lập là công ty Kiểm toán và tư vấn (A&C) và công ty Kiểm toán Đà Nẵng (DACO). Trên nền tảng là chi nhánh của VACO tách ra, cho đến nay hai công ty này đang hoạt động rất hiệu quả. Đến năm 1996, chi nhánh của VACO tại thành phố Hồ Chí Minh được tái thành lập và không ngừng phát triển, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động của VACO. Cũng trong năm này chi nhánh tại Hải Phòng được thành lập và đến tháng 4 năm 2004 chi nhánh tại Miền trung cũng đã được thành lập, điều này cho thấy sự lớn mạnh không ngừng của VACO nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Sau hai năm hoạt động dưới hình thức liên doanh, với một quy trình kiểm toán đã được chuyển giao và sửa đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam cùng với một đội ngũ nhân viên ngang tầm với các hãng kiểm toán quốc tế, từ tháng 10/1997 DTT đã chính thức công nhận VACO với đại diện là phòng dịch vụ quốc tế là thành viên của DTT là đại diện hợp pháp duy nhất của DTT tại Việt Nam. Điều này đã đưa VACO trở thành công ty kiểm toán đầu tiên của Việt Nam đạt trình độ quốc tế và đánh dấu bước phát triển mới của VACO nói riêng và ngành kiểm toán độc lập ở Việt Nam nói chung. Việc tổ chức quản lý của VACO - thành viên của DTT đã tạo điều kiện cho VACO khai thác tối đa những trợ giúp của DTT về chuyển giao kỹ thuật kiểm toán và quản lý quốc tế, về chuyên môn, tài liệu. Đồng thời, DTT đã trợ giúp đào tạo đội ngũ nhân viên Việt Nam một cách có hệ thống về kiểm toán và kế toán quốc tế, giúp VACO đưa vào sử dụng hệ thống phương pháp kiểm toán AS/2 (Auditing System /2) và chuẩn mực phục vụ khách hàng của DTT. Hiện nay với 8 phòng nghiệp vụ tại Hà Nội gồm phòng nghiệp vụ I, II, III, phòng Kiểm toán xây dựng cơ bản, phòng dịch vụ quốc tế I, phòng dịch vụ quốc tế II và đào tạo, phòng dịch vụ quốc tế III, phòng Tư vấn thực hiện các chức năng kiểm toán và tư vấn cùng với 3 chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Miền trung đã đưa hoạt động cung cấp dịch vụ kiểm toán, tư vấn tài chính, thuế, … của VACO trải dài trên 61 tỉnh thành trong cả nước. Cùng với sự mở rộng các phòng ban, chi nhánh là sự tăng lên về số lượng lao động của VACO. Biểu đồ dưới đây sẽ phản ánh sự tăng trưởng số lượng lao động của công ty. Sơ đồ 2.1: Qui mô lao động của VACO qua các năm VACO là công ty chuyên ngành cung cấp các loại dịch vụ về kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp, báo cáo tài chính dự án quốc tế, tư vấn kế toán, thuế, kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình xây dựng cơ bản,… Với phương châm hoạt động: “Luôn cung cấp mọi dịch vụ mà khách hàng cần chứ không chỉ những dịch vụ đã có, với chất lượng cao vượt trên sự mong đợi của khách hàng và nhân viên trong công ty”, trong nhiều năm qua công ty đã không ngừng mở rộng các loại hình dịch vụ cả về số lượng cả về chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường. Trong các dịch vụ trên, dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính chiếm tỷ trọng lớn nhất sau đó đến dịch vụ tư vấn, dịch vụ kiểm toán xây dựng cơ bản và còn lại là các dịch vụ khác. - Kiểm toán Báo cáo tài chính: 88,9% - Tư vấn thuế, tài chính: 8,6% - Dịch vụ kiểm toán XDCB: 2% - Các dịch vụ khác: 0,5% Sơ đồ 2.2: Cơ cấu doanh thu theo loại hình dịch vụ năm 2004 Sau hơn 14 năm đi vào hoạt động với những nỗ lực không ngừng của tập thể cán bộ nhân viên toàn công ty và từng thành viên Ban giám đốc, công ty đã khẳng định vị thế của mình trên thị trường Việt Nam với sự tăng trưởng doanh thu ngày càng cao qua các năm. Bảng số 2.1: Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của VACO Chỉ tiêu Đơn vị 1991 1995 2000 2003 2004 KH2005 Hợp đồng HĐ 6 235 500 674 758 850 Doanh thu Tỷ đ 0,46 4,43 24.75 47 52 55 Để ghi nhận những kết quả công ty đã đạt được, Nhà nước đã nhiều lần tặng bằng khen và nhiều giải thưởng: Chính phủ tặng Bằng khen năm 1999 Bộ tài chính tặng Bằng khen từ năm 1994 đến năm 1998 Bộ công an tặng Bằng khen năm 1999 Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng ba năm 2000 UBND Thành phố Hà nội tặng Bằng khen năm 2002 Đạt danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh từ năm 1992 đến năm 2004 Vào năm 2003, Công ty đã vinh dự đón nhận giải thưởng “Sao vàng đất việt”. Một trong những nhân tố tạo nên những kết quả như ngày nay của VACO chính là đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp của mình. Kể từ khi thành lập đến nay, mục tiêu đào tạo và phát triển nhân viên luôn được VACO coi là mục tiêu chiến lược và coi đó là chiến lược đầu tư cho tương lai. Hiện nay với tổng số cán bộ nhân viên của VACO là 379 người, trong đó có 12 nhân viên tham gia chương trình phát triển nghề nghiệp toàn cầu tại Mỹ trong 2 năm, 95 người được cấp chứng chỉ kiểm toán viên quốc gia (CPA) chiếm 20% tổng số CPA cả nước, trên 50% số nhân viên đã được đào tạo dài hạn và ngắn hạn về kế toán và kiểm toán tại nước ngoài, có số lượng kiểm toán viên quốc tế lớn nhất trong số các công ty kiểm toán ở Việt Nam (23 người có chứng chỉ CPA quốc tế, 12 người có chứng chỉ ACCA), 4% nhân viên có bằng thạc sỹ trong nước và quốc tế, 10% số nhân viên đã và đang học chương trình ACCA, 95% số nhân viên có trình độ đại học trở lên và sử dụng thành thạo máy vi tính trong công việc, 35% số nhân viên có 2 bằng đại học trở lên và 90% số nhân viên sử dụng thành thạo ngoại ngữ trong công việc. Có thể thấy trình độ của đội ngũ nhân viên của VACO là rất cao, là nhân tố quan trọng tạo nên những thành công của VACO như ngày hôm nay. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty Kiểm toán Việt Nam Tổ chức bộ máy quản lý của VACO được thiết kế và thực hiện theo mô hình trực tuyến (Sơ đồ 2.3). Với mô hình như trên, Ban lãnh đạo công ty có quyền chỉ đạo, điều hành trực tiếp đối với các phòng cấp dưới. Mọi hoạt động của nhân viên các phòng đều trực tiếp nhận lệnh và sự phân công của người lãnh đạo. Đứng đầu công ty là Giám đốc. Giúp việc cho Giám đốc là 5 phó Giám đốc trực tiếp phụ trách 8 phòng nghiệp vụ và 3 chi nhánh của công ty. Giám đốc công ty là người đại diện toàn quyền của công ty. Đó là người có trách nhiệm điều hành toàn bộ hoạt động của công ty. Tại VACO, Giám đốc chịu trách nhiệm quản lý tài chính và nhân sự là chủ yếu. Ngoài ra, Giám đốc còn trực tiếp phụ trách phòng tư vấn, chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh và một bộ phận phòng Hành chính tổng hợp. Hiện nay, các Phó Giám đốc theo sự phân công của Giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của công ty: 1 Phó Giám đốc phụ trách Phòng nghiệp vụ I và III. 1 Phó Giám đốc phụ trách Phòng nghiệp vụ II, Phòng ISD3, Phòng kiểm toán xây dựng cơ bản và chi nhánh Miền trung. 1 Phó Giám đốc phụ trách Phòng ISD1. 1 Phó Giám đốc phụ trách Phòng ISD2, Phòng hành chính tổng hợp và chi nhánh Hải phòng. 1 Phó Giám đốc phụ trách Phòng tư vấn và giải pháp. Ban Giám đốc công ty có quyền trực tiếp ký kết hợp đồng hoặc uỷ quyền cho những người có trách nhiệm căn cứ vào giá trị hợp đồng và tính chất của hợp đồng. Giám đốc có quyền quyết định cuối cùng đối với công tác lập và luân chuyển chứng từ trong suốt quá trình hoạt động của công ty. Các phòng trong công ty được phân chia về mặt quản lý hành chính, tạo điều kiện cho công tác quản lý và phân công công việc. Mỗi phòng đều có chức năng và nhiệm vụ thực hiện hoạt động dịch vụ kiểm toán tương tự nhau nhưng loại hình dịch vụ và mạng lưới khách hàng có sự khác nhau. Phòng nghiệp vụ I, II, III, có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các dự án.Tại phòng nghiệp vụ I, Tổng công ty Xi măng; rượu bia; thuốc lá là những khách hàng chủ yếu. Phòng nghiệp vụ II chuyên về kiểm toán tại Tổng công ty Hàng không. Tổng công ty Bưu chính viễn thông và Tổng công ty Than là những khách hàng thường xuyên của công ty do phòng nghiệp vụ III thực hiện kiểm toán. Giám đốc P. Giám đốc P. Giám đốc P. Giám đốc P. Giám đốc P. Giám đốc Phòng NV 3 Phòng ISD 3 Phòng tư vấn Phòng tư vấn Phòng NV 1 Phòng NV 2 Phòng ISD 1 Phòng HCTH Phòng K’T XDCB Phòng ISD 2 & Đào tạo Chi nhánh Hải Phòng Chi nhánh Miền Trung Chi nhánh TP HCM Sơ đồ 2.3: Bộ máy tổ chức và quản lý của công ty Phòng kiểm toán xây dựng cơ bản có chức năng kiểm toán các công trình xây dựng cơ bản của Nhà nước và các doanh nghiệp. Dịch vụ này chỉ mang tính hỗ trợ bởi phí kiểm toán tương đối thấp. Phòng tư vấn và giải pháp chuyên làm tư vấn về thuế, về giải pháp kinh doanh, tư vấn về tài chính doanh nghiệp và về quản trị nói chung. Bộ phận thông tin là một bộ phận trực thuộc phòng này. Phòng dịch vụ quốc tế (ISD) – thành viên của DTT có chức năng thực hiện dịch vụ kiểm toán dưới tên hãng DTT cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các dự án quốc tế và các Tổng công ty lớn có vay vốn của World Bank và các Tổng công ty lớn khác. Cụ thể phòng ISD 1 kiểm toán khối dịch vụ, khách sạn; phòng ISD 2 kiểm toán khối sản xuất; phòng ISD 3 kiểm toán các dự án quốc tế. Sự phân chia các phòng như trên tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý trong công ty, nhất là một công ty có đặc điểm đặc thù, vừa là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính vừa là công ty kiểm toán thực hiện hoạt động kiểm toán độc lập theo quy trình quốc tế. Đặc biệt, khi triển khai hoạt động kiểm toán tại một Tổng công ty lớn, công ty có thể lập nhóm kiểm toán với các thành viên được huy động từ các phòng khác nhau. Đây cũng là một lợi thế rất lớn cho công ty khi thiếu nhân viên thực hiện kiểm toán bởi các nhân viên đều được trang bị những kiến thức lý luận và thực hành kiểm toán căn bản như nhau. Các phòng khi thực hiện các cuộc kiểm toán đều phải có sắp xếp kế hoạch để tạo điều kiện cho việc phê chuẩn, ký nhận các chứng từ về những khoản phí hợp lý, hợp lệ cho cuộc kiểm toán. Mặc dù với tư cách là công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán hoạt động kế toán của đơn vị khác nhưng công ty, cụ thể là các phòng nghiệp vụ cũng bảo đảm sự luân chuyển và giá trị hợp pháp của các chứng từ liên quan đến hoạt động kiểm toán và hoạt động chung của công ty. Ngoài ra, để tăng cường công tác quản lý, 2 phòng chức năng là phòng đào tạo và phòng hành chính tổng hợp được thiết lập để thực hiện chức năng đào tạo và quản lý nhân sự, kế toán và hành chính nói chung. Phòng đào tạo không chỉ tiến hành công tác đào tạo nội bộ, đào tạo bên ngoài (khi có nhu cầu) mà còn kiểm toán báo cáo tài chính chung với các hãng khác hay các công ty thuộc lĩnh vực tài chính như bảo hiểm. Công tác hành chính, quản trị, văn thư và kế toán của công ty được quản lý tại Phòng hành chính tổng hợp. Như vậy, mô hình quản lý trực tuyến theo nghiệp vụ và chức năng của công ty được thiết kế tương đối gọn nhẹ, quy mô vừa. Các chi nhánh của công ty VACO tại thành phố Hồ Chí Minh, Hải phòng và Miền trung cũng được tổ chức theo mô hình quản lý tương tự. Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh chịu sự quản lý trực tiếp của Giám đốc công ty. Chi nhánh thành phố Hải Phòng và Miền trung do một phó Giám đốc điều hành. Các chi nhánh được trực tiếp ký kết hợp đồng trên cơ sở uỷ quyền của Giám đốc công ty. Điều này tạo quyền chủ động cho các chi nhánh mà vẫn bảo đảm sự giám sát, kiểm tra của cấp trên thông qua những chứng từ cụ thể như giấy uỷ quyền, hợp đồng kinh tế, v.v… Ngoài ra, một bộ phận không kém phần quan trọng trong bộ máy quản lý của công ty, đó là Hội đồng tư vấn DTT. Một nhóm nhân viên có trình độ tương xứng có trách nhiệm kiểm tra, soát xét chất lượng kiểm toán thông qua Báo cáo kiểm toán và file kiểm toán. Thường niên, các chuyên gia của DTT đồng thời thực hiện công tác kiểm soát chất lượng trước, trong và sau khi kiểm toán. Hội đồng tư vấn cũng thực hiện những biện pháp cần thiết để tham mưu, tư vấn cho Phòng tư vấn và giải pháp và Phòng dịch vụ quốc tế. Như vậy, mỗi phòng nghiệp vụ, phòng chức năng đều có nhiệm vụ cụ thể riêng biệt nhưng lại có mối quan hệ với nhau trong việc trao đổi nhân sự, dịch vụ trợ giúp bảo đảm nguyên tắc “ bất kiêm nhiệm”, tránh ôm đồm, tránh lãng phí mà vẫn duy trì tính liên tục, hợp lệ của quy trình luân chuyển chứng từ, sổ sách và sẵn sàng tham mưu cho Ban Giám đốc khi cần. 2.1.3. Đặc điểm quy trình hoạt động kiểm toán của công ty Kiểm toán Việt Nam Với định hướng và mục tiêu chiến lược được duy trì trong suốt thời gian hình thành và phát triển, công ty kiểm toán Việt Nam luôn luôn xác định cho mình những hướng đi cụ thể để hoàn thành nhiệm vụ. Là một công ty kiểm toán cung cấp dịch vụ chuyên ngành về kế toán và kiểm toán, là thành viên của một hãng kiểm toán đa quốc gia, VACO đã thực hiện quy trình hoạt động kiểm toán của mình chủ yếu dựa trên phương pháp kiểm toán AS/2. AS/2 là công cụ, phương tiện kiểm toán tiên tiến nhất, VACO có được nhờ sự trợ giúp của DTT. Công ty luôn xác định cho nhân viên của mình “công cụ này chỉ thực sự hiệu quả giúp kiểm toán viên giảm nhẹ một phần lao động, tránh được rủi ro nghề nghiệp khi sử dụng thành thạo AS/2 cộng với năng lực hiểu biết và sự năng động trong mỗi nhân viên”. Hệ thống kiểm toán AS/2 bao gồm: Hệ thống phương pháp kiểm toán. Hệ thống hồ sơ kiểm toán. Phần mềm kiểm toán. Trước hết, một cách tổng quan nhất, nội dung bao trùm cuộc kiểm toán bao gồm 4 nội dung cơ bản: Quản lý cuộc kiểm toán. Đánh giá rủi ro cuộc kiểm toán. Thực hiện theo các chuẩn mực phục vụ khách hàng. Lập, soát xét và kiểm soát hồ sơ, giấy tờ làm việc. Mỗi một nội dung không phải tách biệt nhau mà gắn bó, kết hợp chặt chẽ với nhau tạo nên một chu trình thực hiện kiểm toán khép kín, đầy đủ và thống nhất. Mỗi một nội dung này có thể được thực hiện gắn liền với mỗi giai đoạn của cuộc kiểm toán. Ví dụ, giai đoạn đầu tiên của mỗi cuộc kiểm toán là các công việc thực hiện trước khi kiểm toán, người tham gia vào chu trình kiểm toán cũng cần thực hiện việc đánh giá, kiểm soát rủi ro cuộc kiểm toán. Việc lựa chọn nhóm kiểm toán hay thiết lập các điều khoản trong hợp đồng kiểm toán cũng cần thực hiện dựa trên các chuẩn mực phục vụ khách hàng. Hơn nữa, dù thực hiện giai đoạn nào của cuộc kiểm toán cũng cần phải quản lý, kiểm tra, soát xét nội dụng, kết quả kiểm toán và việc ghi chép lại công việc mà kiểm toán viên đã thực hiện. Có như vậy, cuộc kiểm toán mới diễn ra theo quy trình chặt chẽ mà vẫn linh hoạt, đáp ứng yêu cầu thực tế trong mỗi cuộc kiểm toán khác nhau, phục vụ mỗi loại hình khách hàng khác nhau. Các giai đoạn và các nhóm công việc cơ bản của mỗi giai đoạn trong một cuộc kiểm toán được khái quát như (Bảng số 2.2) Công việc thực hiện trước khi kiểm toán Đánh giá, kiểm soát và xử lý rủi ro của cuộc kiểm toán Lựa chọn nhóm kiểm toán Lập và thảo luận các hợp đồng trong kiểm toán Lập kế hoạch kiểm toán tổng quát Tìm hiểu hoạt động kinh doanh của khách hàng Tìm hiểu môi trường kiểm soát Tìm hiểu các chu trình kế toán áp dụng Thực hiện các bước phân tích tổng quát Xác định mức độ trọng yếu Lập kế hoạch giao dịch và phục vụ khách hàng Tổng hợp kế hoạch kiểm toán Lập kế hoạch kiểm toán cụ thể Xác định rủi ro tài khoản và rủi ro tiềm tàng Xác định bằng chứng kiểm toán Mô hình về độ tin cậy của kiểm toán Ma trận kiểm tra Hình thức kiểm tra hệ thống kiểm soát Lập kế hoạch kiểm toán cho từng tài khoản Kế hoạch kiểm tra hệ thống Kế hoạch kiểm tra chi tiết Tổng hợp kế hoạch kiểm toán Thực hiện kế hoạch kiểm toán Kiểm tra hệ thống kiểm soát Thực hiện các bước phân tích Thực hiện kiểm tra chi tiết Tổng hợp kết quả kiểm toán và báo cáo Thực hiện việc soát xét những sự kiện sau ngày lập báo cáo Thu thập thư giải trình của Ban giám đốc Lập bản tổng hợp kết quả kiểm toán Soát xét, kiểm soát và hoàn thiện giấy tờ làm việc Lập báo cáo kiểm toán Tổng kết cuộc kiểm toán Công việc thực hiện sau kiểm toán Đánh giá chất lượng cuộc kiểm toán Giữ mối quan hệ với khách hàng Bảng số 2.2: Quy trình kiểm toán theo phương pháp AS/2 Mỗi giai đoạn của cuộc kiểm toán được thực hiện bởi một nhóm kiểm toán. Trước hết, những công việc đánh giá, xử lý rủi ro cuộc kiểm toán và thiết lập các điều khoản hợp đồng kiểm toán là những công việc mà Ban Giám đốc công ty có sự tham mưu của các chuyên gia thực hiện trước khi kiểm toán. Sau khi tiến hành lựa chọn nhóm kiểm toán, trên cơ sở phân công của cấp trên, các trưởng nhóm – có thể là kiểm toán viên cao cấp hoặc kiểm toán viên sẽ tiến hành lập kế hoạch kiểm toán tổng quát và chi tiết. Kế hoạch này bao gồm những nhóm công việc đã nêu trong Bảng số 2.2. Tiếp đó, các kiểm toán viên cùng trợ lý kiểm toán viên thực hiện kiểm toán với việc tiến hành các bước kiểm tra chi tiết, soát xét báo cáo tài chính để có đủ cơ sở đưa ra kết luận kiểm toán. Trưởng (phó) nhóm kiểm toán thực hiện soát xét các file kiểm toán, giấy tờ làm việc của kiểm toán viên, xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày lập báo cáo của đơn vị được kiểm toán để lập bảng tổng hợp kết quả kiểm toán và báo cáo kiểm toán chính thức. Các hoạt động sau kiểm toán cũng vô cùng quan trọng bởi đây là thời điểm cho Ban Giám đốc đánh giá kết quả, chất lượng cuộc kiểm toán. Hội đồng cố vấn và các chuyên gia DTT có thể tham gia soát xét, đánh giá chất lượng kiểm toán, nhất là đối với những cuộc kiểm toán quy mô lớn, loại hình dịch vụ phức tạp. Đây là một quy trình hoạt động kiểm toán cơ bản mà công ty đang áp dụng nhưng VACO vẫn có sự vận dụng linh hoạt có chọn lọc cho phù hợp với chế độ kế toán hiện hành ở Việt Nam. Với quy trình thực hiện như trên, hệ thống hồ sơ kiểm toán cũng cần được áp dụng có chọn lọc. Trong hồ sơ kiểm toán thông thường, công ty lập nên hệ thống chỉ mục cho các giấy tờ làm việc và cấu trúc file kiểm toán theo quy định chung và phù hợp với từng cuộc kiểm toán. Ví dụ: chỉ mục 1000 cho biết giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, Kiểm tra chi tiết tài sản được trình bày ở chỉ mục 5000. Hồ sơ còn lập nên mẫu giấy tờ làm việc chuẩn để thực hiện có hiệu quả và thống nhất với phương pháp kiểm toán. Với AS/2, công ty đã tạo nên sự thống nhất trong việc áp dụng phương pháp và hồ sơ kiểm toán đối với các hãng thành viên, đồng thời vi tính hoá hệ thống hồ sơ kiểm toán. Do vậy, hệ thống hồ sơ kiểm toán thông minh xuất hiện có tác dụng rút ngắn quá trình lập kế hoạch kiểm toán, có thể đưa ra các khả năng rủi ro ở các phần hành khi lập kế hoạch kiểm toán. Bên cạnh đó, thiết lập được giấy tờ làm việc cho phần kiểm tra chi tiết. Như vậy, với quy trình kiểm toán mang tính quốc tế áp dụng trong điều kiện thực tiễn ở Việt Nam đòi hỏi VACO luôn có sự quản lý chặt chẽ đối với tổ chức hoạt động kinh doanh, hoạt động cung cấp dịch vụ của công ty. 2.2. Thực tế vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán Việt Nam Nhìn chung việc sử dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán Việt Nam được thực hiện một cách thống nhất trong cả ba giai đoạn của cuộc kiểm toán. Việc sử dụng thủ tục phân tích về cơ bản là giống nhau đối với các loại khách hàng khác nhau từ việc xác định mục tiêu đến trình tự thực hiện. Sau đây em sẽ trình bày cụ thể việc áp dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính vào hai khách hàng đại diện cho hai loại hình doanh nghiệp tiêu biểu cho các khách hàng của VACO, một là công ty trách nhiệm hữu hạn và một là công ty cổ phần. 2.2.1. Thực hiện thủ tục phân tích trong Kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty TNHH TTT do VACO thực hiện 2.2.1.1. Thực hiện thủ tục phân tích sơ bộ trong Kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty TNHH TTT Công việc đầu tiên trong giai đoạn lập kế hoạch cũng như thực hiện thủ tục phân tích sơ bộ đó là thu thập các thông tin có liên quan đến khách hàng. Kiểm toán viên sẽ tiến hành thu thập và lưu trong phần 1410 của kế hoạch kiểm toán. Bảng số 2.3: Thu thập thông tin KH VACO công ty kiểm toán việt nam Tham chiếu: 1410 Vietnam auditing company Khách hàng: Công ty TNHH TTT Người lập: TNA Ngày: 2/2/2005 Kỳ kế toán: 31/12/2004 Người soát xét: PKA Ngày: 21/2/2005 Nội dung: Thu thập các thông tin KH Các nhân tố nội bộ ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh: Công ty TNHH TTT là công ty liên doanh giữa bên Việt Nam là công ty sản xuất và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội và Bên Hàn Quốc là công ty MSA Co.Ltd. được thành lập theo quyết định số 18/GP-KCN-HN ngày 14/9/2000 của Ban quản lý các khu công nghiệp và khu chế xuất Hà Nội. Tên giao dịch tiếng anh là: Hanoi Joint Venture MSA-HP Co.Ltd. (TTT). Vốn đầu tư của công ty liên doanh là 1.500.000 USD, vốn pháp định là 1.000.000 USD. Trong đó: Bên nước ngoài góp 600.000 USD chiếm 60% vốn pháp định bằng tiền. Bên Việt Nam góp 400 USD chiếm 40% vốn pháp định bằng tiền. Vốn vay của công ty là 500.000 USD. Thời hạn hoạt động của liên doanh là 45 năm kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư. Phòng tổ chức LĐ-TL Phòng hành chính Phòng TC-KT Phòng cơ điện Phòng kỹ thuật Phòng KD Xưởng SX Phó giám đốc TC-KT Phó giám đốc KD Ban giám đốc Cty Hội đồng quản trị Sơ đồ tổ chức bộ máy của công ty: Ngành nghề kinh doanh: Công ty được thành lập để sản xuất, gia công các sản phẩm may mặc sau đó xuất khẩu ít nhất 80% số sản phẩm sản xuất ra, số còn lại được tiêu thụ tại thị trường Việt Nam. Quy trình sản xuất: Đơn đặt hàng => Khách hàng chuyển định mức tiêu hao về công ty (Phòng kỹ thuật) kiểm tra định mức => Nếu đảm bảo về mức tiêu hao –> Không khiếu nại, nếu không đảm bảo -> khiếu nại => Thông báo cho khách hàng để chuyển NVL về công ty => Phòng kinh doanh làm thủ tục nhập nguyên phụ liệu => Nhập kho => Xuất cho bộ phận SX trên cơ sở lệnh sản xuất từ phòng kỹ thuật (Phòng kế toán lập phiếu nhập và xuất kho) – Xưởng cắt => May => giặt là (thêu ngoài) =>nhập lại bộ phận hoàn thiện => hoàn thiện xong => nhập kho thành phẩm => xuất kho trả khách hàng. Hoạt động: Hoạt động của công ty liên doanh TNHH là sản xuất, gia công các sản phẩm may mặc để xuất khẩu. Tài chính: Vốn đầu tư của công ty liên doanh là 1.500.000 USD, vốn pháp định là 1.000.000 USD. Trong đó: - Bên nước ngoài góp 600.000 USD chiếm 60% vốn pháp định bằng tiền. - Bên Việt Nam góp 400.000 USD chiếm 40% vốn pháp định bằng tiền. - Vốn vay của công ty là 500.000USD, công ty đã trả trước hạn vào tháng 9/2003 Chính sách Kế toán: Sau đây là những chính sách kế toán quan trọng được công ty áp dụng trong việc lập Báo cáo tài chính: Cơ sở kế toán: Báo cáo tài chính được trình bày bằng đồng việt nam (VNĐ), theo nguyên tắc giá gốc, phù hợp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20008.DOC