Đề tài Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty trách nhiệm hữu hạn Hồng Hữu

Tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty trách nhiệm hữu hạn Hồng Hữu: LỜI MỞ ĐẦU LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Khi nói đến kinh doanh cho dù là kinh doanh bất kỳ lĩnh vực nào thì vấn đề được nêu ra trước tiên là hiệu quả sau khi kinh doanh mặt hàng đó, sự xem xét và đánh giá tỉ mỹ về tất cả mọi mặt, để từ đó đưa ra các giải pháp tốt nhất nhằm đem lại lợi nhuận là mục tiêu lớn của đa số các doanh nghiệp. Hiện nay, tại Việt Nam thị trường kinh doanh luôn là cơ hội để các doanh nghiệp đầu tư và phát triển đồng thời cũng chứa đựng nhiều mối đe doạ cho doanh nghiệp. Để có thể đứng vững trước quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường, đòi hỏi doanh nghiệp luôn phải vận động, tìm tòi một hướng đi sao cho phù hợp. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp. Đánh giá hiệu quả kinh doanh chính là quá trình so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả doanh thu đầu vào với mục đích đã được đặt ra ngay từ khi thành lập doanh nghiệp. Lợi nhuận kinh doanh từ các doanh nghiệp không những mang lại doanh thu cho các doanh nghiệp đó mà cò...

doc63 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 956 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty trách nhiệm hữu hạn Hồng Hữu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Khi nói đến kinh doanh cho dù là kinh doanh bất kỳ lĩnh vực nào thì vấn đề được nêu ra trước tiên là hiệu quả sau khi kinh doanh mặt hàng đó, sự xem xét và đánh giá tỉ mỹ về tất cả mọi mặt, để từ đó đưa ra các giải pháp tốt nhất nhằm đem lại lợi nhuận là mục tiêu lớn của đa số các doanh nghiệp. Hiện nay, tại Việt Nam thị trường kinh doanh luôn là cơ hội để các doanh nghiệp đầu tư và phát triển đồng thời cũng chứa đựng nhiều mối đe doạ cho doanh nghiệp. Để có thể đứng vững trước quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường, đòi hỏi doanh nghiệp luôn phải vận động, tìm tòi một hướng đi sao cho phù hợp. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp. Đánh giá hiệu quả kinh doanh chính là quá trình so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả doanh thu đầu vào với mục đích đã được đặt ra ngay từ khi thành lập doanh nghiệp. Lợi nhuận kinh doanh từ các doanh nghiệp không những mang lại doanh thu cho các doanh nghiệp đó mà còn góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước. Sự cạnh tranh khốc liệt về từng mặt hàng, sản phẩm đòi hỏi ở doanh nghiệp phải có nhiều kỹ năng trong kinh doanh, đồng thời việc nâng cao hiệu quả luôn là bài toán khó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần quan tâm đến. Việc kiểm tra đánh giá thường xuyên kết quả hoạt động kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, từ đó đưa ra hướng phát triển đúng đắn nhất, đem lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp. Cty TNHH HỒNG HỮU là hình thức tổng thể của một doanh nghiệp đang có nhu cầu phát triển hiện nay, tôi chọn đề tài giải pháp kinh doanh cho Cty TNHH HỒNG HỮU để làm đề tài nghiên cứu của mình. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI: Song song với việc kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc cạnh tranh thị trường là một quá trình nan giải, do đó các doanh nghiệp phải từng bước tìm ra cho mình một hướng đi mới. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù có ý nghĩa rất quan trọng trong kinh tế, việc đánh giá kết quả kinh doanh là việc xém xét số vốn bỏ ra và thu lợi nhuận về với mục đích đã được đề sẵn, xem xét những điểm mạnh yếu của doanh nghiệp từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác phát triển nguồn vốn cho công ty. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Với số liệu kinh tế của các năm và sự phân tích tổng thể doanh nghiệp kết quả hoạt động kinh doanh, từ đó đưa ra hướng đi mới cho doanh nghiệp vào các năm tiếp theo. Đồng thời dưới sự tác động của nền kinh tế đất nước, các doanh nghiệp từ đó dựa vào những ưu điểm làm đòn bẩy kinh tế đưa nền kinh tế doanh nghiệp phát triển theo một đường lối đúng đắng, từ đó trong bài có vận dụng một số phương pháp kinh tế sau: * Phương pháp so sánh: So sánh trong phân tích là đối chiếu các chỉ tiêu, hiện tượng kinh tế đã được lượng hoá có cùng một nội dung, một tính chất tương tự để xác định xu hướng mức độ biến động của các chỉ tiêu. Thông qua việc so sánh các chỉ số của năm này với năm khác. Từ đó, nhận thấy được xu hướng biến động về tình hình kinh doanh cũng như tình hình tài chính của công ty là tốt hay xấu qua các năm, nhằm đề ra những giải pháp thích hợp trong kỳ kinh doanh tiếp theo. * Phương pháp liên hoàn: Một chỉ tiêu kinh tế chịu sự tác động của nhiều nhân tố. Ví dụ: Chỉ tiêu doanh số bán hàng của một công ty ít nhất chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi 2 nhân tố: Số lượng bán hàng và giá bán hàng hoá. Cho nên thông qua phương pháp có thể nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố lên chỉ tiêu cần phân tích. * Phương pháp nghiên cứu Marketing: Nắm bắt được cơ hội thị trường, nghiên cứu và lựa chọn thị trường mục tiêu, ngoài ra cần phải hoạch định chương trình và thiết kế chiến lược để nhìn thấy vấn đề rõ nét hơn, làm nổi bật lên chiến lược tổ chức, thực hiện phát triển kinh doanh của công ty. Và một số liên quan khác, như tài chính, tình hình doanh nghiệp. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Trong quá trình làm việc tại Công ty TNHH HỒNG HỮU với những kinh nghiệm thực tiễn chính vì vậy đề tài: “ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY TNHH HỒNG HỮU ” nhằm phản ánh tổng thể tình hình hoạt động của Cty TNHH HỒNG HỮU, xem xét kết quả kinh doanh từ đó đưa ra một số chiến lượt phát triển kinh doanh trong thời gian tới. KẾT CẤU KHÓA LUẬN: Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI PHÁP NHẲM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA MỘT DOANH NGHIỆP. Chương 2: THỰC TRẠNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY TNHH HỒNG HỮU. Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH TẠI CÔNG TY TNHH HỒNG HỮU. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI PHÁP NHẲM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA MỘT DOANH NGHIỆP. 1.1. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 1.1.1. Khái niệm Đối với tất cả các doanh nghiệp trên nền kinh tế thị trường hiện nay, đều có một cơ chế quản lý khác nhau, chính vì vậy trong mỗi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp cũng có những mục tiêu khác nhau. Nhưng xu hướng chung của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, để đạt mục tiêu này, các doanh nghiệp phải đề ra mục tiêu cho bản thân, bằng cách xây dựng một chiến lược kinh doanh, để kịp thích ứng với biến động của thị trường. Trong quá trình tổ chức xây dựng, các doanh nghiệp phải luôn kiểm tra đánh giá tính hiệu quả của chúng, vậy hiệu quả trong kinh doanh là gì? nó như thế nào?... có nhiều khái niệm khác nhau về vấn đề này, chẳng hạn như: Hiệu quả kinh doanh là một khái niệm phạm trù kinh tế mà mọi người quan tâm tới, hiệu quả kinh doanh là các chỉ tiêu được xác định bằng tỉ lệ so sánh giữa kết quả và chi phí [1]. Hiệu quả kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm so với giá trị sử dụng của nó, hay còn gọi là lợi nhuận thu được sau kinh doanh. [2] Ngoài ra nó còn có các khái niệm khác nữa, nhưng có thể khái quát một cách cụ thể như sau: “Hiệu quả kinh doanh là một khái niệm phạm trù kinh tế, biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác nguồn lực và chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh, là một yếu tố quan trọng để đánh giá sự tăng trưởng và thực hiện mục tiêu kinh tế trong một thời điểm nhất định. Nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra”. 1.1.2. Những quan điểm cơ bản về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 1.1.2.1. Quan điểm về kết quả và hiệu quả. Kết quả kinh doanh: Là số tiền mà doanh nghiệp thu được sau một quá trình kinh doanh, nó được tính theo công thức: Kết quả KD = tổng DT- tổng chi phí Hiệu quả kinh tế bao gồm hiệu quả kinh doanh và hiệu quả xã hội - Hiệu quả kinh doanh là sự so sánh giữa kết quả kinh doanh đạt được với toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành mục tiêu đó. - Hiệu quả xã hội là phản ánh kết quả mà doanh nghiệp đạt được về mặt xã hội: mức độ đóng thuế của doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước, việc cải thiện môi trường, tạo công ăn việc làm cho người lao động. - Hiệu quả kinh doanh không chỉ là sự so sánh giữa chi phí cho đầu vào và kết quả nhận được ở đầu ra; hiệu quả kinh doanh được hiểu trước tiên là việc hoàn thành mục tiêu, nếu không đạt được mục tiêu thì không thể có hiệu quả và để hoàn thành mục tiêu ta cần phải sử dụng nguồn lực như thế nào? Điều này thể hiện một quan điểm mới là không phải lúc nào để đạt hiệu quả cũng là giảm chi phí mà là sử dụng những chi phí như thế nào, có những chi phí không cần thiết ta phải giảm đi, nhưng lại có những chi phí ta cần phải tăng lên vì chính việc tăng chi phí này sẽ giúp cho DN hoàn thành mục tiêu tốt hơn, giúp cho DN ngày càng giữ được vị trí trên thương trường. 1.1.2.2. Sự kết hợp giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh doanh và hiệu quả xã hội có tác động qua lại lẫn nhau, góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế. Vì khi hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao thì đem lại phúc lợi cho xã hội càng nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế các công ty vẫn chú trọng về phần hiệu quả kinh doanh hơn là hiệu quả xã hội, đó là doanh thu và lợi nhuận.. mà không chú trọng đến hiệu quả xã hội như: không đảm bảo cuộc sống cho người lao động, không hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước, công việc kinh doanh ảnh hưởng đến đời sống môi trường. Những quan điểm đó là hết sức sai lầm, vì khi chỉ có nâng cao hiệu quả kinh doanh đi đôi với hiệu quả xã hội thì doanh nghiệp mới bền vững lâu dài được, do đó sự kết hợp giữa hiệu quả kinh doanh và hiệu quả xã hội luôn luôn là vấn đề cần thiết trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp. 1.1.3. Phân loại hiệu quả kinh doanh. 1.1.3.1. Hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế được xem là hiệu quả tài chính thu được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà trong đó đơn vị được tính bằng tiền tệ. Hiệu quả kinh doanh mang tính trực tiếp nên có thể định hướng được dễ dàng. Hiệu quả kinh tế là thước đo tổng hợp, phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp, vì vậy mà hiệu quả kinh doanh phải được xét một cách toàn diện cả về định tính và định lượng - Về định tính: Hiệu quả kinh doanh được phản ánh nhờ trình độ năng lực và quản lý của doanh nghiệp, được thể hiện qua sự đóng góp của doanh nghiệp qua các hoạt động xã hội. - Về định lượng: Hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp được đo bằng hiệu số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra, sự chênh lệch giữa doanh thu và chi phí càng lớn thì hiệu quả kinh doanh càng cao, và ngược lại. Khi tiến hành bất cứ một hoạt động kinh doanh nào các doanh nghiệp đều phải huy động, sử dụng nguồn lực để có thể tạo ra kết quả phù hợp tương ứng, chính vì vậy để tối đa hoá lợi nhuận cũng như các mục tiêu khác, các doanh nghiệp phải dùng nhiều phương pháp, nhiều công cụ khác nhau. Hiệu quả kinh doanh là một trong những công cụ hữu hiệu nhất, để các nhà quản trị thực hiện các chức năng của mình. Thông qua việc tính toán hiệu quả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà cho phép các nhà quản trị tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh, từ đó đưa ra các biện pháp điều chỉnh thích hợp trên hai phương diện được cho là quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh là: giảm chi phí, tăng lợi nhuận để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Với tư cách là một công cụ quản trị thì hiệu quả kinh doanh không chỉ sử dụng để kiểm tra đánh giá, phân tích tình hình của toàn doanh nghiệp mà còn sử dụng để kiểm tra đánh giá từng bộ phận cấu thành của doanh nghiệp. Do vậy hiệu quả kinh doanh đóng một vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá và phân tích nhằm đưa ra các giải pháp tối ưu nhất để thực hiện mục tiêu doanh nghiệp đề ra. Với các nhà quản trị thì hiệu quả kinh doanh được họ xem là mục tiêu và nhiệm vụ, vì khi nói đến kinh doanh thì phải xem tính hiệu quả của nó, do vậy hiệu quả kinh doanh được coi là công cụ để thực hiện công việc kinh doanh đồng thời là mục tiêu để quản trị kinh doanh. 1.1.3.2. Hiệu quả kinh tế xã hội. Hiệu quả kinh tế xã hội là lợi ích của kinh tế mang lại lợi nhuận cho nền kinh tế quốc dân và cho đời sống xã hội, được thể hiện qua sự đóng góp vào việc kinh tế xã hội như: Phát triển sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao ngân sách nhà nước, ổn định cuộc sống của người lao động, như chúng ta đã biết thì kinh tế đi đôi với xã hội, vì thế mà nó luôn gắng bó mật thiết với nhau. Trong nhiều trường hợp hiệu quả kinh doanh và hiệu quả xã hội lại mâu thuẫn với nhau. Có những kinh doanh không mang lại lợi ích lợi nhuận, nhưng doanh nghiệp vẫn sử dụng kinh doanh với mục đích chung của xã hội, điều đó thường hay xảy ra với các doanh nghiệp công ích. 1.1.3.3. Hiệu quả tổng hợp. Chi phí bỏ ra là yếu tố cần thiết để đánh giá mực hiệu quả của kinh tế. Xét về gốc độ tính toán thì có: Mọi chi phí bỏ ra để thực hiện cho một kế hoạch kinh doanh và chi phí cần thiết để thực hiện nhiệm vụ kế hoạch đó Hiệu quả tổng hợp được xem là kết quả thu được từ tổng chi phí và lợi nhuận thu vào để thực hiện một nhiệm vụ kinh doanh sản xuất. Việc tính toán hiệu quả chi phí tổng hợp sẽ cho thấy hiệu quả chung của doanh nghiệp. Còn việc tính toán và phân tích hiệu quả sẽ cho thấy sự tác động của yếu tố nội bộ đến việc sản xuất kinh doanh, trên nguyên tắc hiệu quả chi phí tổng hợp phụ thuộc vào hiệu quả chi phí thành phần.Ttrong thực tế thì không phải chi phí thành phần nào cũng sử dụng một cách có hiệu quả, nghĩa là sử dụng cho yếu tố này nhưng lại lãng phí yếu tố khác nói chung muốn đạt được kết quả kinh doanh, thì việc sử dụng yếu tố thành phần nhất thiết phải lớn hơn do yếu tố lãng phí gây ra. 1.1.3.4. Hiệu quả của sử dụng vốn Được thể hiện qua hiệu suất sử dụng vốn, thể hiện qua việc sử dụng vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. - Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Cần có những biện pháp tích cực hơn để đẩy mạnh vốn lưu động, rút ngắn thời gian thu hồi vốn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. - Hiệu quả sử dụng vốn cố định: Được thể hiện qua mức sản xuất và mức sinh lời của tài sản cố định, hai chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp càng cao. - Hiệu quả sử dụng nguồn lao động: Đánh giá ở mức sinh lời của lao động hàng năm, năng xuất lao động bình quân đầu người của doanh nghiệp, doanh nghiệp nên chú trọng đến việc sử dụng lao động biểu hiện qua số lao động giảm, năng xuất tăng dẫn đến chi phí thấp về tiền lương. 1.2. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1.2.1. Nhân tố chủ quan. - Nhân tố con người: Con người được xem là nhân tố quyết định trong hoạt động của doanh nghiệp, trong thời đại hiện nay, trình độ và kinh nghiệm của một người lao động ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp, nhất là các cán bộ quản lý, họ chính là những nhân tố gián tiếp tạo ra sản phẩm kinh doanh, nhưng lại chính là những người hoạch định ra những hướng đi cho doanh nghiệp, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có một bộ máy quản lý khác nhau, chính vì thế mà trình độ chuyên môn của họ cũng không giống nhau, các nhân viên cũng không ngoại lệ, các nhân viên có trình độ, tay nghề cao kinh nghiệm nhiều sẽ đạt chất lượng cao, tiết kiệm thời gian , nguyên vật liệu sản xuất kinh doanh,làm tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.Vì vậy nhân tố con người có ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, muốn đạt được điều này các doanh nghiệp phải tỉ mỷ từ khâu tuyển dụng tới việc đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động, nhất là đội ngũ nhân viên quản lý. - Nhân tố vốn: Không có một doanh nghiệp nào mà có thể hoạt động sản xuất kinh doanh mà không cần tới vốn. Vốn có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng đến hiệu xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn trong doanh nghiệp được hình thành từ ba nguồn chính: vốn tự có, vốn vay, và vốn nhà nước cấp. Tuỳ theo vào loại hình doanh nghiệp mà sử dụng nguồn vốn khác nhau, trong đó các doanh nghiệp nhà nước thường thì là do ngân sách nhà nước cấp, cón các doanh nghiệp tư nhân thì thường sử dụng vốn sẵn có hay vốn vay là chủ yếu. - Nhân tố kỹ thuật: Ngày nay kỹ thuật được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh đa phần là chủ yếu, có thể coi doanh nghiệp nào đưa kỹ thuật tiên tiến vào trong việc kinh doanh sản xuất thì doanh nghiệp đó có lợi thế cạnh tranh. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh các doanh nghiệp nên chú trọng vào vấn đề này,nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển. 1.2.2. Nhân tố khách quan. Bao gồm hai yếu tố: - Môi trường vi mô: Bao gồm các yếu tố gắn liền với doanh nghiệp, như thị trường đầu vào và yếu tố đầu ra - Môi trường vĩ mô: Là những yếu tố về điều kiện tự nhiên, về dân số và lao động, xu hướng phát triển kinh tế, tiến bộ khoa học kỹ thuật, các chính sách của nhà nước với doanh nghiệp và những yếu tố có liên quan khác… Đối với nhân tố này không một doanh nghiệp nào có thể bỏ qua được, nhưng các doanh nghiệp có thể vận dụng các nhân tố có ảnh hưởng tích cực hay không hạn chế đến các nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến việc hoạt động kinh doanh, vấn đề này phụ thuộc vào khả năng quản lý của từng doanh nghiệp. 1.3. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và chỉ tiêu đánh giá. 1.3.1. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh được xác định bằng công thức: Hiệu quả SXKD = kết quả đầu ra Chi phí đầu vào Công thức này thể hiện hiệu quả của việc bỏ ra một số vốn để thu được kết quả cao hơn, tức là đã có một sự xuất hiện của giá trị gia tăng với điều kiện hiệu quả SXKD phải lớn hơn 1, hiệu quả sản xuất kinh doanh càng lớn càng chứng tỏ hiệu quả KD càng cao. Để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, DN có thể sử dụng những biện pháp như: giảm đầu vào, đầu ra không đổi; hoặc giữ đầu vào không đổi, tăng đầu ra; hoặc giảm đầu vào, tăng đầu ra,.. DN có thể cải tiến quản lý điều hành nhằm sử dụng hợp lý hơn các nguồn lực, giảm tổn thất, để tăng cường giá trị đầu ra. Nhưng nếu quá trình sản xuất, kinh doanh đã hợp lý thì việc áp dụng các biện pháp trên sẽ bất hợp lý. Bởi DN không thể giảm đầu vào mà không làm giảm giá trị đầu ra và ngược lại. Thậm chí trong thực tế, ngay cả khi quá trình kinh doanh của DN là còn bất hợp lý nhưng khi DN áp dụng những biện pháp trên có thể làm cho hiệu quả giảm xuống. Chính vì vậy, để có được một hiệu quả không ngừng tăng lên đòi hỏi DN chẳng những không giảm mà còn phải tăng chất lượng đầu vào lên. Với nguyên vật liệu tốt hơn, lao động có tay nghề cao hơn, máy móc công nghệ hiện đại hơn, DN sẽ giảm đi lượng hao phí nguyên vật liệu, hao phí lao động, hao phí năng lượng, thiết bị trên từng đơn vị sản phẩm, phế phẩm giảm đó là điều kiện để có những sản phẩm với số lượng, chất lượng cao, giá thành hạ. Như vậy để tăng hiệu quả kinh doanh chỉ có con đường duy nhất là không ngừng đầu tư vào công nghệ, nguồn nhân lực, quản lý,... Qua đó giá trị đầu ra ngày càng tăng, đồng thời càng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, của DN trên thương trường. Trong đó có các yếu tố tác động đến chi phí , kết quả đầu vào như: + Nguyên vật liệu + Chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, + Chi phí vốn, khấu hao tài sản cố định + Tiền lương cho nhân viên và các yêu tố khác Các yếu tố tác động đến đầu ra: + Sản phẩm + Hệ thống kênh tiêu thụ + Quảng bá, xúc tiến bán hàng Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp cần thực hiện tốt các công việc sau: 1.3.1.1. Chuẩn bị tốt các điều kiện yếu tố cần thiết cho quá trình kinh doanh. Việc chuẩn bị tốt các điều kiện yếu tố cần thiết cho quá trình kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng, nó là yếu tố hàng đầu cho việc phát triển kinh doanh, góp phần tăng khả năng vượt mức trong kế hoạch kinh doanh cả về chất lượng lẫn số lượng, việc chuẩn bị cho quá trình kinh doanh bao gồm: + Sản phẩm, nguyên vật liệu: Đây là một trong những vấn đề không thể thiếu trong việc kinh doanh sản xuất, nó là nguyên liệu trực tiếp cấu thành nên sản phẩm hoàn hảo, do đó trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp được tiến triển một cách liên tục mà không bị gián đoạn. Chất lượng của sản phẩm, nguyên vật liệu đi kèm phải được đảm bảo từ đó kéo theo hiệu quả của việc sử dụng vốn. Chi phí cho một giá thành sản phẩm chiếm tỷ lệ cao trong việc sử dụng vốn kinh doanh, do đó lựa chọn, một sản phẩm tốt, hợp lý, với giá thành rẻ thì đồng nghĩa với việc bán sản phẩm giá thấp, mức cạnh tranh cao và nâng cao hiệu quả kinh doanh. + Thiết bị máy móc phục vụ cho kinh doanh: Trong sự cạnh tranh gay gắt, đòi hỏi phải nhanh nhẹn, có tính quyết định trong việc mua bán sản phẩm thì việc đầu tư máy móc là vấn để không thể thiếu ở từng doanh nghiệp. Máy móc thiết bị tiên tiến giúp cho quá trình lao động được tăng, góp phần ảnh hưởng không nhỏ đến giá thành của sản phẩm, từ đó tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, nhân tố này cũng ảnh hưởng đến nhà cung cấp, đến khách hàng. Công nghệ thông tin nhanh giúp cho doanh nghiệp xử lý thông tin kịp thời phục vụ cho việc kinh doanh, lưu trữ thông tin từ đó tạo điều kiện phát triển cho doanh nghiệp. + Người lao động: Trong kinh doanh, dù là kỹ thuật tiên tiến tới đâu thì người lao động vẫn nắm phần quan trọng hơn cả, việc phân bổ người lao động đúng nơi, đúng việc cũng là điều kiện để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo ra sự đồng bộ ăn khớp trong công việc, tiến hành công việc một cách xuông xẻ sẽ làm tránh đi sự lãng phí về thời gian, vật chất, chính những điều đó làm góp phần tăng năng xuất cho hiệu quả kinh doanh mà công ty đang đặt ra. 1.3.1.2. Nghiên cứu, khảo sát thị trường. Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán thương mại, là nơi trao đổi giữa người bán và người mua, việc trao đổi mua bán hàng hoá đến một mức nào đó thì nó sẽ trở thành cơ chế thị trường. Đây là một mô hình kinh tế lấy giá trị, giá cả và lợi nhuận làm nền tảng cho việc ứng xử, giữa tổ chức và cá nhân, giữa con người với con người, hoạt động mua bán dựa trên sự cạnh tranh theo pháp luật, dưới sự quản lý của nhà nước và các đòn bẩy kinh tế. Thị trường là nơi vốn có của hàng hoá, được thể hiện qua hai nhân tố: + Nhu cầu hàng hoá và dịch vụ + Khả năng cung cấp hàng hoá và dịch vụ đó Từ thị trường mà ta xác định được mối tương quan giữa cung và cầu. Thị trường cũng là nơi kiểm nghiệm giá trị hàng hoá, cho ta biết được hàng hoá dịch vụ đó có đáp ứng được với nhu cầu khách hàng hay không? Nhu cầu của thị trường ngày một nâng cao, đòi hỏi các doanh nghiệp phải đưa ra những sản phẩm đạt về chất lượng, mẫu mã, giá cả.. Chỉ trên phương hướng nắm bắt nhu cầu thị trường nhanh chóng kịp thời thì các doanh nghiệp mới lựa chọn phương án kinh doanh hiệu quả nhất với chi phí đưa ra thấp nhất. Để nắm bắt được thông tin thị trường các doanh nghiệp cần phải: + Tổ chức hợp lý từ việc thu thập thông tin từ bên ngoài thị trường + Phân tích và xử lý chính xác nhanh chóng thông tin đã thu nhập được Từ hai bước trên, doanh nghiệp xác định nhu cầu của thị trường, để có khả năng thích ứng nhưng phải xác định kỹ: + Loại thị trường nào có khả năng thích ứng với hàng hoá mà doanh nghiệp đang kinh doanh + Giá cả chi phí và khả năng thích ứng của doanh nghiệp với nhu cầu về hàng hoá- dịch vụ của loại thị trường đó. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ chỉ rõ ra cho mình một chiến lượt phát triển thị trường tối ưu, xây dựng phương án kinh doanh giúp cho doanh nghiệp chủ động hơn trong kinh doanh, xử lý kịp thời những tình huống xảy ra trong kinh doanh, giúp doanh nghiệp hạn chế mức tối đa những rủi ro trong kinh doanh. 1.3.1.3. Tổ chức tốt quá trình tiêu thụ hàng hoá và sản phẩm. Để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh thì các doanh nghiệp ngoài việc tăng sản lượng hàng hoá còn phải tăng sản lượng tiêu thụ từ đó kéo theo tăng lợi nhuận. Sản lượng mua vào phải phù hợp nhu cầu bán ra, tăng được sản lượng tiêu thụ là đồng thời doanh nghiệp sử dụng hiệu quả nguồn lao động, thiết bị khoa học kỹ thuật và thời gian một cách hợp lý. Trong nền kinh tế có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và hoạt hộng theo sự quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh, muốn cạnh trạnh thì giảm một đồng chi phí là tăng thêm vài đồng lợi nhuận. Việc tổ chức quá trình tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ làm cho hàng hoá của doanh nghiệp được lưu thông, không bị ứ đọng, vốn lưu động tăng nhanh, tức là giảm đi chi phí, muốn vậy doanh nghiệp phải đề ra kế hoạch một cách cụ thể. - Tổ chức kênh tiêu thụ: + Kênh trực tiếp: Hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh được đưa thẳng trực tiếp đến người tiêu dùng, điều này đảm bảo mối quan hệ mật thiết giữa người bán và người mua, giúp doanh nghiệp có thể nắm bắt được thông tin trực tiếp từ khách hàng, để kịp thời đáp ứng từ những nhu cầu trực tiếp đó. + Kênh gián tiếp: Qua việc bán hàng bằng trung gian sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm. - Tổ chức mạng lưới phân phối khuyến khích đại lý: Để thực hiện tốt việc mở rộng thị trường, doanh nghiệp nên mở rộng thêm mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, với mạng lưới tiêu thụ sản phẩm rộng sẽ giúp cho hàng hoá đến tay người tiêu dùng một cách nhanh nhất. Mặt khác, các doanh nghiệp cần phải khuyến khích các đại lý mở rộng khách hàng cho mình bằng cách trích phần trăm bán hàng cho mỗi sản phẩm bán ra, điều này góp phần khuyến khích cho họ tìm kiếm khách hàng mới và thị trường mới cho doanh nghiệp. - Hỗ trợ tiêu thụ: Hoạt động quảng cáo là hoạt động phổ biến nhất trong giới kinh doanh hiện nay, hoạt động này với mục đích tuyên truyền giới thiệu cho mọi người về sản phẩm mà công ty cung ứng đồng thời nâng cao uy tín của công ty, từ đó kích thích mua hàng của khách hàng. Đưa sản phẩm của doanh nghiệp tới các nơi triển lãm, bằng cách này người tiêu dùng có thể trực tiếp tìm hiểu được mặt hàng mà công ty bán ra, thông qua đó doanh nghiệp có thể tìm kiếm được những khách hàng tiềm năng. Việc bán hàng kèm theo dịch vụ, hiện nay được áp dụng rộng rãi ở các doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể thực hiện ở mức: Giao hàng miễn phí cho khách hàng ở xa, những người mua hàng với số lượng lớn, các dịch vụ sau bán hàng như bảo hành sửa chửa miễn phí trong thời gian sản phẩm còn bảo hành. Giúp khách hàng tìm đến doanh nghiệp với tâm trạng yên tâm khi sử dụng sản phẩm. - Nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm Doanh nghiệp không ngừng đổi mới các mẫu mã sản phẩm, bằng cách tìm ra nhiều mẫu mã mới phù hợp với xu thế thị trường. Ngoài ra, việc hạ giá thành sản phẩm, giúp cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh với thị trường bên ngoài, do giá thành thấp hơn nhưng chất lượng sản phẩm lại như nhau, điều này đóng vai trò quyết định tới người mua hàng, điều đó làm ảnh hưởng tới quá trình tiêu thụ sản phẩm. Tuỳ theo từng khu vực, từng vùng địa lý, mà có những giá cả khác nhau sao cho phù hợp với khả năng của người tiêu dùng, doanh nghiệp khi muốn xâm nhập vào thị trường mới hay cạnh trạnh với đối thủ, thì giá cạnh tranh sẽ giúp khách hàng dễ dàng tiếp cận với doanh nghiệp. 1.3.1.4. Đa dạng hoá sản phẩm. Trong quá trình kinh doanh để đạt được mục tiêu xã hội, mỗi doanh nghiệp phải xác dịnh được cơ cấu của sản phẩm mà mình kinh doanh, trong đó xác định được đâu là sản phẩm chính của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường thường xuyên biến động hiện nay, thì việc đa dạng hoá sản phẩm, liên tục đổi mới mẫu mã sản phẩm, thêm doanh nghiệp kịp thời thích ứng với môi trường kinh doanh, chính vì vậy mà sản phẩm được thực hiện theo một cơ chế sau: + Thu hẹp danh mục sản phẩm bằng cách loại bỏ những sản phẩm lỗi thời, hạn chế những sản phẩm có sức cạnh tranh kém, những sản phẩm không mang lại lợi nhuận. + Giữ nguyên các sản phẩm đang kinh doanh có lãi, phù hợp với nhu cầu thị trường, đồng thời tìm thêm sản phẩm với quy cách, kích cỡ khác nhau, nhằm đa dạng hoá sản phẩm bán ra của doanh nghiệp. Bổ sung những mặt hàng mới, phù hợp với nhu cầu thị trường, sản phẩm tương xứng với mặt hàng mà doanh nghiệp đang kinh doanh. 1.3.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh. 1.3.2.1. Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp. Dựa vào kết quả đầu vào và đầu ra trong hoạt động kinh doanh, theo quy luật , cứ một đồng chi phí đầu ra, thì tạo bao nhiêu đồng cho doanh thu, chính vì vậy mà kết quả kinh dooanh tổng hợp được dựa theo các chỉ tiêu: + Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu: Cứ một đồng lợi nhuận thuần thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Tỷ suất lợi nhuận theo DT= LN sau thuế / tổng doanh thu trong kỳ*100 + Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động: Cứ một lao động thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi thuần, cứ một đồng lợi nhuận thuần thì doanh nghiệp phải trả bao nhiêu đồng tiền lương cho người lao động và cứ một lao động thì làm ra bao nhiêu đồng lợi nhuận? Năng suất LĐ bình quân = Lợi nhuận / tổng số lao động bình quân trong kỳ + Chỉ tiêu sử sụng vốn: Cứ một đồng tiền vốn sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, bình quân vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng. Vốn KD = Lợi nhuận / tổng số vốn KD trong kỳ*100 + Chỉ tiêu sử dụng hiệu quả chi phí:Cứ một đồng chi phí, thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hiệu quả chi phí = Lợi nhuận / Tổng chi phí trong kỳ*100 Trong đó: lợi nhuận thuần là chỉ tiêu lãi sau khi đã trừ đi thuế lợi tức hay thuế thu nhập doanh nghiệp nộp ngân sách nhà nước,lợi nhuận ròng là phần còn lại sau khi lấy tổng doanh thu bán hàng (dịch vụ) trừ đi tất cả các khoản chi phí và thuế TNDN [3]. 1.3.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Dựa vào mức đóng góp của doanh nghiệp: + Nộp vào ngân sách nhà nước là bao nhiêu? + Số lao động được giải quyết việc làm + Đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng + Cải thiện môi trường xung quanh à Chính những điều này đã góp phần vào việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp vì nếu hiệu quả kinh doanh của doanh ngiệp là cao, thì điều này sẽ góp phần vào nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo uy tín cho doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển và bền vững. Chương 2: THỰC TRẠNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY TNHH HỒNG HỮU. 2.1. Giới thiệu khái quát về công ty TNHH HỒNG HỮU. 2.1.1. Thông tin tổng quan về công ty . Cty TNHH HỒNG HỮU là công ty chuyên cung cấp về các mặt hàng sản phẩm bên ngành tiểu công nghiệp, là nhà phân phối sản phẩm cho các mặt hàng của Đài Loan và Nhật Bản dựa trên cơ sở mua đi bán lại nhằm thu lợi nhuận. Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. CTY TNHH HỒNG HỮU với chất lượng sản phẩm với phương châm dịch vụ hàng đầu “ HÀI LÒNG KHÁCH ĐẾN VỪA LÒNG KHÁCH ĐI” việc mua bán và đi kèm dịch vụ với giá cả cạnh tranh sẽ mang lại uy tín cho cả công ty lẫn khách hàng. 2.1.2. Lịch sử hình thành . Năm 2007, trước đó với quy mô là cửa hàng bán lẻ, chuyên cung cấp về các mặt hàng súng phun sơn, bơm sơn và các phụ kiện cho ngành sơn, với một quy mô nhỏ công ty ban đầu khởi nghiệp chỉ 2-3 nhân viên, do nhu cầu kinh tế mở rộng, các ngành tiểu thủ công nghiệp, ngành công nghiệp nhẹ phát triển ngày một tăng cao, với doanh số thu về 1 tháng gần 1 tỷ đồng, đứng trước tình hình mở rộng thị trường và nhu cầu thị yếu của khách hàng, công ty từ cửa hàng mang tên Hồng Hữu, tháng 05 năm 2007 chính thức được thành lập thành Cty TNHH Hồng Hữu. 2.1.3. Chức năng và nhiệm vụ. Ở Cty TNHH HỒNG HỮU các bộ phận của công ty có nhiệm vụ hỗ trợ lẫn nhau nhằm thúc đẩy bán hàng tạo ra lợi nhuận nhanh chóng cho công ty nhằm đẩy mạnh lưu thông hàng hoá cũng như tiền tề, được lưu thông hoá một cách dễ dàng. Ngoài ra các sản phẩm hàng hoá như nhau, mặt hàng lưu chuyển đến và đi theo quy trình nhất định, lợi nhuận có được dựa trên sản phẩm bán ra nhưng dựa trên chất lượng dịch vụ có thể phần nào ngăn chặn đối thủ cạnh tranh bằng hình thức phục vụ một cách tận tình đến khách hàng nhất, năm 2008 số lượng nhân viên được tăng lên các phòng ban được phân bổ nhiệm vụ rõ ràng, mỗi bộ phận nắm giữ một chức năng và nhiệm vụ khác nhau, với phương châm tạo ra lợi nhuận, đem lại hiệu quả kinh tế cho công ty và từng cá nhân của công ty, góp phần không nhỏ trong công cuộc xây dựng đất nước. Với các mặt hàng chủ yếu là cung cấp cho ngành tiểu công nghiệp như: ngành mây tre, gốm sứ… đến các ngành công nghiệp nhẹ liên quan đến sơn như ngành gỗ, nhựa… Cho đến nay uy tín của công ty gần như được nhiều doanh nghiệp biết đến. 2.1.4. Tổ chức bộ máy quản lý . 2.1.4.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý. Cơ cấu của công ty TNHH Hồng Hữu được mô phỏng theo mô hình ( Sơ đồ:2.1) Bộ máy công ty liên kết chặt chẽ với nhau, từ quản lý đến nhân viên, từ khâu giá thành gốc của sản phẩm đến việc giao tận tay cho khách hàng để có sản phẩm cũng như dịch vụ tốt nhất, từ đó đem lại sự uy tín cho công ty mà đứng đầu là Giám Đốc điều hành. Các phòng ban được phân bổ từ đó tạo ra chức năng và quyền hành khác nhau, đứng đầu là Giám đốc – trưởng bộ phận Hành chánh, Kế toán, Kinh doanh, các nhân viên hỗ trợ các chức năng, cơ cấu của công ty dược phát thảo theo sơ đồ như sau: GIÁM ĐỐC TRƯỞNG PHÒNG HÀNH CHÁNH TRƯỞNG PHÒNG KINH DOANH KẾ TOÁN TRƯỞNG NV hành chánh I+II NV kế hoạch NV khu vực I NV khu vực II NV kế toán II NV kho NV kế toán I NV khu vực III NV khu vực IV Sơ đồ 2.1: Sơ đồ bộ máy công ty 2.1.4.2. Chức năng, nhiệm vụ từng bộ phận . Dựa trên sơ đồ chức năng, từ đó các bộ phận có các chức năng khác nhau, nhưng trên tổng thể đều kết hợp chặt chẽ với nhau, để tạo nên một bộ máy thống nhất cụ thể như sau: a. Giám Đốc: Đứng đầu là ông Huỳnh Tấn Tài là người có uy tín đứng đầu của bộ máy công ty, chịu trách nhiệm trước pháp luật về tình hình hoạt động của công ty. Là người đưa ra các chiến lược, điều khiển giám sát công việc của các phòng ban, từ đó đưa ra các nguyên tắc tổ chức để dành được các mục tiêu đã đề ra. b. Trưởng phòng hành chánh: Chịu trách nhiệm báo cáo trực tiếp công việc với Giám Đốc, giữ vai trò hỗ trợ công việc, chuẩn bị báo cáo tổng thể tình hình của phòng ban do mình trực tiếp quản lý. Ngoài ra sắp xếp các cuộc họp, các chuyến công tác xa cho lãnh đạo, lập và lưu dữ liệu trong và ngoài cơ quan, tập hợp bản báo cáo thu chi trong công tác hành chánh, là người trực tiếp tuyển dụng nhân viên cho công ty, có nhiệm vụ hướng dẫn nhân viên cấp dưới làm theo chỉ thị để đạt mục tiêu của tổ chức đề ra nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Nhân viên hành chánh I+II: Chịu sự quản lý trực tiếp của trưởng phòng, là người chấm công, phát lương cho nhân viên, là người xử lý các văn thư đến và đi, đánh máy sao in các tài liệu giấy tờ, lập hồ sơ dữ liệu trong cơ quan, lưu giữ văn thư, giao dịch ngân hàng bảo hiểm xã hội, các khoản thu tài chính, hỗ trợ cấp trên quản lý điều hành. Nhân viên kế hoạch: Là người có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, nắm vững nhu cầu thiết yếu của khách hàng, từ đó đưa ra những ý kiến khách quan nhất nhằm nâng cao hiệu quả cho sản phẩm, là người tiềm hiểu giá cả thị trường, các nhà cung ứng so sánh xem giá cả nào hợp lý nhất, từ đó báo cáo lên cấp trên để đưa ra quyết định lựa chọn nhà phân phối có giá cả hợp lý nhất. c. Trưởng phòng kế toán: Đây là bộ phận quản lý toàn bộ tài sản của công ty, tổ chức vốn và nguồn vốn cho công ty, chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp của Giám Đốc có nhiệm vụ báo cáo tài chính với Giám Đốc, cơ quan thuế về tình hình tài chính của công ty theo từng tháng, từng quý và từng năm, có trách nhiệm về việc báo cáo hiệu quả kinh doanh. Nhân viên kế toán I+II: Chịu sự quản lý trực tiếp của kế toán trưởng, kế toán I và II có nhiệm vụ hỗ trợ cho nhau về công tác kế toán, thu thập các chứng từ có liên quan bằng cách ghi lại các chứng từ một cách cụ thể, ghi hoá đơn bán ra, hỗ trợ kinh doanh trong công tác báo giá sản phẩm cho đối tác, quản lý thu hồi công nợ, làm giấy thu chi đưa lên cho cấp trên trực tiếp quản lý. Nhân viên kho: Chịu sự quản lý của kế toán trưởng có nhiệm vụ báo cáo xuất nhập tồn kho hàng tuần hàng tháng của công ty để đảm bảo số lượng chính xác. Nhân viên kho chịu trách nhiệm trong việc quản lý số lượng của kho ghi lại chính xác xuất nhập bằng thẻ kho, bố trí xắp xếp hàng hoá, kiểm kê hàng hoá định kỳ, lập các bảng báo cáo về tình hình thu mua khi hàng hết, có kế hoạch bảo quản hàng hoá sao cho hợp lý, ngoài ra hỗ trợ kinh doanh về việc cung cấp thông tin số lượng hàng tồn để có hiệu quả làm việc nhanh chóng. - Tổ chức công tác kế toán – tài chính Bộ phận kế toán là bộ phận phản ảnh tình hình hoạt động của công ty. + Hình thức tổ chức bộ máy kế toán hoạt động của công ty Bộ máy kế toán của công ty đứng đầu là kế toán trưởng tiếp sau là kế toán viên, được hỗ trợ với nhau, bằng cách ghi chép lại tất cả các chứng từ, các nhân viên kế toán tập hợp lại các chứng từ, cung cấp thông tin về tình hình công nợ của công ty ghi vào sổ lưu giữ, các sổ kế toán, định khoản các tài khoản của kế toán để xử lý thông tin và lưu giữ hồ sơ. Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán hoạt động của công ty KẾ TOÁN TRƯỞNG KẾ TOÁN I KẾ TOÁN II NHÂN VIÊN KHO Sơ đồ 2.2: Sơ đồ bộ máy kế toán d. Trưởng phòng kinh doanh: Là người chịu sự quản lý của Giám Đốc có nhiệm vụ ngoại giao với khách hàng, đôn đốc, kiểm tra đôn đốc doanh số của từng khu vực. Đây là bộ phận quan trọng nhất của công ty vì nó mang lại lợi nhuận, bộ mặt dịch vụ công ty. Trưởng bộ phận kinh doanh có nhiệm vụ hỗ trợ kinh doanh trong việc xử lý mặt hàng ra, giúp kế toán thu hồi công nợ. Nhân viên kinh doanh khu vực I: Bao gồm 3 nhân viên chịu sự quản lý của trưởng phòng kinh doanh, nắm giữ thị trường tại TP.HCM và các tỉnh miền tây. Nhân viên kinh doanh khu vực II: Gồm 2 nhân viên chịu sự quản lý của trưởng phòng kinh doanh, nắm giữ thị trường tại Vũng Tàu và Đồng Nai Nhân viên kinh doanh khu vực III: Gồm 2 nhân viên chịu sự quản lý của trưởng phòng kinh doanh, nắm giữ thị trường tại Bình Dương, Bình Phước . Nhân viên kinh doanh khu vực IV: Nắm giữ thị trường tại các tỉnh phía Bắc, miền Trung, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. * Các bộ phận hỗ trợ và phát triển Ngoài bộ phận kế toán các bộ phận khác cũng có những nét tương hỗ giống nhau, tuy là khác nhau về mặt quản lý cũng như tính chất công việc, nhưng đều hỗ trợ cho nhau để bộ máy công ty được điều hành mỗi ngày một cách xuông xẻ, bộ phận hành chánh sẽ hỗ trợ cho kế toán về các chứng từ liên quan đến công ty, hỗ trợ về phần nhân lực cho bộ phận kinh doanh khi có nhu cầu, hỗ trợ về việc cung giá sản phẩm tốt nhất từ các nhà cung cấp giá sỉ, các chứng từ mua vào… Bộ phận kế toán hỗ trợ hành chánh về tài chính, báo cáo các vấn đề về tài chính, hỗ trợ kinh doanh về thúc đẩy nhanh quá trình bán hàng, thu hồi công nợ. Thống kê được các con số chính xác nhất để báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những hướng đi thích hợp trong tương lai. Bộ phận kinh doanh tìm hiểu thị trường hỗ trợ các bộ phận khác trong việc đẩy mạnh doanh số bán hàng, tìm kiếm các thị trường mới, doanh nghiệp mới, thúc đẩy quá trình lớn mạnh của công ty. Tất cả tạo nên một quá trình cộng sinh lớn mạnh để đi đến mục tiêu hàng đầu: làm giàu cho doanh nghiệp, cho cá nhân, cho nhà nước. * Bộ phận đặc trưng và quan trọng nhất của Công ty: Ở mỗi thành viên khi được tuyển vào công ty đều được nắm giữ những nhiệm vụ quan trọng như nhau, tuy nhiên ở mỗi bộ phận thì bộ phận kinh doanh có phần quan trọng hơn cả vì đây chính là bộ mặt của công ty, là nguồn doanh thu chính đem về lợi nhuận cho công ty. Với tác phong bên ngoài thêm kỹ năng giao tiếp, khách hàng sẽ phần nào đánh giá được chất lượng cũng như uy tín của công ty đó, chính vì vậy nhân viên kinh doanh được đánh giá rất cao trong việc phát triển mở rộng thị trường, tăng doanh số. Bộ phận kinh doanh sẽ là người truyền thông cho hệ thống kênh phân phối sản phẩm, là người nắm rõ nhu cầu thị yếu của khách hàng từ đó đưa ra chiến lược khách hàng, để bán hàng một cách hiệu quả nhất. Chính vì thế bộ phận kinh doanh có thể được coi là bộ phận đặc trưng của công ty vì họ xét vào từng quan điểm trọng tâm về nhu cầu của khách hàng để có thể bán hàng tốt nhất và đem lại lợi nhuận cho công ty nhanh nhất. 2.1.5. Quá trình phát triển. 2.1.5.1. Khái quát quá trình phát triển của công ty từ ngày thành lập đến nay. Khi bắt đầu thành lập công ty gặp một số vấn đề trở ngại về mặt hàng sản phẩm, vốn ban đầu chưa cao mặt hàng sản phẩm ít, khi các nhân viên kinh doanh giới thiệu sản phẩm đến khách hàng, mặt hàng chưa phong phú, không đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của khách hàng, chính điều đó vô tình bỏ xót đi một số khách hàng tiềm năng vì theo như quan sát thị trường họ thường thích mua những sản phẩm có cùng nhà cùng cấp để tiện việc giao hàng cũng như thanh toán. Vì vốn ban đầu chưa cao doanh nghiệp mới thành lập nên việc mua hàng cũng như công nợ thu hồi nhanh khiến một số khách hàng sau một lần mua thì không giám đặt mua sản phẩm nữa….Dựa trên doanh thu bán hàng trong 2 năm, công ty ngày càng làm ăn có lãi vốn ban đầu được nâng lên từ 2 tỷ lên 4 tỷ. Từ việc làm ăn có lãi, doanh thu tăng, mặt hàng được nhanh chóng phát triển đa dạng các sản phẩm, việc tăng doanh thu khiến đời sống nhân viên đỡ hơn phần nào, từ đó thúc đẩy quá trình kinh doanh cho đến nay tên tuổi của công ty đã được khẳng định trên thị trường Việt Nam. 2.1.5.2. Những thuận lợi và khó khăn hiện nay. * Thuận lợi: Từ một cửa hàng nhỏ đến công ty nhỏ với số vốn ban đầu chưa cao, cho đến nay việc phát triển của công ty được đẩy mạnh một cách nhanh chóng. Với mặt hàng của công ty cung cấp đi đôi với dịch vụ khách hàng tốt thì sản phẩm của công ty được các doanh nghiệp khác tin dùng. Các mặt hàng sản phẩm dù vẫn nằm trong khu vực cung ứng cho nghành công nghiệp nhưng được đa dạng hoá sản phẩm, tạo ra uy tín trên thị trường về mọi mặt. * Khó khăn: Bộ máy công ty chưa được đa dạng hoá, nhân viên kinh doanh kỹ năng về giao tiếp trong kinh doanh vẫn chưa cao, chưa khai thác hết tiềm năng kinh tế cũng như bỏ lỡ các doanh nghiệp lớn. Các sản phẩm vẫn còn bó hẹp trong một phạm vi nhất định. Với nhu cầu phát triển của thị trường nhiều doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề tương tự gây nên sự cạnh tranh về giá cả dịch vụ cao, sự cạnh tranh khiến các doanh nghiệp có sự phân vân giữa sản phẩm. Biến động của thị trường kéo theo giá cả lên xuống bất động gây khó khăn trong việc bán hàng…. 2.1.5.3. Phương hướng hoạt động trong thời gian tới. Nắm bắt nhu cầu của thị trường và nhu cầu người tiêu dùng với mong muốn đẩy mạnh quá trình phát triển của doanh nghiệp, chính vì vậy nghiên cứu thị trường xem xét nhu cầu của từng cá nhân doanh nghiệp để đáp ứng kịp thời. Tìm kiếm các nhà cung cấp có giá phải chăng nhưng chất lượng sản phẩm vẫn tốt để tăng cao lợi nhuận. Nâng cao đẩy mạnh trình độ của từng nhân viên, đáp ứng nhu cầu thực tế của nhân viên giúp họ gắng bó với doanh nghiệp một cách lâu dài. Việc ổn định một giá tương đối thấp có thể giúp doanh nghiệp mở rộng nhanh chóng thị trường tiêu thụ… 2.1.6. Hệ thống sản phẩm của công ty. Cung cấp các mặt hàng trong nghành công nghiệp như: súng phun sơn, bơm sơn, dây sơn… Sản phẩm kinh doanh của công ty: Sản phẩm là một trong những yếu tố quan trọng trong việc kinh doanh việc tiêu thụ các mặt hàng trong doanh nghiệp là góp phần trong quá trình đạt hiệu quả cho nền kinh tế của doanh nghiệp, sản phẩm của công ty chủ yếu tiêu thụ mạnh nhất trên thị trường công nghiệp, các sản phẩm phun sơn đang là sản phẩm thiết yếu trong ngành sơn sửa, giá thành phải chăng hợp với nhu cầu của từng doanh nghiệp, dựa trên thuận lợi đó mà sản phẩm kinh doanh được bán và tiêu thụ nhanh trên thị trường. Tuy nhiên sản phẩm này chủ yếu xuất xứ từ Đài Loan, Nhật Bản vì thế việc cân nhắc sản phẩm lựa chọn nhà cung cấp đúng thời điểm, hợp giá cả, đang là vấn đề đặc ra của công ty hiện nay. Hình 2.5: Một số hình ảnh về sản phẩm của công ty 2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty TNHH Hồng Hữu. Từ khi thành lập trải qua nhiều khó khăn, công ty TNHH HỒNG HỮU hiện nay đã có một vị thế nhất định, góp phần vào sự phát triển của nền kính tế Việt Nam. Trong quá trình thực hiện kinh doanh, công ty luôn đặt ra những mục tiêu chính cho bản thân mình và cố gắng thực hiện thành công đó. Trong điều kiện hoạt động hiện nay việc nỗ lực đều nhằm việc mở rộng thị trường đồng thời vấn đề về hiệu quả kinh doanh cũng được đặt lên hàng đầu. Trên thực tế cả hai việc này đang cố gắng hoàn thiện và đã hoàn thành được một phần chỉ tiêu đề ra trong đó nổi bật nhất là việc mở rộng thị trường. Đi đôi với việc mở rộng thị trường thì doanh số của công ty ngày càng được hoàn thiện bằng chứng là doanh số của mỗi tháng đều tăng lợi nhuận. Đời sống của nhân viên ngày một nâng cao từ mức lương căn bản 1.300.000/người/tháng năm 2007 lên 1.700.000/người/tháng năm 2008 và đến năm 2009 thì mức lương căn bản là 2.200.000/người/ tháng ( ngoài ra còn có các khoản phụ cấp khác). Bước vào năm 2010 tuy với mức lương vẫn như cũ là 2.200.000/ người/ tháng nhưng với tình hình doanh thu của doanh nghiệp, chỉ tiêu đề ra, mức hoàn thành đạt được đáng kể dự kiến cuối quý II , thu nhập của người lao động sẽ được tăng theo dự kiến sẽ là 2.500.000/người/tháng. Công ty đã góp phần đẩy mạnh quá trình phát triển của nền kinh tế nước nhà cũng như tạo công ăn việc làm cho người lao động trong công cuộc hiện đại hoá đất nước. 2.2.1. Hệ thống sản phẩm hàng hoá, chương trình khuyến mãi mà công ty đã đưa ra. Hàng hoá từ công ty chủ yếu là những sản phẩm phục vụ cho ngành công nghiệp nhẹ, dựa trên kênh sản phẩm bán sĩ và lẻ, chủ yếu là bán lẻ cho các doanh nghiệp, xưởng sản xuất, các cửa hàng mua đi bán lại…. mỗi sản phẩm, có một giá cả khác nhau cũng như tuỳ vào từng doanh nghiệp mà đưa ra giá cả hợp lý. Tuỳ vào thời gian hàng hoá mà bên cung ứng đưa ra nên từ đó ban lãnh đạo sẽ đưa ra những chương trình khuyến mãi khác nhau, thông thường các chương trình khuyến mãi công ty đưa ra là: - Mua mười tặng 1 - Mua mười giảm giá ưu đãi hoặc tặng bộ súc rữa vệ sinh sản phẩm … Các chương trình khuyến mãi này thực sự hoạt động có hiệu quả, thực tế là khi đưa ra các chương trình khuyến mãi này doanh thu bán hàng tăng lên đáng kể, các cửa hàng mua hàng nhiều hơn. 2.2.2. Thị trường khách của công ty. Đây chính là tiềm năng của công ty doanh thu được thúc đẩy chủ yếu là các cửa hàng bán lẻ, các cơ sở sản xuất chế biến gỗ, các cơ sở chế biến đồ chơi, phun xe. * Ví dụ: Công ty Bảo Pha chuyên sản xuất mặt hàng gỗ, công ty SYM chuyên sản xuất xe máy, đồ dùng gia đình Việt Nam chuyên sản xuất về đồ chơi trẻ em…. Đây là khách hàng thường xuyên lấy hàng của công ty theo hợp đồng và các cửa hàng bán lẻ chợ Dân Sinh, Chợ lớn … 2.2.3. Các hoạt động kinh doanh tổng hợp. Ngoài các hoạt động mua bán sản phẩm chính của công ty, thì việc đi đôi với dịch vụ giao hàng miễn phí, lắp đặc bảo trì, thay thế linh kiện miễn phí trong thời gian bảo hành sản phẩm, phương pháp kết hợp song song với việc bán hàng tạo nên mối quan hệ chặt chẽ giữa khách hàng và doanh nghiệp từ đó biết được nhu cầu của họ để đáp ứng kịp thời. 2.2.4. Nội dung hoạt động kinh doanh. Chương trình kinh doanh. Một sản phẩm được bán ra được theo một quy trình nhất định do công ty đề ra, dù là bất cứ hình thức mua bán nào nhưng mục đích cuối cùng là tạo tính lôgic trong công việc, nội bộ trong công ty cùng thống nhất với nhau từ việc quản lý hàng hoá, thu mua sản phẩm cho đến tiêu thụ ra thị trường bên ngoài doanh nghiệp. Chu kỳ của hoạt động kinh doanh Chu kỳ kinh doanh (hay còn gọi là chu kỳ kinh tế) là sự biến động của hoạt động kinh tế. + Chu kỳ kinh doanh không qui định cụ thể là bao nhiêu lâu, nó tuỳ thuộc vào sản phẩm được đưa vào thị trường, tính chất thời vụ của sản phẩm hay chiến lược của mỗi doanh nghiệp. + Chu kỳ kinh doanh được tính dựa trên quanh vòng của 1 đồng vốn, khi đưa 1 đồng vào kinh doanh thì khi nào nó thoát ra khỏi vòng đó. + Chu kỳ kinh doanh có nhiều điểm mục tiêu: Điểm khởi động, điểm phát triển, điểm tới hạn và điểm suy thoái, cái này gần giống với vòng đời sản phẩm. + Chu kỳ kinh doanh: Của mỗi đơn vị được xác định dựa trên cân bằng cung cầu của thị trường, đơn vị nào xác định chính xác được điểm cân bằng này sẽ đưa ra được một chu kỳ kinh doanh hợp lý và có hiệu quả. + Chu kỳ kinh doanh có thể là 3 tháng, 6 tháng: Đối với những đơn vị kinh doanh mang tính chất thời vụ nhưng cũng có thể kéo dài 3 năm, 5 năm đối với những đơn vị nghiên cứu, đầu tư cơ sở hạ tầng ... + Chu kỳ kinh doanh: Đương nhiên khi nói đến chu kỳ là phải nhắc đến điểm bắt đầu và kết thúc của nó. Với một chiến lược gia giỏi họ không bao giờ để chu kỳ kinh doanh của mình bị gián đoạn, nó luôn được nối tiếp nhau ... Vì thế nói chu kỳ kinh doanh thực chất chỉ là giới hạn vô cùng trong đồ thị kinh tế. Quy trình xây dựng – bán sản phẩm kinh doanh. Để bán được một sản phẩm ra thị trường công ty đã đưa ra quá trình để xây dựng tiếp cận thị trường, nhằm thúc đẩy quá trình bán hàng một cách nhanh nhất. a, Xây dựng chương trình. Bước 1: Thăm dò tìm kiếm và sàng lọc Bước 2: Tiếp cận sơ bộ Bước 3: Tiếp cận Bước 4: Giới thiệu và trình diễn Bước 5: Khắc phục những ý kiến phản đối Bước 6: Kết thúc thương vụ Bước 7: Tiếp tục theo dõi và duy trì Sơ đồ 2.3: sơ đồ xây dựng chương trình kinh doanh Cụ thể các bước như sau: Bước 1: Thăm dò tìm kiếm và sàng lọc Bước đầu tiên trong quá trình bán hàng là phát hiện ra các khách hàng triển vọng, xây dựng một danh sách khách hàng tiềm năng của mình, sàng lọc những khách hàng yếu kém. Nhân viên bán hàng có thể gọi điện thoại gửi thư cho các khách hàng triển vọng trước khi quyết định viếng thăm. Bước 2: Tiếp cận sơ bộ Nhân viên kinh doanh cần tìm hiểu đầy đủ thông tin về khách hàng, đề ra mục tiêu của cuộc viếng thăm. Bước 3: Tiếp cận Biết cách chào hỏi người mua để có được bước mở đầu cho mối quan hệ sau này, bao gồm biểu hiện bề ngoài, những lời mở đầu và cách nhận xét trong câu chuyện. Bước 4: Giới thiệu và trình diễn Đây là giai đoạn nhân viên kinh doanh giới thiệu sản phẩm của mình với người mua theo công thức AIDA (chú ý, quan tâm, mong muốn, hành động mua), nhân viên bán hàng phải nhấn mạnh kỹ lưỡng những lợi ích của khách hàng và nêu lên những tính năng của sản phẩm đảm bảo được những lợi ích đó. Bước 5: Khắc phục những ý kiến phản đối Khách hàng hầu như bao giờ cũng đưa ra những ý kiến phản đối trong quá trình giới thiệu hay khi đề nghị đặt mua hàng, sự chống đối của họ có thể về mặt tâm lý hay lôgic. Để xử lý những chống đối này, nhân viên kinh doanh luôn phải giữ thái độ vui vẻ, đề nghị người mua làm rõ những ý kiến không tán thành, phủ nhận hợp lý giá trị những ý kiến phản đối... Bước 6: Kết thúc thương vụ Đây là giai đoạn phải cố gắng kết thúc thương vụ, cần biết cách nhận ra những tín hiệu kết thúc thương vụ ở người mua, bao gồm những cử chỉ, lời nói hay nhận xét và những câu hỏi, nhân viên bán hàng có thể đưa ra những tác nhân đặc biệt để kích thích người mua kết thúc thương vụ. Bước 7: Tiếp tục theo dõi và duy trì Bước cuối cùng này là cần thiết khi nhân viên bán hàng đảm bảo chắc chắn khách hàng sẽ hài lòng và tiếp tục quan hệ làm ăn, ngay sau khi kết thúc thương vụ các nhân viên kinh doanh cần hoàn tất mọi chi tiết cần thiết về thời gian giao hàng, điều kiện mua hàng, họ cần có kế hoạch giữ khách để đảm bảo chắc chắn không bỏ quên hay để mất khách hàng. Việc bán sản phẩm của công ty hiện nay chủ yếu là thị trường Tp. HCM, Bình Dương và Đồng Nai, chính vì vậy còn có một số phần hạn chế về thị trường tiêu thụ, trong khi các KCN ở các vùng khác lại có nhu cầu rất cao nhưng chưa được chú trọng tới chính điều đó đã làm giảm hiệu quả kinh doanh của công ty. b, Giá sản phẩm . Giá cả sản phẩm dựa trên sự biến động của thị trường hoặc dựa trên sự thoả thuận mua bán giữa nhân viên kinh doanh và khách hàng tuy nhiên về phía công ty vẫn đưa ra những mẫu bảng giá quy định chung cho các mặt hàng so với thực tế. Giá thành vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan, chủ yếu dựa trên giá thành thực tế của thị trường, tính chủ quan của giá thành ở chổ việc tính toán đo lường được thể hiện với đơn vị tính bằng tiền, với góc độ của nhà quản lý doanh nghiệp giá thành sản phẩm phản ánh chất lượng kinh tế doanh nghiệp, mức hạ hay tăng giá thành sản phẩm phản ánh tình hình biến động của các loại vật tư, tiền vốn, tiền chi phí lao động của doanh nghiệp. Trên góc độ kinh tế mức giá thành sản phẩm là thước đo chi phí tạo nên khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp. Sự nghiên cứu giá thành trên mỗi loại sản phẩm từ đó đưa ra những giá thành hợp lý sao cho phù hợp với túi tiền của người mua. Thông thường các công ty TNHH giá thành sản phẩm được tính theo cách tính như sau: Giá thành tổng SP = giá SP mua vào + chi phí QLDN + chi phí bán hàng c, Bán sản phẩm . Để bán được sản phẩm, mỗi nhân viên kinh doanh cũng có những kỹ năng nhất định do đó các chiến lược đưa ra cho nhân viên sẽ là: Nắm toàn bộ các thông tin liên quan đến sản phẩm mới: Tất cả những đặc điểm, thông tin liên quan đến sản phẩm nhân viên cần phải nắm rõ từng chi tiết và điều quan trọng là phải trở thành một chuyên gia về sản phẩm của mình, biết nhiều hơn đối thủ cạnh tranh. Sau đó, chính nhân viên kinh doanh sẽ là người đặt ra các câu hỏi nằm trong những thắc mắc có thể của khách hàng rồi thực hành trước một người bạn người mà chưa hề có một chút thông tin về sản phẩm. Khi giới thiệu cố gắng tụ lại những điểm quan trọng nhất trong bài thuyết trình của mình từ 15 đến 20 giây. Đừng cho rằng những khách hàng tiềm năng biết tất cả về sản phẩm Bắt đầu bằng cách đặt ra các câu hỏi quan trọng liên quan đến việc khách hàng đánh giá sản phẩm này như thế nào qua bài nói của mình. Sau đó điều chỉnh lại cách truyền đạt thông tin sản phẩm cho thích hợp với một giọng nói hấp dẫn và đầy thu hút. Nhân viên cần nhận ra một khó khăn trong cuộc sống hoặc công việc của họ mà sản phẩm của mình hoàn toàn có thể giúp họ thỏa mãn và khắc phục được khó khăn đó. Sử dụng hình ảnh để quản bá sản phẩm: Khách hàng sẽ tiếp cận với sản phẩm dễ hơn nếu như họ được nhìn thấy và nghe kể chứ không phải là chỉ nói suông. Vì thế, việc quan trọng là cần phải tìm mọi cách để hình ảnh sản phẩm được hiện hữu trước khách hàng và giúp họ nhớ được nó ít nhất là trong vòng 5-6 ngày. Không để cho khách hàng rời đi mà không một chút ấn tượng nào về sản phẩm. Thu thập các thông tin liên lạc: Của khách hàng để có thể theo đuổi họ sau đó. Khi gọi điện, hãy chắc chắn rằng họ nhớ được nhân viên kinh doanh của công ty nào và họ là ai. Sau mỗi lần giao dịch: Lời cảm ơn là sợi dây gắn kết mối quan hệ của công ty với khách hàng và giữ chân họ trung thành với sản phẩm. Việc bán sản phẩm dựa trên sự kết hợp phòng ban, từ khâu nhận được đơn đặt hàng đến chuẩn bị sản phẩm bán ra theo một quy trình: * Đơn đặc hàng từ khách hàng à nhân viên kinh doanh đề xuất bán hàng (trình trưởng phòng duyệt) à thủ kho làm phiếu xuất kho (trình trưởng phòng duyệt) à kho xuất hàng kiểm tra sản phẩm số lượng trước khi giao hàng à kế toán viết hoá đơn à giao hàng. Sau khi giao hàng việc thu tiền liền hay công nợ tuỳ thuộc vào sự thoả thuận trước đó của nhân viên kinh doanh, có thể trả liền hoặc công nợ 3 ngày, 10-15 ngày, chậm nhất là 1 tháng, lúc này nhân viên kế toán có nhiệm vụ ghi chép đầy đủ thông tin bán ra, số tiền và số lượng sản phẩm, ghi vào phần lưu giữ công nợ để tiện việc theo dõi quá trình chi trả của khách hàng. Từ đó đưa ra các bước hạch toán kế toán vào mỗi kỳ. 2.2.5. Hiệu quả hoạt động kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh không chỉ là sự so sánh giữa chi phí cho đầu vào và kết quả nhận được ở đầu ra, hiệu quả kinh doanh được hiểu trước tiên là việc hoàn thành mục tiêu, nếu không đạt được mục tiêu thì không thể có hiệu quả và để hoàn thành mục tiêu ta cần phải sử dụng nguồn lực như thế nào? Điều này thể hiện một quan điểm mới là không phải lúc nào để đạt hiệu quả cũng là giảm chi phí mà là sử dụng những chi phí như thế nào, có những chi phí không cần thiết ta phải giảm đi, nhưng lại có những chi phí ta cần phải tăng lên vì chính việc tăng chi phí này sẽ giúp cho DN hoàn thành mục tiêu tốt hơn, giúp cho DN ngày càng giữ được vị trí trên thương trường. Muốn đạt hiệu quả kinh doanh, DN không những chỉ có những biện pháp sử dụng nguồn lực bên trong hiệu quả mà còn phải thường xuyên phân tích sự biến động của môi trường kinh doanh của DN, qua đó phát hiện và tìm kiếm các cơ hội trong kinh doanh của mình. 2.3. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty. 2.3..1. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh. Hệ thống chỉ tiêu tuyệt đối đánh giá kết quả kinh doanh. Để đánh giá thực trạng của một doanh nghiệp được đánh giá trên những mốc cơ sở sau: Lợi nhuận là chỉ tiêu tuyệt đối, để phản ánh kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp, lợi nhuận của doanh nghiệp là biểu hiện kết quả bằng tiền của người lao động trong suốt quá trình kinh doanh, được xác định cơ bản như: Lợi nhuận trong kỳ được hình thành từ các nguồn hoạt động bán hàng của doang nghiệp, lợi nhuận từ các khoản thu chi về hoạt động tài chính và các khoản thu khác không mang tính chất thường xuyên. Chỉ tiêu mức doanh lợi trên doanh số bán hàng: Chỉ tiêu này cho biết mức doanh số bán được trong kỳ đem lại bao nhiêu lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mức doanh lợi trên vốn kinh doanh: Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả của việc sử dụng vốn kinh doanh trong kỳ sẽ mang lại bao nhiêu lợi nhuận. Mức doanh lợi trên chi phí kinh doanh: Chỉ tiêu này cho thấy tổng chi phí kinh doanh trong kỳ sẽ mang lại bao nhiêu lợi nhuận. Trong những năm gần đây công ty không ngừng đổi mới một cách toàn diện cả về chất lượng lẫn số lượng, về quy mô tổ chức đến khoa học kỹ thuật. Từ những chỉ tiêu trên, kết quả kinh doanh được thông qua các bảng dưới đây: Bảng 2.9: kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Tổng doanh thu 2.400.000 3.000.000 3.500.000 4.200.000 Tổng chi phí 2.200.000 2.740.000 3.200.000 3.500.000 Lợi nhuận 200.000 260.000 300.000 700.000 Thuế thu nhập DN 60.000 78.000 90.000 210.000 Lợi nhuận sau thuế 140.000 182.000 210.000 490.000 (theo: thông tin phòng kế toán) Từ những số liệu trên ta được biểu đồ thể hiện tình hình kết quả hoạt động kinh doanh của công ty như sau: Tổng doanh thu 4.000.000 Lợi nhuận 3.500.000 3.000.000 2.500.000 2.000.000 1.000.000 500.000 2007 2008 2009 2010 năm Biểu đồ 2.6: Kết quả doanh thu và lợi nhuận hàng năm Mặc dù hoạt động kinh doanh vẫn còn khó khăn về tài chính, thị trường biến động, sự cạnh tranh gay gắt, nhưng công ty đã năng động trong công việc thực hiện đường lối chính sách đúng đắng nên đã đạt được những thành quả nhất định.Qua biểu trên cho ta thấy từ năm 2007-2010 công ty đã phấn đấu được những chỉ tiêu sản xuất kinh doanh như sau: Về doanh thu: Qua số liệu trên cho ta thấy không chỉ số liệu sản phẩm sản xuất tăng mà doanh thu bán hàng cũng tăng đáng kể. Năm 2008 tăng so với năm 2007 là 5%, năm 2009 so với năm 2008 tăng 6.6%, đầu quý II năm 2010 so với năm 2009 tăng 12%. Những chỉ tiêu trên cho thấy sản phẩm mà công ty bán ra không chỉ tăng về số lượng mà còn tăng cả về mức tiêu thụ, điều này chứng tỏ sản phẩm của công ty đã được thị trường chấp nhận. Về chi phí và lợi nhuận: Trong năm 2010 công ty đã nỗ lực trong công việc tiết kiệm chi phí nhằm tối đa hóa lợi nhuận cụ thể đầu năm 2010 giảm 9,3% so với năm 2009, năm 2009 giảm 6,8% so với năm 2008 và năm 2008 giảm 4.5%. Nhờ việc giảm chi phí kết hợp với chính sách kinh doanh hợp lý lợi nhuận của công ty năm 2008 tăng 30% so với năm 2007, nhưng năm 2009 lợi nhuận chỉ tăng 15,3% , đến năm 2010 tăng 33,3% so với năm 2009. Mặc dù các chỉ tiêu của các năm đều tăng nhưng xét về định tính thì tốc độ tăng của năm 2009 chậm hơn so với các năm khác, tốc độ lợi nhuận đầu năm 2010 có phần vượt trội hơn so với những năm trước. Từ những số liệu nêu trên phản ánh được một phần kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Hồng Hữu, ngoài ra còn nhiều yếu tố khác nói lên thực trạng kinh doanh của công ty như: - Xét về hiệu quả sử dụng lao động: Công ty đã dựa vào hai yếu tố là: Năng suất lao động và lợi nhuận bình quân của một lao động, các chỉ tiêu này được thể hiện ở bảng sau: Bảng 2.10: Thu nhập bình quân hàng năm Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Tổng chi phí tiền lương/ năm Triệu đồng 78.000 204.000 475.200 660.000 Thu nhập bình quân/tháng Triệu đồng/ người 1.300 1.700 2.200 2.500 Số lao động hiện có Người 5 10 18 22 ( theo nguồn thông tin phòng nhân sự) Bảng 2.11:Tình hình sử dụng lao động của công ty Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Số lượng lao động phát triển trong kỳ Người 5 10 18 22 ( theo nguồn thông tin phòng nhân sự) Qua số liệu trên ta được biểu đồ như sau: 2007 2008 2009 2010 năm Biểu đồ 2.7: Tình hình lao động ở các năm Tổng chi 660.000 660.000 phí lương 500.000 475.000 400.000 204.000 200.000 100.000 78.000 2007 2008 2009 2010 năm Biểu đồ 2.8: Thu nhập bình quân hàng năm Từ những bảng số liệu nêu trên ta có thể nêu lên được tổng thể hiệu quả sử dụng lao động qua các năm, trong đó: + Năng suất lao dộng = tổng doanh thu /số lao động + Lợi nhuận bình quân 1 lao động= lợi nhuận / tổng số lao động Chỉ tiêu trên được thông qua bảng sau: Bảng 2.12:Hiệu quả sử dụng lao động ở các năm Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Tổng doanh thu 2.400.000 3.000.000 3.500.000 4.200.000 Lợi nhuận 200.000 260.000 300.000 700.000 Số lao động 5 10 18 22 Năng suất lao động 480.000 300.000 194.444 190.909 Lợi nhuận bình quân 1 lao động 40.000 26.000 16.666 31.818 ( theo nguồn thông tin phòng kế toán) Nhìn vào số liệu tình hình sử dụng lao động của công ty cũng như mức thu nhập bình quân của các năm ta thấy chất lượng sử dụng lao động của doanh ngiệp mỗi năm một khác, ban đầu khi mới thành lập năm 2007 số lượng người của doanh nghiệp chỉ có 5 người như thế là quá ít so với nhu cầu thực tế , tuy nhiên do nhu cầu kinh doanh, sự phát triển của doanh nghiệp, và hoạt động sản xuất của các phòng ban thì năm 2008 số lượng lao động có phần tăng lên gấp đôi, từ 5 người năm 2007 lên 10 người năm 2008, và cho đến 2009 thì tăng 18 người, tăng hơn hơn 2 lần so với 2008 và 3 lần so với 2007. Mức thu nhập, chi phí bỏ ra của công ty cao hơn từ đó được kéo theo lợi nhuận phải tăng hơn so với những năm trước. Tuy nhiên mức thu nhập này chỉ là phần lương căn bảng của mỗi người lạo động, ngoài mức lương căn bản người lao động còn hưởng được các chế độ khác như phụ cấp xăng, điện thoại, chuyên cần, phí công tác, trách nhiệm (nếu có). Hiện tại tuy đang bước vào quý IV của năm 2010, tuy nhiên mức lương được tăng lên đáng kể, từ 2.200.000/ người thì giờ đây mức lương căn bảng đã tăng lên là 2.500.000/người, điều này là mức vượt đáng kể, cho thấy công ty đang trên con đường phát triển đúng đắng. Số lao động tăng, mức lương tăng kéo theo tổng chi phí tiền lương căn bản tăng nhưng vẫn nằm trong kế hoạch phát triển của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tuy là doanh nghiệp nhỏ nhưng các chế độ bảo hiểm xã hội, y tế, thất nghiệp được thực hiện đầy đủ theo quy định của nhà nước. Trong bốn năm 2007-2010 với số lượng lao động tăng nhưng năng suất lao động và lợi nhuận bình quân một lao động có phần giảm so với các năm điều này chứng tỏ việc sử dụng lạo động của doanh nghiệp là chưa hợp lý. Sự giảm sút về năng suất là do thay đổi nhân sự thường xuyên, công ty chưa chú trọng trong việc nâng cao trình độ lao động. - Xét hiệu quả chỉ tiêu sử dụng vốn: Hiệu quả này dựa trên một số chỉ tiêu như: + Hiệu quả sử dụng vốn cố định = lợi nhuận / vốn cố định *100 + Vòng quay vốn lưu động = tổng doanh thu /vốn lưu động + Hiệu quả vốn lưu động = lợi nhuận / vốn lưu động Trong đó: Bảng2.13: Hiệu quả sử dụng vốn cố định và lưu động Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm2009 Năm 2010 Tổng vốn KD 2.000.000 2.300.000 2.500.000 3.000.000 Vốn cố định 900.000 950.000 1.100.000 1.300.000 Vốn lưu động 1.100.000 1.350.000 1.400.000 1.700.000 Hiệu quả sử dụng vốn cố định 0.222 0.273 0.272 0.538 Số vòng quay vốn lưu động 2.18 2.22 2.50 2.47 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động 0.181 0.192 0.214 0.411 (theo nguồn thông tin phòng kế toán) Thông qua những chỉ tiêu trên cho ta thấy hiệu quả sử dụng vốn cố định luôn tăng , tuy nhiên mức tăng của ba năm đầu là không đáng kể,đến năm 2010 mới có phần vượt trội. Nếu như cứ 1000 đồng vốn cố định năm 2007 thì thu được 222 đồng lợi nhuận, năm 2008, 2009 là 273 đồng và 272 đồng lợi nhuận, đến năm 2010 thì lợi nhuận thu được 538 đồng. Chỉ tiêu vốn lưu động cho ta thấy số vòng quay và hiệu quả sử dụng vốn trong hai năm đầu là tương đối tăng ổn định, đến năm 2009 thì tăng vượt trội, nhưng đến 2010 thì lại giảm xuống nguyên nhân chính là do đầu năm 2010 công ty tăng thêm vốn cố định và vốn lưu động. Nhưng số liệu trên chỉ tính đến lợi nhuận đầu quý II năm 2010. - Xét hiệu quả chỉ tiêu tổng hợp: được xét theo: + Lợi nhuận doanh thu bán hàng=lợi nhuận sau thuế / tổng dooanh thu *100 + Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh theo chi phí = tổng doanh thu / tổng chi phí*100 Bảng2.14:Hiệu quả theo chỉ tiêu tổng hợp Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Lợi nhuận theo doanh thu 5.8% 6.07% 6.0% 11.6% Hiệu quả kinh doanh theo chi phí 109% 109.4% 109.4% 120% Nhìn chung tỷ lệ doanh thu là cao, song qua chỉ tiêu trên ta thấy lợi nhuận năm 2010 là cao nhất, tuy chi phí có phần tăng theo nhưng từ đó kéo theo lợi nhuận tăng, điều này cho thấy việc kinh doanh trong những quý đầu năm 2010 là chưa thật sự hiệu quả, mà nguyên nhân dẫn đến chi phí tăng là do: + Sự thay đổi nhân sự một cách thường xuyên, khiến doanh nghiệp không ngừng bỏ ra chi phí lẫn thời gian để đào tạo lại từ đầu trong khi hoạt động kinh doanh vẫn tiếp tục diễn ra. + Sự biến động không ngừng của thị trường làm giá cả sản phẩm mua vào không ngừng tăng lên theo tỷ giá, trong khi đó khách hàng của doanh nghiệp đa số là khách hàng quen nên việc tăng giá thành sản phẩm làm cho các doanh nghiệp khó mà chấp nhận được. Việc tỷ giá tăng nhưng giá thành sản phẩm vẫn giữ nguyên từ đó chi phí doanh nghiệp tăng lên đáng kể. Qua các chỉ tiêu trên cho ta thấy chỉ có một số chỉ tiêu về về vốn là tăng, còn các chỉ tiêu còn lại đều giảm so với các năm, điều này chứng tỏ năm 2008, 2009 công ty chỉ mới mở rộng mô hình kinh doanh, còn vấn đề hiệu quả vẫn chưa đạt được. Ngoài ra việc lập sơ đồ cũng phần nào đánh giá được chỉ tiêu của hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp thu và thị phẩm Lợi nhuận Mức giảm chi phí Chỉ tiêu khác Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Sơ đồ 2.4: Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp a, Doanh thu từ kinh doanh . Cũng như mọi doanh nghiệp khác, việc doanh thu của doanh nghiệp được phát sinh ra từ các hoạt động kiếm lời bằng cách mua bán sản phẩm. Doanh thu của công ty phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác nhau số lượng chất lượng, dịch vụ kèm theo khi xuất ra một sản phẩm. Nếu chất lượng sản phẩm tốt, dịch vụ tốt thì kéo theo doanh thu hiệu quả kinh doanh tốt và ngược lại. Từ đó doanh thu sẽ là: Doanh thu SP = số lượng SP * giá thành một đơn vị SP b, Chi phí từ kinh doanh. Chi phí kinh doanh xuất phát từ việc sử dụng vốn kinh doanh được thể hiện bằng tiền lương nhân viên, toàn bộ tài sản công ty bao gồm: - Tài sản cố định: Mặt bằng, văn phòng phẩm… - Tài sản lưu động: Tiền mặt, hàng hoá… Tài sản lưu động nhằm chuyển hoá thành tiền, tiền thành hàng hoá, doanh nghiệp càng biết cách sử dụng xoay vòng thì lợi nhuận càng cao. Tài sản cố định sẽ được dịch chuyển từng phần qua từng kỳ phát triển của công ty. c, Lợi nhuận. Lợi nhuận của doanh nghiệp phụ thuộc vào doanh thu của doanh nghiệp tất cả các doanh nghiệp dù là bất kỳ hình thức kinh doanh nào, mục tiêu cuối cùng vẫn là tối đa lợi nhuận, doanh thu càng lớn thì lợi nhận càng cao, điều đó sẽ được phản ánh qua hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp. ∑ lợi nhuận DN = ∑chi phí KD - ∑ doanh thu DN Tổng số ngày thực hiện để bán được sản phẩm. Thông thường để bán được sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào sự khéo léo của doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào nhu cầu thực tế của khách hàng. Để bán được một sản phẩm ra ngoài thị trường đòi hỏi nhân viên phải có sự chuẩn bị kỹ càng khi tiếp xúc với khách hàng để tránh tối thiểu những tình huống khó xử nhất khi khách hàng đặc ra câu hỏi, chỉ một sơ xuất nhỏ cũng có thể làm mất đi một phần doanh thu về công ty. Chính vì vậy việc xác định ngày bán sản phẩm còn phụ thuộc vào yếu tố từ khách hàng. Doanh nghiệp chỉ tính được xác xuất mua hàng từ khách hàng sau khi giới thiệu sản phẩm. Việc thúc đẩy trong quá trình bán sản phẩm cũng là nhân tố quan trọng trong việc thúc đẩy mua hàng. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá vị thế của doanh nghiệp. Ngày nay với việc thúc đẩy kinh tế ngày càng lớn mạnh, để khẳng định bản thân doanh nghiệp đang nằm tại vị trí nào trong thị trường phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau như: a, Hệ thống nhân sự. Việc sử dụng lực lượng lao động trong quá trình kinh doanh và ra lợi nhuận cho doanh nghiệp, với tốc độ phát triển của nền kinh tế hiện nay, việc đòi hỏi một lực lượng lao động phải tinh nhuệ, nắm bắt nhanh thị yếu của thị trường. Điều đó càng chứng tỏ họ chính là lực lượng nòng cốt trong việc thúc đẩy cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. b, Chỉ tiêu phát triển doanh nghiệp. Càng ngày yếu tố quản trị càng đóng vai trò quan trọng trong việc kinh doanh của doanh nghiệp, để tồn tại trước hết doanh nghiệp phải chiến thắng trong việc cạnh tranh, tạo ra lợi thế trong chất lượng sản phẩm, sự khác biệt sản phẩm. Đội ngũ lãnh đạo luôn luôn dựa theo tài năng vốn có của mình để điều khiển doanh nghiệp làm cho doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ về mọi mặt. Việc xử lý thông tin nội bộ với nhau cũng được liên kết chặt chẽ, các thông tin doanh nghiệp cũng được coi là hàng hoá, các thông tin như giá cả sản phẩm, thông tin khách hàng, đối thủ cạnh tranh cần nắm rõ ràng, nhất là những thay đổi của chính sách nhà nước, thông tin càng chính xác việc tránh rủi ro càng cao. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh. a, Chỉ tiêu về sản lượng. Là một trong những nhân tố đánh giá chất lượng của kết quả kinh doanh, bằng cách so sánh kết quả kinh doanh của năm này với kết quả kinh doanh của năm trước từ đó có cơ sở xem xét về mặt tổng giá trị sản lượng, chi phí kinh doanh, doanh thu và lợi nhuận của kỳ thực hiện so với dự định mục tiêu đề ra. Doanh thu tăng hay giảm, giá trị tổng sản lượng có giảm được chi phí hay không? Lợi nhuận năm này so với năm trước là bao nhiêu? các thông số sẽ phản ánh được việc kinh doanh hiệu qủa hay không hiệu quả. b, Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận. * Lợi nhuận: Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, nên sau khi bán hàng hoá theo đúng giá trị, nhà tư bản không chỉ bù lại đủ số tiền đã ứng ra, mà còn thu được một số tiền lời ngang bằng m. Số tiền lời này gọi là lợi nhuận, ký hiệu là p. Lợi nhuận là giá trị thặng dư khi được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, là kết quả hoạt động của toàn bộ tư bản đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Công thức tính lợi nhuận: p = W-k Công thức W = k + m chuyển thành W = k + p, có nghĩa là giá trị hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận. Lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nó phản ánh sai lệch bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Cái khác nhau giữa bỏ m và p ở chỗ, khi nói m là hàm ý so sánh nó với v, còn khi nói p lại hàm ý so sánh với (c + v), p và m thường không bằng nhau, p có thể cao hơn hoặc thấp hơn m, phụ thuộc vào giá cả bán hàng hóa do quan hệ cung - cầu quy định. Nhưng xét trên phạm vi toàn xã hội, tổng số lợi nhuận luôn ngang bằng tổng số giá trị thặng dư. * Tỷ suất lợi nhuận: Tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước, kí hiệu là p' và biểu thị bằng công thức: Trong đó: - m là khối lượng giá trị thặng dư - c tư bản bất biến - v tư bản khả biến. TSLN là hình thức biến tướng của tỉ suất giá trị thặng dư. TSLN nêu lên hiệu suất sử dụng tư bản chứ không nói lên trình độ bóc lột. TSLN phụ thuộc vào các nhân tố: tỉ suất giá trị thặng dư, cấu thành hữu cơ của tư bản, tốc độ chu chuyển của tư bản, tiết kiệm trong việc sử dụng tư bản bất biến… Người ta có thể tính TSLN bằng cách: lấy tổng doanh thu bán hàng trừ (-) chi phí sản xuất, ta có lợi nhuận. Lấy lợi nhuận chia (/) cho chi phí sản xuất, từ đó ta có TSLN. TSLN chỉ rõ nơi hoặc lĩnh vực đầu tư có lợi. c, Số vòng quay của toàn bộ tài sản . Vòng quay tài sản cố định: là một trong những tỷ số tài chính đánh giá khái quát hiệu quả sử dụng tài sản, ở đây là tài sản cố định, của doanh nghiệp. Thước đo này được tính bằng cách lấy doanh thu của doanh nghiệp đạt được trong một kỳ nào đó chia cho giá trị bình quân tài sản cố định thuần (ròng) của doanh nghiệp trong kỳ đó. Giá trị bình quân này được tính bằng cách lấy giá trị trung bình cộng của giá trị đầu kỳ và giá trị cuối kỳ. Số vòng quay tài sản cố định là nó cho biết 1 đồng giá trị bình quân tài sản cố định thuần tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Nếu số vòng quay tài sản cố định lớn, có thể doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thâm dụng vốn. Vòng quay vốn lưu động: Là một trong những tỷ số tài chính để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp qua việc sử dụng tài sản lưu động. Tỷ số này được tính bằng cách lấy doanh thu trong một kỳ nhất định chia cho giá trị bình quân của tài sản lưu động trong cùng kỳ. Giá trị bình quân tài sản lưu động bằng trung bình cộng của giá trị đầu kỳ và giá trị cuối kỳ. Số vòng quay tài sản lưu động còn cho biết mỗi đồng tài sản lưu động đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng doanh thu. 2.3.2. Điểm mạnh. Là một doanh nghiệp nhỏ nhưng hệ thống các phòng ban tại công ty được phân chia rõ ràng, các hệ thống được nối liền ăn khớp với nhau, về mọi mặt. Sản phẩm của công ty chủ yếu kinh doanh về mặt hàng ngoại, chính vì vậy mà sản phẩm, chất lượng sản phẩm được khách hàng hài lòng. Với đội ngũ nhân viên trẻ và đầy năng động được trang bị kiến thức đầy đủ về kinh doanh, được huấn luyện về sản phẩm cũng như thủ thuật sửa chữa máy móc. Chính điều đó có thể cắt giảm được một phần nhân lực không cần thiết từ đó thúc đẩy mạnh hiệu quả kinh doanh. Công ty có mối quan hệ mật thiết với các nhà cung cấp trong và ngoài nước, trên cơ sở hợp tác hai bên cùng có lợi công ty đã tạo nên được chữ tín cho sản phẩm và các nhà cung ứng. Tại thị trường Tp. HCM, sản phẩm của công ty chiếm hơn 70% về việc bỏ sỉ cho các cửa hàng bán lẻ và các cơ sở sản xuất khác. Tuy nhiên đó chưa phải là thế mạnh của công ty nếu như khai thác sâu hơn về các thị trường khác như Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ. 2.3.4. Điểm yếu. Ngoài những ưu điểm hiện có, bên cạnh đó công ty cũng có một số trở ngại gây khó khăn trong việc tạo ra hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh những cá nhân tích cực trong công việc còn có một số vẫn chưa thoả mãn lắm với chính sách công ty đề ra. Gây khó khăn trong công việc kinh doanh mà nhất là bên ngoài mang tính chất dịch vụ. Các vấn đề trong công tác thủ tục hành chính vẫn còn sơ sài, trang thiết bị của công ty chưa hiện đại gây khó khăn trong việc in lưu sửa chữa văn bản hành chánh. Sự hạn chế trong công việc hành chính như internet, email, điện thoại nhằm giảm chi phí hành chính nhưng chính điều đó lại gây nên sự khó khăn về giao tiếp với khách hàng khi có thông tin cần trao đổi. Là đội ngũ nhân viên trẻ chính vì thế việc thiếu hiểu biết về các đối tác gây nên bất lợi cho các cuộc gặp gỡ tạo trở ngại cho việc thúc đẩy bán hàng. Tuy nhân viên có kiến thức trong việc kinh doanh nhưng kinh nghiệm còn non yếu chưa biết cách khai thác hết các khách hàng tiềm năng, chỉ chú trọng đến những khách hàng đã là mối của công ty để tạo ra lợi nhuận. khiến việc thị trường bị dậm chân tại chổ ảnh hưởng đến quá trình phát triển của công ty. Phần lớn việc nhập hàng từ đối tác nước ngoài chính vì vậy mà phần lớn hàng hoá được lưu thông chậm hơn so với dự kiến, khiến việc kinh doanh bị khựng lại, từ đó có các múi giờ trống, gây ra hiệu quả kinh doanh bị giảm sút, các khách hàng than phiền về việc chậm trễ giao hàng khiến họ có ý nghĩ muốn tìm nhà cung cấp khác gây ra hậu quả kinh doanh. Việc kinh doanh đòi hỏi vốn chi phí rất cao, vì nguồn hàng cung cấp từ nước ngoài nên công nợ rất ít, chính vì vậy việc huy động vốn thêm từ lợi nhuận là rất cấp bách, tuy nhiên công nợ khách hàng quá cao giải quyết chậm, việc này làm ảnh hưởng đến vấn đề tài chính và khả năng thanh toán của công ty. Việc không ngừng đổi mới những chính sách đề ra cũng gây nhiều bất lợi cho nhân viên, khiến họ chưa kịp thích nghi với việc này đã phải chuyển sang một chế độ khác, bên cạnh đó việc tuyển nhân viên thay thế liên tục khiến công việc bị lủng củng ảnh hưởng đến quá trình đào tạo cũng như kinh tế của doanh nghiệp. 2.3.5. Nguyên nhân gây ra hạn chế. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp với nhau về giá cả, mặt hàng sản phẩm khiến các doanh nghiệp phải thay đổi giá liên tục từ đó gây ra những mối nghi ngờ của các khách hàng, sản phẩm giá thấp thêm xuất hiện các mặt hàng nhái, sản phẩm không được đảm bảo gây thiệt hại cho các doanh nghiệp có sản phẩm chân chính trong đó có công ty TNHH HỒNG HỮU. Việc thay đổi văn bản liên tục của nhà nước cũng làm ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của công ty. Bộ máy quản lý của công ty còn quá non trẻ nên có nhưng ý kiến khắc khe gây ra sự mâu thuẩn ý kiến nội bộ, bên cạnh đó việc kinh nghiệm sản phẩm ngành nghề chỉ là truyền miệng nhau để chỉ dạy, chưa có một lớp học cụ thể, việc tìm hiểu nghiên cứu thị trường vẫn chưa được chú trọng chỉ gò bó trong khuôn khổ nhất định, sản phẩm công ty vẫn chưa bao hết ngành công nghiệp khiến các nhà cung cấp khác có cơ hội xâm nhập vào các khách hàng của công ty và hiện nay vấn đề này vẫn chưa được giải quyết. 2.4 Ý nghĩa của việc đánh giá. "Phân tích hoạt động kinh doanh" quan trọng đến nỗi nó trở thành một "học phần" trong cơ chế quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, để hiểu và phân tích sâu hoạt động kinh doanh thông qua Báo cáo tài chính: + Kết quả hoạt động kinh doanh của một DN phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và được phản ánh tổng hợp trong "Báo cáo tài chính năm". Muốn xem xét tác động của các yếu tố chính trong kết quả kinh doanh này, người ta cần phân tích rất kỹ để từ đó xác định được những nguyên nhân chủ quan, khách quan, qua đó định hướng hoạt động kinh doanh cho thời gian tới. + Như vậy, thực chất phân tích hiệu quả kinh doanh là thông qua những "con số" của báo cáo tài chính để làm cho nó "biết nói", phục vụ chủ doanh nghiệp điều hành kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất, giúp DN tiếp tục tồn tại và phát triển vững chắc. Tóm lại muốn đạt hiệu quả kinh doanh, DN không chỉ có những biện pháp sử dụng nguồn lực bên trong hiệu quả mà còn phải thường xuyên phân tích sự biến động của môi trường kinh doanh của DN, qua đó phát hiện và tìm kiếm các cơ hội trong kinh doanh của mình. Từ những thành tựu trong những năm qua được thể hiện ở mức sản phẩm kinh doanh không ngừng đa dạng hóa, giá cả sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, doanh thu, lợi nhuận, nghĩa vụ với nhà nước đều tăng lên so với các năm, mức thu nhập của người lao động ngày càng nâng cao… Để đạt được những thuận lợi này ngoài những nỗ lực của từng thành viên trong công ty còn có phần góp sức của ban quản trị đã đưa ra chính sách đường lối đúng đắng. Điều này thể hiện qua các con số cho thấy chiến lượt của công ty là hoàn toàn hợp lý. Ngoài những thành tựu được nói trên công ty còn có những hạn chế nhất định như: thị trường chủ yếu của công ty là thị trường trong nước mà thị trường trọng điểm là Tp.HCM, Bình Dương và Đồng Nai, tuy có những ưu điểm song chính sách tập trung một điểm là thị trường phía nam cũng có những hạn chế nhất định như gặp nhiều rủi ro trong biến động thị trường. Qua thực tế nghiên cứu tại công ty thì đây là nguyên nhân làm giảm hiệu quả kinh doanh của công ty. Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH TẠI CÔNG TY TNHH HỒNG HỮU. 3.1. Phương hướng và mục tiêu của công ty . 3.1.1. Xác định phương hướng kinh doanh của công ty trong những năm tới Là một doanh nghiệp tư nhân, với qui mô kinh doanh nhỏ, chính vì vậy công ty luôn phát huy những tính năng sản phẩm vượt trội của công ty, kết quả là những năm gần đây việc phát triển kinh tế có phần vượt trội hơn so với những năm trước. Có được như thế là nhờ vào sự nỗ lực của tất cả nhân viên trong công ty. Các chỉ tiêu được đề ra , nâng cao hiệu quả kinh doanh cụ thể: Bảng 3.1: Kế hoạch kinh doanh 4 năm của công ty đề ra năm 2007- 2010 Đơn vị tính: triệu đồng Stt Chỉ tiêu / năm 2007 2008 2009 2010 1 Giá trị sản lượng 2.300.000 2.800.000 3.000.000 4.000.000 2 Doanh thu 2.000.000 2.600.000 2.800.000 3.800.000 3 Nộp ngân sách nhà nước 65.000 70.000 75.000 81.000 4 Thu nhập người lao động 1.300 1.700 2.000 2.200 5 Lợi nhuận 200.000 260.000 300.000 700.000 (Theo nguồn tin phòng kế hoạch) Dựa Theo nguồn tin phòng kế hoạch, điều này cho thấy, kế hoạch của công ty được đề ra ngày từ khi mới thành lập, chính vì vậy mà phần sai số sẽ có mức chênh lệch, điều đáng mừng là mỗi năm doanh thu thực tế đều tăng so với dự tính ban đầu, năm 2009 doanh số thự tế thu được là 3.5 tỷ hơn 700 triệu so với dự tính, bước vào đầu quý II của năm 2010 thì doanh thu là 4.2 tỷ, tính đến tháng 10/2010 thì doanh số đã tăng hơn 10 tỷ đồng, tăng hơn 38% so với dự định ban đầu. Như chúng ta đã biết muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh thì việc tiếp cận thị trường là phần rất quan trọng. Nghiên cứu thị trường là bước cần thiết để xác định khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty. Từ việc nghiên cứu nhu cầu thị yếu của khách hàng xem họ suy nghĩ gì về chất lượng sản phẩm, chất lượng phục vụ, mẫu mã, giá cả, phương thức thanh toán, số lượng đối thủ cạnh tranh, việc khảo sát có như vậy mới nâng cao hiêu quả kinh doanh được. Muốn sản phẩm tiêu thụ, trước hết khách hàng phải biết thông tin từ sản phẩm, việc quảng bá sản phẩm rất được chú ý, nhưng trên thực tế sản phẩm của công ty việc quảng bá chưa được chú tâm cụ thể, đơn thuần chỉ là sự sơ sài trong việc phát catolog cho khách hàng tiềm năng, các khách hàng đã gặp công ty thì mới biết chút ít về sản phẩm. Quảng cáo sản phẩm trên các thông tin đại chúng như báo chí, truyền thông… Không được chú ý vì kinh phí cao, nhưng lại không phù hợp. Muốn sản phẩm được các công ty khác biết đến trước tiên phải đi đúng địa chỉ mục tiêu, mở rộng chương trình hội nghị khách hàng thân thiết hàng năm, tham gia các cuộc triển lãm, hội chợ, mở ra một trang web bán hàng là việc quảng bá mặt hàng rất tốt so với thị trường hiện nay. à Nói tóm lại khâu tiêu thụ sản phẩm là rất quan trọng, trong thời gian tới công ty cần đẩy mạnh khâu kinh doanh, để tăng lợi nhuận doanh thu cho mình. 3.1.2. Mục tiêu kinh doanh của công ty. Công ty TNHH HỒNG HỮU là doanh nghiệp còn trẻ trên thị trường chính vì vậy mục tiêu phấn đấu đạt thành tích luôn là tiêu chí hàng đầu của doanh nghiệp đề ra. Chính vì vậy hướng cho doanh nghiệp đi theo đường lối đúng đắng để đạt lợi nhuận tối đa là một quá trình thật sự nan giải với doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, mục tiêu được Ban Giám Đốc đề ra ngay từ những năm đầu thành lập công ty đã đạt được hơn cả sự mong đợi. Cụ thể như sau: Năm 2007 chỉ tiêu ban giám đốc đề ra là 2.3 tỷ đồng trên số vốn là 2 tỷ tức là chỉ cần tăng lợi nhuận sau thuế là 300 triệu đồng, thế nhưng chỉ sau 1 năm doanh thu vượt lên cả sự mong đợi là 2.4 tỷ tăng sắp xỉ là 9.5% so với dự định. Bước sang năm 2008 thì mục tiêu ban đầu là 2.8 tỷ đồng cho cả năm nhưng cũng tăng 3 tỷ đồng so với dự định, sang năm 2009 mức doanh thu cũng tăng lên đáng kể so với dự định ban đầu là 11.6% từ 3 tỷ lên 3.5 tỷ (theo nguồn tin của phòng kế hoạch và kinh doanh). So với kết quả cả năm thì đó là sự gia tăng và phát triển tương đối đồng đều dựa trên tiền mặt. Tuy nhiên dựa vào kết quả phần trăm tăng trưởng thì năm 2009 có phần vượt trội hơn cả. Vì mục tiêu doanh số là sự kết chuyển theo hàng tháng có nghĩa là khi hàng tháng đặc ra mục tiêu doanh số nhất định đạt được, thì phần còn lại của doanh số sẽ được kết chuyển vào tháng sau, tạo nên mũi tên chiều hướng đi lên của doanh nghiệp. Hiện tại thì đầu năm 2010 doanh nghiệp đã không đưa ra mức định lượng tháng cụ thể, hoạch định lúc ban đầu chỉ đưa ra mức doanh số cao hơn so với năm trước từ đó doanh thu bán hàng sẽ được theo dõi, tháng nào sẽ đóng kết tháng đó, chính vì vậy mà biết thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp. Từ tháng 1 đến tháng tháng 7 doanh số vẫn tiếp tục phát triển so với những năm trước nhưng vẫn giữ nguyên doanh số là gần 1 tỷ đồng/ tháng, đến tháng 8/2010 và tháng 9/2010 thì doanh số tụt xuống so với những tháng trước 950 triệu, 890 triệu (theo thống kê của phòng kế toán), điều này làm ảnh hưởng đến dự kiến trong kinh doanh của doanh nghiệp vì trong kinh doanh thì vào tháng 6 trở đi được xem là vào mùa của doanh nghiệp, việc này đồng nghĩa với doanh số phải tăng hơn so với những tháng trước. nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do thụ động trong công tác tìm kiếm khách hàng mới. Đến tháng 10 thì doanh số bình ổn trở lại, có phần tăng hơn so với những tháng trước, điều này chứng tỏ công ty đã và đang đi trên con đường kinh doanh đúng đắn. 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. 3.2.1. Tăng hoạt động kinh doanh. Thực hiện tốt các kế hoạch đã đề ra cụ thể là năm 2007,2008,2009 mức doanh thu của công ty đều tăng hơn so với dự kiến (theo nguồn thông tin phòng kế toán), hiện tại đến năm 2010 thì số lượng trong năm đầu cũng tăng đáng kể, điều này cho thấy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đang có chiều đi đúng hướng công ty đã thực hiện đúng với quy định của nhà nước đề ra về các chế độ. Việc tăng thu nhập cho nhân viên theo đúng như dự kiến đã đưa ra năm 2009, tuy mức lương hơi thấp so với doanh thu của công ty, nhưng cũng đã góp phần vào giải quyết được một phần trong việc quản lý doanh nghiệp cũng như góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. 3.2.1.1. Duy trì và khai thác tốt thị trường hiện tại đồng thời mở rộng đến các thị trường khác, lựa chọn thị trường mục tiêu. Thị trường hiện tại đã là môi trương khá thuận lợi trong công cuộc kiếm lời của công ty tuy nhiên việc đẩy mạnh khai thác thị trường luôn luôn được chú trọng, thị trường càng lớn chứng tỏ khả năng tăng doanh thu càng cao. Mở rộng thị trường không những trong phạm vi phía nam mà còn vươn xa hơn như thị trường phía bắc và nước ngoài. Việc tham gia vào đấu thầu cung cấp vật tư cho các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước cũng góp phần đẩy mạnh uy tín của công ty. Tiếp tục đầu tư đa dạng hoá sản phẩm, cải tạo nhân lực là thực hiện được một phần của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. 3.2.1.2. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty. Đối với người lao động: Thường xuyên trao dồi kiến thức tổng hợp phục vụ cho việc kinh doanh, dựa trên kinh nghiệm thực tế lẫn trên sách vở, có sự kết hợp hài hoà, đưa vào thực tiễn để đưa hiệu quả làm việc lên một cách tối đa nhất. Từng cá nhân phải có đầy đủ năng lực để đảm nhận vai trò công việc của mình. Nhân viên kinh doanh không ngừng tìm kiếm khách hàng, tiềm năng kinh tế doanh nghiệp để mở rộng thị trường, thúc đẩy bán hàng nhanh nhất có thể. Trước tình hình kinh tế đổi mới cần phải nâng cấp các phòng ban bằng cách trao dồi năng lực nghiệp vụ tối đa, nâng cấp các thiết bị, hỗ trợ nhân viên làm việc hiệu quả. Giảm tối thiểu những khâu lòng vòng phức tạp ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh, các phòng ban cần nắm rõ công tác từ khâu đầu đến cuối, tránh sự chậm trễ sai sót trong quá trình hoạt động kinh doanh. Hoàn thiện được những vấn đề này là mỗi cá nhân của công ty đã góp phần giảm bớt chi phí trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đối với quản lý: Cần nắm rõ tình hình hoạt động của các phòng ban, khu vực mình quản lý, luôn luôn trao dồi kinh nghiệm thực tiễn, tránh nhưng sai xót tối thiểu có thể. Giải quyết công việc đến khâu nào cần phải có sự đúc kết chính xác, nhanh chóng, tránh làm mất thời gian gây hậu quả đến việc kinh doanh. Việc đào tạo nghiệp vụ cũng cần được chú trọng, tuy nhiên phải dựa vào mục tiêu kinh doanh của công ty theo từng thời kỳ. Bộ máy nhân lực của công ty là yếu tố quan trọng, đây được coi là nguyên vật liệu để tạo ra sản phẩm doanh thu, dựa trên kinh nghiệm, học vấn sự khéo léo trong công việc mà có sự phân bổ hợp lý công việc. Trên thực tế bộ phận kinh doanh kiêm việc giao hàng, maketing, mà mong muốn đạt mục tiêu trong tương lai thì đây có phải là giải pháp tối ưu cho việc phát triển hiệu quả kinh doanh? 3.2.2. Một số giải pháp giảm chi phí. 3.2.2.1. Giải pháp tài chính. Qua bảng thống kê, điều đáng mừng là nguồn vốn của công ty liên tục tăng trong các năm nhưng hoạt động tài chính của công ty phải dựa trên nguyên tắc tập trung, nguồn vốn của công ty phải được xoay vòng thì hiệu quả kinh doanh mới được thực hiện. Tập trung khai thác các nguồn vốn tài chính đem vào kinh doanh sẽ nâng cao được hiệu quả. Tích cực đẩy mạnh quyết toán công ty, thu hồi vốn và các khoản công nợ của công ty nhanh để xoay vòng vốn, tăng cường hỗ trợ trong việc kinh doanh. 3.2.2.2. Tạo mối quan hệ tốt với nhà cung cấp. Để bảo đảm cung cấp liên tục và tính nhịp nhàn sản xuất, yếu tố quan trọng của hoạt động là xây dựng mối quan hệ ổn định dài hạn với người bán nguyên liệu và nguyên vật liệu. Việc tạo mối quan hệ với nhà cung cấp thuộc bộ phận cung ứng vật tư hay nói đúng hơn là bộ phận kế hoạch trong công ty, chính vì vậy làm cách nào để tạo mối quan hệ tốt với nhà cung cấp. Dưới đây là một số vấn đề cần nói đến: * Tìm nhà cung cấp tiềm năng: Nhà cung cấp thường được chia ra làm 4 loại: a. Nhà sản xuất: Hầu hết nhà bán lẻ mua được sản phẩm đều thông qua công ty môi giới hay đại diện thương mại, họ sẽ gom hàng từ nhiều nguồn để cung cấp cho nhà bán lẻ. Tất nhiên giá cả từ nhà sản xuất sẽ rẻ nhất, nhưng cũng khó tiếp cận nguồn cung cấp này nhất. b. Nhà phân phối: Được biết đến với nhiều tên gọi như nhà bán sỉ, môi giới, nhà phân phối mua hàng từ nhà sản xuất, hàng dự trữ của các công ty lớn và bán lại cho người bán lẻ. Mặc dù giá của nhà phân phối cao hơn của nhà sản xuất, nhưng họ có thể linh động giải quyết những đơn hàng nhỏ hoặc tiến hành gom hàng dùm người bán lẻ. c. Các bên làm đại lý độc quyền: Họ chỉ cung cấp hàng bằng văn phòng đại diện hoặc ở những hội chợ, triển lãm. d. Nhập khẩu: Nhiều nhà bán lẻ mua hàng nhập trực tiếp từ các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trong nước. Hoặc nếu bạn hiểu rõ thị trường nước ngoài thì DN có thể nhập hàng hóa trực tiếp từ họ. Tại công ty việc tìm nhà phân phối chủ yếu từ các nhà phân phối sản phẩm của Đài Loan và Nhật Bản, từ nước ngoài thì việc nhập khẩu là không thể tránh khỏi. Thay đổi mối quan hệ với nhà cung cấp Mối quan hệ thân thiết với nhà cung cấp, họ sẽ cung cấp cho DN những lợi điểm về giá thành, nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng những nhu cầu được đề ra bởi chính khách hàng của DN. Liên kết với nhà cung cấp, doanh nghiệp cần chủ động trong kinh doanh: Yêu cầu chiết khấu: DN có rất nhiều yếu tố có thể trả giá và yêu cầu các dịch vụ khác với đối thủ cạnh tranh. Vì vậy trước khi ký 1 hợp đồng, hãy hỏi để được họ cung cấp những điều khoản về giá cả, chiết khấu…Khi cần thiết phải hỏi họ những yếu tố nào cần thiết để đạt được khoản chiết khấu như vậy để có mục tiêu và định hướng phát triển. Nâng cấp dịch vụ: Có thể DN chưa bao giờ để ý đến từng phần nhỏ nhặt trong các quan hệ làm ăn với nhà cung cấp và khách hàng. Do đó không thể cải thiện chất lượng phục vụ. Nếu DN có bất kỳ thắc mắc gì với nhà cung cấp, hãy mang ra thảo luận ngay lập tức. Nếu sau khi thương lượng vẫn không đi đến thống nhất, hãy theo đuổi mục tiêu giải quyết cho được vướng mắc đó. Chắc chắn sẽ có 1 đối tác nào đó trên thị trường có hướng giải quyết tốt và sẵn sàng để cung cấp tính năng ưu việt của họ. Thúc đẩy thêm mối quan hệ với nhà sản xuất: Không phải khách hàng nào cũng muốn tăng cường mối quan hệ làm ăn với nhà cung cấp của họ. Vì thế nhà cung cấp sẽ không đề cập trước với DN vấn đề này mà hãy hành động trước. DN “ra hiệu” để nhà cung cấp nhận ra bạn đang muốn thảo luận về vấn đề này, ví dụ như nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm, giảm sai sót trong sản xuất và giảm chi phí… Nếu như họ không thiện chí, hãy tìm thêm nhà cung cấp khác. Có thể nhà cung cấp hiện giờ của DN chưa thực hiện điều này với bất kỳ khách hàng nào. Giá cả phù hợp với doanh nghiệp, thêm mối quan hệ mật thiết với nhà cung cấp tạo ra nhiều điều có lợi cho doanh nghiệp về tài chính, công nợ, giá cả cạnh tranh việc bán hàng càng nhanh dẫn đến doanh thu càng nhiều, lợi nhuận càng cao, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế của doanh nghiệp. 3.2.3. Giải pháp đầu tư. Dự đoán việc cung và cầu của thị trường về loại sản phẩm mà công ty đang kinh doanh, công ty có đầu tư và có mục tiêu phát triển thì mới đặc ra mục tiêu kinh doanh cụ thể. Lựa chọn nhà cung cấp phù hợp sẽ tránh rũi ro cao cho doanh nghiệp. Có giải pháp đúng trong việc huy động vốn, xác định rõ được mục tiêu huy động vốn để làm gì? Cho mục định nào? Hoạt động ra sao? Bao giờ hoàn vốn? Đầu tư trí tuệ vào quá trính kinh doanh, nâng cao cấp độ quản lý,thúc đẩy quá trình hoạt động của công ty. 3.2.4. Giải pháp mở rộng thị trường. Không ngừng tiếp tục mở rộng thị trường, ngoài thị trường sẵn có như Tp.HCM, Bình Dương, Đồng Nai cần chú trọng đến những thị trường tiềm năng khác như thị trường phía bắc, Tây nguyên, tìm kiếm khách hàng bị bỏ quên, tìm cơ hội tiếp cận họ nhiều lần để tạo khả năng bán sản phẩm cho công ty mình. Thông qua các thông tin báo chí, catolog công ty, trang web liên quan đến các đối thủ cạnh tranh, từ đây có thể đưa ra các chiến lượt mới cho công ty hoạt động. Tham gia các chương trình hội chợ, triễn lãm mặt hàng liên quan để quản bá sản phẩm đến các doanh nghiệp khi họ có nhu cầu. Việc chăm sóc khách hàng bằng những dịch vụ miễn phí cũng góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. 3.2.5. Mưu lượt trong kinh doanh . Để thành công, ai cũng cần khát khao cháy bỏng và sự xác định rõ ràng về mục đích, kiến thức, về những điều mình mong muốn. Mục đích lớn và cụ thể sẽ mang lại cho doanh nghiệp quan tâm đến mọi khoảnh khắc trôi qua trong cuộc sống. Peter Drucker - cha đẻ của nghệ thuật quản trị kinh doanh, nói rằng: “Bất cứ khi nào bạn thấy một việc gì đó được hoàn thành, thì bạn sẽ tìm ra một người độc tưởng với một sứ mệnh nào đó”. Càng nghĩ về mục đích lớn lao cụ thể của bản thân và tìm cách cách đạt được nó, DN càng có khả năng kích hoạt định luật Hấp dẫn trong hoạt động kinh tế của mình. Sự thu hút mọi nguồn lực, cơ hội và ý tưởng, con người nhằm giúp DN tiến nhanh đến mục tiêu và mục tiêu cũng tiến nhanh đến DN. Theo Quy luật Tương xứng, những trải nghiệm bên ngoài sẽ đáp ứng và hòa hợp với những mục tiêu DN, Khi DN thiết lập và luôn hướng đến một mục đích lớn lao và cụ thể, những biểu hiện thành tích của DN sẽ là tấm gương phản chiếu mục đích ấy. Ngoài ra, một mục đích lớn lao và cụ thể cũng sẽ kích hoạt những tiềm thức chưa có có trong doanh nghiệp. Bất cứ suy nghĩ, kế hoạch hay mục tiêu nào có thể xác định rõ ràng thì cuối cùng - với tất cả những khả năng, nỗ lực của mỗi người lao động - nó sẽ được chuyển hóa thành hiện thực. Vào thời điểm thích hợp của doanh nghiệp, mục đích lớn lao và cụ thể nào cũng có thể được xem như là một mục tiêu quan trọng nhất. Nó có khả năng giúp DN đạt được thêm nhiều mục tiêu khác nữa. Một mục đích lớn và cụ thể phải có những đặc điểm sau: a. Nó phải là một điều gì đó mà bản thân DN thực sự mong muốn. Sự khát khao dành cho mục tiêu này phải hết sức mạnh mẽ, luôn cố gắng để hoàn thành mục đích lớn lao và cụ thể. b. Hoạch định rõ ràng, chính xác và khả năng hoàn thành ra sao. c. Mục tiêu phải đo lường và ước lượng được. Thay vì nói một cách chung chung rằng: “Tôi muốn DN kiếm thật nhiều tiền”, thì tốt hơn hãy nói: “Tôi muốn doanh thu mỗi tháng là 1 tỷ đồng”. d. Tuy nhiên kế hoạch kinh doanh, phải có tính khả thi. Mục tiêu của DN không thể quá viễn vong mà phải có cơ sở thực tế và khả năng hoàn thành. e. Nó phải có xác suất thành công hợp lý, có thể là 50 - 50. Sau mỗi thành công có thể lên đến 80%. Khi đoán chắc vào sự thành công, sẽ khiến DN về sau có đủ khả năng để đề ra những mục tiêu khác với xác suất cao hơn. f. Nó phải tương hợp với những mục tiêu khác. Hay nói đúng hơn, mục tiêu này phải tương hợp với những mục tiêu nhỏ hơn, hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào tinh thần làm việc của người lao động. Muốn vậy việc đảm bảo đời sống lao động cũng là một trong những phương pháp hữu hiệu để tiến tới mục tiêu kinh doanh. 3.2.6. Mối quan hệ với khách hàng. Định hướng về nhu cầu của khách hàng và làm thỏa mãn nhu cầu đó, doanh nghiệp cần hệ thống quản lý linh hoạt các mối quan hệ với khách hàng, cho phép lưu và phân tích thông tin khác nhau về khách hàng, tìm kiếm tất cả giai đoạn của mối quan hệ với khách hàng, phân tích doanh thu và lợi nhuận theo từng khách hàng, khu vực, thị trường và nhóm hàng hóa. Các tính năng của phân hệ cho phép quản lý các mối quan hệ với người mua, người bán, người liên quan và bất kỳ đối tác nào. Những tính năng này được sử dụng bởi trưởng phòng kinh doanh, giám đốc doanh nghiệp, cán bộ phòng kinh doanh. Phân hệ “Quản lý mối quan hệ với người mua và người bán” cho phép doanh nghiệp: Lưu toàn bộ thông tin liên hệ về các đối tác và các cán bộ của họ, cũng như lưu nhật ký mối tương quan với họ. Ghi nhận thông tin về người bán, các điều kiện giao hàng, độ tin cậy, thời hạn thực hiện đơn đặt hàng, mặt hàng, giá hàng hóa đã định và nguyên vật liệu. Tự động thông báo cho người mua về mối liên hệ sắp tới với đối tác, nhắc lại ngày sinh của người liên hệ. Lập kế hoạch thời gian làm việc và kiểm tra kế hoạch làm việc của nhân viên cấp dưới. Phân tích các hợp đồng chưa hoàn thành và lập kế hoạch các hợp đồng sắp tới với người mua và khách hàng tiềm năng. Sử dụng phương pháp trích theo lương nếu cần thiết và theo yêu cầu của mỗi khách hang. Ghi lại từng thông tin phản hồi của người mua tiềm năng và phân tích tỷ lệ thu hút khách hang. Kiểm tra linh hoạt tình trạng các mối liên hệ và hợp đồng đã dự định. Phân tích liên kết ABC trong mối quan hệ với khách hang. Phân tích các nguyên nhân làm hỏng việc thực hiện đơn đặt hàng của người mua và khối lượng đơn đặt hàng trong nội bộ. Phân tích và đánh giá tính hiệu quả của quảng cáo và chiến dịch marketing theo các kết quả phản hồi của khách hàng. Phân loại người mua theo phân tích liên kết ABC cho phép tự động phân loại khách hàng. Đối với các hạng khách hàng phụ thuộc vào thành phần khách hàng theo doanh thu hoặc lợi nhuận của công ty: Hạng quan trọng (hạng A), hạng trung bình (hạng B), hạng thấp (hạng C). Theo quy chế: Tiềm năng, một lần, thường xuyên, bị mất; Theo sự thường xuyên mua hàng: Ổn định (hạng X), không thường xuyên (hạng Y), tạm thời (hạng Z). Các kết quả phân tích này hỗ trợ tối ưu phân loại năng lực và tổ chức công việc của cán bộ chịu trách nhiệm về việc bán hàng và phục vụ khách hàng. 3.2.7. Lập chiến lược kinh doanh. Mở rộng kế hoạch: Giám đốc nên đưa ra tất cả các yêu cầu mở rộng kế hoạch cho nhà điều hành phụ trách công tác thực hiện chiến lược. Giải thích những yêu cầu này sẽ tác động đến kế hoạch hành động thực hiện chiến lược như thế nào và cần có thêm bao nhiêu thời gian cũng như những nguồn lực nào để giữ cho kế hoạch đi đúng hướng. Thuê nguồn lực bên ngoài thực hiện một số phần trong kế hoạch hành động có thể là một giải pháp khả thi nếu nhà điều hành cho rằng việc mở rộng là cần thiết. Giảm kế hoạch: Nếu kế hoạch được cắt giảm để tiết kiệm thời gian, nên kiểm tra xem liệu việc cắt giảm có khả thi và đảm bảo được thời hạn đặt ra ban đầu. Nếu giám đốc điều hành nói: “Hãy hoàn tất việc này vào cuối năm nay”, đây có thể là một thời hạn bất kỳ vì không có điểm mốc cụ thể để chỉ thời điểm cuối năm. Chiến lược của công ty có bị nguy hiểm nếu thời gian thực hiện kéo dài thêm vài tháng không? Khi đã có câu trả lời cho những câu hỏi này, thì những người chỉ đạo thực hiện nên xác định xem kế hoạch bị cắt giảm để hoàn tất đúng thời gian có hiệu quả hơn kế hoạch ban đầu nhưng hoàn tất chậm hơn không. 3.2.8. Một số giải pháp khác. Có thể đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của DN trong nền kinh tế thị trường là: Một là, quan tâm tới việc xây dựng và phát triển đội ngũ lao động của DN. Hiệu quả của mỗi quốc gia, ngành và DN phụ thuộc lớn vào trình độ văn hoá, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, năng lực của đội ngũ lao động. Muốn vậy phải thường xuyên tạo điều kiện cho người lao động nâng cao trình độ, kích thích tinh thần sáng tạo. Hai là, nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn trong DN. Việc đảm bảo đầy đủ, kịp thời và sử dụng có hiệu quả vốn sẽ là nhân tố quan trọng tác động đến hiệu quả kinh doanh của DN. Vì vậy, DN cần phải có kế hoạch sử dụng hiệu quả và phải có những biện pháp phòng chống những rủi ro, phải xác định cơ cấu vốn hợp lý, chặt chẽ thích ứng với quy mô DN. Ba là, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý DN. Xây dựng tốt mối quan hệ giữa người quản lý và người lao động, luôn tôn trọng và khuyến khích tính tự chủ sáng tạo của lực lượng lao động tạo ra sức mạnh tổng hợp phát huy hiệu quả của các yếu tố sản xuất, đặc biệt là yếu tố con người. Cần tăng cường chuyên môn hoá, kết hợp đa dạng hoá cùng với những phương án quy mô hợp lý cho phép khai thác tối đa lợi thế quy mô giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Việc tổ chức, phối hợp với các hoạt động kinh tế thông qua các hình thức tổ chức liên doanh, liên kết nhằm phát huy sức mạnh chung, tăng khả năng cạnh tranh và tiêu thụ trên thị trường là một trong các biện pháp tăng hiệu quả kinh doanh. Bốn là, xây dựng hệ thống trao đổi và xử lý thông tin trong DN. Lợi thế cạnh tranh của DN phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống trao đổi và xử lý thông tin. Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van tot nghiep L2.doc
Tài liệu liên quan