Tài liệu Đề tài Đặc điểm lâm sàng -Cận lâm sàng của bệnh nhân chấn thương xương thái dương: ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG - CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN 
CHẤN THƯƠNG XƯƠNG THÁI DƯƠNG 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Xương thái dương là xương phức tạp. Các tổn thương quan trọng 
sau chấn thương xương thái dương bao gồm giảm thính lực, tổn thương thần 
kinh mặt và chảy dịch não tủy. 
Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của chấn thương 
xương thái dương. 
Phương pháp: Nghiên cứu các dấu hiệu lâm sàng và phân loại kiểu gãy 
xương thái dương được thực hiện trên 42 bệnh nhân. Phân tích mối liên quan 
giữa giảm thính lực, liệt mặt, chảy dịch não tủy với kiểu gãy xương theo 2 
hệ thống: hệ thống phân loại cổ điển (gãy dọc, gãy ngang hay gãy hỗn hợp) 
và hệ thống phân loại mới hơn (có hay không có tổn thương mê đạo xương). 
Kết quả: Giảm thính lực gặp trong 14 bệnh nhân (33,3%), liệt mặt ở 11 bệnh 
nhân (26,2%), chảy dịch não tủy ở 2 bệnh nhân (4,8%). Hệ thống phân loại 
cổ điển không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với giảm thính lực, liệt 
mặt và chảy dịch não tủy. Trong ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 28 trang
28 trang | 
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1809 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đặc điểm lâm sàng -Cận lâm sàng của bệnh nhân chấn thương xương thái dương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG - CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN 
CHẤN THƯƠNG XƯƠNG THÁI DƯƠNG 
TĨM TẮT 
Mở đầu: Xương thái dương là xương phức tạp. Các tổn thương quan trọng 
sau chấn thương xương thái dương bao gồm giảm thính lực, tổn thương thần 
kinh mặt và chảy dịch não tủy. 
Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của chấn thương 
xương thái dương. 
Phương pháp: Nghiên cứu các dấu hiệu lâm sàng và phân loại kiểu gãy 
xương thái dương được thực hiện trên 42 bệnh nhân. Phân tích mối liên quan 
giữa giảm thính lực, liệt mặt, chảy dịch não tủy với kiểu gãy xương theo 2 
hệ thống: hệ thống phân loại cổ điển (gãy dọc, gãy ngang hay gãy hỗn hợp) 
và hệ thống phân loại mới hơn (cĩ hay khơng cĩ tổn thương mê đạo xương). 
Kết quả: Giảm thính lực gặp trong 14 bệnh nhân (33,3%), liệt mặt ở 11 bệnh 
nhân (26,2%), chảy dịch não tủy ở 2 bệnh nhân (4,8%). Hệ thống phân loại 
cổ điển khơng cĩ mối liên quan cĩ ý nghĩa thống kê với giảm thính lực, liệt 
mặt và chảy dịch não tủy. Trong khi đĩ, hệ thống phân loại dựa theo tổn 
thương mê đạo xương cĩ mối liên quan cĩ ý nghĩa thống kê (P<0,001). 
Kết luận: Biểu hiện của chấn thương xương thái dương rất đa dạng. Hệ 
thống phân loại dựa trên tình trạng cĩ hay khơng cĩ tổn thương mê đạo 
xương đưa ra tiên lượng lâm sàng tốt hơn so với hệ thống phân loại gãy dọc, 
gãy ngang hay gãy hỗn hợp. 
ABSTRACT 
CLINICAL AND PARACLINICAL STUDIES OF PATIENTS WITH 
TEMPORAL BONE TRAUMA BEING CURRED IN 115 PEOPLE’S 
HOSPITAL 
Nguyen Minh Tuan, Tran Thi Bich Lien 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 275 - 
283 
Background: The temporal bone is the complex bone. Important damages of 
temporal bone fractures include hearing loss, facial nerve injury, and 
cerebrospinal fluid leak. 
Objectives: Clinical and paraclinical studies of temporal bone trauma. 
Methods: The clinical studies and classification of temporal bone fractures 
were carried out on 42 patients. To analyze the correlations of hearing loss, 
facial nerve injury, and cerebrospinal fluid leak with the types of fractures 
based on 2 systems: the traditional system (transverse vs longitudinal vs 
mixed) and the newer system (otic capsule violating vs otic capsule sparing). 
Results: Hearing loss was present in 14 patients (33.3%); facial nerve injury 
in 11 patients (26.2%) and cerebrospinal fluid leak in 2 patients (4.8%). The 
traditional classification system of temporal bone fractures did not 
significantly predict hearing loss, facial nerve injury, and cerebrospinal fluid 
leak. On the other hand, the otic capsule-based system demonstrated 
statistically significant predictive ability (P<0.001). 
Conclusions: Outcomes of temporal bone trauma were diversiform. The otic 
capsule-based system demonstrated statistically significant predictive ability 
for clinical outcomes associated of temporal bone fractures. 
MỞ ĐẦU 
Xương thái dương là xương phức tạp nhất trong hệ thống xương của người. 
Xương thái dương chứa nhiều cấu trúc sống cịn như cơ quan tiền đình - ốc 
tai, thần kinh mặt, động mạch cảnh trong và tĩnh mạch cảnh. Các tổn thương 
quan trọng sau chấn thương xương thái dương bao gồm giảm thính lực, tổn 
thương thần kinh mặt, chảy dịch não tủy …(24). 
Phân loại kiểu gãy xương thái dương cũng rất quan trọng. Một hệ thống 
phân loại tốt khơng chỉ mơ tả về mặt giải phẫu mà cịn phải hữu ích trong 
việc dự đốn biến chứng và hậu quả của gãy xương(14). Ulrich là người đầu 
tiên đưa ra cách phân loại gãy xương thái dương thành gãy dọc, gãy ngang 
và gãy hỗn hợp(15). Hệ thống phân loại cổ điển này phân loại kiểu gãy 
xương dựa trên mối liên hệ giữa đường gãy và trục dọc của phần đá xương 
thái dương(8,16,24). Gãy dọc thường gặp nhất, chiếm 70-90% các trường 
hợp, đường gãy đi dọc theo chiều dài xương đá. Gãy ngang cĩ đường gãy 
cắt ngang xương đá, chiếm khoảng 10-20%. Gãy hỗn hợp là các trường hợp 
phối hợp cả 2 kiểu, gãy dọc và gãy ngang. Tuy nhiên, cách phân loại này tỏ 
ra liên quan một cách nghèo nàn đến triệu chứng lâm sàng. Do đĩ một số 
nhà nghiên cứu đề nghị các cách phân loại khác, hy vọng cĩ thể đưa ra tiên 
lượng của chấn thương. Hệ thống phân loại theo Aubry và Pialoux chia gãy 
xương thái dương thành 2 nhĩm: nhĩm cĩ chấn thương mê đạo xương và 
nhĩm khơng cĩ chấn thương mê đạo xương (25). Theo một số nghiên cứu, 
hệ thống phân loại này cho thấy cĩ sự liên quan cĩ ý nghĩa thống kê giữa 
kiểu gãy xương với sự xuất hiện các triệu chứng quan trọng của gãy xương 
thái dương như liệt mặt, chảy dịch não tủy, điếc (14, 15). 
Trong đa số các trường hợp, chấn thương xương thái dương thường đi kèm 
với các chấn thương nặng của cơ thể hoặc/và chấn thương đầu. Do đĩ, bệnh 
nhân thường được tiếp nhận và xử trí ban đầu tại phịng cấp cứu. Việc xử trí 
ban đầu rất quan trọng và đĩng gĩp đáng kể vào việc xử trí sau đĩ và cải 
thiện chức năng. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Khảo sát tình hình chấn thương, đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của 
bệnh nhân chấn thương xương thái dương điều trị tại Bệnh Viện Nhân Dân 
115 từ 10/2007 đến 06/2008. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu. 
Đây là nghiên cứu tiền cứu mơ tả cắt ngang. 
Đối tượng nghiên cứu. 
Là 42 bệnh nhân chấn thương xương thái dương điều trị tại Bệnh Viện Nhân 
Dân 115 từ 10/2007 đến 06/2008. 
Tiêu chuẩn nhận vào 
- Bệnh nhân chấn thương xương thái dương trên phim CT, điều trị tại Bệnh 
Viện Nhân Dân 115. 
- Đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
- Bệnh nhân bị liệt mặt, bị điếc trước chấn thương. 
- Bệnh nhân cĩ bệnh lý hoặc u bướu vùng tai phát hiện trên CT hoặc MRI. 
- Khơng đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Phương pháp nghiên cứu 
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu được khám và ghi nhận các biểu hiện 
lâm sàng: giảm thính lực, tổn thương thần kinh mặt, chảy dịch não tủy, 
chĩng mặt, thủng màng nhĩ, tụ máu sau màng nhĩ, chảy máu qua ống tai 
ngồi, dấu tụ máu vùng xương chũm (beattle’s sign), dấu mắt kính râm 
(raccoon eyes). Phân tích hình ảnh CT scan và phân loại kiểu gãy xương thái 
dương theo 2 hệ thống: hệ thống phân loại gãy dọc, gãy ngang hoặc gãy kết 
hợp và hệ thống phân loại cĩ hoặc khơng cĩ tổn thương mê đạo xương. 
Kiểm chứng mối liên quan giữa các biểu hiện giảm thính lực, liệt mặt, chảy 
dịch não tủy với 2 hệ thống phân loại nêu trên. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 1 trình bày đặc điểm của các bệnh nhân chấn thương xương thái dương 
trong nghiên cứu. Trong 42 bệnh nhân, cĩ 38 bệnh nhân nam và chỉ cĩ 4 
bệnh nhân nữ (nam giới chiếm 90,5%). Tuổi nhỏ nhất của các bệnh nhân là 
12 tuổi, tuổi lớn nhất là 52 tuổi. Bệnh nhân trong độ tuổi 18-30 tuổi chiếm tỉ 
lệ cao nhất (57,1%). Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 28,7 tuổi. Thời 
gian nằm viện trung bình của mỗi bệnh nhân là 12,5 ngày (ngắn nhất là 5 
ngày và dài nhất là 26 ngày). Nguyên nhân gây chấn thương xương thái 
dương chủ yếu trong nghiên cứu là tai nạn giao thơng, chiếm 37/42 các 
trường hợp (88,1%). Trong số 37 bệnh nhân chấn thương xương thái dương 
do tai nạn giao thơng, cĩ 3 bệnh nhân đi bộ và 34 bệnh nhân sử dụng xe gắn 
máy. Trong nhĩm bệnh nhân sử dụng xe gắn máy, cĩ 23/34 trường hợp 
khơng đội nĩn bảo hiểm khi tham gia giao thơng (chiếm 67,6% các trường 
hợp). Đánh giá tình trạng tri giác vào thời điểm nhập viện, chúng tơi ghi 
nhận cĩ 24 bệnh nhân tỉnh táo, 5 bệnh nhân hơn mê và 13 bệnh nhân say 
rượu, chiếm tỉ lệ lần lượt 57,1%; 11,9% và 31%. Trong số 42 bệnh nhân, cĩ 
29 trường hợp gãy xương thái dương phải (69%), 7 trường hợp gãy bên trái 
(16,7%) và 6 trường hợp gãy cả 2 bên( 14,3%). 
Bảng 1. Đặc điểm của 42 bệnh nhân chấn thương xương thái dương. 
Đặc điểm 
Tần xuất 
Tỉ lệ % 
Giới tính 
Nam 
38 
90,5 
Nữ 
4 
9,5 
Tuổi 
< 18 tuổi 
3 
7,1 
18-30 tuổi 
24 
57,1 
31-43 
8 
19,1 
>44 tuổi 
7 
16,7 
Nguyên nhân 
Tai nạn giao thơng 
37 
88,1 
Tai nạn lao động 
2 
4,8 
Tai nạn sinh hoạt 
3 
7,1 
Đội nĩn bảo hiểm * 
Cĩ 
11 
32,4 
Khơng 
23 
67,6 
Thời gian nằm viện 
<7 ngày 
2 
4,8 
7-14 ngày 
25 
59,7 
>14 ngày 
15 
35,7 
* tính trên tổng số 34 bệnh nhân sử dụng xe gắn máy khi gặp tai nạn 
Bảng 2 trình bày các đặc điểm lâm sàng của chấn thương xương thái dương 
của các bệnh nhân trong nghiên cứu. 
Trong 42 bệnh nhân, cĩ 14 trường hợp giảm thính lực, 2 người khơng giảm 
thính lực và 6 trường hợp tình trạng bệnh nhân khơng cho phép đánh giá 
thính lực (4 bệnh nhân hơn mê nằm hồi sức và 2 bệnh nhân chấn thương 
nặng khơng ngồi được). Số bệnh nhân giảm thính lực chiếm 33,3% các 
trường hợp (14/42), trong đĩ cĩ 5 bệnh nhân điếc dẫn truyền và 9 bệnh nhân 
điếc tiếp nhận. 
Bảng 2. Dấu hiệu lâm sàng chấn thương xương thái dương của 42 bệnh 
nhân. 
Đặc điểm 
Tần xuất 
Tỉ lệ % 
Giảm thính lực 
14 
33,3 
Liệt mặt 
11 
26,2 
Chảy dịch não tủy 
2 
4,8 
Chĩng mặt 
19 
45,2 
Xuất huyết qua ống tai ngồi 
5 
11,9 
Thủng màng nhĩ 
5 
11,9 
Trong 42 bệnh nhân, cĩ 11 trường hợp bị liệt mặt, 27 trường hợp khơng liệt 
mặt và 4 trường hợp tình trạng bệnh nhân khơng cho phép khám liệt mặt. 
Trong số các bệnh nhân liệt mặt, cĩ 1 bệnh nhân bị liệt mặt ngay lúc nhập 
viện, 10 trường hợp liệt mặt cịn lại xuất hiện muộn hơn (từ ngày thứ 3 trở 
đi).Chảy dịch não tủy chỉ gặp trên 2 bệnh nhân (4,8% các trường hợp). Các 
dấu hiệu liên quan đến tổn thương sàn sọ giữa là tụ máu sau màng nhĩ, dấu 
tụ máu vùng chủm, dấu mắt kính râm cũng quan sát thấy trong nghiên cứu 
với tỉ lệ lần lượt là 14,3%; 11,9% và 19,1%. Tất cả 42 bệnh nhân trong 
nghiên cứu đều cĩ ít nhất một thương tổn ngồi xương thái dương đi kèm, 
phổ biến nhất là các tổn thương vùng đầu-mặt (36/42 trường hợp, tương 
đương 85,7%). 
Hình ảnh trên CT scan cho thấy cĩ 6 bệnh nhân bị gãy cả 2 xương thái 
dương, do đĩ cĩ tổng cộng 48 xương thái dương gãy. Phân loại kiểu gãy 
xương theo hệ thống phân loại cổ điển cho thấy cĩ 28 trường hợp gãy dọc, 
16 trường hợp gãy ngang và 4 trường hợp gãy hỗn hợp (tỉ lệ lần lượt là 
58,3%; 33,3% và 8,3%). Phân loại theo hệ thống phân loại cĩ hay khơng cĩ 
tổn thương mê đạo xương cho thấy cĩ 11 trường hợp gãy mê đạo xương 
(22,9% các trường hợp) và 37 trường hợp khơng cĩ tổn thương mê đạo 
xương (77,1%). 
Các biểu hiện lâm sàng quan trọng của gãy xương thái dương là giảm thính 
lực, yếu/liệt thần kinh mặt, chảy dịch não tủy được phân nhĩm theo hệ thống 
phân loại cổ điển: gãy dọc, gãy ngang, gãy hỗn hợp (Hình 1). 
Liệt mặt 
Chảy dịch não tủy 
Giảm thính lực 
0.00% 
Text Box: % vị trí gãy 
1/28 
1/2 
7/25 
1/16 
4/13 
6/26 
1/3 
6/13 
Hình 1. Biểu đồ phân nhĩm các biểu hiện giảm thính lực, liệt mặt và chảy 
dịch não tủy theo hệ thống phân loại cổ điển. 
Do cĩ 6 bệnh nhân khơng đánh giá thính lực được (2 bệnh nhân bị gãy 
xương thái dương cả hai bên và 4 bệnh nhân gãy một bên), chúng tơi chỉ cĩ 
thể xét mối liên quan giảm thính lực trên 40 vị trí gãy xương thái dương (25 
gãy dọc, 13 gãy ngang và 2 gãy hỗn hợp). Trong số 14 trường hợp giảm 
thính lực, cĩ 7 trường hợp là gãy dọc, 6 trường hợp là gãy ngang và 1 trường 
hợp là gãy hỗn hợp. 
Do cĩ 4 bệnh nhân khơng thể đánh giá liệt mặt (2 bệnh nhân bị gãy xương 
thái dương cả hai bên và 2 bệnh nhân gãy một bên), chúng tơi xem xét mối 
liên quan liệt mặt trên tổng cộng 42 vị trí gãy (26 gãy dọc, 13 gãy ngang và 
3 gãy hỗn hợp). Đối với 11 trường hợp liệt mặt, cĩ 6 trường hợp là gãy dọc, 
4 trường hợp là gãy ngang và 1 trường hợp là gãy hỗn hợp. 
Xét trên 48 xương thái dương gãy, triệu chứng chảy dịch não tủy chỉ được 
ghi nhận trong 2 trường hợp, trong đĩ 1 trường hợp là gãy dọc và 1 trường 
hợp là gãy ngang. 
Khơng cĩ sự khác biệt cĩ ý nghĩa thống kê về biểu hiện giảm thính lực, liệt 
mặt và chảy dịch não tủy khi so sánh giữa các nhĩm gãy dọc, gãy ngang và 
gãy hỗn hợp (P lần lượt là 0,44; 0,86 và 0,83). 
Giảm thính lực 
Chảy dịch não tủy 
2/11 
0/37 
Liệt mặt 
8/10 
3/32 
8/9 
6/31 
0.00% 
Text Box: % vị trí gãy 
Hình 2. Biểu đồ phân nhĩm các biểu hiện lâm sàng theo phân loại cĩ hay 
khơng cĩ tổn thương mê đạo xương 
Hình 2 trình bày phân bố các biểu hiện giảm thính lực, yếu/liệt thần kinh 
mặt, chảy dịch não tủy theo hệ thống phân loại cĩ hay khơng cĩ tổn thương 
mê đạo xương. 
Giảm thính lực được ghi nhận ở 6 trong số 31 trường hợp khơng tổn thương 
mê đạo xương (19,4%). Trong khi cĩ tới 8 trong số 9 ca tổn thương mê đạo 
xương cĩ giảm thính lực (88,9%). Cĩ sự khác biệt cĩ ý nghĩa thống kê về 
biểu hiện giảm thính lực khi so sánh giữa nhĩm cĩ tổn thương mê đạo 
xương và khơng cĩ tổn thương mê đạo xương (P=0,0003 → P< 0,001; phép 
kiểm Fischer exact). 
Liệt mặt chỉ được ghi nhận ở 3 trong số 32 trường hợp khơng tổn thương mê 
đạo xương (9,4%) trong khi cĩ tới 8 trong số 10 ca tổn thương mê đạo 
xương cĩ liệt mặt (80%). 
Các trường hợp cĩ tổn thương mê đạo xương bị liệt mặt nhiều gấp 8,5 lần so 
với các trường hợp khơng tổn thương mê đạo xương (80% so với 9,4%).Cĩ 
sự khác biệt cĩ ý nghĩa thống kê về biểu hiện giảm thính lực khi so sánh 
giữa nhĩm cĩ tổn thương mê đạo xương và khơng cĩ tổn thương mê đạo 
xương (P=0,00005 → P<0,001). 
Trong nghiên cứu này, triệu chứng chảy dịch não tủy chỉ được ghi nhận 
trong 2 trường hợp và cả 2 trường hợp này đều cĩ tổn thương mê đạo xương. 
BÀN LUẬN 
Trong số 42 bệnh nhân trong nghiên cứu, nam giới chiếm 90,5%. Tỉ lệ nam 
cao hơn nữ là một trong những đặc tính thường gặp của chấn 
thương(1,13,21). Chấn thương xương thái dương ở nam nhiều hơn nữ được 
lý giải do các hoạt động cĩ nguy cơ cao ở phái nam, chứ khơng phải do cấu 
trúc xương sọ của phái nam yếu(15). Theo nghiên cứu của Nicol và 
Johnstone, thực hiện trên 34 trẻ em trong độ tuổi 1-13 tuổi bị chấn thương 
xương thái dương, nam chiếm 61,7% các trường hợp(17). Nghiên cứu của 
Little và Kesser trên 30 bệnh nhân chấn thương xương thái dương cĩ tỉ lệ 
nam giới là 63,3%(14). Như vậy tỉ lệ nam: nữ trong nghiên cứu của chúng 
tơi cao hơn khá nhiều so với các nghiên cứu vừa nêu. Nguyên nhân một 
phần cĩ lẽ là do phụ nữ các nước phương Tây tham gia các hoạt động xã hội 
và ưa thích thể thao nhiều hơn so với phụ nữ các nước châu Á. 
Bệnh nhân trong độ tuổi 18-30 cĩ tỉ lệ cao nhất, chiếm 57,1% (24/42). Đây 
là độ tuổi năng động, di chuyển nhiều nên tỉ lệ tai nạn thường cao hơn. Đồng 
thời đây cũng là độ tuổi ít kiềm chế trong sinh hoạt nên hay cĩ một số thĩi 
quen khơng tốt như uống rượu nhiều, tham gia giao thơng với tốc độ cao, ẩu 
đả… 
Tai nạn giao thơng trong nghiên cứu của chúng tơi chiếm tới 88,1% các 
trường hợp. Tỉ lệ này khá cao so với các nghiên cứu khác trên thế giới, cĩ tỉ 
lệ tai nạn giao thơng thay đổi từ 44% - 67%(4,5,14). Nguyên nhân của sự 
khác biệt này cĩ lẽ là do ý thức chấp hành luật giao thơng của nước ta so với 
các nước khác khơng được tốt lắm. Quy định người đi xe gắn máy phải đội 
nĩn bảo hiểm trên tất cả các tuyến đường đã được áp dụng từ ngày 
15/12/2007. Tuy nhiên, trong số 34 bệnh nhân sử dụng xe gắn máy, cĩ tới 23 
người khơng đội nĩn bảo hiểm (chiếm 67,6%). Hơn nữa, trong số 11 người 
cĩ đội nĩn bảo hiểm thì cĩ 7 người khơng cài dây nĩn nên khi gặp tai nạn thì 
nĩn cũng khơng cĩ tác dụng bảo vệ. Mặt khác, đa số người đi xe gắn máy ở 
nước ta sử dụng loại nĩn che phủ ½ đầu nên phần thái dương ít khi được bảo 
vệ. 
Cĩ 33,3% số bệnh nhân trong nghiên cứu cĩ giảm thính lực (14/42 trường 
hợp). Giảm thính lực là một trong những biểu hiện hay gặp nhất của chấn 
thương xương thái dương, thường chiếm từ 15 - 50% số bệnh nhân (5, 9, 
23). Trong số 14 bệnh nhân giảm thính lực, có 2 bệnh nhân bị 
giảm thính lực cả hai bên tai, 8 bệnh nhân giảm thính lực tai phải 
và 3 bệnh nhân giảm thính lực tai trái. Số bệnh nhân giảm thính lực 
bên phải nhiều hơn bên trái là tương đồng với việc chấn thương gãy xương 
thái dương bên phải nhiều hơn bên trái của nghiên cứu này (29 trường hợp 
gãy xương thái dương phải so với 7 trường hợp gãy bên trái). Kết quả 
khám kiểu điếc cho thấy có 5 bệnh nhân bị điếc dẫn truyền và 9 
bệnh nhân bị điếc tiếp nhận. Điếc sau gãy xương thái dương phản ánh 
vị trí và cơ chế của chấn thương(22). Điếc dẫn truyền cĩ thể do tụ máu ở tai 
trong, thủng màng nhĩ hay chấn thương chuỗi xương con; trong khi đĩ điếc 
tiếp nhận thường do tổn thương ốc tai(15). Việc khám để xác định kiểu điếc 
vì thế rất quan trọng nhằm đưa ra hướng xử trí thích hợp. Điếc dẫn truyền do 
tụ máu ở tai trong cĩ thể tự phục hồi sau vài tuần, trong khi thủng màng nhĩ 
hoặc chấn thương chuỗi xương con thường nặng và khĩ tự phục hồi. Các 
trường hợp điếc dẫn truyền tồn tại 6-7 tuần sau chấn thương và điếc >30dB 
là chỉ định của phẫu thuật(23,25). Trái lại, điếc tiếp nhận thường là do tổn 
thương ốc tai và cĩ nhiều khả năng do tổn thương mê đạo xương(3,6,16,19). 
Do khả năng phục hồi của mê đạo xương rất kém nên các trường hợp điếc 
tiếp nhận cả 2 tai thường được cân nhắc cấy ốc tai sớm(16). 
Nghiên cứu ghi nhận 11 bệnh nhân liệt mặt, chiếm 26,2% các trường hợp. Tỉ 
lệ liệt mặt trong chấn thương xương thái dương rất khác nhau giữa các 
nghiên cứu(3,9,23). Nghiên cứu của Brodie và Thompson(3) trên 820 trường 
hợp gãy xương thái dương chỉ ghi nhận 58 ca chấn thương thần kinh mặt 
(chiếm tỉ lệ 7,1%); nghiên cứu của Wennmo và Spandow cĩ tỉ lệ liệt mặt là 
19,4%(22). Ngược lại, nghiên cứu của Ghoayeb và Rafie trên 123 trường 
hợp gãy xương thái dương lại cơng bố tỉ lệ liệt mặt cao hơn gấp nhiều lần, 
lên tới 62,6%(9). Trong số 11 bệnh nhân cĩ liệt mặt của nghiên cứu này, chỉ 
cĩ 1 bệnh nhân liệt mặt xuất hiện ngay lúc nhập viện, 10 trường hợp cịn 
xuất hiện muộn từ ngày thứ 3 trở đi. Việc đánh giá cĩ liệt mặt hay khơng 
nên đánh giá sớm ngay tại thời điểm nhập viện tại phịng cấp cứu vì cĩ thể 
cho biết dự hậu. Thơng thường các trường hợp liệt muộn cĩ dự hậu tốt hơn 
các trường hợp liệt sớm ngay thời điểm nhập viện. Hầu hết các trường hợp 
liệt muộn tự phục hồi trong khi cĩ khoảng 20-40% các trường hợp liệt sớm 
khơng hồi phục và cần phải phẫu thuật(3,9). 
Chỉ cĩ 4,8% các trường hợp của nghiên cứu bị chảy dịch não tủy. Tỉ lệ chảy 
dịch não tủy trong nghiên cứu của chúng tơi chỉ hơi thấp hơn so với nghiên 
cứu của Raaf trên 1185 bệnh nhân(18) nhưng lại thấp hơn nhiều so với các 
nghiên cứu của Brodie và Ghorayeb, cĩ tỉ lệ chảy dịch não tủy từ 15-
21%(3,9). Thơng thường, đa số các lỗ dị dịch não tủy cĩ thể tự bít trong 
vịng 1 tuần. Tuy là biến chứng ít gặp, các trường hợp chảy dịch não tủy vẫn 
cần phải theo dõi kỹ vì nguy cơ phát triển viêm màng não, một biến chứng 
nặng cĩ thể tử vong. Yếu tố nguy cơ của viêm màng não trên bệnh nhân cĩ 
chảy dịch não tủy là các trường hợp lỗ dị khơng tự bít trong vịng 1 tuần 
hoặc bệnh nhân cĩ nhiễm khuẩn ngay trước hay cùng lúc với chấn 
thương(15). 
Tất cả 42 bệnh nhân của nghiên cứu đều cĩ những chấn thương đi kèm với 
chấn thương xương thái dương. Chấn thương vùng đầu mặt là chấn thương 
đi kèm phổ biến nhất, chiếm 85,7% các trường hợp (36/42). Tỉ lệ này cũng 
khơng đáng ngạc nhiên lắm so với các nghiên cứu khác. Theo nghiên cứu 
của Alvi và cộng sự(2), 84% các bệnh nhân chấn thương xương thái dương 
cĩ chấn thương nội sọ đi kèm. 
Về cận lâm sàng, CT scan là một xét nghiệm quan trọng trong gãy xương 
thái dương. Nhiều nghiên cứu cơng bố CT scan giúp chẩn đốn xác định các 
trường hợp gãy xương thái dương ở những bệnh nhân chấn thương 
đầu(7,10,20). Theo Exadatylos và cộng sự(7), hơn một phần ba số trường 
hợp gãy xương thái dương cĩ thể bị bỏ sĩt nếu chỉ dựa trên biểu hiện lâm 
sàng. Những trường hợp khơng phát hiện được cĩ thể dẫn đến những biến 
chứng nặng hoặc thậm chí cĩ nguy cơ tử vong do viêm màng não mủ phát 
triển từ lỗ dị dịch não tủy. Chính vì vậy , CT scan được khuyến cáo ở tất cả 
các bệnh nhân cĩ chấn thương đầu càng sớm càng tốt sau chấn thương, 
khơng phụ thuộc vào các biểu hiện lâm sàng và thang điểm Glasgow. 
Trong nghiên cứu này, chúng tơi đánh giá 48 xương thái dương gãy theo 2 
hệ thống phân loại: hệ thống phân loại cổ điển của Ulrich (gãy dọc, gãy 
ngang, gãy hỗn hợp) và hệ thống phân loại của Aubry và Pialoux (tổn 
thương mê đạo xương, khơng tổn thương mê đạo xương). Kết quả cho thấy 
hệ thống phân loại cổ điển khơng cĩ khả năng dự đốn triệu chứng và biến 
chứng của gãy xương thái dương trong mẫu nghiên cứu của chúng tơi. Một 
số nghiên cứu trước đĩ cũng kết luận hệ thống phân loại cổ điển liên quan 
một cách nghèo nàn với triệu chứng và biến chứng(11,14,19). Trong khi đĩ, 
hệ thống phân loại của Aubry và Pialoux, dựa trên tình trạng cĩ hay khơng 
cĩ tổn thương mê đạo xương, đưa ra tiên lượng lâm sàng tốt hơn nhiều đối 
với mẫu nghiên cứu của chúng tơi. Các trường hợp tổn thương mê đạo 
xương chiếm 22,9% trong mẫu nghiên cứu và sự tổn thương mê đạo xương 
cĩ mối liên quan cĩ ý nghĩa thống kê với các biểu hiện giảm thính lực, liệt 
mặt và chảy dịch não tủy (P<0,001). 
Những cấu trúc quan trọng nằm bên trong hoặc xung quanh mê đạo xương 
được bảo vệ chặt chẽ bởi hệ thống xương đặc nhất của xương sọ. Chính vì 
vậy lực tác động phải đủ mạnh mới cĩ thể gây gãy mê đạo xương, và những 
trường hợp gãy mê đạo xương thơng thường sẽ kèm theo các tổn thương 
trầm trọng(25). Tổn thương mê đạo xương thường dẫn đến tổn thương hệ 
thống tiền đình, ốc tai, thần kinh mặt và não. Đồng thời, sự liên quan chặt 
chẽ giữa mê đạo xương với hố sọ giữa và hố sọ sau cũng khiến cho tần xuất 
chảy dịch não tủy trong tổn thương mê đạo xương thường cao hơn. Trong 
khi đĩ, đa số đường gãy trong các trường hợp khơng tổn thương mê đạo 
xương chỉ đi qua các phần xương xốp và yếu hơn của xương thái dương. 
Chính vì vậy, những trường hợp gãy xương khơng cĩ tổn thương mê đạo 
xương thường ít gây tổn thương hệ thống tiền đình ốc tai và thần kinh mặt 
do được bảo vệ tốt bởi mê đạo xương chắc chắn. 
Khi so sánh với một số nghiên cứu đã cơng bố trước đây, chúng tơi nhận 
thấy tần suất tổn thương mê đạo xương trong nghiên cứu của chúng tơi xấp 
xỉ so với nghiên cứu của Little và cộng sự(14) (22,9% so với 20%) nhưng 
cao hơn nhiều so với nghiên cứu của Dahiya và cộng sự(6) và nghiên cứu 
của Brodie và Thomson(3) (tỉ lệ cĩ tổn thương mê đạo xương lần lượt là 
5,6% và 2,5%). Sự khác biệt này cĩ lẽ là do sự khác biệt về tiêu chuẩn chọn 
mẫu giữa các nghiên cứu. Nghiên cứu của Little và cộng sự(14) cĩ tiêu 
chuẩn chọn mẫu nghiêm ngặt hơn các nghiên cứu khác, các trường hợp chỉ 
cĩ tổn thương phần trai xương thái dương bị loại khỏi nghiên cứu. Điều đĩ 
làm cho tỉ lệ tổn thương mê đạo xương trong nghiên cứu cao hơn nhiều lần 
so với nghiên cứu của Dahiya và cộng sự(6) và nghiên cứu của Brodie và 
Thomson(3). Nghiên cứu của chúng tơi cĩ tiêu chuẩn chọn mẫu khơng 
nghiêm ngặt như Little và cộng sự nhưng tỉ lệ tổn thương mê đạo xương vẫn 
cao. Lý do cĩ thể là do đặc điểm của mẫu nghiên cứu. Trong nghiên cứu của 
chúng tơi, tỉ lệ chấn thương xương thái dương do tai nạn giao thơng rất cao, 
chiếm 88,1% các trường hợp (so với nghiên cứu của Little và cộng sự, chỉ cĩ 
47%). Hơn nữa, số bệnh nhân bị tai nạn trong tình trạng say rượu lại cao 
(trong số 34 bệnh nhân bị tai nạn giao thơng cĩ tới 13 bệnh nhân say rượu). 
Cĩ lẽ việc tham gia giao thơng trong tình trạng say rượu đã gĩp phần làm 
cho các trường hợp chấn thương xương thái dương trong nghiên cứu của 
chúng tơi nặng nề hơn, đồng nghĩa với tỉ lệ tổn thương mê đạo xương cao. 
Mặc dù cĩ sự khác biệt về tần suất tổn thương mê đạo xương giữa các 
nghiên cứu nhưng hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy cĩ mối liên quan cĩ 
ý nghĩa thống kê giữa triệu chứng lâm sàng và biến chứng với tổn thương 
mê đạo xương(3,6,14). Trong nghiên cứu của Dahiya và cộng sự(6) trên 55 
xương thái dương gãy, các bệnh nhân cĩ tổn thương mê đạo xương bị giảm 
thính lực nhiều hơn 7 lần, chấn thương thần kinh mặt nhiều hơn 2 lần và 
chảy dịch não tủy nhiều hơn 4 lần so với các bệnh nhân khơng tổn thương 
mê đạo xương. Trong nghiên cứu hồi cứu trên 820 trường hợp gãy xương 
thái dương, Brodie và Thompson ghi nhận tất cả 21 trường hợp tổn thương 
mê đạo xương đều bị giảm thính lực nặng. Về triệu chứng liệt mặt thì nghiên 
cứu cho thấy 47% các trường hợp cĩ tổn thương mê đạo xương cĩ liệt mặt 
trong khi chỉ cĩ 6% các ca khơng tổn thương mê đạo xương cĩ liệt mặt. 
Đồng thời, triệu chứng chảy dịch não tủy cũng xảy ra nhiều gấp 2 lần ở 
nhĩm cĩ tổn thương mê đạo xương. Nghiên cứu của Little và cộng sự cũng 
cho kết quả tương tự, chấn thương thần kinh mặt nhiều hơn 5 lần, giảm thính 
lực nhiều hơn 25 lần và chảy dịch não tủy nhiều hơn 8 lần trong nhĩm tổn 
thương mê đạo xương so với nhĩm khơng tổn thương mê đạo xương (14). 
KẾT LUẬN 
Chấn thương xương thái dương rất đa dạng, thay đổi từ những chấn động 
hoặc di lệch nhẹ cho đến những tổn thương nặng nề cĩ thể gây các biến 
chứng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hoặc đe dọa tính mạng. Tùy 
thuộc nào cơ quan bị ảnh hưởng và mức độ tổn thương mà khả năng tự phục 
hồi của các tổn thương sẽ rất khác nhau. Trước một trường hợp chấn thương 
xương thái dương, vấn đề quan trọng là phải đánh giá được mức độ tổn 
thương, tiên lượng được diễn biến của bệnh nhằm cĩ hướng theo dõi và xử 
trí thích hợp. Chính vì vậy cách phân loại cĩ hay khơng cĩ tổn thương mê 
đạo xương với ưu điểm gợi ý đến cơ quan bị tổn thương và độ nặng của 
bệnh sẽ giúp ích rất nhiều cho các nhà lâm sàng. Nhờ đĩ bác sĩ cĩ căn cứ để 
tiên đốn tiến triển bệnh, chủ động lựa chọn cách xử trí thích hợp. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 81_4989.pdf 81_4989.pdf