Đề tài Công tác chi trả chế độ trợ cấp hưu trí tại bảo hiểm xã hội Hoàng Mai giai đoạn 2005- 2009

Tài liệu Đề tài Công tác chi trả chế độ trợ cấp hưu trí tại bảo hiểm xã hội Hoàng Mai giai đoạn 2005- 2009: Mở đầu Trong cuộc sống chúng ta luôn phải đối mặt với những khó khăn do tự nhiên đem lại hoặc gặp những biến cố rủi ro bất ngờ xảy ra như bị ốm đau, bị tai nạn, bị mất khả năng lao động hay suy giảm khả năng lao động … Điều này dẫn đến việc chúng ta phải nương tựa vào nhau và cùng giúp đỡ nhau để giải quyết vấn đề bằng nhiều cách khác nhau. Và một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để dàn trải những rủi ro bất lợi cho người lao động là tiến hành lập một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia và tiến hành bảo hiểm cho các đối tượng người lao động trong phạm vi của quỹ này. Hiện nay trong quá trình hội nhập kinh tế, BHXH là một chính sách xã hội đặc biệt quan trọng, được các nước chú trọng phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của mình và được pháp luật hóa trong hệ thống pháp luật Nhà Nước. Ở nước ta, BHXH là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước, được quy định trong Hiến pháp, trong các văn kiện của Đảng và không ngừng được bổ sung hoàn thiện nhằm từng bướ...

doc94 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 948 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Công tác chi trả chế độ trợ cấp hưu trí tại bảo hiểm xã hội Hoàng Mai giai đoạn 2005- 2009, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Trong cuộc sống chúng ta luôn phải đối mặt với những khó khăn do tự nhiên đem lại hoặc gặp những biến cố rủi ro bất ngờ xảy ra như bị ốm đau, bị tai nạn, bị mất khả năng lao động hay suy giảm khả năng lao động … Điều này dẫn đến việc chúng ta phải nương tựa vào nhau và cùng giúp đỡ nhau để giải quyết vấn đề bằng nhiều cách khác nhau. Và một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để dàn trải những rủi ro bất lợi cho người lao động là tiến hành lập một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia và tiến hành bảo hiểm cho các đối tượng người lao động trong phạm vi của quỹ này. Hiện nay trong quá trình hội nhập kinh tế, BHXH là một chính sách xã hội đặc biệt quan trọng, được các nước chú trọng phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của mình và được pháp luật hóa trong hệ thống pháp luật Nhà Nước. Ở nước ta, BHXH là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước, được quy định trong Hiến pháp, trong các văn kiện của Đảng và không ngừng được bổ sung hoàn thiện nhằm từng bước nâng cao và mở rộng việc đảm bảo vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ trong các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,mất việc làm, hết tuổi lao động, chết, hay gặp các rủi ro khác. Ngoài ra, BHXH còn là một phần cấu tạo nên hệ thống an sinh xã hội của đất nước, góp phần đảm bảo công bằng xã hội và phát triển xã hội một cách bền vững. BHXH Việt Nam hoạt động qua nhiều khâu khác nhau, trong đó công tác chi trả BHXH là công đoạn cuối cùng nhưng vô cùng quan trọng thể hiện quyền lợi của người lao động. Hoạt động chi trả BHXH cho người lao động có thể ảnh hưởng đến tài chính BHXH, đến nhận thức của cả xã hội về vai trò của BHXH. Nếu như BHXH chi đúng, chi đủ, kịp thời và chính xác thì nguồn quỹ BHXH được quản lý phù hợp, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và điều đặc biệt là nó có tác động rất lớn đến niềm tin của người lao động. Công tác chi trả cũng là khâu cuối cùng trong quá trình hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan BHXH các cấp quận, huyện. Là sinh viên khoa Bảo hiểm xã hội và được thực tập tại cơ quan BHXH quận Hoàng Mai là một bộ phận của hệ thống BHXH Việt Nam. Qua thời gian thực tập tại đây tuy trong một thời gian ngắn nhưng em cũng đã có được cái nhìn sâu sắc hơn trong công việc thực tế của cơ quan BHXH. Em đã nhận thấy công tác chi trả chế độ trợ cấp hưu trí là một vấn đề rất quan trọng đối với hoạt động chi trả các chế độ BHXH. Nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi và đời sống của những người đã nghỉ hưu. Xuất phát từ nhận thức đó, nên trong quá trình làm chuyên đề thực tập, em quyết định chọn đề tài : “ Công tác chi trả chế độ trợ cấp hưu trí tại BHXH Hoàng Mai giai đoạn 2005- 2009 ” Do quá trình thu thập số liệu, thời gian nghiên cứu và sự hiểu biết thực tế còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ và góp ý của cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.s Nguyễn Ngọc Hương và tập thể cán bộ tại cơ quan BHXH quận Hoàng Mai đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề này. Chương I- Lý luận chung về BHXH và chế độ trợ cấp hưu trí Những lý luận cơ bản về BHXH. Tính tất yếu khách quan của BHXH. Để có của cải vật chất con người phải lao động, để lao động con người phải có sức khỏe và khả năng lao động nhất định. Trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động để tạo lập cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho bản thân và gia đình. Để có được một cuộc sống hạnh phúc, ấm no không phải là dễ dàng… vì trong cuộc sống của mỗi người đều sẽ xảy ra những biến cố mà không ai có thể lường trước được. Con người khó có thể tránh khỏi những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm…Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân: do thiên nhiên gay ra (như bão lũ lụt, hạn hán động đất, sét…); các rủi ro đó biến động của khoa học công nghệ, tuy làm tăng năng suất lao động nhưng cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ và làm tăng nguy cơ mất việc làm của người lao động; và các rủi ro do môi trường xã hội như ốm đau, dịch bệnh, trộm cắp hỏa hoạn… Cho dù là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường gây cho con người những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại tài sản làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân…những điều đó sẽ làm ảnh hưởng đến đời sống của mỗi người, đến cả những người thân của họ nữa và cũng như nền kinh tế xã hội nói chung. Và khi rơi vào những tình huống đó thì các nhu cầu thiết yếu không vì thế mà mất đi. Không những vậy mà còn có nhiều nhu cầu khác nữa, xuất hiện thêm nhu cầu mới như khám chữa bệnh, cần người chăm sóc, tiền thuốc thang... Để khắc phục những rủi ro đó, ngoài việc tự mình phải cố gắng vượt qua thì người lao động cần sự hỗ trợ của cộng đồng tập thể, của các tổ chức cơ quan Nhà nước và xã hội. Sự bảo trợ của cộng đồng tập thể, của các cơ quan nhà nước và xã hội. Sự bảo trợ không chỉ bằng lời nói, bằng sự động viên thăm hỏi chung chung mà phải bằng nguồn vật chất cần thiết, nhằm phục hồi nhanh chóng sức khỏe, duy trì sức lao động xã hội nhằm giảm bớt những khó khăn bản thân và gia đình người lao động khi có những hụt hẫng về thu nhập trong những trường hợp rủi ro. Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển và việc thuê mướn lao động trở nên phổ biến thì đồng thời lại phát sinh thêm mâu thuẫn chủ thợ phát, bởi giới chủ sử dụng lao động không chịu đảm bảo thu nhập cho người lao động trong trường hợp họ gặp phải những rủi ro gây nên những tổn thất. Chính vì vậy giới công nhân lao động đã liên kết đấu tranh buộc những người chủ sử dụng lao động phải thực hiện những cam kết trả công lao động và đảm bảo cho họ một số thu nhập nhất định để họ trang trải cho những nhu cầu thiết yếu khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoạc mất khả năng lao động. Cuộc đấu tranh này phát triển rộng lớn làm ảnh hưởng đến nhiều mặt của mỗi người lao động cũng ngư cả đời sống kinh tế chính trị xã hội của mọi quốc gia. Bởi vậy, sự xuất hiện của Bảo hiểm xã hội là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống Bảo hiểm xã hội và sự cần thiết phải tiến hành Bảo hiểm xã hội cho người lao động. Vì vậy Bảo hiểm xã hội đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan. Nội dung cơ bản về BHXH. 2.1. Khái niệm về BHXH Do được tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau với những quan điểm khác nhau nên đến nay đã có rất nhiều khái niệm về BHXH nhưng bản chất của bảo hiểm xã hội chính là sự tương trợ cộng đồng, là sự đoàn kết đùm bọc chia sẻ rủi ro cho nhau, mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Theo tổ chức lao động thế giới (ILO) thì BHXH được hiểu là “sự bảo vệ của cộng đồng, xã hội đối với các thành viên của mình thông qua sự huy động các nguồn đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội để trợ cấp trong các trường hợp ốm đau, tai nạn, thương tật, già yếu, thất nghiệp. Đồng thời chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con để ổn định đời sống của thành viên và đảm bảo an toàn của xã hội”. Dưới giác độ kinh tế, BHXH là sự chia sẻ rủi ro và tài chính giữa những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật BHXH nhằm đảm bảo về mặt thu nhập, đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Dưới giác độ xã hội, BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội bảo vệ cho người lao động khi họ không may gặp các rủi ro từ đó giúp người lao động yên tâm sản xuất, nâng cao năng suất lao động, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Dưới giác độ pháp lý: “Bảo hiểm xã hội là một chế định bảo vệ người lao động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình quân do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động hoặc khi chết”. Tuy cách tiếp cận có khác nhau nhưng các khái niệm trên đều làm rõ ba vấn đề đó là: tại sao lại cần có BHXH? - mục đích của BHXH là gì? BHXH được thực hiện như thế nào? Ngày nay, khái niệm về BHXH được định nghĩa như sau: “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải các biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội”. 2.2. Bản chất của BHXH Từ những quan điểm khác nhau về BHXH thì bản chất của BHXH được thể hiện qua những nội dung chủ yếu sau: - Bảo hiểm xã hội là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, đặc biệt là trong xã hội có nền sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường. BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa, khi trình độ phát triển kinh tế đạt đến một mức độ nào đó thì BHXH có điều kiện ra đời và phát triển. Chính vì vậy, sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế càng phát triển thì hệ thống BHXH càng hoàn thiện. - Mục tiêu của BHXH là để bảo đảm những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp người lao động bị giảm hay mất thu nhập, mất việc làm, chăm sóc sức khỏe cho người lao động khi họ bị ốm đau, già yếu, tàn tật hay tai nạn lao động… từ đó góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ. - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên sơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH; bên BHXH và bên được BHXH. Trong đó, bên tham gia BHXH là người lao động và chủ sử dụng lao động, hoặc chỉ có người lao động tham gia. Bên BHXH thường là các cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và được Nhà nước bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có các sự việc xảy ra cần được bảo hiểm. - Những biến cố xảy ra trong phạm vi BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… hoặc có thể là những rủi ro không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản, các thiên tai… Và những biến cố có thể xảy ra trong hoặc ngoài quá trình lao động. - Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất do những biến cố hay rủi ro xảy ra trong phạm vi bảo hiểm, sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ các nguồn quỹ được tập trung lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước. Như vậy, bản chất của BHXH có ý nghĩ cả về mặt kinh tế lẫn xã hội. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức của BHXH phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những rủi ro hay tai nạn trong cuộc sống. Về mặt xã hội, do có sự san sẻ rủi ro của BHXH mà người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn để trang trải cho những rủi ro xảy ra.Và thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”, tạo đuợc sự an toàn, yên tâm cho mỗi nguời dân cũng như toàn xã hội. 2.3. Đối tượng của BHXH Khi nói đến đối tượng của BHXH vẫn có nhiều quan điểm chưa thống nhất. Chúng ta rất dễ có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH và đối tượng tham gia BHXH. Chúng ta đều biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu…Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH. Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó. Đối tượng được BHXH trong quan hệ BHXH ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động. Đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH bao gồm người lao động tham gia BHXH khi gặp các rủi ro, và thân nhân trong gia đình như bố, mẹ, con, vợ (chồng)… Như vậy, người lao động vừa là đối tượng tham gia vừa là đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH trong quan hệ BHXH. Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt Nam cũng không vượt qua khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là chưa bình đẳng giữa tất cả những người lao động. Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này chính là đặc trưng riêng có của BHXH. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững. Hiện nay ở Việt Nam có Luật BHXH hiện hành quy định đối tượng áp dụng tham gia BHXH như sau: (Điều 2) Người lao động tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm: Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; Cán bộ, công chức, viên chức; Công nhân quốc phòng, công nhân công an; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân; đ) Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt buộc. Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động; Người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng với người sử dụng lao động quy định tại khoản 4 Điều này; Người sử dụng lao động tham gia BHTN là người sử dụng lao động quy định tại khoản 2 Điều này có sử dụng từ 10 lao động trở lên; Người tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động, không thuộc quy định tại khoản 1 Điều này; Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến BHXH. 2.4. Chức năng của BHXH BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động do vậy BHXH có những chức năng cơ bản sau: - BHXH thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Và đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. - Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội. - Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động v.v... Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn. 2.5. Trách nhiệm và quyền hạn của các bên tham gia BHXH. 2.5.1. Quyền và trách nhiệm của người lao động Người lao động có các quyền sau đây: - Được cấp sổ bảo hiểm xã hội; - Nhận sổ bảo hiểm xã hội khi không còn làm việc; - Nhận lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, kịp thời; - Hưởng bảo hiểm y tế trong các trường hợp sau đây: a, Đang hưởng lương hưu; b, Nghỉ việc hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng; c, Đang hưởng trợ cấp thất nghiệp; - Uỷ quyền cho người khác nhận lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội; - Yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp thông tin; yêu cầu tổ chức bảo hiểm xã hội cung cấp thông tin; - Khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội; - Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm của người lao động - Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật này; - Thực hiện quy định về việc lập hồ sơ bảo hiểm xã hội; - Bảo quản sổ bảo hiểm xã hội theo đúng quy định; - Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. - Ngoài việc thực hiện các quy định này, người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp còn có các trách nhiệm sau đây: - Đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội; - Thông báo hằng tháng với tổ chức bảo hiểm xã hội về việc tìm kiếm việc làm trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp; - Nhận việc làm hoặc tham gia khoá học nghề phù hợp khi tổ chức bảo hiểm xã hội giới thiệu.  2.5.2. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động Người sử dụng lao động có các quyền sau đây: - Từ chối thực hiện những yêu cầu không đúng quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; - Khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội; - Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Người sử dụng lao động có các trách nhiệm sau đây: - Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định và hằng tháng trích từ tiền lương, tiền công của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội; - Bảo quản sổ bảo hiểm xã hội của người lao động trong thời gian người lao động làm việc; - Trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động khi người đó không còn làm việc; - Lập hồ sơ để người lao động được cấp sổ, đóng và hưởng bảo hiểm xã hội; - Trả trợ cấp bảo hiểm xã hội cho người lao động; - Giới thiệu người lao động đi giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng Giám định y khoa theo quy định - Cung cấp tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; - Cung cấp thông tin về việc đóng bảo hiểm xã hội của người lao động khi người lao động hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu; - Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. - Ngoài việc thực hiện các quy định này, hằng tháng người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp đóng bảo hiểm thất nghiệp.  2.5.3. Quyền và trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm xã hội: Tổ chức bảo hiểm xã hội có các quyền sau đây: - Tổ chức quản lý nhân sự, tài chính và tài sản theo quy định của pháp luật; - Từ chối yêu cầu trả bảo hiểm xã hội không đúng quy định; - Khiếu nại về bảo hiểm xã hội; - Kiểm tra việc đóng bảo hiểm xã hội và trả các chế độ bảo hiểm xã hội; - Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội; - Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội; - Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Tổ chức bảo hiểm xã hội có các trách nhiệm sau đây: - Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội; hướng dẫn thủ tục thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động, người sử dụng lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội; - Thực hiện việc thu bảo hiểm xã hội; - Tiếp nhận hồ sơ, giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội; thực hiện việc trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, thuận tiện và đúng thời hạn; - Cấp sổ bảo hiểm xã hội đến từng người lao động; - Quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định; - Thực hiện các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội; - Tổ chức thực hiện công tác thống kê, kế toán, hướng dẫn nghiệp vụ về bảo hiểm xã hội; - Giới thiệu người lao động đi giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng Giám định y khoa - Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bảo hiểm xã hội; lưu trữ hồ sơ của người tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật; - Định kỳ sáu tháng, báo cáo Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội về tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội. Hằng năm, báo cáo Chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước về tình hình quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội; - Cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin về việc đóng, quyền được hưởng chế độ, thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội khi người lao động hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu; - Cung cấp tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; - Giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo về việc thực hiện bảo hiểm xã hội; - Thực hiện hợp tác quốc tế về bảo hiểm xã hội; - Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. 3. Hệ thống các chế độ của BHXH. Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi quốc gia. Nó là một chính sách xã hội do Nhà nước ban hành áp dụng cho một bộ phận xã hội nhất định.Chính sách này có thể biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật, hiến pháp … song lại rất khó thực hiện nếu không được cụ thể hoá và không thông qua các chế độ BHXH. Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động. Chế độ BHXH thường được biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật và dưới luật, các thông tư, điều lệ … Có thể nói, các chế độ là nội dung cốt lõi nhất của hệ thống BHXH, nó thể hiện được vai trò và phạm vi trách nhiệm của BHXH đối với người lao động khi họ tham gia BHXH. 3.1. Hệ thống các chế độ BHXH theo ILO Theo khuyến nghị của tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã nêu trong công ước số 102 tháng 5 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm: Chăm sóc y tế Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thất nghiệp Trợ cấp tuổi già Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Trợ cấp gia đình Trợ cấp sinh đẻ Trợ cấp khi tàn phế Trợ cấp cho những người còn sống. Dựa trên 9 chế độ này, mỗi quốc gia có thể xem xét về từng điều kiện cụ thể, từng thời kì của nước mình và quyết định triển khai các chế độ nào và các chế độ BHXH đuợc chọn để triển khai ở từng nước là hoàn toàn khác nhau, có những nước lồng ghép các chế độ với nhau cho phù hợp hơn với hoàn cảnh, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó ít nhất phải có 1 trong năm chế độ: (3); (4); (5); (8); (9). BẢNG 1: Các chế độ BHXH đuợc thực hiện ở một số nước trên thế giới( chỉ xét 5 chế độ: thương tật, tuổi già, tử tuất; ốm đau, thai sản; tai nạn lao động; thất nghiệp; trợ cấp gia đình ) Nước Tuổi gìa, tử tuât, thương tật Ốm đau, thai sản Tai nạn lao động Thất nghiệp Trợ cấp gia đình Bỉ X X X X X Mỹ X X X X X Pháp X X X X X Đức X X X X X Nga X X X X X Tây Ban Nha X X X X X Anh X X X X X Philippin X X X - - Oxtraylia X X X X X Nhật Bản X X X X X Lào X X X - - Singapo X X X - - Ai Cập X X X X - Êthiôpia X - X - - Xuđăng X - X - - Achentina X X X X X Canada X X X X X Cuba X X X - X ( Nguồn www.socialsecurity.com ) Theo quy định tại Điều 4, chương I Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 quy định về các chế độ BHXH bắt buộc gồm 5 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Ngoài các chế độ nói trên, theo Quyết định số 20/2002/QĐ của Thủ tướng Chính phủ, BHYT Việt Nam chuyển sang BHXH và hình thành thêm chế độ BHYT trong hệ thống các chế độ BHXH. 3.2. Đặc điểm: Hệ thống các chế độ BHXH là một tổng thể hoàn chỉnh tạo ra một cơ chế thực hiện chính sách BHXH của từng nước và hệ thống này có những đặc điểm sau: - Các chế độ được xây dựng theo luật pháp mỗi nước. - Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính. - Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định. - Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ và đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán. - Các mức trợ cấp trong từng chế độ thực chất là quyền lợi của người lao động tham gia BHXH, không ai có quyền tước bỏ quyền lợi đó. - Nội dung của mỗi chế độ nói trên đều có thể được điều chỉnh hoàn thiện cho phù hợp với từng thời kỳ của mỗi nước. 4. Một số vấn đề về quản lí chi BHXH. Giới thiệu chung về quản lý BHXH. Quản lý BHXH chung nhất, được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý vào đối tượng và khách thể quản lý trong các hoạt động của BHXH, nhằm đạt được mục tiêu đề ra với những nguyên tắc và phương pháp quản lý phù hợp với hệ thống quản lý chung của nền kinh tế. Quản lý BHXH cho thấy phương thức quản lý BHXH và các cơ quan chức năng có nhiệm vụ quản lý BHXH (bao gồm quản lý Nhà nước về BHXH và quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH). Do điều kiện kinh tế - xã hội và chính trị của mỗi nước khác nhau nên hệ thống BHXH của các nước được xây dựng khác nhau và vì vậy không có mô hình tổ chức BHXH chung cho tất cả các nước. Có một số nước giao cho một bộ phận nào đó đảm nhận cả chức năng quản lý Nhà nước về BHXH và tổ chức thực hiện các nghiệp vụ BHXH. Quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH bao gồm có quản lý quỹ, quản lý đối tượng,thực hiện thanh tra, kiểm tra. Về quản lý đối tượng: Trong hoạt động BHXH có hai nhóm đối tượng là nhóm đối tượng tham gia BHXH và nhóm đối tượng thụ hưởng BHXH. Nhóm đối tượng tham gia BHXH bao gồm các doanh nghiệp và người lao động. Khi tham gia BHXH, doanh nghiệp và người lao động đều phải đóng phí BHXH. Vì vậy, để đảm bảo nguồn thu cho quỹ BHXH, các cơ quan BHXH phải nắm chắc được số lượng các đơn vị tham gia BHXH, những biến động trên từng địa bàn và trong toàn quốc. Đồng thời cũng phải có được những thông tin đầy đủ về người lao động để xác định được nguồn thu và dự báo được các khoản chi trong tương lai. Để quản lý tốt đối tượng, các cơ quan BHXH có các công cụ quản lý đó là sổ thẻ BHXH, trong đó có ghi chép các thông tin cần thiết về đối tượng, đặc biệt là đối tượng thụ hưởng BHXH. HIện nay đa số các nước đã ứng dụng công nghệ tin học hiện đại để quản lý đối tượng tham gia và thụ hưởng BHXH. Về thực hiện thanh tra, kiểm tra: Tuỳ theo mô hình của từng nước mà nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra về BHXH khác nhau. Tuy nhiên trong hệ thống BHXH của mỗi quốc gia đều có chức năng thanh tra kiểm tra nhằm đảm bảo các hoạt động BHXH đúng với các quy định của pháp luật. Về quản lý quỹ BHXH: Quản lý quỹ BHXH bao gồm công tác thu BHXH và quản lý công tác chi BHXH nhằm đảm bảo cho quỹ được an toàn và đảm bảo thu đúng, thu đủ; chi đúng, chi đủ cho đối tượng thụ hưởng BHXH; hạn chế tối đa sự thất thoát quỹ BHXH. Đồng thời xây dựng chiến lược tăng trưởng quỹ BHXH thông qua các hoạt động đầu tư. Trong quản lý quỹ BHXH thì việc thu chi BHXH được thực hiện thông qua bộ máy và cơ sở pháp luật BHXH của mỗi nước, các cơ quan BHXH tiến hành thu phí BHXH và triển khai chi trả các trợ cấp cho người thụ hưởng BHXH và các chi phí quản lý khác. Nội dung công tác chi BHXH. Công tác chi BHXH liên quan trực tiếp đến quyền lợi và đời sống của người tham gia, cơ quan BHXH phải có trách nhiệm chi trả các loại trợ cấp đến tận tay tất cả các đối tượng, đủ số lượng và đảm bảo thời gian quy định. Trong khi đó hiện nay cơ quan BHXH phải đảm bảo chi trả cho rất nhiều loại trợ cấp khác nhau, với các nguồn chi khác nhau. Công tác chi BHXH bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây: Chi trả các chế độ BHXH từ nguồn NSNN. Các chế độ BHXH hàng tháng: Lương hưu: hưu quân đội, hưu viên chức; Trợ cấp mất sức lao động; Trợ cấp công nhân cao su; Trợ cấp 91( theo quyết định số 91/2000/QĐ- TTg ngày 4/8/2000 của Thủ tướng chính phủ ); Trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp; Trợ cấp tuất ( định suất cơ bản và nuôi dưỡng ); Các chế độ BHXH một lần: - Trợ cấp tuất một lần trong các trường hợp được quy định khi người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động; người hưởng trợ cấp TNLĐ- BNN hàng tháng đã nghỉ việc chết; - Trợ cấp mai táng khi người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp 91, trợ cấp công nhân cao su và TNLĐ- BNN đã nghỉ việc chết; Đóng BHYT cho đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp 91, công nhân cao su, TNLĐ- BNN hàng tháng; Cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình cho người bị TNLĐ-BNN; Lệ phí chi trả; Các khoản khác( nếu có). Chi trả các chế độ BHXH từ nguồn quỹ BHXH. Quỹ ốm đau và thai sản: Chế độ ốm đau; Chế độ thai sản; Nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản; Lệ phí chi trả. Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp: - Trợ cấp TNLĐ- BNN hàng tháng; Trợ cấp phục vụ người bị TNLĐ- BNN hàng tháng; Trợ cấp một lần khi bị TNLĐ-BNN và khi chết do TNLĐ- BNN; Cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình cho người bị TNLĐ- BNN; Đóng BHYT cho người nghỉ việc hưởng trợ cấp TNLĐ- BNN hàng tháng; Lệ phí chi trả. Quỹ hưu trí, tử tuất: Các chế độ hàng tháng: + Lương hưu( hưu quân đội và hưu viên chức); + Trợ cấp cán bộ xã, phường, thị trấn ( theo Nghị Định số 09/1998/NĐ- CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ); + Trợ cấp tuất( định suất cơ bản, định suất nuôi dưỡng). Các chế độ một lần: + Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu theo Điều 54 Luật BHXH; + BHXH một lần theo khoản 1 Điều 55 Luật BHXH; + Trợ cấp tuất một lần trong các trường hợp được quy định khi TNLĐ- BNN hàng tháng đã nghỉ việc; người lao động đang đóng BHXH và đang bảo lưu thời gian đóng BHXH bị chết; + Trợ cấp mai táng khi người hưởng lương hưu , trợ cấp cán bộ xã; người hưởng trợ cấp TNLĐ-BNN hàng tháng đã nghỉ việc; người lao động đang đóng BHXH và đang bảo lưu thời gian đóng BHXH bị chết; Đóng BHYT cho người hưởng lương hưu, trợ cấp cán bộ xã hàng tháng; Lệ phí chi trả; Các khoản khác nếu có. Phân cấp thực hiện chi trả các chế độ BHXH. Hoạt động của cơ quan BHXH được phân cấp theo ngành dọc để đảm bảo sự thống nhất, tránh chồng chéo lãng phí. Hoạt động chi trả các chế độ cũng được phân cấp thực hiện. Mỗi cấp quản lý có nhiệm vụ khác nhau trong việc chi trả chế độ BHXH. BHXH cấp trung ương chịu trách nhiệm quản lý chung. Hàng năm tiến hành cấp kinh phí, kinh phí bổ sung cho cơ quan BHXH cấp dưới, đảm bảo chi trả kịp thời cho đối tượng. BHXH tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện trong việc chi trả, quyết toán các chế độ BHXH trên địa bàn quản lý. Đồng thời, BHXH tỉnh còn có nhiệm vụ trực tiếp chi trả; quyết toán chế độ ốm đau, thai sản, và chi trả các chế độ BHXH một lần cho người lao động do BHXH tỉnh quản lý thu BHXH. BHXH huyện có nhiệm vụ tổ chức chi trả và quyết toán chế độ ốm đau, thai sản, chi trả các chế độ BHXH một lần cho ngưòi lao động do BHXH huyện quản lý thu BHXH và các trường hợp BHXH tỉnh uỷ quyền. Đồng thời,BHXH huyện chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, trợ cấp tuất một lần, trợ cấp mai táng cho các đối tượng hưởng hàng tháng trên địa bàn; chi trả các chế độ BHXH cho người lao động có hồ sơ đề nghị giải quyết hưởng BHXH nộp tại BHXH huyện theo quy định. Dù là đơn vị BHXH thuộc cấp quản lý nào cũng phải thường xuyên có những đóng góp, tham mưu và tích cực trong công tác hoàn thiện chính sách BHXH cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và cần phải lưu ý các vấn đề sau: - Xây dựng mô hình quản lý chi trả hợp lý tuỳ điều kiện kinh tế - xã hội mỗi quốc gia.Tuân thủ nguyên tắc chi trả chế độ BHXH dựa trên cơ sở quy định Nhà nước đó và các điều ước quốc tế đã được cam kết. - Phân cấp và quy định cụ thể, rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp, từng đơn vị, từng cá nhân khi thực hiện nhiệm vụ quản lý chi trả chi trả chế độ BHXH. Do hoạt động BHXH có liên quan đến tất cả các ngành, các đơn vị, tổ chức kinh tế - xã hội và người lao động nên cần chú trọng nâng cao trình độ, chuyên môn, kỹ năng làm việc sao cho đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia BHXH khi họ được hưởng chế độ theo quy định. - Đảm bảo chi trả đầy đủ, kịp thời, thuận tiện và an toàn cho người hưởng các chế độ BHXH. Lựa chọn phương thức chi trả (trực tiếp hoặc gián tiếp) sao cho công tác chi trả thuận lợi nhất. - Quản lý hồ sơ của các đối tượng được hưởng chế độ kể cả trước và sau khi được chi trả chế độ BHXH. Nắm bắt thông tin quản lý đối tượng trong phạm vi quản lý của mình để lập kế hoạch chi trả chính xác, đầy đủ. - Thường xuyên tổ chức tuyên truyền cho các đối tượng tham gia BHXH hiểu được vai trò của BHXH, trách nhiệm và quyền lợi của họ khi tham gia BHXH. Nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và giải đáp thắc mắc về chế độ BHXH cho người tham gia bảo hiểm trong thời gian chi trả chế độ. - Thường xuyên kiểm tra, giám sát công tác chi trả các chế độ BHXH, kịp thời phát hiện những sai sót trong các khâu giải quyết chế độ. Từ đó, có những biện pháp xử lý và tạo niềm tin cho người lao động và gia đình họ. - Tổng kết quá trình thực hiện chi trả theo từng giai đoạn để phân cấp trách nhiệm quản lý đạt hiệu quả cao và tránh thất thoát quỹ BHXH khi chi trả các chế độ BHXH. Lý luận chung về chế độ trợ cấp hưu trí Giới thiệu chung về chế độ trợ cấp hưu trí. 1.1. Cơ sở hình thành chế độ trợ cấp hưu trí trong hệ thống BHXH Trong bất cứ hệ thống BHXH nào cũng có những chế độ chính thể hiện đặc trưng những mục tiêu chủ yếu của hệ thống BHXH, một trong những chế độ đó là chế độ hưu trí hay chế độ bảo hiểm tuổi già cho người lao động. Con người trong quá trình tồn tại và phát triển của mình đều trải qua các giai đoạn : sinh ra- lớn lên- trưởng thành- già yếu – chết đi; không một ai có thể tránh được quy luật của tự nhiên ấy. Bên cạnh đó, trong quá trình tồn tại của mình, con người còn phải lao động để tạo ra của cải vật chất; muốn sống con người phải lao động. Tuy nhiên, con người chỉ có thể lao động được khi còn sức lao động, đến một độ tuổi nào đó, khi đã về già con người không còn lao động được nữa; lúc này họ cần có một cuộc sống ổn định, cần có nguồn tài chính ổn định để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống của họ. Để đảm bảo lợi ích của người lao động và giúp họ ổn định cuộc sống, mang lại cho họ phần nào giá trị vật chất và tinh thần, hầu hết các quốc gia đều thực hiện chế độ hưu trí để đạt được mục đích trên. Chế độ hưu trí nhằm cung cấp một khỏan trợ cấp thay thế cho phần thu nhập không được nhận nữa của người lao động khi đến tuổi nghỉ hưu. Chế độ này dựa trên cơ sở số tiền mà người lao động và chủ sử dụng lao động đóng góp định kì, dựa trên tiền công mà người lao động nhận được và tỷ lệ này khác nhau theo quy định của từng nước. Khoảng thời gian đóng góp số tiền này là rất dài, gần như là cả cuộc đời lao động của con người. Dựa trên những yếu tố đó, với một số tiền đóng góp hàng tháng là rất nhỏ, khi về già người lao động sẽ được nhận khoản trợ cấp hàng tháng. Số tiền này phụ thuộc vào mức mà người lao động và chủ sử dụng lao động đóng góp và dựa trên khoảng thời gian đóng góp để tính toán mức trợ cấp cho hợp lý. Thực tế, tất cả những người tham gia vào BHXH đều có mong muốn tham gia và được thực hiện chế độ hưu trí. Hơn nữa, trong phần đóng góp vào quỹ BHXH nói chung thì phần chủ yếu là đóng để thực hiện chế độ hưu trí và hoạt động của hệ thống. BHXH cũng chủ yếu tập trung vào thực hiện chế độ hưu trí cho người lao động. Theo quy định của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì chế độ này là một trong những chế độ bắt buộc, là chế độ chính khi mỗi quốc gia muốn xây dựng cho mình một hệ thống BHXH. Thêm vào đó, xu hướng của dân số thế giới hiện nay đang già hoá dẫn đến số lượng người nghỉ hưu ngày càng tăng, để đảm bảo ổn định xã hội và an toàn xã hội, yêu cầu BHXH hưu trí là không thể thiếu và ngày càng phải được mở rộng, 1 Chế độ hưu trí giúp người già đảm bảo cuộc sống và những nhu cầu tối thiểu khi họ đã về hưu. Đối với nhiều người, nguồn trợ cấp hưu trí là nguồn tài chính sống còn, giúp họ ổn định cuộc sống của mình, giúp đỡ họ về mặt tinh thần, tạo điều kiện để họ có thể giúp đỡ con cháu hoặc đem những kinh nghiệm trong quá trình làm việc của mình trau dồi cho thế hệ trẻ. Nếu không có chế độ này, cuộc sống khi về già của người lao động không được đảm bảo và sẽ gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. Có chế độ hưu trí, những lao động đang làm việc có thể nhìn thấy sự bảo đảm cho tương lai của họ, vì thế họ yên tâm lao động, lao động một cách hăng say hơn, năng suất lao động cao hơn, tạo nhiều của cải vật chất, góp phần phát triển đất nứơc. Chế độ là hưu trí chế độ rất quan trọng trong chính sách BHXH của một quốc gia, hầu hết người lao động của quốc gia đó đều tham gia chế độ hưu trí gần như cả cuộc đời mình, trong một khoảng thời gian rất dài, như vậy chế độ hưu trí có ảnh hưởng đến hầu như toàn bộ dân số của một nước; do những đặc điểm đó số tiền thu- chi cho chế độ này là rất lớn; vì vậy chế độ hưu trí nói riêng và chính sách BHXH nói chung của một quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều mặt kinh tế xã hội của quốc gia đó. Nếu các nước thực hiện tốt chính sách BHXH và chế độ hưu trí sẽ tạo tiền đề, là cơ sở, là nền tảng tạo cơ sở xã hội bền vững và ngược lại, nếu chưa thực hiện tốt, người lao động luôn rơi vào trạng thái bất ổn định, ảnh hưởng đến xã hội, nền kinh tế và thậm chí là cả chế độ chính trị của một quốc gia. Ở nước ta, là một nước dân chủ, với quan niệm người già không chỉ là một thành phần của xã hội, họ còn là những người góp công, góp sức xây dựng Tổ quốc; chính sách BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng đã được thành lập từ rất sớm, đã đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của người dân. Ngày nay, cùng với sự phát triển chung của đất nước, chế độ hưu trí ngày càng được hoàn thiện hơn, đảm bảo cuộc sống cho những người về hưu, góp phần ổn định xã hội, đưa đất nước đi đúng theo con đường xã hội chủ nghĩa. 1.3. Nguyên tắc và đặc trưng của chế độ trợ cấp hưu trí 1.3.1. Nguyên tắc của chế độ trợ cấp hưu trí. Nguyên tắc thứ nhất: Đảm bảo mọi thành viên trong xã hội có quyền tham gia và hưởng quyền lợi về BHXH. Nguyên tắc thứ hai: Đảm bảo thực sự cho người lao động về mức thu nhập để có thể duy trì được cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời cũng như khi tuổi già hết khả năng lao động. Nguyên tắc thứ ba: Vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện. Nguyên tắc thứ tư: Bảo đảm sự thống nhất và liên tục của BHXH cũng như bảo hiểm hưu trí. Nguyên tắc thứ năm: Đảm bảo công bằng trong BHXH. 1.3.2. Đặc trưng của chế độ trợ cấp hưu trí. Là chế độ BHXH dài hạn nằm ngoài quá trình lao động nhưng lại được thể hiện ngay trong quá trình lao động. Người lao động tham gia đóng BHXH trong một thời gian dài liên tục đến khi đủ về số lượng thời gian tham gia đóng BHXH theo quy định thì mới đủ một trong những điều kiện để được hưởng bảo hiểm hưu trí. Người được hưởng bảo hiểm hưu trí phải đạt đến một độ tuổi nhất định nào đó hoặc được giảm tuổi trong một số trường hợp do nghề nghiệp hoặc môi trường lao động tuỳ theo quy định của mỗi nước và mỗi giai đoạn của lịch sử gắn với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Khi đã đủ các điều kiện thì người lao động được hưởng trợ cấp hưu trí trong khoảng thời gian tính từ lúc về hưu cho đến khi người lao động chết. Quá trình hưởng dài hay ngắn tuỳ thuộc vào tuổi thọ của từng người. Tỷ lệ hưởng và mức hưởng được xác định trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng BHXH trong quá trình lao động. Chế độ BHXH hưu trí có sự tách biệt giữa đóng và hưởng, đồng thời là chế độ nằm ngoài quá trình lao động. Vì vậy, để được hưởng chế độ hưu trí thì người lao động phải tham gia đóng BHXH ngay trong quá trình lao động, số tiền đóng góp vào quỹ bảo hiểm hưu trí trong quá trình lao động được tích luỹ và được dùng để chi trả lương hưu sau khi nghỉ việc, đồng thời quỹ BHXH cũng dùng để chi trả cho những người thuộc thế hệ trước đang hưởng lương hưu. Như vậy có sự kế thừa giữa các thế hệ lao động trong việc hình thành quỹ bảo hiểm hưu trí. Đây là đặc trưng thể hiện nguyên tắc số đông bù số ít, đoàn kết, tương trợ của bảo hiểm hưu trí. Thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động muốn có sự phát triển sản xuất kinh doanh thì người việc tập trung thiết bị máy móc, họ cũng phải quan tâm đến cuộc sống người lao động. Phải tạo cho người lao động việc làm và cũng phải đảm bảo cuộc sống cho họ khi họ hết tuổi lao động. 1.4. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của chế độ hưu trí Trong chế độ hưu trí, mục tiêu cao nhất và đạt được là bảo đảm đời sống người về hưu trên cơ sở của tiền lưwng hưu mà người lao động nhận được từ quỹ BHXH; hiệu quả trong việc góp phần bảo đảm an sinh và ổn định xã hội. Ta có thể chia thành 3 nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động BHXH là: * Nhóm các chỉ tiêu hiệu quả của hoạt động bảo hiểm hưu trí, bao gồm: Công tác quản lý thu BHXH, Quản lý quỹ BHXH, Quản lý công tác chi trả BHXH. * Nhóm các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của bảo hiểm hưu trí: Mở rộng đối tượng tham gia, Hình thức tham gia BHXH hưu trí. * Nhóm các chỉ tiêu đảm bảo lợi ích về kinh tế xã hội của người nghỉ hưu gồm: Mức đảm bảo các tiêu chuẩn sống của người về hưu; đảm bảo sự công bằng giữa những người nghỉ hưu; Sự tác động tích cực của chế độ hưu trí đến phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động xã hội. Nội dung cơ bản của chế độ trợ cấp hưu trí. 2.1. Đối tượng tham gia chế độ trợ cấp hưu trí. Những đối tượng tham gia các chế độ BHXH hầu hết là những đối tượng tham gia chế độ trợ cấp hưu trí. Họ là những các nhân hoặc tổ chức có trách nhiệm đóng góp để tạo lập quỹ BHXH. Có thể chia các đối tượng tham gia thành 2 nhóm chính : đối tượng tham gia bắt buộc và đối tượng tham gia tự nguyện. Chế độ hưu trí bắt buộc hầu hết triển khai ở đa số các quốc gia , còn chế độ hưu trí tự nguyện chỉ thực hiện ở một số quốc gia mà còn có những điều kiện phù hợp để thực hiện chế độ này. 2.1.1. Đối tượng tham gia bắt buộc. Gồm những người lao động và những người chủ sử dụng lao động phải tham gia đóng góp BHXH theo quy định của pháp luật. Đối với những người lao động tham gia BHXH ở các nước đều có đặc điểm chung thuận lợi cho việc thực hiện các chế độ BHXH: Những người này thường thuộc khu vực kinh tế có tổ chức tốt và ổn định như: khu vực kinh tế Nhà nước, khu vực kinh tế chính thức… Các yếu tố liên quan đến người lao động tham gia bắt buộc như: việc làm, thu nhập, điều kiện làm việc,… được ổn định, rõ ràng, tương đối chính xác, cho phép cơ quan BHXH có thể xác định mức đóng góp và mức hưởng. Các thông tin về người lao động tham gia BHXH bắt buộc thường sẵn có, dễ thu nhập và có hệ thống. Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị , tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh các thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động. 2.1.2. Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Họ là những người lao động và người sử dụng lao động không thuộc quy định tham gia BHXH bắt buộc nhưng tự nguyện tham gia BHXH tự nguyện cho chính họ và người lao động của họ. Những lao động tham gia BHXH tự nguyện thường có một số đặc điểm sau: Thường là những lao động thuộc khu vực phi chính thức như lao động tự tạo việc làm, lao động tại các gia đình, những người lao động hoạt động độc lập hoặc những người lao động thuộc các đơn vị kinh tế có số lao động ít hơn quy định. Thu nhập nhìn chung thấp, không ổn định, tính chất công việc lưu động, thất thường. Phần lớn những lao động tham gia BHXH tự nguyện là lao động không có chủ sử dụng lao động. Vì các đặc điểm bất lợi của người lao động tham gia BHXH tự nguyện nên phần lớn các nước chỉ mới tập trung thực hiện chương trình BHXH bắt buộc. Ở Việt Nam hiện nay, người lao động và người sử dụng lao động tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động, không thuộc quy định tham gia BHXH bắt buộc. 2.2. Đối tượng và điều kiện hưởng chế độ trợ cấp hưu trí. 2.2.1. Đối tượng hưởng trợ cấp hưu trí. Việc xác định đối tượng hưởng trợ cấp hưu trí đúng và đầy đủ sẽ đảm bảo được quyền lợi của người lao động và gia đình họ, đồng thời giúp quản lý BHXH chặt chẽ hơn, đảm bảo chi trả đúng đối tượng, từ đó đảm bảo công bằng giữa những người tham gia BHXH. Đối tượng được hưởng trợ cấp hưu trí là những người lao động đã tham gia BHXH có quyền nhận trợ cấp hưu trí ( tích đủ điều kiện về thời gian và mức đóng góp để được hưởng mức trợ cấp phù hợp và theo quy định riêng của từng quốc gia ). 2.2.2. Điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí. Người lao động khi tham gia BHXH khi về hưu sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí. Để có thể xác định một cách công bằng cho các lao động tham gia BHXH người ta sẽ xét điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí người lao động khi về hưu phải có đầy đủ các điều kiện phù hợp với điều kiện hưởng thì mới được hưởng trợ cấp. Điều kiện hưởng này là căn cứ rõ ràng để cơ quan quản lý BHXH có thể thực hiện việc chi trả của mình và cũng là căn để người lao dộng có thể xem xét, hiểu rõ được quá trình tham gia BHXH của mình. Khi xây dựng các chế độ BHXH đều phải dựa trên cơ sở điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của quốc gia như: cơ cấu ngành kinh tế quốc dân, tiền lương và thu nhập của các đối tượng trong xã hội, … ngoài ra khi xây dựng chế độ còn phải tính toán đến như yếu tố sinh học hay các xác suất xảy ra rủi ro … Điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí phải dựa vào các cơ sở sinh học là tuổi thọ và giới tính của người lao động; ngoài ra nó còn phụ thuộc vào tính chất của ngành nghề công tác, thời gian đóng BHXH, độ tuổi …Ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào điều kiện riêng của mình mà các nước quy định điều kiện hưởng cũng khác nhau bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí ở mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia đều có những khác biệt nhất định. Có những nước quy định độ tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ giống nhau, như ở một số nước lại quy định khác nhau. Ở một số nước quy định tuổi về hưu của người lao động muộn, nhưng ở một số nước lại quy định tuổi về hưu sớm. Hay một số nước quy định người lao động phải tham gia BHXH một số năm cụ thể thì mới nhận được trợ cấp hưu trí, và những yếu tố được xem xét để xét hưởng trợ cấp giữa các ngành nghề cũng là khác nhau. Do đó người lao động khi tham gia BHXH đến một khoảng thời gian nhất định, đến một độ tuổi quy định sẽ được nhận trợ cấp hưu trí và mức trợ cấp của từng người là khác nhau. BẢNG 2: Điều kiện độ tuổi và thời gian đóng BHXH quy định tại một số nước để được hưởng trợ cấp hưu trí áp dụng với các ngành nghề thông thường: Nước Nam Nữ Tuổi Thời gian BHXH Tuổi Thời gian đóng BHXH Phần Lan 65 25 60 20 Bồ Đào Nha 65 15 65 15 Tây Ban Nha 65 15 65 15 Anh 65 90% thời gian 60 90% thời gian Hunggary 62 20 61 20 Thái Lan 55 180 tháng 55 180 Ai Cập 55 10 55 10 Mexico 65 1250 tuần 65 1250 tuần (nguồn: www.socialsecurity.com) Ngoài ra ở các nước khác nhau thì các quy định về độ tuổi nghỉ hưu và số năm tham gia BHXH để được nhận trợ cấp là khác nhau. Ở Việt nam hiện nay theo quy định tại điều 26 mục 4 NĐ 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ quy định về điều kiện người lao động được hưởng lương hưu khi nghỉ việc thuộc một trong các trường hợp sau: Nam đủ 60 tuổi, Nữ đủ 20 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên Nam từ đủ 55 tuổi đến 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên mà trong đó có đủ 15 năm lành nghề hoặc công việc nặng nhọc, đọc hại, nguy hiểm hoặc đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0.7 trở lên. Người lao động có đử 50 tuổi đến 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên mà trong đó có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò. Người bị nhiễm HIV, AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên. Quy định của nhà nước về đủ tuổi người tham gia lao động được về hưu vì: Người lao động phải cống hiến đến một mức tuổi trung bình nào đó, ở tuổi này người lao động đã phần nào suy yếu về sức khỏe, có nhu cầu nghỉ ngơi và tĩnh dưỡng tuổi già. Bên cạnh đó, việc quy định số năm đóng BHXH nhất định của người lao động để được quyền hưởng trợ cấp hưu trí là cơ sở cho khoản trợ cấp của người lao động nhận được khi về hưu, đảm bảo nguồn tài chính của quỹ, tránh thâm hụt quỹ và đảm bảo khả năng chi trả của quỹ. Bên cạnh đó còn có những quy định đặc biệt cho người lao động làm việc ở những loại hình công việc khác nhau, đảm bảo công bằng giữa các lao động và đáp ứng được yêu cầu đặt ra của thực tiễn 2.3. Mức đóng góp chế độ trợ cấp hưu trí. Các đối tượng tham gia đóng góp BHXH sẽ chuyển về quỹ BHXH chung; rồi từ quỹ BHXH thì một phần lớn được dùng để chi trả cho chế độ hưu trí. Các đối tượng tham gia BHXH có thể chia thành 2 nhóm đối tượng chính, đó là đóng góp của người lao động và sử dụng lao động. Ngoài ra ở một số quốc gia, nhà nước cũng tham gia đóng góp cho quỹ BHXH dưới các hình thức như bù thiếu hoặc trợ cấp một khoản cố định. Bên cạnh đó quỹ BHXH cũng có thể huy động từ một số nguồn khác như cá nhân và các tổ chức ủng hộ … * Mức đóng góp của người lao động và sử dụng lao động: BHXH phát triển song song cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sức lao động trở thành hàng hóa. Vì vậy trách nhiệm đóng góp BHXH cho người lao động là trách nhiệm của cả lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Nguồn đóng góp của nhóm đối tượng này là nguồn cơ bản để trang trải cho các khoản trợ cấp BHXH. Mức đóng góp cho chế độ hưu trí nói riêng và các chính sách BHXH nói riêng được xác định theo nguyên tắc: - Đóng góp của người lao động được xác định bằng tỷ lệ phần trăm so với tiền lương. - Còn mức đóng góp của chủ sử dụng lao động được xác định bằng tỷ lệ phần trăm so với tổng quỹ lương được bảo hiểm ( tổng quỹ lương trừ đi quỹ lương không được bảo hiểm). - Mức đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động cần được xác định một cách hợp lý, không quá thấp cũng không qúa cao. - Và các quy định về mức đóng góp này tùy vào điều kiện cụ thể của từng nước mà được xác định sao cho hợp lý với từng quốc gia đó. Số liệu thống kê về tỷ lệ đóng góp cho quỹ BHXH của người lao động và chủ sử dụng lao động ở một số nước ( cho riêng chế độ hưu trí và cho toàn bộ chính sách BHXH). BẢNG 3: Thông kê mức đóng góp cho quỹ hưu trí và cho chính sách BHXH nói chung: Nước Tuổi già, tuất, thương tật Tất cả các chế độ( *) NSNN trợ cấp Người LĐ Người SD LĐ Tổng Người LĐ Người SD LĐ Tổng Bỉ 7,5 8,86 16,36 13,07 24,77 37,84 Trợ cấp hàng năm Đức 9,75 9,75 19,5 20,55 20,98 41,53 - Tây Ban Nha 4,7 23,6 28,3 6,25 31,58 37,83 Trợ cấp hàng năm Hy Lạp 6,67 13,33 20 11,55 22,1 33,65 10% Tổng tiền lương của người LĐ Séc 6,5 21,5 28 12,5 37 47,5 Trợ cấp nếu cần thiết Ai Cập 13 17 30 14 26 40 1% tổng tiền lương của người LĐ, bù thiếu Ni Giê Ria 7,5 7,5 15 7,5 7,5 15 - Ấn Độ 12 17,61 29,61 13,75 22,36 36,11 - ( Nguồn: www.socialsecurity.com) (*) Bao gồm 5 chế độ: - Tuổi già, tuất, thương tật - Ốm đau, thai sản - Tai nạn lao động - Thất nghiệp - Trợ cấp gia đình Vì chính sách BHXH là một chính sách xã hội, mang tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc nên ngoài khoản đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động còn có sự hỗ trợ của nhà nước. Có nhiều hình thức hỗ trợ của nhà nước và hình thức này được áp dụng ở mỗi nước là khác nhau. Có những quốc gia thực hiện chính sách tự cân đối thu chi của quỹ BHXH, có các quốc gia lại tài trợ bằng cách bù lỗi cho quỹ hàng năm. 2.4. Phương pháp tính mức hưởng trợ cấp hưu trí: Mức hưởng trợ cấp hưu trí nói chung phụ thuộc vào từng trườn hợp cụ thể và thời gian đóng phí bảo hiểm của người lao động trên cơ sở tương ứng giữa đóng và thưởng. Đồng thời mức hưởng trợ cấp còn phụ thuộc và khả năng thanh toán của từng quỹ BHXH và mức sống chung của từng tầng lớp dân cư và người lao động. Theo nguyên tắc mức tiền lương hưu này không được cao hơn mức tiền lương mà người lao động nhận được trong quá trình làm việc, nó chiếm bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số tiền lương mà người lao động nhận được. Ở các nước phát triển, thu nhập của người lao động cao nên tỷ lệ này thường thấp, còn ở các nước đang phát triển mức lương của người lao động nhận được thấp nên tỷ lệ này cao, đảm bảo đủ cho cuộc sống của người lao động. Ở Việt Nam theo quy định về mức trợ cấp của người lao động như sau: Mức lương hưu Tỷ lệ hưởng lương hưu Bình quân tiền lương, hàng tháng = hàng tháng X tiền công tháng đóng BHXH 2.4.1. Tỷ lệ hưởng a) Người lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu được nhận mức lương hưu hàng tháng được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH tương ứng với 15 năm đóng BHXH; sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ, mức tối đa bằng 75%. Ví dụ 1: Ông A nghỉ hưu khi đủ 60 tuổi , có 22 năm 7 tháng đóng BHXH. Vậy tỉ lệ hưởng được tính như sau: Đóng BHXH của ông A là 22 năm 7 tháng, số tháng lẻ được tính là 1 năm, do đó Số năm nên đóng BHXH để hưởng lương hưu là 23 năm. 15 năm đầu tính bằng 45% Từ năm thứ 16 đến năm thứ 23 là 8 năm , tính thêm : 2 x 8= 16% Vậy tỷ lệ lương hưu hàng tháng ông A được hưởng là: 16+ 45= 61% b) Người lao động hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động đã đóng BHXH đủ 20 năm trở lên bị suy giảm khả năng lao động từ 61 % trở lên đối với tỷ lệ hưởng trợ cấp hưu trí được tính như bình thường nhưng mỗi nam nghỉ hưu trước tuổi thì tỷ lệ lương hưu giảm 1% trong các trường hợp; - Nam đủ 50 tuổi trở lên, nữ đủ 45 tuổi trở lên. Lấy mốc 60 tuổi với nam và 55 tuổi với nữ để tính số năm nghỉ hưu trước quy định. Ví dụ 2: Ông B làm việc trong điều kiện bình thường, có 20 năm đóng BHXH , bị suy giảm khả năng lao động là 61% , nghỉ việc hưởng lương hưu khi 50 tuổi 3 tháng. Theo bình thường tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng của ông B là: 45 + 5x 2 = 55 % Ông B nghỉ việc khi 50 tuổi 3 tháng, như vậy tuổi nghỉ huưu của ông B được tính là 51 tuổi. Ông B nghỉ hưu trước 60 tuổi là 9 năm nên tỷ lệ thực hưởng lương hưu hàng tháng của ông B là: 55 – 9 = 46% - Đối với người có đủ 15 năm trở lên làm công việc nặng nhọc, độc hại , nguy hiểm thì không kể tuổi đời thì lấy mốc 55 tuổi với nam và 50 tuổi với nữ để tính số năm nghỉ hưu trước quy định. Ví dụ 3: Ông C nghỉ việc hưởng lương hưu khi đủ 50 tuổi , ông có 15 năm làm việc đặc biệt độc hại , bị suy giảm khả năng lao động 61% và có 27 năm đóng BHXH. Theo bình thường tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng của ông C là : 45 + 12x 2 = 69% Ông C nghỉ hưu trước tuổi 55 theo quy định là 5 năm nên tỷ lệ hưởng lương hưu tính giảm 5%. Vậy tỷ lệ hưởng lương hưu thực tế hàng tháng của ông C là : 69 – 5 = 64% c) Mức lương hàng tháng thấp nhất bằng mức tổi thiểu chung, nếu mức lương hàng tháng thấp hơn mức lương tối thiểu chung thì được tính bằng mức tối thiểu chung d) Mức trợ cấp 1 lần khi nghỉ hưu tính theo số năm đóng BHXH kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và năm thứ 26 trở đi đối với nữ. Cứ mỗi năm đóng BHXH được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân tiền lương , tiền công tháng đóng BHXH. Ví dụ 5: BÀ E nghỉ việc hưởng lương hưu khi đủ 55 tuổi , có 26 năm 10 tháng đóng BHXH, mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của bà E là 1.050.000 đồng/ tháng. Thời gian đóng BHXH của bà E được tính là 27 năm. Vậy mức trợ cấp 1 lần khi nghỉ hưu của bà E là: ( 27 – 25) x 0,5 = 1.050.000 ( đồng) 2.4.2. Mức bình quân tiền lương a) Lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do nhà nước quy định. - Người lao động tham gia trước ngày 01/01/1995 Tổng số tiền lương tháng đóng BHXH của 5 năm cuối trước khi nghỉ việc Mtlbq = ----------------------------------------------------------------------------------- 60 tháng - Người lao động tham gia BHXH trong khoảng từ 01/01/1995 đến ngày 31/12/2000 Tổng số tiền lương tháng đóng BHXH của 6 năm cuối trước khi nghỉ việc Mtlbq = ----------------------------------------------------------------------------------- 72 tháng - Người lao động tham gia BHXH trong khoảng thời gian từ 01/01/2001 đến ngày 31/12/2006 Tổng số tiền lương tháng đóng BHXH của 8 năm cuối trước khi nghỉ việc Mtlbq = ----------------------------------------------------------------------------------- 96 tháng - Người lao động tham gia BHXH từ ngày 01/01/2007 trở đi Tổng số tiền lương tháng đóng BHXH của 10 năm cuối trước khi nghỉ việc Mtlbq = ----------------------------------------------------------------------------------- 120 tháng b. Người lao động có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định Tổng số tiền lương,tiền công của các tháng đóng BHXH Mtlbq = --------------------------------------------------------------------- Tổng số tháng đóng BHXH c. Mức bình quân tiền lương, tiền công đóng BHXH đối với người lao động vừa có thời gian đóng BHXH thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do nhà nước quy định, vừa có thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định: Tổng số tiền lương tháng đóng BHXH theo chế độ tiền lương do nhà nước quy định ++ Tổng số tiền lương, tiền công của các tháng đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định Mtlbq= Tổng số tháng đóng BHXH 2.5. Phương thức chi trả chế độ trợ cấp hưu trí. Việc chi trả chế độ BHXH nói chung và cả chế độ hưu trí nói riêng thông thường qua 2 phương thức: gián tiếp và trực tiếp. 2.5.1. Phương thức chi trả gián tiếp. Đây là phương thức chi trả cho đối tượng hưởng trợ cấp hưu trí thông qua ban chi trả. Mỗi phường có ban chi trả riêng do Chủ tịch UBND Phường là trưởng ban chi trả, phối hợp với công an quận, công an các phường đảm bảo an toàn tiền mặt trong ngày chi trả. Hàng tháng BHXH Thành phố in bản danh sách các đối tượng được hưởng các chế độ hưu trí; sau đó đưa xuống các quận rồi lại đưa cho phường giải quyết. Bởi vậy nó có ưu điểm là: Trong cùng một thời gian việc chi trả được tiến hành ở tất cả các phường trong phạm vi toàn quận. Cán bộ chi trả là người của các địa phương nên thường xuyên nắm được tình hình biếnd động của các đối tượng hưởng hưu trí do địa phương đó phụ trách để phản ánh kịp thời cho BHXH quận. Và nhược điểm: BHXH quận không nắm được tâm tư nguyện vọng của đối tựơng hưởng trợ cấp hưu trí để giải quyết kịp thời những thắc mắc cho đối tượng. Mặc dù thời gian chi trả có thể tiến hành đồng thời ở các Phường trong quận nhưng việc chi trả trong phạm vi 1 phường lại có thể kéo dài. Vì vậy, việc quyết toán với BHXH quận sau mỗi kì chi trả thường bị chậm. 2.5.2. Phương thức chi trả trực tiếp. Theo phương thức này, việc chi trả trợ cấp cho đối tượng hưởng trợ cấp hưu trí không qua các ban chi trả mà trả trực tiếp cho đối tượng hưởng do các cán bộ của ngành thực hiện. Thông thường mỗi cán bộ làm công tác chi trả chịu trách nhiệm chi trả cho đối tượng hưởng trợ cấp hưu trí ở 1 số địa bàn hoặc một số đơn vị sử dụng lao động. Cán bộ làm công tác này có trách nhiệm chuẩn bị mọi công việc có liên quan đến việc chi trả từ khâu nhận danh sách đối tượng hưởng, lên kế hoạch và thông báo thời gian chi trả đến từng địa bàn, đơn vị được phân công phụ trách , chuẩn bị tiền chi trả đến khâu thanh, quyết toán sau khi chi trả. Phương thức này có những ưu điểm là: Xác lập được mối quan hệ trực tiếp giữa cơ quan BHXH với đối tượng hưởng BHXH, từ đó nắm được tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh, đời sống của đối tượng. Cơ quan BHXH có thể thường xuyên kiểm tra và quản lý chặt chẽ đối tượng, nắm được tình hình tăng giảm và điều chỉnh, phát hiện những trường hợp hưởng không đúng, hưởng không có đủ giấy tờ hợp lệ. Việc chi trả được thực hiện nhanh gọn, đầy đủ và chính xác, vừa đảm bảo quyền lợi đầy đủ cho nhân dân, vừa nâng cao uy tín của ngành. Và nhược điểm: Không thể tiến hành chi trả đồng thời ở tất cả các phường trong phạm vi toàn quận. Trong quá trình chi trả chỉ cần 1 phường không thực hiện đúng kế hoạch sẽ làm ảnh hưởng đến thời gian chi trả ở các xã, phường khác và toàn quận. Đối với các địa phương ở xa, điều kiện đi lại không thuận lợi thì thường gặp khó khăn trong việc vận chuyển và đảm bảo an toàn tiền mặt. Phải tùy theo điều kiện ở mỗi nơi mà có thể vận dụng 1 trong 2 phương thức trên. Đặc điểm hoạt động triển khai và công tác chi trả chế độ trợ cấp hưu trí ở Việt Nam. Tại Việt Nam hiện nay người lao động và sử dụng lao động và sử dụng lao động tham gia đóng góp BHXH tạo thành quỹ BHXH và được chia thành 3 quỹ thành phần: Quỹ ốm đau và thai sản Quỹ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Quỹ hưu trí và tử tuất Số tiền dùng để chi trả trợ cấp hưu trí cho người lao động về hưu được lấy ra từ quỹ hưu trí và tử tuất và số tiền chi trả cho chế độ này chiếm phần lớn số tiền chi trả cho quỹ. Mức đóng góp cho các chế độ quy định tại điều 91, mục 1 chương VI của Luật bảo hiểm xã hội 71/2006/QH11 ngày 29/06/2006 và cụ thể như sau: Người lao động đóng 5% mức tiền lương hàng tháng vào quỹ hưu trí và tử tuất và từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%. Người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH của người lao động: 3% vào quỹ ốm đau, thai sản 1% vào quỹ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 14%. Công tác chi trả chế độ hưu trí luôn được sự quan tâm của ngành BHXH cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước để đảm bảo chi đúng, đảm bảo chi đủ cho người về hưu, để mang lại niềm tin cho người lao động, góp phần một cách tích cực nhất trong việc đảm bảo đời sống vật chất, chăm lo sức khỏe và đời sống tinh thần cho người cao tuổi. Tuy đã đạt được nhiều kết quả khá tốt nhưng công tác chi trả ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế và còn gặp nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất trong công tác chi trả của ngành trong những năm qua: - Số người hưởng BHXH, BHYT ngày càng tăng, cư trú ở tất cả các phường xã, các thôn, bản trên phạm vi toàn quốc. Ở các tỉnh miền núi, nhiều thôn, bản chỉ có 1 hoặc 2 người hưởng lương hưu hoặc trợ cấp BHXH. - Lượng tiền chi trả lớn và chủ yếu bằng tiền mặt do vậy việc đảm bảo kinh phí và an toàn tiền mặt luôn tạo áp lực đối với Ngành ( năm 2009 , bình quân mỗi tháng toàn Ngành chi trả gần 4000 tỷ đồng tiền mặt ) Vượt qua mỗi khó khăn, những năm qua BHXH Việt Nam đã tập trung sử dụng nhiều biện pháp từ việc chủ động nguồn kinh phí chi trả , xây dựng quy trình và tổ chức các đại lý chi trả ở xã, phường , thị trấn đến việc phối hợp với chính quyền cơ sở đảm bảo chi trả được an toàn đến từng người nhận lương hưu và trợ cấp. Ngoài ra, BHXH Việt Nam đã phối hợp với các Ngân hàng thương mại thực hiện phương thức chi trả qua tài khoản thẻ ATM cho những người tự nguyện lựa chọn phương thức này. Từ 1995- 2009, BHXH Việt Nam đã thực hiện chi trả an toàn gần 300 nghìn tỷ đồng, bình quân mỗi năm chi trả 20 nghìn tỷ đồng. Thực tiễn hoạt động chi trả lương hưu và các chế độ trợ cấp BHXH, BHYT của Ngành trong 15 năm qua luôn đảm bảo mục tiêu kịp thời , đúng chế độ, an toàn, ổn định đời sống của người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH, BHYT, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Thống kê về các chế độ trợ cấp hưu trí ở một số nước trên thế giới. Trên thế giới, đa số các nước khi quy định chế độ hưu trí đều đưa ra 2 điều kiện cơ bản để hưởng lương hưu là tuổi đời và thời gian tham gia bảo hiểm xã hội, đồng thời quy định mức trợ cấp theo mức thu nhập đã có của người lao động trước khi nghỉ hưu. Tuy nhiên cũng có một số nước quy định chế độ dưỡng cấp theo mức đồng đều mọi người như Thụy Điển, Úc. Chế độ hưu trí ở một số nước được quy định như sau: Về điều kiện tuổi đời. Ở các nước khác nhau, tùy theo các nhân tố dân số và kinh tế xã hội mà có sự quy định tuổi nghỉ hưu khác nhau và có quy định khác nhau giữa tuổi nghỉ hưu của nam và nữ trong cùng một nước. Có một số nước quy định độ tuổi nghỉ hưu của nam và nữ như nhau nhưng có một số nước khác lại quy định tuổi nghỉ hưu của nữ thấp hơn nam. Việc xác định tuổi nghỉ hưu phụ thuộc rất nhiều yếu tố kể cả phụ thuộc vào nước có dân số già hay trẻ. Đối với nước có dân số già, số người nghỉ hưu lớn, họ phải nâng tuổi nghỉ hưu thường cao hơn các nước có dân số trẻ. Ngoài ra các nước còn quy định hạ tuổi nghỉ hưu so với tuổi nghỉ hưu bình thường đối với những người làm những ngành nghề công việc trong điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Bảng 4- Tuổi nghỉ hưu của một số nước trên thế giới Tên nước Tuổi nghỉ hưu Tên nước Tuổi nghỉ hưu Nam Nữ Nam Nữ Canada Anh Pháp Đức Hungary Ba Lan óc Mexico 65 65 65 65 60 65 65 65 65 60 65 63 55 60 60 65 Trung Quốc Nhật Bản Hàn Quốc Ên Độ Hồng Công Philippin Indonesia Singapore 60 65 60 55 65 60 55 55 55 65 60 55 65 60 55 55 Về xác định số năm đóng góp chế độ trợ cấp hưu trí. Số năm đóng góp chế độ trợ cấp hưu trí có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công việc xác lập chế độ hưu trí vì thời gian đóng là một trong các điều kiện để xác định hưởng trợ cấp hưu. Ở nhiều nước có quy định phải có một số năm đóng tối thiểu, qua tài liệu thống kê cho thấy số năm đóng BHXH dao động từ 15 đến 45 năm. Một nguyên tác đặt ra trong chế độ hưu trí là độ tuổi được hưởng chế độ hưu xác định cao thì đòi hỏi số năm bắt buộc phải đóng cũng cao, quy định số năm đóng thấp thì mức trợ cấp cũng phải thấp hơn. Quy định thời gian đóng bảo hiểm xã hội hưu trí (tối thiểu) của một số nước như sau: Anh: đóng 52 tuần liên tục cộng với 9/10 tổng số năm làm việc. Pháp: đóng 150 tháng liên tục Đức: 15 đến 35 năm Ấn Độ: 15 năm (chung cho cả nam và nữ) Trung Quốc: 10 năm liên tục (chung cho cả nam và nữ) Nhật: 20 năm (chung cho cả nam và nữ) Philippin: 120 tháng liên tục (chung cho cả nam và nữ) Về mức trợ cấp hưu trí. Có rất nhiều cách xác định mức trợ cấp hưu trí. Một số nước xác định mức đồng đều, coi là mức tối thiểu thích hợp với mặt bằng chung của quốc gia. Nhiều nước xác định mức trợ cấp theo thu nhập đã từng có của người lao động khi nghỉ hưu. Một số nhóm nước khác kết hợp cả hai cách. Trong phần trợ cấp có phần nền là một mức đồng nhất cộng thêm phần tỷ lệ thu nhập. Tuy nhiên, xu hướng chung là trợ cấp theo mức thu nhập đã từng có của người lao động trước khi nghỉ hưu, phù hợp với đa số trường hợp là đóng góp bảo hiểm xã hội hưu trí theo thu nhập để trả lương hưu vào hàng tháng. Tuy nhiên cũng có nước thực hiện trợ cấp hưu trí theo kiểu quỹ phòng xa (Malaysia, Ấn Độ), chi trả một lần hoặc kết hợp chi trả một lần và trả hàng tháng. Cụ thể mức hưởng trợ cấp hưu trí của một số nước như sau: Anh: 32,85 bảng/tuần + 12% thu nhập được bảo hiểm trong nước. Pháp: 50% thu nhập bình quân trong vòng 10 năm cao nhất. Lương được tính theo các lần thay đổi lương. Đức: 1,5% “ lương ước tính” là tỷ lệ giữa thu nhập của người lao động so với mức lương trung bình của cả nước nhân với “cơ sở tính toán chung” hiện thời. Ba Lan: 100% thu nhập bình quân của mức dưới 3000 ZLOTY một tháng của 12 tháng gần nhất cộng với 55% của phần còn lại và tăng 4% trợ cấp tính theo trợ cấp cơ bản cho mỗi năm công tác trên 20 năm. Trung Quốc: 60 đến 90% thu nhập trong tháng cuối, phụ thuộc vào thời gian công tác. Ấn Độ: Trả một lần tương ứng với số đóng góp của chủ và thợ đã trả cộng với 7,58% lãi. Philipines: 1,5% lương bình quân của 120 tháng cuối cộng với từ 42 đến 102% của tiền lương bình quân của 10 tháng lương. Về mức đóng góp. Mức đóng góp cho chế độ hưu trí cũng có sự khác nhau giữa các nước. Tuy nhiên, ở hầu hết các nước đều có sự phân chia đóng góp giữa giới chủ và giới thợ và đóng riêng cho chế độ hưu trí mà không gộp vào các chế độ khác chẳng hạn: Anh: Người lao động đóng 2% của 54 bảng/tuần đầu tiên cộng thêm 9% lương tuần của tiền lương từ 54 đến 405 bảng. Người sử dụng lao động đóng từ 4,6% đến 10,4%. Pháp: Người lao động đóng 6,54% trong thu nhập được tính BHXH của mình, người sử dụng lao động đóng 8,2% tiền lương tối đa để đóng BHXH là 12,360 Francs một tháng. Đức: Người lao động đóng 8,75 % tiền lương, nếu người lao động có thu nhập dươi 610 DM/tháng thì không phải đóng BHXH. Người lao động độc lập phải đóng 15,7%. Người sử dụng lao động đóng 8,75% quỹ lương và đóng 7,5% nếu trong doanh nghiệp có người lao động có thu nhập thấp hơn 610 DM/tháng Một số kinh nghiệm rút ra từ việc thực hiện chế độ hưu trí ở một số nước trên thế giới 5.1. Chế độ hưu trí của Nhật Bản Luật Hưu trí cho người lao động ra đời năm 1941, và được đổi tên là Luật Bảo hiểm hưu trí cho người lao động vào năm 1944, áp dụng đối với người lao động làm công hưởng lương. Năm 1959 Luật Bảo hiểm hưu trí quốc gia ra đời thực hiện bảo hiểm cho lao động cá thể, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Do đó, đến năm 1961 về cơ bản một chế độ hưu trí toàn dân đã được hình thành ở Nhật Bản. Năm 1985, Luật Hưu trí đã có sự thay đổi đáng kể bằng việc giới thiệu Chế độ lương hưu cơ bản. Từ đó hình thành hệ thống lương hưu với cấu trúc 2 tầng, tầng 1 là lương hưu cơ bản, tầng 2 là lương hưu được tính căn cứ theo tiền lương đóng bảo hiểm của người tham gia. Chế độ hưu trí Nhà nước được chia ra làm hai loại hình chính là: Chế độ bảo hiểm hưu trí quốc gia áp dụng đối với công dân Nhật Bản tuổi từ 20 đến dưới 60 và thực hiện tự nguyện cho người dân Nhật Bản ở trong nước từ 60 đến dưới 65 tuổi, ở nước ngoài từ 20 đến dưới 65 tuổi. Chế độ hưu trí cho người lao động thực hiện cho người lao động dưới 65 tuổi làm việc tại các tổ chức, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương, tại các công ty, tập đoàn, trường học tư. Đối tượng: Dân số được chia làm 3 nhóm: Nhóm 1: lao động cá thể, nông dân, người không có việc làm, sinh viên… tham gia chế độ hưu trí quốc gia. Nhóm II: lao động trong khu vực tư nhân và Nhà nước, tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí cho người lao động. Nhóm 3: người ăn theo là vợ/chồng sống dựa vào thu nhập của người lao động thuộc nhóm II, tham gia chế độ hưu trí quốc gia. Mức đóng và nguồn quỹ: Mức đóng của nhóm I là 13.300 yên/tháng, từ 4/2005 tăng mỗi năm 280 yên để đạt mức 16.900 yên/tháng vào năm 2017. Mức đóng của nhóm II là 13,934%, từ 10/2004 tăng mỗi năm 0,354% và sẽ đạt 18,30% vào năm 2017, số tiền đóng góp được chia đều, chủ sử dụng lao động đóng 50%, người lao động đóng 50%. Nhóm III không phải đóng phí, phí bảo hiểm của nhóm này sẽ được quỹ hưu trí cho người lao động chuyển sang quỹ hưu trí quốc gia. Nguồn quỹ hưu trí được hình thành từ đóng góp của người tham gia, người lao động, chủ sử dụng lao động và ngân sách nhà nước. Phúc lợi: Người tham gia theo quy định sẽ được nhận lương hưu cơ bản khi 65 tuổi với thời gian tham gia bảo hiểm từ 25 năm trở lên. Người tham gia bảo hiểm có thể nhận lương hưu sớm từ 60 đến 64 tuổi, nhưng mức lương hưu sẽ bị giảm đi bằng 0,5% nhân với số tháng nhận lương hưu sớm, ngược lại nếu nhận lương hưu muộn từ 66 đến 70 tuổi mức lương hưu sẽ tăng lên là 0,7% nhân với số tháng nhận muộn. Các chế độ trợ cấp khi tham gia bảo hiểm hưu trí gồm: lương hưu, trợ cấp thương tật và trợ cấp tuất. Với các đối tượng thuộc nhóm I và III được nhận trợ cấp lương hưu cơ bản, trợ cấp thương tật cơ bản, trợ cấp tuất cơ bản. Trợ cấp thương tật, trợ cấp tuất được tính trên cơ sở lương cơ bản và được chia làm nhiều mức. Người lao động tham gia chế độ bảo hiểm cho người lao động, sẽ được nhận trợ cấp lương hưu cơ bản và lương hưu tính trên cơ sở tiền lương đóng bảo hiểm. Từ tháng 4/2002 lương hưu cơ bản cho người có thời gian tham gia bảo hiểm 40 năm là 66.208 yên/tháng. 5.2 Chế độ hưu trí của Đức Hiện nay, bảo hiểm hưu trí đối với người lao động của Cộng hòa Liên bang Đức được thực hiện thông qua 3 hệ thống: Hệ thống bảo hiểm hưu trí bắt buộc của Nhà nước liên bang. Đây là hệ thống chủ yếu nhất, thực hiện bảo hiểm hưu trí bắt buộc đối với 80% tổng số lao động làm công ăn lương trong cả nước, gồm các cơ quan bảo hiểm hưu trí đối với công nhân (ArV) và các cơ quan bảo hiểm hưu trí đối với công chức, viên chức Đức (AV). Hệ thống này thực hiện các chế độ BHXH hưu trí sau:  - Bảo hiểm hưu trí (trả lương hưu cho người lao động tham gia hệ thống khi được hưởng) Bảo hiểm cho thân nhân người tham gia hệ thống khi người tham gia bảo hiểm hưu trí từ trần. Bảo hiểm tàn tật và thực hiện các biện pháp phục hồi sức khoẻ khi người tham gia bảo hiểm hưu trí bị tai nạn, bị tàn phế.  Hệ thống bảo hiểm hưu trí doanh nghiệp, thực hiện bảo hiểm hưu trí đối với những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp đó.  Hệ thống bảo hiểm hưu trí tư nhân, thực hiện bảo hiểm hưu trí tự nguyện cho mọi người lao động tự nguyện tham gia (kể cả người lao động đã tham gia hệ thống bảo hiểm hưu trí nhà nước).   Tỷ lệ đóng góp cho hệ thống bảo hiểm hưu trí bắt buộc của Nhà nước liên bang đối với người lao động và người sử dụng lao động được quy định hàng năm, phụ thuộc vào mức chi trả cụ thể (dự toán) hàng năm cho các chế độ thuộc bảo hiểm hưu trí và mức trợ cấp của ngân sách liên bang cho hệ thống (giao động xung quanh con số 30 % tổng chi hàng năm của hệ thống). Thông thường, tỷ lệ đóng góp này dao động xung quanh con số 19,5% khoản lương thực nhận hàng tháng của người lao động tham gia hệ thống, trong đó, tỷ lệ mức đóng góp giữa người lao động với người sử dụng lao động là 50/50. 5.3. Chế độ hưu trí ở Mỹ. Chế độ trợ cấp tuổi già ở Mỹ được triển khai cho tất cả mọi người đến tuổi về hưu theo quy định ( trước năm 1983: 65 tuổi đối với nam và nữ, còn từ năm 1983 đến nay là 67 tuổi ). Điều kiện hưởng là phải có thâm niên công tác ít nhất là 35 năm. Nếu thâm niên chưa đủ và người lao động muốn nghỉ hưu sớm, lương hưu sẽ giảm đi. Ví dụ về hưu tuổi 62, lương hưu giảm 20%. Mức trợ cấp gồm: - Lương hưu cho bản thân người lao động ( lương hưu toàn phần ); - Lương hưu bổ sung nếu người lao động nam phải nuôi vợ tuổi 65 trở lên và lương bổ sung bằng 50% lương hưu; - Nếu người vợ cũng có tiền lương hưu thì người vợ có quyền lựa chọn giữa lương hưu của mình và khỏan lương hưu bổ sung bằng 50% lương của người chồng. Chế độ hưu trí không hạn chế người về hưu vẫn tiếp tục làm việc để kiếm thêm thu nhập. Tuy nhiên với mỗi đô la làm ra, lương hưu sẽ bị giảm đi ½ đến 1/3 đô la. Điều này nhằm đảm bảo sự công bằng vì theo thống kê ở Mỹ, cứ 5 người Mỹ tuổi trung niên thì có một người sống trong nghèo khổ( chiếm tỷ lệ 20 % ) Như vậy chế độ hưu trí ở Mỹ đảm bảo người về hưu có thể sống bằng lương hưu cả khi có người sống phụ thuộc, nhưng không có sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa những người đã về hưu. 5.4. Chế độ hưu trí ở Thụy Điển. Chế độ này được xây dựng nhằm vào các mục tiêu sau: + Đảm bảo cuộc sống của người về hưu với mức tốt nhất; + Giảm thiểu những căng thẳng trong vấn đề lao động và việc làm; + Tôn trọng quyền tự chủ của người lao động. Với mục đích đó, chế độ có những đặc thù sau đây: Tuổi về hưu được hưởng trợ cấp được quy định chung là 65 tuổi đối với cả nam và nữ; Người lao động được quyền lựa chọn thời điểm về hưu phù hợp giữa 60 và 70 tuổi; Áp dụng chế độ trợ cấp hưu bán phần, có nghĩa là người tuổi từ 60 được làm việc bán thời gian và nhận trợ cấp bù vào thu nhập bị mất; ràng buộc là không làm việc quá ít, ít nhất cũng 17 giờ / 1 tuần; điều này cho phép tạo việc làm cho người lao động trẻ tuổi; Có nhiều loại trợ cấp tuổi già: Loại 1: Áp dụng cho tất cả những người đến tuổi được hưởng trợ cấp tuổi già theo luật định ( 65 tuổi ); loại trợ cấp này được căn cứ trên một mức thu nhập cơ sở do Chính phủ tính toán ấn định hàng năm nhằm khắc phục tình trạng lạm phát; tỷ lệ trợ cấp bằng 96 % mức thu nhập cơ sở. Loại trợ cấp này mang tính phổ cập, điều kiện hưởng duy nhất là đủ tuổi( tuổi sinh học). Loại 2: áp dụng cho những người lao động có đóng góp vào quỹ BHXH: mức trợ cấp này được tính trên thu nhập bình quân 15 năm có thu nhập cao nhất; điều kiện nhận trợ cấp: có thâm niên 30 năm làm việc trở lên; nếu ít hơn thì giảm 1/30 trợ cấp cho mỗi năm còn thiếu. Loại 3: Áp dụng cho những nguời vẫn còn gặp khó khăn sau khi nhận lương hưu, bằng 48% mức thu nhập cơ sở; Loại 4: là một khoản gọi là phụ cấp nhà ở cho những người có khó khăn nhất. Các khoản trợ cấp hưu đều không phải chịu thuế ( khác với trợ cấp ốm đau ). Như vậy, chế độ trợ cấp tuổi già cũng tỏ ra rất ưu việt, với cách thiết kế chế độ tỉ mỉ áp dụng cho nhiều cấp độ khác nhau, đảm bảo cuộc sống dễ chịu cho người về hưu. Mỗi người lao động có thể đồng thời nhận nhiều loại trợ cấp khác nhau trong chế độ này. =>> Kinh nghiệm đối với Việt Nam: Qua nghiên cứu quá trình tổ chức và thực hiện hệ thống BHXH hưu trí tại các nước trên thế giới, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho VN như sau: Thứ nhất: Nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc quản lý quỹ hưu trí. Trong tất cả các nước, vai trò của Nhà nước trong hệ thống hưu trí là rất quan trọng. Nhà nước với tư cách là người đề ra định hướng cho sự hoạt động của hưu trí và là một sự bảo trợ rất quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của hệ thống này, đặc biệt là bảo trợ về mặt tài chính ở các mức độ và hình thức khác nhau. Vì thế cần phải có sự chỉnh sửa trong các quy định cũng như cách quản lý quỹ hưu trí, xây dựng luật pháp về hưu trí ổn định lâu dài, tránh sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo sự bình yên của xã hội và cuộc sống của người lao động. Thứ hai: Xây dựng quỹ hưu trí đủ khả năng chi trả lâu dài, từ thế hệ này sang thế khác. Hiện nay Việt Nam vẫn đang áp dụng phương pháp PAYG (pay as you go: khoản tiền thu được hiện tại được dùng để chi trả cho chi phí hiện tại) Phương pháp này có thể làm giảm khả năng tài chính quốc gia khi dân số già hóa nhanh và nợ lương hưu tiềm ẩn lớn, hơn nữa nó còn dẫn đến sự bất công bằng giữa các thế hệ tham gia hệ thống - thể hiện sự bất tương ứng giữa mức đóng và mức hưởng. Bởi thế, việc nghiên cứu xây dựng một hệ thống hưu trí mới là hết sức cần thiết. Thứ ba: Điều chỉnh độ tuổi nghỉ hưu của nữ giới. Hiện nay tại Việt Nam, tuổi nghỉ hưu bình quân của lao động nữ mới đạt 51 tuổi, ít hơn 4 năm so với quy định, còn đối với nam giới là 55 tuổi. Từ kinh nghiệm của các nước trên, chúng ta nên xem xét điều chỉnh độ tuổi nghỉ hưu của nữ giới: thứ nhất là lao động nữ được quyền lựa chọn nghỉ hưu sớm 5 năm; hoặc tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội và làm việc đến 60 tuổi như nam giới.Phụ nữ vẫn được hưởng quyền lương hưu khi đủ 55 tuổi như quy định hiện tại và công thức tính lương hưu của nữ giới dần dần được thay đổi để bình đẳng với nam giới. Thứ hai là tăng tuổi nghỉ hưu cho lao động nữ lên độ tuổi 60. Thứ tư: Phát triển hệ thống hưu trí tự nguyện, các quỹ hưu trí tự nguyện để tạo điều kiện cho những lao động thuộc khu vực “phi chính thức” (lao động tự do) có cuộc sống ổn định khi hết tuổi lao động. Chương II- Thực trạng công tác chi chế độ trợ cấp hưu trí tại BHXH Hoàng Mai trong giai đoạn 2005- 2009 Giới thiệu chung về BHXH quận Hoàng Mai. Sự ra đời và phát triển. Hà Nội là trung tâm đầu não về chính trị, văn hóa, khoa học kĩ thuật, đồng thời là trung tâm lớn về kinh tế, giao dịch quốc tế lớn của cả nước; bên cạnh đó Hà Nội cũng có cơ cấu kinh tế, thành phần dân cư đông đúc và truyền thống văn hóa hết sức phong phú và đa dạng. Hiện nay Thủ đô Hà Nội có 9 quận và 5 huyện trực thuộc. Quận Hoàng Mai cũng là một quận ở Hà Nội. Đây là một quận mới được thành lập theo Nghị định 132/CP ngày 6/11/2003 của Chính Phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính. Quận có diện tích 41,04 km2; phía đông giáp huyện Gia Lâm, phía tây và nam giáp huyện Thanh Trì, phía bắc giáp quận Thanh Xuân và Hai Bà Trưng; quận gồm 14 phường, trong đó có 5 phường của quận Hai Bà Trưng và 9 xã của huyện Thanh Trì chuyển sang thành phường. Là quận nằm ở cửa ngõ phía nam của Thành phố Hà Nội, quận có tốc độ đô thị hóa nhanh, diện tích nông nghiệp giảm mạnh, các khu đô thị, dịch vụ ra đời, bộ mặt tổng thể của quận đang ngày càng có nhiều đổi mới. Bên cạnh đó, trong những năm qua, có những chính sách mới của Đảng, Nhà nước, cơ sở vật chất kĩ thuật được tăng cường, chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, đời sống tinh thần của nhân dân trong quận được cải thiện. Cùng với việc thành lập Ủy ban nhân dân quận Hoàng Mai, ngày 23 tháng 12 năm 2003, BHXH Việt Nam ra quyết định thành lập BHXH quận Hoàng Mai với nhiệm vụ thực hiện toàn diện chính sách BHXH và bảo hiểm y tế bắt buộc và tự nguyện đối với nhân dân và lao động trong địa bàn Quận với 6 chế độ BHYT, BHXH sau đây: Chế độ trợ cấp ốm đau, Chế độ trợ cấp thai sản, Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, Chế độ hưu trí, Chế độ tử tuất, Chế độ khám chữa bệnh BHYT. Do đặc điểm quận Hoàng Mai thành lập muộn và được ghép từ các xã phường của các huyện khác nên BHXH quận có những đặc trưng riêng, khác với BHXH của các quận khác. Bước đầu khi mới thành lập vào đầu năm 2004, quận có 24 cán bộ, trong đó 20 cán bộ công chức có trình độ đại học, bao gồm một giám đốc , hai phó giám đốc, bộ phận thu có 10 cán bộ, bộ phận chính sách có 4 cán bộ, phòng một cửa có 7 cán bộ. Phòng một cửa tuy mới được thực hiện( từ cuối tháng 1 năm 2008 ) nhưng đã làm chuyển biến cơ bản trong quan hệ về thủ tục giải quyết chế độ BHXH- BHYT, khắc phục tình trạng gây phiền hà cho đối tượng tham gia BHXH- BHYT; thiết lập được cơ chế kiểm tra giám sát độc lập, khách quan trong nội bộ, khắc phục tình trạng khép kín, thiếu công khai minh bạch, chống phát sinh tiêu cực trong giải quyết các chế độ chính sách và chống lạm dụng quỹ. Ngày 1 tháng 1 năm 2004 BHXH quận Hoàng Mai chính thức đi vào hoạt động với tổng số đối tượng hưởng BHXH thường xuyên được chuyển sang cùng với việc thành lập quận là 16.168 người trong đó: Đối tượng hưu: 13.390 người. Mất sức lao động: 1846 người. Tai nạn lao động: 163 người. Đối tượng tuất: 758 người. Đối tượng khác: 11 người. Phát huy truyền thống của ngành, ngay từ khi mới thành lập, BHXH quận Hoàng Mai được sự quan tâm của Quận ủy – HĐND – UBND quận Hoàng Mai và được sự chỉ đạo trực tiếp của Ban giám đốc BHXH Thành phố Hà Nội, cùng với sự phối hợp của các cơ quan chức năng có liên quan đã tạo điều kiện về địa điểm làm việc, cơ sở vật chất … đảm bảo cho cơ quan hoạt động một cách thông suốt bắt đầu thực hiện chính sách BHXH cho nhân dân lao động trong quận. Tính đến nay trải qua 6 năm họat động, số đối tượng hưởng BHXH trên địa bàn quận không ngừng biến động; hàng tháng , hàng năm đều có những đối tượng chuyển đi và đối tượng chuyển về, đối tượng hết quyền hưởng và đối tượng phát sinh quyền hưởng BHXH. Cùng với quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh trong địa bàn quận, các luồng dân cư cũng di chuyển về quận khá mạnh mẽ, do đó các đối tượng được hưởng BHXH cũng tăng lên đáng kể. BẢNG 5 : CÁC ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC HƯỞNG TRỢ CẤP BHXH TẠI QUẬN HOÀNG MAI ( 2004- 2009) ( cả chế độ ngắn hạn trong năm và dài hạn ) Thời gian Tổng số đối tượng được hưởng BHXH ( người ) Đối tượng hưởng trợ cấp thường xuyên ( người ) Đối tượng hưởng trợ cấp hưu trí ( người ) Đối tượng hưởng ngắn hạn ( người ) Cuối năm 2005 41.909 17.797 15.174 24.112 Cuối năm 2006 48.010 19.906 16.763 28.104 Cuối năm 2007 52.118 21.134 18.112 30.984 Cuối năm 2008 48.274 23.112 19.856 25.162 Cuối năm 2009 45.777 24.269 24.301 21.508 ( Nguồn : BHXH quận Hoàng Mai ) Ngoài ra, trên địa bàn quận có một số lượng lớn đơn vị thuộc các thành phần kinh tế như: DNNN, hành chính sự nghiệp, ngoài quốc doanh… bởi vậy, vấn đề bảo vệ quyền lợi cho người lao động là hết sức cần thiết. Với đặc thù của quận là quận mới, số đơn vị hành chính sự nghiệp còn ít , chủ yếu là đơn vị hành chính sự nghiệp của địa phương, không có đơn vị hành chính sự nghiệp trung ương, các doanh nghiệp trên địa bàn quận chủ yếu là các đơn vị vừa và nhỏ, các công ty trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp phần lớn hoạt động kém hiệu quả đang cổ phần hóa nên việc trích đóng BHXH cho người lao động gặp nhiều khó khăn. Tính đến tháng 12/ 2009 trên địa bàn quận có 1233 đơn vị với tổng số trên 48.437 người lao động đăng kí tham gia đóng BHXH. Bảng số liệu dưới đây sẽ thể hiện rõ điều này. Trải qua hơn 6 năm xây dựng và phát triển, tuy thời gian hoạt động là chưa được lâu dài so với các quận khác và bước đầu hoạt động nên còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng các cán bộ của cơ quan BHXH quận Hoàng Mai đã luôn cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, giải quyết các thủ tục vế tất cả các chế độ BHXH cho hàng chục nghìn người, thực hiện tốt chính sách BHXH, ổn định đời sống cho mỗi nguời dân trong quận nói riêng và của cả xã hội nói chung, giúp mỗi người lao động yên tâm để công tác, nâng cao năng suất lao động, góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc, thể hiện tính ưu việt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Bộ máy tổ chức và nhiệm vụ của từng bộ phận. Cơ quan BHXH Quận Hoàng Mai là cơ quan BHXH trực tiếp tiếp xúc với đơn vị tham gia bảo hiểm trong quận. Do đó, cơ quan BHXH có những nhiệm vụ sau: Thu BHXH là công tác lớn nhất của cơ quan BHXH. Cơ quan BHXH quận phải thu 23% quỹ lương của đơn vị ( bao gồm cả 20% phí BHXH và 3% phí BHYT ) BHXH quận phải cử cán bộ xuống nắm danh sách đóng BHXH của đơn vị. Yêu cầu của danh sách đó gồm chủ yếu những phần sau: họ và tên, ngày tháng năm sinh, số chứng minh nhân dân, số sổ BHXH, mức lương, hợp đồng lao động…. Cơ quan BHXH quận hàng tháng phải tiếp nhận báo cáo của đơn vị về sự tăng giảm số lao động, mức lương của các đơn vị tham gia BHXH tại quận. Đốc thu và theo dõi số tiền đã nộp của đơn vị, trên cơ sở đó hàng quý làm đối chiếu cùng với đơn vị về mức đóng góp và số tiền đóng BHXH. Hướng dẫn cấp sổ BHXh cho người lao động, thường xuyên kiểm tra và hướng dẫn đơn vị ghi tiếp sổ BHXH. Đôn đốc kịp thời đơn vị chốt sổ BHXH theo định kì hoặc cho những người chuyển đi, cho những người nghỉ chế độ. Chi lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng cho các đối tượng hưu trí và trợ cấp BHXH thông qua Ủy ban nhân dân các phường. Thanh toán mai táng phí và giải quyết chế độ tử tuất cho các đối tượng và trợ cấp BHXH. Chi trả trợ cấp khác : ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức cho người lao động tham gia BHXH trên địa bàn quận thông qua chủ sử dụng lao động. Làm thủ tục tiếp nhận, chuyển đi, quản lí các đối tượng hưu trí và trợ cấp BHXH. Quản lí hồ sơ hưu và trợ cấp BHXH… Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của BHXH quận Hoàng Mai. Giám đốc Phó giám đốc Phó giám đốc BP.Thu BP.Chính sách P.Một cửa Hướng dẫn thủ tục tgia BHXH-BHYT cho các đơn vị Xác định mức đóng Theo dõi quá trình đóng của các đơn vị Giải quyết các chế độ thai sản, ốm đau Thủ quỹ kế toán Tiếp nhận trả hồ sơ gq chế độ BHXH Tiếp nhận trả hồ sơ thu BHXH,BHYT Đổi sửa cấp mới thẻ BHYT Nhiệm vụ của từng bộ phận là: - Giám đốc: Là thủ trưởng cơ quan BHXH Quận phụ trách chung và chịu trách nhiệm về toàn bộ các mặt hoạt động công tác BHXH trên địa bàn quận, phụ trách trực tiếp công tác tài chính, chính sách, tổ chức, công tác đối ngoại, tổng hợp. Phó giám đốc : Là người có nhiệm vụ thường trực, giúp việc cho giám đốc, Phó giám đốc thay thế cho giám đốc điều hành cơ quan khi giám đốc đi vắng. Phó giám đốc trực tiếp phụ trách bộ phận thu của BHXH quận. Bộ phận thu: gồm những cán bộ làm nghiệp vụ thu BHXH. Bộ phận thu có những nhiệm vụ sau: Lập kế hoạch thu BHXH hàng quý, năm. Hướng dẫn đơn vị lập danh sách lao động, quỹ tiền lương đóng BHXH, BHYT và phiếu điều chỉnh mức đóng BHXH, BHYT hàng tháng. Vào sổ theo dõi kết quả thu BHXH, BHYT đến từng người lao động, từng cơ quan, đơn vị hàng tháng. Thông báo kịp thời đến các đơn vị nợ tiền BHXH. Xác nhận mức đóng, thời gian đóng BHXH của từng người lao động khi thực hiện chế độ BHXH hoặc chuyển nơi làm việc. Báo cáo kết quả thu BHXH về BHXH Thành phố theo quy định. Bộ phận chính sách: hiện nay tại BHXH quận Hoàng Mai chủ yếu chỉ giải quyết chế độ thai sản cho người lao động; nghỉ ốm đau và nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe cho người lao động thông qua chủ sử dụng lao động. Phòng một cửa: là bộ phận tổng hợp của 3 bộ phận thu- chi- và chính sách. Các cán bộ thuộc bộ phận này có các nhiệm vụ sau: + Tiếp nhận và trả hồ sơ giải quyết chế độ BHXH: tiếp nhận từ thành phố chuyển về; tiếp nhận hưu và các đối tượng hưởng BHXH từ các quận huyện khác chuyển về và hưu từ các tỉnh khác chuyển về khi đã qua BHXH Thành phố; làm thủ tục cho đối tượng trên chuyển đi các quận huyện khác ( nếu chuyển qua tỉnh khác thì phải qua BHXH Thành phố ) ; theo dõi ghi biến động các đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH( do chết hoặc chuyển đi); thanh toán mai táng phí cho những đối tượng trên; giới thiệu đi hội đồng y khoa; hưởng lại chế độ BHXH. + Tiếp nhận và trả hồ sơ thu BHXH- BHYT : đăng kí tham gia BHXH-BHYT lần đầu; cấp phát cho các đối tượng có thẻ BHYT qua Phường hoặc chủ sử dụng lao động; đổi, sửa, bổ sung thẻ cho những trường hợp phát sinh; tăng, giảm lao động, quỹ tiền lương, đối chiếu kết quả đóng BHXH- BHYT ; hồ sơ cấp sổ BHXH, cấp thẻ BHYT; chốt sổ BHXH; tiếp nhận hồ sơ thanh toán trợ cấp BHXH ngắn hạn. + Kế toán thanh toán: thanh toán trợ cấp BHXH- BHYT ; chuyển tiền trợ cấp ngắn hạn trả đơn vị; trả hồ sơ thanh toán trợ cấp BHXH ngắn hạn; tạm ứng và quyết toán trợ cấp BHXH hàng tháng với phường. + Thủ quỹ: trả tiền BHXH- BHYT. + Trong điều kiện biên chế hiện nay, do thiếu nhân lực nên phòng một cửa kiêm cả quản lí con dấu. Những thuận lợi và khó khăn. 3.1. Thuận lợi. Luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo va tạo điều kiện thuân lợi của BHXH Thành phố Hà Nội, sự quan tâm chỉ đạo của Quận Ủy , Ủy ban nhân dân quận Hoàng Mai, sự phối hợp và ủng hộ của các ban, ngành, đoàn thể, của các phường và các đơn vị tham gia BHXH tại quận. Đội ngũ cán bộ công chức đa số là cán bộ trẻ, khỏe có bằng cấp. Trang thiết bị, phòng làm việc khang trang, rộng rãi, được trang bị đầy đủ bàn ghế, điều hòa,… Trụ sở cơ quan được đặt tại khu đô thị mới Đền Lừ rất thuận tiện cho việc đi lại…thuận tiện cho việc đón tiếp khách hàng và tạo cảm hứng cho các cán bộ khi làm việc, góp phần giải quyết công việc nhanh hơn. 3.2. Khó khăn. Trên địa bàn có nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh , các công ty trách nhiệm hữu hạn mới thành lập nên chưa tham gia đóng BHXH, do vậy cần phải mất nhiều thời gian để hướng dẫn và đôn đốc các đơn vị đó tham gia BHXH. Các loại biểu mẫu, quy định thường xuyên thay đổi gây bỡ ngỡ cho cán bộ, phải mất thời gian tìm hiểu để thực hiện đúng theo quy định Pháp Luật. Do cơ quan BHXH quận mới triển khai thực hiện giao dịch một cửa nên đôi khi khách hàng còn cảm thấy khó chịu vì không được tiếp xúc trực tiếp với cán bộ chuyên quản giải quyết chế độ. Cán bộ tại phòng giao dịch một cửa chưa có nghiệp vụ đa năng nên khách hàng vẫn phải qua nhiều cửa để được tiếp nhận khi có nhiều loại hồ sơ. Thời gian tiếp nhận hồ sơ có hạn nên mới chỉ quan sát tính hợp lệ chưa đi sâu vào nghiệp vụ, chuyên môn nên sau khi chuyển đến phòng nghiệp vụ lại phải trả lại khách hàng hoặc yêu cầu khách hàng bổ sung. Một số bộ phận mới tách ra như bộ phận cấp và quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT còn vướng mắc với bộ phận thu trong giải quyết nghiệp vụ, dẫn đến trả hồ sơ chưa đúng hẹn. Một số kết quả hoạt động của BHXH Hoàng Mai trong giai đoạn 2005- 2009. 4.1. Tình hình thực hiện công tác thu. 4.1.1. Công tác thu BHXH- BHYT bắt buộc. Để phân tích công tác thu- chi BHXH thường chúng ta phải dựa vào chỉ tiêu hoàn thành kế hoạch thu – chi BHXH là tỷ số giữa số thực thu hoặc số thực chi BHXH trong năm so với kế hoạch thu - chi trong năm đã dự tính. Chỉ tiêu hoàn thành kế hoạch thu it= . Trong đó: TBC: Tổng thu BHXH thực tế (kỳ báo cáo). TKH: Tổng thu BHXH theo kế hoạch được giao(kỳ kế hoạch). Chỉ tiêu hoàn thành kế hoạch thu BHXH- BHYT bắt buộc được cho chi tiết ở bảng dưới đây: Năm Số đơn vị Số lao động ( người) Kế hoạch TP giao(TKH ) ( đồng ) Số thu Thực tế ( TBC ) ( đồng ) Chỉ tiêu ( it ) ( %) 2005 430 28.930 60.000.000.000 60.510.3348.471 100,85 2006 697 30.584 69.000.000.000 70.694.943.871 102,46 2007 850 38.041 94.000.000.000 107.800.000.000 105,32 2008 1068 39.000 120.000.000.000 124.000.000.000 104 2009 1233 48.437 177.000.000.000 180.000.000.000 102 (nguồn : BHXH quận Hoàng Mai ) Từ bảng trên ta có thể thấy được kết quả về công tác thu ma Quận đã đạt được: số đơn vị và số lao động do BHXH quận quản lý thu ngày một tăng. Từ 430 đơn vị ( năm 2005) lên đến 1233 đơn vị ( năm 2009), tăng đến 2,87 % . Kết quả thu hàng năm của BHXH quận luôn đạt chỉ tiêu của thành phố đề ra;luôn đạt chỉ tiêu trên 100% và chỉ tiêu này ngày càng tăng. Năm 2005 đạt 100,85 %; năm 2006 đạt 102,46 % ; năm 2007 đạt 105, 32%; Năm 2008 đạt 104% và năm 2009 đạt 102 % kế hoạch thu của thành phố đề ra. Đạt được kết quả trên là do BHXH quận đã làm tốt công tác tuyên truyền chính sách BHXH tới chủ sử dụng lao động, quyền lợi người lao động được đảm bảo. Tuy nhiên trên địa bàn quận cũng có một số đơn vị chưa thực hiện nghiêm túc các quy định của Chính phủ tại quyết định số 20/1998/QĐ- TTg ngày 26/01/1998 của thủ tướng Chính phủ về việc hàng tháng các đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm đóng đầy đủ, kịp thời vào quỹ BHXH ngay sau khi thanh toán tiền lương hàng tháng cho người lao động. Điển hình tại quận Hoàng Mai hiện có một số công ty như: Công ty Sứ Thanh Trì nợ 08 tháng ; số tiền 1,1 tỷ đồng; công ty cầu I Thăng Long nợ 6 tháng; số tiền 1,4 tỷ đồng; Nhà máy cơ khí 120 nợ 9 tháng ; số tiền 457 triệu đồng … Bên cạnh đó, nhiều đơn vị đóng đầy đủ tiền BHXH , quyền lợi chế độ BHXH của người lao động được đảm bảo như : ủy ban nhân dân quận Hoàng Mai, chi cục thuế quận Hoàng Mai, tổng công ty đầu tư và phát triển nhà, công ty điện thoại 2 Hà Nội… 4.1.2. Công tác thu BHXH, BHYT tự nguyện. - số thu BHXH tự nguyện đã được triển khai trên 14 phường , tính đến ngày 21/12/2009 đã có 141 người tham gia. - Về thu BHYT tự nguyện: BHXH quận tiếp tục triển khai BHYT nhân dân đến các phừơng. Kết quả thu BHYT tự nguyện nhân dân tính đến ngày 21/12/2009 có trên 6.000 người tham gia. Với BHYT học sinh đến nay quận có 100% số trường từ tiểu học đến trung học chuyên nghiệp tham gia BHYT học sinh. Thông qua chương trình BHYT học sinh các trường đã củng cố mạng lưới y tế nhà trường, quyền lợi học sinh được đảm bảo từ chăm sóc sức khỏe ban đầu, sơ cấp cứu, cấp thuốc thông thường tại y tế nhà trường đến việc KCB nội ngoại trú tại các cơ sở y tế của nhà nước. Từ tháng 1 năm 2010 BHYT học sinh theo luật định là Bảo hiểm bắt buộc. Do đó, toàn thể học sinh trên địa bàn quận nếu chưa có thẻ BHYT đều phải tham gia. Việc thực hiện mua thẻ BHYT bắt buộc đang được các trường rà soát và tham gia 100% học sinh chưa có thẻ. 4.2. Tình hình thực hiện công tác chi. Theo số liệu thống kê trong 5 năm qua tình hình chi trả các chế độ BHXH được thể hiện tại bảng duới đây. BẢNG 7- Cơ cấu chi trả BHXH tại BHXH quận Hoàng Mai giai đoạn 2005- 2009 Năm Tổng chi ( triệu đồng ) Tỷ trọng ( % ) NSNN Quỹ BHXH Số tiền (Triệu đồng ) Tỷ trọng ( % ) Số tiền (Triệu đồng ) Tỷ trọng ( % ) 2005 160.989,400 100 100.479,052 62,41 60.510,384 37,59 2006 230.816,479 100 160.121,536 69,37 70.694,943 30,63 2007 321.653,098 100 2008 445.745,519 100 2009 453.409 100 ( Nguồn : BHXH quận Hoàng Mai ) Rõ ràng tổng chi BHXH tăng lên theo từng năm BẢNG 8: Biến động số người hưởng các chế độ BHXH tại BHXH quận Hoàng Mai giai đoạn 2005- 2009. Năm Số đối tượng hưởng ( người) Biến động Lượng tăng(giảm) tuyệt đối (người) Tốc độ tăng(giảm) ( % ) 2005 42563 - - 2006 48142 5579 13,11 2007 51763 3621 7,52 2008 48274 -3489 - 6,74 2009 46047 - 2227 - 4,61 ( Nguồn BHXH quận Hoàng Mai ) Số người được hưởng các chế độ BHXH ban đầu tăng lên khá nhanh trong 3 năm, từ năm 2005 đến 2007, tăng từ 42563 (người) đến 51763 ( người), 2 năm tiếp theo 2008, 2009 thì số đối tựơng hưởng lại giảm dần xuống còn 46047 (người). Dẫn đến tốc độ của biến động này giảm dần. Năm 2007 thì có tốc độ tăng so với năm 2006 là 13,11 % nhưng đến năm 2009 thì số đối tượng hưởng có tốc độ giảm so với năm 2008 là 4,61 %. BẢNG 9 : Số tiền chi trả BHXH bình quân một đối tượng tại BHXH quận Hoàng Mai giai đọan 2005- 2009 : Năm Số người hưởng (người) Số tiền chi trả ( triệu đồng ) Số tiền chi trả bình quân ( triệu đồng/ người ) 2005 42563 160.989,400 3,782 2006 48142 230.816,479 4,794 2007 51763 321.653,098 6,213 2008 48274 445.745,519 9,233 20090 46047 453.409 9,847 ( Nguồn : BHXH quận Hoàng Mai) Qua bảng trên ta có nhận xét: số người hưởng thì biến động không đồng đều, chỉ tăng từ năm 2005 đến năm 2007 và sau đó giảm dần, nhưng số tiền chi trả BHXH thì khá là đồng đều qua các năm. Năm 2005 số tiền chi trả là 160.989,400 (triệu đồng) đến năm 2009 thì tăng đến 453.409 ( triệu đồng), bởi vậy ,mà số tiền chi trả bình quân một đối tượng tăng lên khá nhanh từ 3,782 (triệu đồng) đến 9,847 (triệu đồng), góp phần nâng cao cuộc sống của mỗi người dân quận Hoàng Mai. Theo quy định BHXH chi trả 2 chế độ ngắn hạn và dài hạn. Chi ngắn hạn là chi cho người lao động hưởng trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, chế độ dưỡng sức phục hồi sức khỏe. Chi dài hạn là chi cho đối tượng nghỉ hưởng hưu và trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp tuất. 4.2.1. Chi lương hưu và trợ cấp. Năm 2009 BHXH quản lý chi trả cho 24.301 đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp, với tổng số tiền chi là 438 tỷ đồng . Số đối tượng nhận tiền qua thẻ trên địa bàn quận Hoàng Mai là 574 người với số tiền chi một tháng trên 1,3 tỷ đồng. Ngay từ đầu năm BHXH quận đã xó lịch ấn định ngày chi trả lương hưu hàng tháng , căn cứ theo đó BHXH quận có kế hoạch dự trù nguồn kinh phí tạm ứng cho các phường. Ban chi trả lương hưu giữa các phường được kiện toàn, mỗi phường thành lập một ban chi trả trong đó đồng chí Chủ tịch UBND phường là trưởng ban chi trả, phối hợp với công an quận, công an phường đảm bảo an tòan tiền mặt trong ngày chi lương. Thực hiện công văn của UBND quận về việc kết hợp với phòng Lao động- Thương binh và xã hội, Kho bạc nhà nước quận đảm bảo nguồn kinh phí chi trả tạo điều kiện thuận lợi cho người dân. 4.2.2. Về chi ngắn hạn. Thu và chi là hai mảng nghiệp vụ không tách rời nhau. Chi BHXH cho người lao động khi ốm đau, thai sản được BHXH thanh toán kịp thời. Trong năm 2009 BHXH quận đã chi 15 tỷ đồng và qua kết quả kiểm tra của BHXH Thành phố,liên nghành Liên đoàn Lao động quận cho thấy công tác này của BHXH Hoàng Mai làm tốt, đảm bảo quyền lợi cho người lao động, không có khiếu nại, thắc mắc từ phía các đơn vị. 4.3. Công tác cấp sổ BHXH và thẻ BHYT. - Sổ BHXH là để ghi kết quả đóng BHXH của mỗi người lao động trong suốt quá trình tham gia BHXH và là căn cứ để thực hiện các chế độ BHXH, xác định mối quan hệ ba bên giữa người lao động – chủ sử dụng lao động – cơ quan BHXH. Hiện nay BHXH quận Hoàng mai cơ bản đã cấp được sổ BHXH cho trên 39.000 lao động đang tham gia BHXH, đảm bảo thuận tiện, chính xác được người lao động và các đơn vị hoan nghênh. - Việc cấp mới, đổi thẻ BHYT đảm bảo kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tựơng được KCB

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB10BH11.doc
Tài liệu liên quan