Đề tài Cổ phiếu trong doanh nghiệp

Tài liệu Đề tài Cổ phiếu trong doanh nghiệp: TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG cdcd TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP GVHD: Nhóm thực hiện: “THE POWER OF GIRL” Lớp: 08TN3 Năm học: 2010 – 2011 Tp.HCM, ngày 05 tháng 05 năm 2010 NHẬN XÉT VÀ CHO ĐIỂM CỦA GIẢNG VIÊN MỤC LỤC Trang Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán 5 Tác động của thị trường chứng khoán 5 Cổ phiếu là gì? Tác dụng của việc phát hành cổ phiếu 7 Đặc điểm và phân loại cổ phiếu 8 Chức năng của cổ phiếu 12 Mục đích mua cổ phiếu của nhà đầu tư, quyền lợi của cổ đông 13 và phân loại cổ đông. Nơi mua bán cổ phiếu và quy trình giao dịch cổ phiếu. Các 14 thành phần tham gia Định giá cổ phiếu 17 Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 25 Các yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiểu 26 Cổ phiếu mang lại lợi ích gì cho chúng ta 30 Ưu và nhược điểm của các công ty chứng khoán trong việc phát 33 hành cổ phiếu hiện nay Khó khăn, thách thức và thực trạng hiện nay 34 Kiến nghị 36 T...

doc36 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1017 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Cổ phiếu trong doanh nghiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG cdcd TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP GVHD: Nhóm thực hiện: “THE POWER OF GIRL” Lớp: 08TN3 Năm học: 2010 – 2011 Tp.HCM, ngày 05 tháng 05 năm 2010 NHẬN XÉT VÀ CHO ĐIỂM CỦA GIẢNG VIÊN MỤC LỤC Trang Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán 5 Tác động của thị trường chứng khoán 5 Cổ phiếu là gì? Tác dụng của việc phát hành cổ phiếu 7 Đặc điểm và phân loại cổ phiếu 8 Chức năng của cổ phiếu 12 Mục đích mua cổ phiếu của nhà đầu tư, quyền lợi của cổ đông 13 và phân loại cổ đông. Nơi mua bán cổ phiếu và quy trình giao dịch cổ phiếu. Các 14 thành phần tham gia Định giá cổ phiếu 17 Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 25 Các yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiểu 26 Cổ phiếu mang lại lợi ích gì cho chúng ta 30 Ưu và nhược điểm của các công ty chứng khoán trong việc phát 33 hành cổ phiếu hiện nay Khó khăn, thách thức và thực trạng hiện nay 34 Kiến nghị 36 Tài liệu tham khảo 37 I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1. Trên thế giới - Thị trường chứng khoán xuất phát từ các cuộc thương lượng của các thương gia ở các nước phương Tây về: nông lâm sản, khoán sản, ngoại hối, các giấy tờ có giá,… - 1453, phiên “chợ” đầu tiên tổ chức với quy mô lớn đã diễn ra tại lữ quán của gia đình Vanber ở Bruges (Bỉ). - 1547, giao dịch chứng khoán được chuyển tới thị trấn Anvers (Bỉ). - Từ thế kỷ 16-19, TTCK hình thành và phát triển ở Anh, Pháp, Ý, Đức, Mỹ và một số nước Bắc Âu.niêm yết trên HNX. HCM. - 1875-1913, TTCK phát triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền kinh tế. - 1929, TTCK lâm vào khủng hoảng. - Sau chiến tranh TG lần 2, TTCK bắt đầu phục hồi, nhưng 1987 TTCK lâm vào khủng hoảng nặng nề hơn lần trước, nhưng sau đó 2 năm thị trường chứng khoán lại phục hồi và đi vào ổn định. - Hiện nay, TTCK phát triển mạnh mẽ ở các nước phát triển và trên thế giới hiện có trên 160 TTCK lớn nhỏ đang hoạt động. 2. Ở Việt Nam - Thời gian đầu Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Tp.HCM chỉ tổ chức 3 phiên giao dịch một tuần, biên độ giao động giá là 2%. - Ngày 01/03/2002, TTGDCK tăng phiên giao dịch từ 3 phiên lên 5 phiên/tuần - 08/03/2005 Khai trương trung tâm GDCK Hà Nội. - Sau đó, Chính phủ ký quyết định 599/QĐ-TTG ngày 11/05/2007 chuyển đổi Trung tâm giao dịch chứng khoán TP HCM thành Sở giao dịch chứng khoán TP - 08/08/2007, Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM chính thức khai trương. - Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội) được thành lập theo Quyết định số 01/2009/QĐ-TTG ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ. II. TÁC ĐỘNG CỦA TTCK 1. Tác động tích cực của thị trường chứng khoán Trong nền kinh tế thị trường nhiều biến động như ngày nay ta thấy thị trường chứng khoán cũng có khá nhiều tác động tích cực vào nền kinh tế. Thứ nhất, bên cạnh kênh huy động vốn cổ điển là thông qua hệ thống các ngân hàng, bằng cơ chế phát hàng lần đầu và phát hành lần thứ hai, thị trường chứng khoán giúp các doanh nghiệp có thêm một kênh huy động vốn mới bổ sung cho kênh huy động truyền thống. Thứ hai, thị trường chứng khoán cung cấp cho chính phủ một phương tiện để bán các trái phiếu và để gọi vốn. Dĩ nhiên, lợi ích của phương tiện này tuỳ thuộc vào khả năng của chính phủ trong việc sử dụng một cách có hiệu quả nguồn cân quỹ huy động được cho nền kinh tế quốc dân. Thứ ba, thị trường chứng khoán cung cấp thêm cho các nhà tiết kiệm và các kênh chế tài chính một “mục chọn” mới trong “thực đơn” đầu tư vốn. Dĩ nhiên, đầu tư vào các công cụ tài chính là đầu tư vào các tài sản bằng tiền là hoạt động có rủi ro. Tuy nhiên, bằng cách cho phép các nhà đầu tư đa dạng hoá các khoản đầu tư để giảm thiểu rủi ro, thị trường chứng khoán sẽ giúp các nhà đầu tư chọn lựa các tổ hợp đầu tư khác nhau theo ý thích của họ để có sự kết hợp tối ưu giữa rủi ro và lợi nhuận. Thêm nữa, bằng cách đưa ra các mức lợi tức khác nhau, thị trường chứng khoán có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những nhà đầu tư chỉ có một sự lựa chọn duy nhất là gửi tiền vào các ngân hàng rồi thụ động ngồi chờ một mức lợi tức khá thấp. Có một thị trường thứ cấp năng động, các nhà đầu tư sẽ có được một thị trường có sức lưu chuyển nhiều hơn so các thị trường vàng, thị trường bất động sản. Thứ tư, bằng việc cung cấp một cung bậc lãi suất khác nhau cho các trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, cổ phiếu, thị trường chứng khoán buộc các doanh nghiệp và chinh phủ huy động các nguồn vốn mới phải trả một mức sinh lời phản ánh cả lợi tức trong mối liên hệ với các khoản đầu tư khác và cả những rủi ro có liên quan với các khoản đầu tư đó. Nhờ vậy, việc phân bổ vốn toàn bộ nền kinh tế được cải thiện. Trong một thị trường vốn mà chi phí vay mượn vốn chưa dựa trên cung cầu vốn và chưa phản ánh những rủi ro có liên quan như thị trường vốn ở nước ta, lợi điểm này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thứ năm, thị trường chứng khoán cũng cung cấp một cơ chế để bản địa hoá một phần quyền sở hữu của các doanh nghiệp nước ngoài. Chẳng hạn, khi luật yêu cầu một doanh nghiệp cổ phần phải có 60% sở hữu của các nước sở tại thì khi chào bán, doanh nghiệp đó phải chào bán 60% cổ phần của nó cho công chúng. Sau cùng, thị trường chứng khoán có thể giúp huy động các luồng vốn từ nước ngoài từ các nhà đầu tư nước ngoài, người muốn đa dạng hoá các khoản mục đầu tư của minh trên các thị trường vốn quốc tế. 2. Tác động tiêu cực của thị trường chứng khoán ở Việt Nam Có lẽ do có quá nhiều lợi điểm khi nền kinh tế có thị trường chứng khoán khiến không ít người không chú ý đúng mức đến những tác động tiêu cực của thị trường chứng khoán. Trong thực tế, mặt bất lợi của thị trường chứng khoán cũng không phải ít. Tựu trung, Những tác động tiêu cực này thể hiện trên bốn điểm chính như sau: Một là, bằng cách cho phép những người giàu có đầu tư để gia tăng thêm của cải mà dường như không phải lao động để có, thị trường chứng khoán khuyến khích sự phân phối của cải bất bình đẳng trong xã hội. Trên phương diện này, có thể xem thị trường chứng khoán như những sòng bạc hoặc những trường đua ngựa khổng lồ; Hai là, thị trường chứng khoán có thể khuyến khích một sự đầu tư liều lĩnh ở các cá nhân và các tập thể (các định chế tài chính) và do đó có thể gây ra sự mất ổn định của nền kinh tế quốc gia. Vụ sụp đổ của Wall Street trong những năm cuối của thập niên 20, Hồng Kông năm 1970 và gần đây, vị thua lỗ 1,5 tỷ USD bởi bàn tay thao túng của Nick Veson, nhà kinh doanh chứng khoán 28 tuổi, đã làm cho Baring, một ngân hàng có lịc sử lâu đời nhất nước Anh phải đứng trên bờ vực thẳm của sự phá sản cà đe doạ đến sự ổn định của các thị trường tài chính khác trên thế giới là những bằng chứng sống động về tác động của những khoản đầu tư thiếu chín chắn; Ba là, thị trường chứng khoán có thể là một mảnh đất tốt cho các hoạt động bất tương sinh sôi và phát triển. Phao tin đồn thất thiệt, xung đột quyền lợi, mua bán có tay trong (mua bán nội gián), phát hành những bản cáo bạch không đúng sự thật, lấy giá chứng khoán lên, bán chứng khoán không đúng với giá trị hoặc quá cao là những “chuyện xưa như quả đất” trên các thị trường chứng khoán; Bốn là, mặc dù thị trường chứng khoán có thể phân bố vốn cho các hoạt động kinh tế được kỳ vọng là có thể mang lại nhiều lợi nhuận nhất nhưng, xét từ quan điểm toàn cục, các hoạt động này có thể không phải là các hoạt động có lợi nhất bởi thị trường và giá cả thị trường có thể bị bóp méo trong các nền kinh tế của các quốc gia đang phát triển. Vì vậy, sự phát triển của thị trường chứng khoán có thể dẫn đến xấu đi trong phân bổ các nguồn lực chứ không phải là sự cải thiện. III. CỔ PHIẾU LÀ GÌ ? TÁC DỤNG CỦA VIỆC PHÁT HÀNH CỔ PHIẾU 1. Khái niệm cổ phiếu - Cổ phiếu là một loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu vốn góp vào công ty và quyền được hưởng một khoản cổ tức theo định kỳ. Cổ phiếu lưu hành trên thị trường có nhiều loại. * Một số khái niệm khác : - Cổ phiếu là giấy chứng nhận cổ phần, nó xác nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty cổ phần. Người mua cổ phiếu được gọi là cổ đông, nhận giấy chứng nhận cổ phần được gọi là cổ phiếu.Trên giấy này có ấn định mệnh giá của cổ phiếu . -Cổ phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với một công ty cổ phần. 2. Tác dụng của việc phát hành cổ phiếu : Với hàng trăm đợt phát hành cổ phiếu (CP) của các doanh nghiệp trên cả nước trong thời gian qua, gồm cả phát hành lần đầu và phát hành bổ sung, phát hành công khai và phát hành nội bộ (phát hành riêng lẻ), về cơ bản có thể nói, các hoạt động và các phương án phát hành CP của các doanh nghiệp đã diễn ra hợp pháp và mang lại hiệu quả tích cực cho đời sống kinh doanh của doanh nghiệp – tổ chức phát hành nói riêng, cũng như cho toàn bộ nền kinh tế nói chung. Điều này có thể thấy và được minh chứng qua những cải thiện rõ rệt: tác dụng đầu tiên và cũng là tác dụng quan trọng nhất đố với công ty cổ phần: giúp công ty huy động vốn khi thành lập hoặc mở rộng kinh doanh, bằng hình thức phát hành cổ phiếu thì nguồn huy động đó không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu vay nợ từ các tổ chức tín dụng thì hoàn toàn ngược lại va giúp cho doanh nghiệp tăng hiệu quả, lợi nhuận kinh doanh, việc làm thiện thu nhập và dân chủ về kinh tế cho các cổ đông, người lao động. Ngoài việc giúp các công ty cổ phần huy động vốn thì việc phát hành cổ phiếu còn tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư tham gia đầu tư và thu lời từ đầu tư chứng khoán, cổ phiếu. Các nhà đầu tư có thể đầu tư vào cổ phiếu, thực hiện đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào, không cần thiết phải có sự hiểu biết về kỹ thuật công nghệ của lĩnh vực đó, một khi không bằng lòng ở lĩnh vực này sẽ bán cổ phiếu đó đi để mua cổ phiếu ở lĩnh vực khác. Việc mua cổ phiếu còn giúp một nhà đầu tư có thể tham gia quyền quản trị, kiểm soát công ty khi cổ đông đó đạt được một mức độ sở hữu quy định cổ phiếu, với một số lượng lớn cổ phiếu thường trong tay, các cổ đông có quyền tham gia biểu quyết. Qua việc phát hành cổ phiếu, dựa vào giá cổ phiếu ta biết được hệ số P/E mà ta có thể đánh giá cao hay thấp công ty đó. Do cổ phiếu có tính lưu thông, thị trường rộng lớn, phát hành cổ phiếu rất có lợi cho chủ sở hữu tiét kiệm nhiều thời quan và bỏ qua nhiều thủ tục do mua bán dễ dàng và nhanh chóng, giúp chủ sở hữu cổ phiếu thực hiện được nhiều hoạt động như thừa kế tặng cho để thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình. Tác dụng một phần nào đó đến nền kinh tế thị trường ví dụ như khi các công ty phát hành cổ phiếu mà giá của tất cả cổ phiếu trên thị trường đều có giá quá cao so với giá trị thực của nó thì phần bong bóng sẽ vượt quá phần thực và nhất định có ngày nổ tung, gây khủng hoảng thị trường. Về phía nhà nước:phat hành cổ phiếu sẽ góp phần tăng thu ngân sách nhà nước do bán được và bán với giá khá cao các phần vốn, tài sản nhà nước muốn bán (giá tăng so với khởi điểm ít nhất 15 – 20%, cá biệt có khi hàng chục lần…), tạo động lực làm sống động và phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) cả về bề rộng, lẫn bề sâu, phát triển thu hút cả vốn trong và ngoài nước, thúc đẩy quá trình cổ phần hóa (CPH) doanh nghiệp nhà nước lành mạnh và hiệu quả, tạo động lực phát triển toàn bộ nền kinh tế theo các nguyên tắc thị trường và cải thiện vị thế, hình ảnh đất nước trong con mắt các nhà đầu tư quốc tế. TTCK Việt Nam được coi là hiện tượng đáng chú ý trên TTCK thế giới năm 2006, và là 1 trong 3 thị trường có cơ hội kinh doanh hấp dẫn trên thế giới. IV. ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI CỔ PHIẾU Đặc điểm - Cổ phiếu có bản chất là một công cụ góp vốn (equity instruments) và do các công ty cổ phần phát hành. Khi cần huy động vốn, công ty cổ phần chia số vốn cần huy động thành nhiều phần nhỏ bằng nhau, gọi là các cổ phần (share/stock). Người mua những cổ phần này được gọi là cổ đông (share/stockholder). Với số cổ phần đã mua, các cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu, giấy này gọi là cổ phiếu. - Vốn mà công ty cổ phần huy động được từ việc phát hành cổ phiếu được xem là vốn thuộc sở hữu của công ty. Những cổ đông khi mua các cổ phần của công ty đã thực hiện việc góp vốn để công ty kinh doanh và do vậy trở thành những người đồng sở hữu công ty. Tỷ lệ sở hữu công ty phụ thuộc vào số cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Do cổ phiếu được xem là giấy xác nhận quyền sở hữu của các cổ đông đối với những cổ phần này nên có thể coi cổ phiếu là chứng chỉ xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu về số vốn mà một cổ đông góp vào công ty cổ phần. - Là người chủ sở hữu công ty, các cổ đông có những quyền cơ bản sau đây: • Quyền tham gia quản lý công ty: Quyền này được thực hiện bằng cách các cổ đông bầu ra một Hội đồng quản trị để thay mặt mình quản lý, điều hành công ty. Các cổ đông không chỉ có quyền bầu ra Hội đồng quản trị (Board of Directors) mà còn có thể tham gia ứng cử làm thành viên của Hội đồng quản trị. Số lượng phiếu bầu tỷ lệ với số lượng cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Do vậy những người nắm giữ càng nhiều cổ phần của công ty thì càng có nhiều khả năng trở thành thành viên của Hội đồng quản trị. Ngoài ra, hàng năm công ty còn tổ chức Đại hội cổ đông (Annual shareholder meetings) để họp các cổ đông lại, bàn về các chiến lược hoặc kế hoạch kinh doanh lớn của công ty. • Quyền sở hữu tài sản ròng39 của công ty: Các cổ đông sở hữu công ty theo tỷ lệ cổ phần nắm giữ. Do vậy, khi tài sản ròng của công ty tăng lên do làm ăn có lãi, giá trị các cổ phần mà cổ đông nắm giữ cũng tăng lên theo. Khi công ty cổ phần ngừng hoạt động, cổ đông được tham gia phân chia tài sản còn lại của công ty. Ví dụ: Tổng tài sản ban đầu của một công ty cổ phần là 10 tỷ VNĐ. Một cổ đông nắm 20% cổ phần của công ty cho nên tổng giá trị tài sản công ty mà anh sở hữu theo cổ phần là 2 tỷ VNĐ. Sau 5 năm làm ăn có lãi, tổng tài sản ròng của công ty tăng lên 15 tỷ VNĐ, khi đó tổng giá trị cổ phần mà anh ta sở hữu lên tới 3 tỷ VNĐ. • Quyền tham gia chia lợi nhuận ròng40: Cổ đông được quyền hưởng một phần lợi nhuận ròng của công ty tỷ lệ với số cổ phần anh ta sở hữu. Phần lãi trả cho mỗi cổ phần được gọi là cổ tức (Dividend). Quyền này chỉ được thực hiện khi công ty làm ăn có lãi. Tuy nhiên, không phải lúc nào tất cả lợi nhuận thu được đều được đem chia cho các cổ đông, cũng có trường hợp nhằm tăng vốn kinh doanh cho công ty, Hội đồng quản trị quyết định giữ lại phần lớn lợi nhuận. Điều này nói chung là được các cổ đông chấp nhận vì tuy không nhận được cổ tức nhưng giá trị cổ phần của họ trong công ty lại tăng lên, hơn thế việc tăng vốn có thể đảm bảo cho khả năng tạo thêm nhiều lợi nhuận hơn trong thời gian tới. Ngoài đặc trưng cơ bản nói trên, cổ phiếu còn có một số đặc điểm đáng chú ý sau: • Thời hạn của cổ phiếu: Bằng cách mua cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành, các nhà đầu tư đã cung cấp vốn cho công ty hoạt động. Tuy nhiên các cổ đông lại không được phép rút khoản vốn này về trừ trường hợp công ty ngừng hoạt động hoặc có qui định đặc biệt cho phép được rút vốn. Chính vì lý do như vậy nên có thể coi cổ phiếu có thời hạn thanh toán vốn bằng thời gian hoạt động của công ty. Trên thực tế, trừ trường hợp phá sản hoặc kết quả kinh doanh quá tồi tệ, còn nói chung thì các công ty sẽ vẫn cứ duy trì hoạt động mãi mãi, cho nên có thể nói thời hạn của cổ phiếu là vô hạn. Mặc dù vậy, các cổ đông được phép chuyển nhượng cổ phần mà mình nắm giữ cho người khác và bằng cách đó có thể rút lại khoản vốn mà mình đã đầu tư vào công ty cổ phần. • Giá trị của cổ phiếu: Giá trị của cổ phiếu được thể hiện trên 3 phương diện sau: Mệnh giá (Face value): là số tiền ghi trên bề mặt cổ phiếu 41. Mệnh giá thường được ghi bằng nội tệ. Mệnh giá bằng bao nhiêu là do luật 41 khoán hoặc điều lệ của công ty cổ phần qui định. Ví dụ: ở Việt nam theo NĐ144/CP, mệnh giá cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt nam thống nhất là 10.000 VNĐ. Giá trị ghi sổ (Book value): là giá trị của mỗi cổ phần căn cứ vào giá trị tài sản ròng của công ty trên bảng tổng kết tài sản. Ví dụ: Một công ty có 50.000 cổ phiếu, mệnh giá 10.000 đ/cổ phiếu. Sau 5 năm hoạt động, giá trị tài sản ròng của công ty theo sổ sách kế toán là 1 tỷ đồng. Khi đó giá trị của mỗi cổ phần theo sổ sách sẽ là 20.000 đ, ta nói giá trị ghi sổ của cổ phiếu công ty bây giờ là 20.000 đ/cổ phiếu. Giá trị thị trường (Market value): là giá cả của cổ phiếu khi mua bán trên thị trường. Phân loại cổ phiếu a. Căn cứ vào hình thức phát hành, cổ phiếu có hai loại: cổ phiếu vô danh và cổ phiếu ký danh. Lúc mới ra đời cổ phiếu tồn tại dưới dạng ký danh có ghi tên người sở hữu nó, sau này khi thị trường cổ phiếu phat triển loại cổ phiếu này gây trở ngại cho việc lưu thông và chuyển nhượng cổ phiếu. Do đó, loại cổ phiếu vô danh không ghi tên người sở hữu ra đời và ngày càng phổ biến. b. Căn cứ vào quyền lợi được hưởng, cổ phiếu có hai loại: cổ phiếu thường (hay cổ phiếu phổ thông) và cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu thường hay cổ phiếu phổ thông (Common stock): có mức cổ tức phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Vì vậy, cổ đông mua loại cổ phiếu này rất quan tâm đến hoạt động của công ty và họ thường là những người đứng đầu trong ban quản trị chịu trách nhiệm điều hành hoạt động của công ty. Giá cũng biến động nhiều hơn so với cổ phiếu ưu đãi. - Là loại cổ phiếu có đầy đủ các đặc trưng đã nêu trên của cổ phiếu. Đó là: • Không qui định trước số cổ tức cổ đông sẽ nhận được. Giá trị cổ tức nhiều hay ít còn tuỳ vào tình hình lợi nhuận của công ty và kế hoạch chia lợi nhuận của Hội đồng quản trị. Trong trường hợp công ty làm ăn thua lỗ thì chẳng những cổ tức không được chia mà cổ đông còn bị hao hụt về vốn góp. Nguyên tắc của các cổ đông cổ phiếu thường là “lời ăn, lỗ chịu”. • Chỉ được chia lãi sau khi công ty đã thanh toán lãi trả cho những người nắm trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi. • Thời hạn cổ phiếu là vô hạn. • Được hưởng quyền tham gia quản lý công ty cùng các quyền khác nhằm duy trì quyền quản lý công ty, như: quyền bầu cử, quyền ứng cử vào Hội đồng quản trị, quyền ưu tiên mua trước với giá ưu đãi các cổ phiếu mới phát hành. Những cổ đông có nhiều cổ phần hoặc nhiều uy tín có thể nắm quyền điều hành công ty. Còn nói chung đa số những người đầu tư chỉ mua cổ phiếu thường để hưởng cổ tức hoặc bán đi khi cổ phiếu lên giá nhằm hưởng chênh lệch giá. Cổ phiếu ưu đãi (Preferred Stock): có mức cổ tức cố định và được ghi rõ trên cổ phiếu lúc phát hành. Với cổ phiếu này thu nhập của cổ đông không phụ thuộc vào chính sách chia lãi hàng năm của công ty. Ngoài ra, tính ưu đãi còn được thể hiện ở chỗ như được chia cổ tức trước cổ phiếu thường, trường hợp tài sản công ty bị thanh lý phần tài sản còn lại sau khi thanh toán hết các khoản nợ của công ty sẽ được hoàn vốn cho cổ đông giữ cổ phiếu ưu đãi. Gồm nhiều hình thức phát hành như cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi có lãi cổ phần gộp, cổ phiếu ưu đãi có thể bồi hoàn… Khác với cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá. Chẳng hạn một cổ phiếu ưu đãi có mệnh giá 100 USD, tỷ suất cổ tức là 4,5% sẽ được hưởng một khoản cổ tức cố định là 4,5 USD. Còn nếu cổ phiếu ưu đãi không có mệnh giá thì cổ tức sẽ được công ty công bố đơn giản là 5 USD/cổ phiếu chẳng hạn. Hạn chế của cổ phiếu ưu đãi so với cổ phiếu thường là: • Cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bầu cử, ứng cử vào hội đồng quản trị, tức là không được quyền tham gia quản lý công ty. • Khi lợi nhuận của công ty tăng lên thì cổ tức cổ phiếu ưu đãi không vì thế mà được tăng lên theo. Vì cổ tức của cổ phiếu ưu đãi không tăng, nên giá cả của cổ phiếu ưu đãi trên thị trường cũng ít biến động. Do vậy, cổ phiếu ưu đãi thường kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư hơn so với cổ phiếu thường 43. Những người đầu tư vào cổ phiếu ưu đãi thường là những người muốn có thu nhập ổn định, đều đặn và không thích mạo hiểm. Các loại cổ phiếu ưu đãi (CPUĐ) CPUĐ biểu quyết: là CP có số biểu quyết nhiều hơn so với cổ phiếu phổ thông (CPPT), số phiếu biểu quyết này do điều lệ công ty quy định. Theo quy định của pháp luật thì chỉ có những tổ chức do chính phủ ủy quyền và các cổ đông sáng lập mới nắm giữ cổ phiếu ưu đãi biểu quyết (CPUĐBQ). Không giới hạn hiệu lực về mặt thời gian nhưng các cổ đông sáng lập (CĐSL) có giới hạn trong thời gian 3 năm sẽ chuyển đổi thành CPPT và cũng có thể do đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) quyết định. Hạn chế: không được chuyển nhượng. CPƯĐ cổ tức: là CP được trả cổ tức cao hơn cổ tức của CPPT hoặc mức ổn định hằng năm (cổ tức là khoản lợi nhuận ròng được trả cho mỗi CP bằng tiền mặt hoặc bằng tài sản khác từ nguồn lợi nhuận còn lại của công ty sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác). Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác định cổ tức thưởng thì được ghi trên CP của cổ phiếu ưu đãi cổ tức (CPƯĐCT). CĐƯĐCT được ưu tiên thanh toán giá trị tài sản còn lại trước CĐPT và CĐƯĐBQ sau khi công ty đã thanh toán hết cho chủ nợ và cổ phiếu ưu đãi hoàn lại (CĐƯĐHL) trong trường hợp công ty giải thể hoặc phá sản. Hạn chế: CĐƯĐCT không có quyền biểu quyết, họ không tham gia vào ĐHĐCĐ. CPƯĐ hoàn lại: loại CP này dành cho CĐ sở hữu chúng quyền được rút vốn ra khỏi công ty bất kì lúc nào hoặc theo điều kiện ghi trên CP. Có thể chuyển nhượng hoặc bán CP lại cho công ty. Hạn chế: tuy có thể chuyển nhượng tự do nhưng không được rút vốn, CĐƯĐHL không có quyền biểu quyết, không được tham gia vào ĐHĐCĐ và không có quyền đề cử người vào HĐQT và ban kiểm soát. c. Căn cứ vào phương thức góp vốn, cổ phiếu có hai loại: cổ phiếu hiện kim và cổ phiếu hiện vật Cổ phiếu hiện kim dành cho những cổ đông góp vốn bằng tiền, cổ phiếu hiện vật dành cho những cổ đông góp vốn bằng tài sản như may móc, thiết bị, nhà xưởng… d. Căn cứ vào hình thức phát hành và lưu hành: - Cổ phiếu được phép phát hành - Cổ phiếu đã phát hành - Cổ phiếu quỹ - Cổ phiếu đang lưu hành V.CHỨC NĂNG CỦA CỔ PHIẾU 1. Đối với Công ty phát hành: Cổ phiếu sẽ giúp cho Công ty có thể huy động vốn khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh. Nguồn vốn huy động này không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều. 2. Đối với cổ đông nắm giữ cổ phiếu, có các quyền sau: a. Quyền tham gia quản lý công ty: những người nắm giữ càng nhiều cổ phần của công ty thì càng có nhiều khả năng trở thành thành viên của Hội đồng quản trị. b. Quyền sở hữu tài sản ròng của công ty: Các cổ đông sở hữu công ty theo tỷ lệ cổ phần nắm giữ. Do vậy, khi tài sản ròng của công ty tăng lên do làm ăn có lãi, giá trị các cổ phần mà cổ đông nắm giữ cũng tăng lên theo. c. Quyền tham gia chia lợi nhuận ròng: Cổ đông được quyền hưởng một phần lợi nhuận ròng của công ty tỷ lệ với số cổ phần anh ta sở hữu. Phần lãi trả cho mỗi cổ phần được gọi là cổ tức (Dividend). Quyền này chỉ được thực hiện khi công ty làm ăn có lãi. 3. Đối với nhà đầu tư cổ phiếu: : Các nhà đầu tư trên thị trường sẵn sàng mua Cổ phiếu được công ty phát hành. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần được phát hành dưới dạng chứng thư có giá và được xác định thông qua việc chuyển dịch, mua bán chúng trên thị trường chứng khoán giữa các chủ thể đầu tư và được pháp luật bảo vệ. Mặt khác, người mua cổ phiếu nghĩ rằng đồng vốn họ đầu tư được các nhà quản lý công ty sử dụng có hiệu quả, tạo ra nhiều lợi nhuận hoặc đánh giá hoạt động cũng như tiềm năng phát triển, sinh lợi của công ty dự định đầu tư là cao, và đương nhiên họ sẽ được hưởng một phần từ những thành quả đó thông qua việc thanh toán cổ tức cho các cổ đông, đồng thời giá trị cổ phần sở hữu cũng sẽ gia tăng trên cơ sở thực tại và triển vọng phát triển của công ty mình đã chọn. Thông thường, khả năng sinh lợi, thu hồi vốn đầu tư cổ phiếu tỷ lệ thuận với giá cả giao dịch cổ phiếu trên thị trường . VI. MỤC ĐÍCH MUA CỔ PHIẾU CỦA NHÀ ĐẦU TƯ, QUYỀN LỢI CỦA CỔ ĐÔNG VÀ PHÂN LOẠI CỔ ĐÔNG. 1/ Mục đích của nhà đầu tư : Mục đích của nhà đầu tư chủ yếu là vì mục tiêu lợi nhuận. Do cổ phiếu là 1 yếu tố nhạy cảm nên giá trị của nó lên xuống rất thất thường => độ rủi ro rất cao. Tuy nhiên lợi nhuận thu được cũng rất cao, vì vậy nó trở thành 1 mục tiêu của những người thích mạo hiểm. 2/ Quyền lợi của cổ đông : - Quyền biểu quyết: với số cổ phiếu tương ứng, cổ đông có thể biểu quyết trực tiếp hay thông qua đại diện do cổ đông uỷ quyền một cách hợp pháp để biểu quyết những vấn đề quan trọng trong hoạt động của công ty như đường lối, chiến lược kinh doanh, phân phối lợi nhuận, tăng hoặc giảm vốn điều lệ... Tuy nhiên, cổ đông ưu đãi không có quyền này. - Quyền nhận cổ tức (lãi cổ phần) từ lợi nhuận của công ty tương ứng với số cổ phần mà họ nắm giữ; nhận phần giá trị tài sản còn lại của công ty khi công ty giải thể hoặc phá sản. Khi công ty phá sản, giải thể, cổ đông chỉ có thể nhận giá trị tài sản còn lại của công ty sau khi công ty đã thực hiện thanh toán các khoản nợ hay nói một cách khác, quyền của cổ đông đối với tài sản của công ty cổ phần có thứ tự ưu tiên xếp sau các chủ nợ của công ty đó. - Quyền đăng ký mua cổ phiếu phát hành thêm trước khi chúng được đem bán rộng rãi ra công chúng. - Quyền chuyển nhượng cổ phần đang nắm giữ. Tuy nhiên, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác. 3/ Phân loại cổ đông : Cổ đông là cá nhân hay tổ chức nắm giữ quyền sở hữu hợp pháp một phần hay toàn bộ phần vốn góp (cổ phần) của một công ty cổ phần. Về bản chất, cổ đông là thực thể đồng sở hữu công ty cổ phần chứ không phải là chủ nợ của công ty đó, do vậy quyền lợi và nghĩa vụ của họ gắn liền với kết quả hoạt động của doanh nghiệp và loại cổ phần mà họ sở hữu. Các loại cổ đông thường được phân biệt bằng quyền cũng như nghĩa vụ gắn liền với loại cổ phiếu mà họ sở hữu. Cổ đông sáng lập: là những cổ đông đầu tiên góp vốn để hình thành nên công ty cổ phần. Cổ đông đặc biệt: là cổ đông (thường là Nhà nước) mặc dù chỉ nắm một số lượng cổ phần rất ít ỏi chỉ mang tính chất tượng trưng nhưng có quyền phủ quyết trong một số quyết sách quan trọng (được quy định trong điều lệ công ty) của công ty cổ phần. Loại cổ đông này còn gọi là cổ đông ưu đãi biểu quyết và loại cổ phần mà cổ đông đặc biệt nắm giữ gọi là cổ phần vàng Cổ đông ưu đãi: là những cổ đông được ưu tiên một quyền nào đó ( được trả cổ tức cao hơn hay quyền hưởng một tỷ lệ cổ tức cố định trước khi lợi nhuận được phân phối cho các cổ đông khác, quyền nhận lại giá trị của cổ phần khi có yêu cầu). Đi kèm với quyền ưu tiên, cổ đông ưu đãi thường bị hạn chế các quyền khác (ví dụ quyền ứng cử vào bộ máy quản trị của công ty, quyền biểu quyết...). Cổ đông thường: là các cổ đông còn lại. Ngoài ra, căn cứ tỷ lệ cổ phần mà cổ đông nắm giữ, cổ đông được phân loại thành cổ đông lớn và cổ đông thiểu số. Tỷ lệ để được coi là cổ đông lớn thường do điều lệ công ty quy định trên cơ sở tuân thủ luật pháp, ví dụ điều lệ một số công ty quy định cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng là cổ đông lớn. VII. NƠI MUA BÁN CỔ PHIẾU, QUY TRÌNH GIAO DỊCH CỔ PHIẾU VÀ CÁC THÀNH PHẦN THAM GIA. 1. Nơi mua bán cổ phiếu: cổ phiếu được mua bán, giao dịch trên 2 loại thị trường chủ yếu là thị trường tập trung (sàn giao dịch chứng khoán) hay thị trường phi tập trung (OTC). Tùy hình thức công ty tham gia phát hành cổ phiếu đã lựa chọn mà cổ phiếu được giao dịch trên thị trương đó. 2. Quy trình giao dịch a - Qui trình tìm giá khớp lệnh: Theo qui định tại Thông tư số 58/2004/TT-BTC ngày 17/6/2004 của Bộ Tài chính về Thành viên và giao dịch chứng khoán: - Phương thức giao dịch khớp lệnh thực hiện trên nguyên tắc: Là mức giá thực hiện đạt được khối lượng giao dịch lớn nhất; Nếu có nhiều mức giá thoả mãn điểm trên thì mức giá trùng hoặc gần với giá thực hiện của lần khớp lệnh gần nhất sẽ được chọn; Nếu vẫn còn nhiều mức giá thoả mãn điểm trên thì mức giá cao hơn sẽ được chọn. - Phương thức giao dịch thoả thuận là việc các thành viên tự thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch. - Ưu tiên về giá: + Lệnh mua có mức giá cao hơn được thực hiện trước; + Lệnh bán có mức giá thấp hơn được thực hiện trước. - Ưu tiên về thời gian: trường hợp các lệnh mua, bán có cùng mức giá thì lệnh giao dịch nhập trước vào hệ thống giao dịch được ưu tiên thực hiện trước. Ví dụ: Ta có sổ lệnh giao dịch của chứng khoán XYZ như sau: - Trường hợp không có lệnh ATO: Tích luỹ Mua Giá Bán Tích luỹ 10.000 10.000 30.000 10.000 34.500 15.500 5.500 29.000 15.000 24.500 22.500 7.000 28.000 4.000 9.500 25.500 3.000 27.000 3.000 5.500 34.000 8.500 26.000 2.500 2.500 Qua sổ lệnh ta có giá khớp lệnh của cổ phiếu XYZ là 28.000 đồng. - Trường hợp có lệnh ATO và giá tham chiếu của lần khớp lệnh trước đó là 26.000 đồng: Tích luỹ Mua Giá Bán Tích luỹ 13.000 10.000 30.000 10.000 31.500 18.500 5.500 29.000 21.500 25.500 7.000 28.000 21.500 25.500 27.000 10.000 21.500 25.500 26.000 10.500 11.500 3.000 ATO 1.000 Qua sổ lệnh ta có giá khớp lệnh của cổ phiếu XYZ là 28.000 đồng. b - Qui trình giao dịch cổ phiếu: Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán có thể diễn ra trên thị trường tập trung (Trung tâm giao dịch chứng khoán, Sở Giao dịch chứng khoán) và thị trường phi tập trung. Mua chứng khoán của tổ chức phát hành Đối với loại chứng khoán này, bạn có thể thực hiện theo 2 hình thức: - Mua trực tiếp tại tổ chức phát hành (công ty): nhà đầu tư phải đăng ký mua và nộp tiền trực tiếp tại tổ chức phát hành chứng khoán. Hình thức này rất bất cập, nhất là về mặt địa lý. - Mua thông qua trung gian: tức là mua thông qua các nhà đại lý hoặc bảo lãnh phát hành, thông thường là các công ty chứng khoán và các Ngân hàng thương mại. Nếu bạn mua chứng khoán của tổ chức phát hành chưa niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán thì việc chuyển nhượng hoặc bán lại chứng khoán đó cho người khác hiện nay gặp nhiều khó khăn vì không dễ tìm được người mua và bạn cũng phải trực tiếp đến tổ chức phát hành (hoặc uỷ quyền) để thực hiện chuyển nhượng cho người mua. Mua bán chứng khoán niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán Chứng khoán niêm yết là chứng khoán có đủ điều kiện và tiêu chuẩn được đăng ký để mua bán tại Trung tâm giao dịch chứng khoán. Khi mua bán chứng khoán niêm yết, phải tuân thủ theo một số nguyên tắc sau: Mọi giao dịch mua bán chứng khoán đều phải qua hệ thống tại Sở Giao dịch, Trung tâm Giao dịch chứng khoán theo phương thức khớp lệnh hoặc phương thức thoả thuận; Giao dịch chứng khoán thực hiện theo phương thức khớp lệnh trên nguyên tắc ưu tiên về giá và ưu tiên về thời gian; Giao dịch chứng khoán niêm yết lô lẻ được thực hiện trực tiếp giữa người đầu tư với công ty chứng khoán thành viên là thành viên của Trung tâm Giao dịch chứng khoán trên nguyên tắc thoả thuận về giá. * Quy trình giao dịch chứng khoán niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán: Toàn bộ quy trình này được tiến hành theo 5 bước: - Bước 1: Nhà đầu tư đến mở tài khoản và đặt lệnh mua hay bán chứng khoán tại một công ty chứng khoán. - Bước 2: Công ty chứng khoán chuyển lệnh đó cho đại diện của công ty tại Trung tâm giao dịch chứng khoán để nhập vào hệ thống giao dịch của Trung tâm. - Bước 3: Trung tâm giao dịch chứng khoán thực hiện ghép lệnh và thông báo kết quả giao dịch cho công ty chứng khoán. - Bước 4: Công ty chứng khoán thông báo kết quả giao dịch cho nhà đầu tư. - Bước 5: Nhà đầu tư nhận được chứng khoán (nếu là người mua) hoặc tiền (nếu là người bán) trên tài khoản của mình tại công ty chứng khoán sau 3 ngày làm việc kể từ ngày mua bán nếu quy định về thời gian thực hiện thanh toán bù trừ chứng khoán là T +3ng khoán (nếu là người mua) hoặc tiền (nếu là Các quy định chung ) c - Giao dịch thỏa thuận trên thị trường chứng khoán: Khối lượng chứng khoán trong giao dịch thoả thuận phải lớn hơn hoặc bằng 10.000 cổ phiếu/giao dịch. Khối lượng giao dịch phải là lô chẵn. Giá giao dịch tuỳ theo sự thoả thuận giữa người mua và người bán nhưng phải nằm trong biên độ cho phép tại thời điểm giao dịch. Các quy định khác về điều kiện giao dịch, tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu trong công ty cổ phần, lưu ký và thanh toán bù trừ... được áp dụng như giao dịch khớp lệnh. Khi giao dịch thoả thuận, nhà đầu tư cần lưu ý sao cho không vi phạm các quy định của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. Lệnh giao dịch thoả thuận chỉ có giá trị trong ngày. Theo quy định hiện hành thì lệnh đã đặt không được quyền huỷ vì vậy nhà đầu tư cần chú ý quy định này khi đặt lệnh. Quy trình thực hiện lệnh đặt mua hay chào bán: Trường hợp khách hàng chủ động quảng cáo (chủ động đặt mua hoặc chào bán), quy trình đặt lệnh giao dịch được tiến hành theo 2 bước: Bước 1: Quảng cáo giao dịch thoả thuận. Sau khi khách hàng điền vào phiếu lệnh giao dịch thoả thuận theo mẫu và nộp phiếu lệnh cho nhân viên giao dịch (mẫu quảng cáo giao dịch), dại diện giao dịch của công ty chứng khoán (CTCK) kiểm tra các quảng cáo giao dịch thoả thuận vào hệ thống giao dịch. Màn hình giao dịch sẽ hiển thị nội dung của quảng cáo. Ghi chú: Trong trường hợp đã có đối tác, khách hàng cần nộp thêm chứng từ xác nhận thoả thuận, cam kết giữa hai bên về khối lượng, giá thoả thuận, mã số giao dịch của cả hai bên... Bước 2: Điều chỉnh lệnh trong quá trình thoả thuận. Khách hàng cần giữ liên lạc thường xuyên với CTCK để nắm rõ tình hình giao dịch với đối tác. Trong trường hợp có điều chỉnh các thông số lệnh, những sửa đổi cần được sự chấp thuận của CTCK và CTCK sẽ xác nhận trực tiếp việc sửa đổi vào phiếu lệnh. Ghi chú: Trong trường hợp khách hàng đã có đối tác trước thì lệnh được thực hiện ngay. Trường hợp nhà đầu tư quyết định giao dịch dựa trên thông tin quảng cáo, quy trình đặt lệnh được tiến hành theo 2 bước: Bước 1: Tiếp nhận những thông tin quảng cáo về giao dịch thoả thuận được đại diện giao dịch thông báo rộng rãi đến nhà đầu tư. Khách hàng có thể tìm hiểu thêm thông tin tại quầy giao dịch của các CTCK. Nếu chấp nhận các tin quảng cáo, nhà đầu tư đăng ký giao dịch thoả thuận. Bước 2: Khách hàng điền vào phiếu lệnh giao dịch thoả thuận theo mẫu rồi nộp phiếu lệnh cho nhân viên giao dịch. Đại diện giao dịch nhận được phiếu đăng ký sẽ tiến hành thoả thuận với đại diện giao dịch của bên quảng cáo và thông báo cho khách hàng. Khách hàng có quyết định cuối cùng chấp thuận giao dịch hay không. Về việc xác nhận giao dịch: Sau khi hai bên đã đồng ý tiến hành giao dịch. Đại diện giao dịch sẽ tiến hành thực hiện giao dịch cho khách hàng. Sau khi hoàn tất giao dịch, phần việc xác nhận kết quả giao dịch, số dư chứng khoán và quy trình thanh toán bù trừ được thực hiện như giao dịch khớp lệnh. VIII. ĐỊNH GIÁ CỔ PHIẾU Hiện tại các nhà phân tích chứng khoán tại Việt Nam và trên thế giới dùng khá nhiều phương pháp để tính và dự đoán giá CP. Sau đây là 3 phương pháp có thể áp dụng được trong điều kiện hiện tại của TTCK Việt Nam. 1. Định giá cổ phiếu phổ thông theo phương pháp chiết khấu luồng thu nhập (DCF) - Phương pháp định giá chiết khấu luồng thu nhập (DCF) được dựa trên một nguyên lý cơ bản là "tiền có giá trị theo thời gian, một đồng tiền của ngày hôm nay luôn có giá trị hơn một đồng tiền của ngày mai, một đồng đầu tư vào trong doanh nghiệp (DN) này có mức sinh lời khác với một đồng đầu tư trong DN khác. Do đó, giá trị của DN được xác định bằng các luồng thu nhập dự kiến mà DN đó thu được trong tương lai được quy về giá trị hiện tại bằng cách chiết khấu chúng bằng một mức lãi suất chiết khấu phù hợp với mức độ rủi ro của DN đó. - Do vậy, trong phương pháp DCF có 3 thông số cơ bản nhất cần được xác định, đó là luồng thu nhập công ty sẽ thu về trong tương lai, mức lãi suất chiết khấu luồng thu nhập đó và thời hạn tồn tại dự tính của DN. Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở những nước mà TTCK phát triển, nơi thường có đầy đủ thông tin về lịch sử cũng như thông tin hiện tại và dự báo hợp lý về tình hình tài chính và rủi ro của doanh nghiệp. Hiện nay, việc áp dụng công thức này ở Việt Nam cũng được nhiều người chấp nhận bởi giá CP tính theo phương pháp này phản ánh được tương đối đầy đủ mọi mặt bản chất hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty so với các phương pháp khác và đứng trên quan điểm của nhà đầu tư thì, ngoài việc tính toán theo phương pháp này rất đơn giản, nó còn đáp ứng đúng suy nghĩ, nguyện vọng của họ khi đầu tư vào một DN. - Tuy nhiên, tại Việt Nam việc áp dụng công thức này có một số khó khăn làm cho việc ước tính nguồn thu trong tương lai của các công ty khó có thể chính xác như: Tình hình môi trường kinh doanh có nhiều biến động; Các DN Việt Nam trong đó có các công ty đang niêm yết đều chưa quen với việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn, đặc biệt là còn xa lạ với việc dự báo chi tiết luồng tiền dài hạn ra, vào công ty... Do đó, chúng ta sẽ điều chỉnh lại công thức này theo hướng 5 năm và cộng giá trị tài sản ròng được tính vào thời điểm niêm yết. - Công thức được điều chỉnh sẽ là: P = Po + E1/(1+r) + E2/(1+r)2 + E3/(1+r)3 + E4/(1+r)4 + E5/(1+r)5 2. Định giá CP phổ thông theo phương pháp hệ số P/E - Đây là phương pháp cũng được áp dụng phổ biến ở các TTCK đã phát triển. Hệ số P/E là hệ số giữa giá CP (thị giá) và thu nhập hàng năm của một CP đem lại cho người nắm giữ. Thông thường, để dự tính giá của một loại CP, người ta thường dùng thu nhập trên mỗi CP của công ty nhân với hệ số P/E trung bình ngành hoặc của một công ty tương tự về qui mô, ngành nghề và đã được giao dịch trên thị trường. Việc áp dụng hệ số P/E để tính giá CP tại Việt nam còn gặp phải nhiều khó khăn do thiếu số liệu và TTCK chưa phát triển. - Tại các thị trường đã phát triển, theo số liệu thống kê về chỉ số P/E, hệ số này từ 8-15 là bình thường, nếu hệ số này lớn hơn 20 thì công ty đang được đánh giá rất tốt và người đầu tư trông đợi trong tương lai, mức thu nhập trên một CP của công ty sẽ tăng nhanh. Trường hợp công ty có hệ số P/E thấp có thể là do thị trường không đánh giá cao công ty đó hoặc chưa hiểu biết nhiều về công ty. Khi tất cả các CP trên thị trường đều có giá quá cao so với giá trị thực của của nó thì phần bong bóng sẽ vượt quá phần thực và nhất định có ngày nổ tung, gây khủng hoảng thị trường như đã từng thấy ở các nước phát triển. 3. Định giá cổ phiếu dựa trên cơ sở tài sản ròng có điều chỉnh - Quan điểm chung của phương pháp này cho rằng, một công ty có giá trị không kém hơn tổng các giá trị của từng loại tài sản riêng của nó trừ đi các khoản nợ của nó. Tài sản riêng ở đây được hiểu bao gồm cả những giá trị lợi thế của công ty. Giá CP của công ty có thể được tính theo phương pháp tổng quát sau: Giá CP = (Giá trị TS ròng + Giá trị lợi thế)/Tổng số CP định phát hành - Phương pháp này thường được sử dụng để tính toán giá tham chiếu và so sánh. Ở Việt Nam, phương pháp này được áp dụng phổ biến cho các DN Nhà nước thực hiện cổ phần hóa (CPH). Tuy nhiên, giá trị tài sản ròng của công ty dù được định giá chính xác đến đâu cũng chỉ thể hiện giá trị thanh lý của công ty, trong khi đó đối với người đầu tư mua CP thì tương lai của công ty mới là điều đáng quan tâm hơn cả. Trong các DN CPH ở Việt Nam có nhiều loại tài sản mà chúng ta không xác định được giá do không có thị trường cho các loại tài sản này, nhưng có một loại tài sản mà ai cũng thấy rõ là đang góp phần khiến cho các DN Nhà nước CPH được định giá thấp là giá trị quyền sử dụng đất. - Quan sát cho thấy, việc quyền sử dụng đất trong các DN Nhà nước CPH được định giá thấp hơn giá cả trên thị trường nhà đất từ 4 đến 5 lần không phải là hiện tượng cá biệt. Hơn thế nữa, trong nhiều DN, quyền sử dụng đất là một tài sản có giá trị cao nhất, chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản của công ty. Chúng ta sẽ dựa trên một số số liệu về cổ phần hoá, tính những thiếu hụt trong quá trình định giá của các DN Nhà nước cổ phần bằng cách nhân tổng giá trị tài sản ròng của công ty lên 2 lần. Dựa trên các phương pháp được giới thiệu trên và chỉ sử dụng một cách máy móc những con số ghi trên trên báo cáo tài chính năm 1999 và 2000 được công bố của các công ty niêm yết, các bạn có thể tự tính toán được giá trị CP của các công ty theo bảng dưới đây. Tuy nhiên, theo những tính toán nêu trên thì giá CP vẫn chưa thể hiện được hoàn toàn về các giá trị thực của công ty mà nó phản ánh. Để có thể hiểu được một cách rõ nét và toàn diện hơn, chúng ta cần phải đi sâu vào phân tích những yếu tố phi định lượng khác nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến những kết quả tính toán nêu trên. - Những yếu tố cần phải tính đến khi phân tích và tính giá CP của một công ty bao gồm: Độ tin cậy của số liệu. Mức độ rủi ro trong hoạt động của công ty bao gồm cả những yếu tố như tình hình thị trường và triển vọng của công ty (điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến thời hạn hoạt động cuả công ty, hệ số chiết khấu trong công thức tính DCF); Những yếu tố liên quan đến tài sản vô hình của công ty như trình độ quản lý của ban giám đốc, uy tín sản phẩm, nhãn hiệu thương mại, chất lượng sản phẩm được thể hiện theo các tiêu chuẩn ISO... 4. Một số trường hợp khác a. Tính giá cổ phiếu tại thời điểm chốt - Theo nguyên tắc của Sở Giao dịch Chứng khoán TP HCM, giá tham chiếu của những ngày chốt trả cổ tức hoặc phát hành cổ phiếu mới một mã chứng khoán sẽ được điều chỉnh sao cho thị giá đóng cửa ngày hôm trước sẽ bằng thị giá tham chiếu của ngày hôm sau. Công thức cụ thể là: Q1*P1 = Q2*P2 Trong đó : Q1: Khối lượng cổ phiếu vào ngày trước ngày chốt. P1: Giá đóng cửa cổ phiếu vào ngày trước ngày chốt. Q2: Khối lượng cổ phiếu đã được điều chỉnh tăng, tương ứng với số cổ phiếu phát hành thêm hoặc lượng trả cổ tức. P2: Giá tham chiếu điều chỉnh của cổ phiếu vào ngày chốt. - Khi đó giá tham chiếu của mã chứng khoán vào ngày giao dịch không hưởng quyền sẽ được tính theo công thức: P2 = Q1*P1/Q2 Ví dụ: Áp dụng cho cổ phiếu STB, trả cổ tức vào ngày 22/7 theo tỷ lệ 15%. Có nghĩa là cổ đông sở hữu 100 cổ phiếu cũ sẽ được tặng thêm 15 cổ phiếu mới. Như vậy, giá tham chiếu của STB trong ngày giao dịch không hưởng quyền là: Q1: Khối lượng cổ phiếu STB vào cuối phiên 22/7. P1: Giá đóng cửa STB phiên 22/7, bằng 28.000 đồng một cổ phiếu. Q2: Khối lượng cổ phiếu STB vào 23/7 (đã chia cổ tức bằng Cổ phiếu). P2: Giá tham chiếu điều chỉnh của STB vào 23/07. Ta có: Q2= Q1*(1+15/100)= Q1*1,15. Khi đó giá tham chiếu của STB ngày 23/7 sẽ được tính theo công thức: P2 = Q1*P1/Q2 = Q1*P1/(Q1*1,15) = P1/1,15 = 28/1,15 = 24,35 Vậy mức giá tham chiếu đúng của ngày 23/7 sẽ là 24,35. Khi đó cộng trừ 3% của giá tham chiếu điều chỉnh, ta sẽ có được mức giá trần, sàn của ngày 23/7 là 25 và 23,7. Như vậy việc chia cổ phiếu thưởng hay phát hành cổ phiếu thực tế chỉ làm tăng lượng cổ phiếu mà nhà đầu tư sở hữu chứ không làm thay đổi giá trị của số cổ phiếu đó. Nói nôm na, nếu nhà đầu tư đầu tư 2 đồng và mua được 1 cổ phiếu thì sau khi chia, họ sẽ có 2 cổ phiếu nhưng giá mỗi cổ phiếu chỉ còn là 1 đồng. b. Cách tính lại giá cổ phiếu khi công ty phát hành thêm Giá tham chiếu của cổ phiểu sẽ được điều chỉnh khi xảy ra một trong các sự kiện sau: - Công ty phát hành thêm quyền mua cổ phiếu - Công ty chi trả cổ tức bằng tiền mặt - Công ty chi trả cổ tức bằng cổ phiếu - Công ty chia cổ phiếu thưởng - Công ty chia thưởng bằng tiền mặt   * Công thức tổng quát để tính giá tham chiếu trong những ngày đặc biệt:   PR t-1 + (I1 x Pr1 ) + (I2 x Pr2 ) + (I3 x Pr3 ) –TTHcp- Divcp- TTHt -Divt  Ptc  = ----------------------------------------------------------------------------------------   {1+ I1 + I2 + I3} Trong đó : Ptc: : Giá tham chiếu của ngày không hưởng quyền PR t-1: : là giá chứng khoán phiên trước phiên giao dịch không hưởng quyền I1 : Tỷ lệ vốn tăng theo phát hành quyền mua cổ phiếu I2 : Tỷ lệ vốn tăng do chia thưởng bằng cổ phiếu I3: Tỷ lệ vốn tăng do chi trả cổ tức bằng cổ phiếu TTHcp: Giá trị thưởng bằng cổ phiếu Divcp : Giá trị cổ tức bằng cổ phiếu TTHt: Giá trị tiền thưởng bằng tiền Divt  : Giá trị cổ tức bằng tiền Pr1 : Giá cổ phiếu bán cho người có quyền mua cổ phiếu Pr2  : Giá cổ phiếu tính cho người được thưởng bằng cổ phiếu Pr3: Giá cổ phiếu tính cho người được nhận cổ tức bằng cổ phiếu Trong thực tế, chúng ta có thể dùng công thức tổng quát này để tính toán cho tất cả các trường hợp. Đối với những nhân tố không xảy ra ta để giá trị bằng 0. * Giá tham chiếu của cổ phiếu trong trường hợp phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn Trong trường hợp này giá tham chiếu của cổ phiếu ngày không hưởng quyền mua cổ phiếu mới (Ptc) được tính theo công thức:    PR t-1 + (I x PR )   Ptc  = ------------------------   1+ I Trong đó : Ptc :  là giá tham chiếu cổ phiếu trong ngày giao dịch không hưởng quyền mua cổ phiếu trong đợt phát hành mới để tăng vốn, đây là giá cần xác định PR t-1:  là giá chứng khoán phiên trước phiên giao dịch không hưởng quyền. I :  là tỷ lệ vốn tăng PR :  là giá cổ phiếu sẽ bán cho người nắm giữ quyền mua cổ phiếu trong đợt phát hành mới.  Ví dụ: Giả sử ta muốn tính giá tham chiếu của cổ phiếu Hapaco (HAP) vào ngày không hưởng quyền mua cổ phiếu mới trong đợt phát hành thêm cổ phiếu lần đầu để huy động vốn đầu tư xây dựng Nhà máy giấy Craft. Thông tin chúng ta có được như sau: Tổng vốn huy động mới là 20 tỷ đồng (tổng vốn Hapaco trước lúc phát hành quyền mua cổ phiếu là 10 tỷ đồng). Tức là mỗi cổ phiếu cũ được mua thêm 2 cổ phiếu mới. Giá tham chiếu của cổ phiếu này vào phiên trước phiên giao dịch không hưởng quyền là 50.000 đồng cho mỗi cổ phiếu (PRt-1). Tỷ lệ vốn tăng là gấp 2 lần vốn hiện có (I=2). Giá cổ phiếu sẽ bán cho cổ đông là 32.000đồng/cổ phiếu (PR). Ptc = 50.000+2 x 32.000 = 38.000 (đồng) 1 + 2 Mục tiêu cơ bản của việc xây dựng chỉ số giá nói chung là xây dựng hệ thống chỉ tiêu phản ánh sự biến động của giá theo thời gian. Chỉ số giá cổ phiếu cũng vậy nó là chỉ tiêu phản ánh sự thay đổi của giá cổ phiếu theo thời gian. Ý tưởng xuyên suốt trong quá trình xây dựng chỉ số giá là phải cố định phần lượng, loại bỏ mọi yếu tố ảnh hưởng về giá trị để khảo sát sự thay đổi của riêng giá. Có như vậy chỉ số giá mới phản ánh đúng sự biến động về giá. Mọi công thức, phương pháp không thực hiện được ý tưởng này đều sai với lý luận và chắc chắn chỉ số giá không phản ánh đúng sự biến động của giá. Để thực hiện được mục tiêu và ý tưởng trên, có 3 vấn đề cần giải quyết trong quá trình xây dựng chỉ số giá cổ phiếu, đó là: - Chọn phương pháp - Chọn rổ đại diện - Tìm biện pháp trừ khử các yếu tố về giá trị để đảm bảo chỉ số giá chỉ phản ánh sự biến động của riêng giá. Ngoài các phương pháp trên, phương pháp tính giá bình quân giản đơn cũng thường được áp dụng. Công thức đơn giản là lấy tổng thị giá của chứng khoán chia cho số chứng khoán tham gia tính toán: Phương pháp này sẽ tốt khi mức giá của các cổ phiếu tham gia niêm yết khá đồng đều, hay độ lệch chuẩn (s) của nó thấp. 5. Chọn rổ đại diện - Một nhiệm vụ thứ hai quan trọng trong việc xây dựng chỉ số giá chứng khoán là việc chọn rổ đại diện. Ở Sở giao dịch chứng khoán New York có trên 3000 cổ phiếu niêm yết, nhưng chỉ số tổng hợp Dow Jone chỉ bao gồm 65 cổ phiếu. Trong đó, chỉ số Dow Jones công nghiệp (DJIA) chỉ bao gồm 30 cổ phiếu, Dow Jones vận tải (DJTA) bao gồm 20 cổ phiếu và Dow Jones dịch vụ (DJUA) bao gồm chỉ 15 cổ phiếu. - Tuy chỉ bao gồm một số lượng cổ phiếu niêm yết rất nhỏ như vậy trong tổng thể nhưng các chỉ số Dow Jones vẫn trường tồn qua năm tháng, vì nó phản ánh được xu thế, động thái của quá trình vận động của giá cả. Rổ đại diện này là tiêu biểu, đại diện được cho tổng thể vì họ thường xuyên thay những cổ phiếu không còn tiêu biểu nữa bằng cổ phiếu tiêu biểu hơn. Ví dụ tháng 11/1999, họ đã thay 4 cổ phiếu trong rổ đại diện, công ty IBM cũng có lúc phải loại khỏi rổ đại diện khi thị trường PC nói chung phát triển và lấn át. - Ba tiêu thức quan trọng để xác định sự tiêu biểu của cổ phiếu để chọn vào rổ đại diện là số lượng cổ phiếu niêm yết, giá trị niêm yết và tỷ lệ giao dịch, mua bán chứng khoán đó trên thị trường (khối lượng và giá trị giao dịch). - Đối với Việt Nam, hay bất kỳ thị trường nào khi mới ra đời, số lượng các cổ phiếu niêm yết chưa nhiều, thì rổ đại diện nên bao gồm tất cả các cổ phiếu. Tuy nhiên cũng nên chú ý đến khối lượng và giá trị giao dịch. Nếu một cổ phiếu nào đó trong một thời gian dài không có giao dịch hoặc giao dịch không đáng kể thì nên tạm loại khỏi phạm vi tính toán. - Có như vậy chỉ số chúng ta tính ra mới phản ánh được động thái vận động thực sự của giá cả thị trường. 6. Vấn đề trừ khử ảnh hưởng của các yếu tổ thay đổi về khối lượng và giá trị trong quá trình tính toán chỉ số giá cổ phiếu - Trong quá trình tính toán một số nhân tố làm thay đổi về khối lượng và giá trị của các cổ phiếu trong rổ đại diện sẽ ảnh hưởng đến tính liên tục của chỉ số. Ví dụ như phạm vi, nội dung tính toán của ngày báo cáo không đồng nhất với ngày trước đó và làm cho việc so sánh bị khập khiễng, chỉ số giá tính ra không phản ánh đúng sự biến động của riêng giá. Các yếu tố đó là: Thêm, bớt cổ phiếu khỏi rổ đại diện, thay cổ phiếu trong rổ đại diện; nhập, tách cổ phiếu; thưởng cổ phần, thưởng tiền, tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới; bán chứng quyền; cổ phiếu trong rổ đại diện bị giảm giá trong những ngày giao dịch không có cổ tức... - Để trừ khử ảnh hưởng của các yếu tổ thay đổi về khối lượng và giá trị trong quá trình tính toán chỉ số giá cổ phiếu, làm cho chỉ số giá cổ phiếu thực sự phản ánh đúng sự biến động của riêng giá cổ phiếu mà thôi người ta dùng kỹ thuật điều chỉnh hệ số chia. Đây là một đặc thù riêng của việc xây dựng chỉ số giá chứng khoán. - Để hiểu bản chất của kỹ thuật này, chúng ta hãy xem xét một ví dụ đơn giản sau: Chỉ số tính theo phương pháp bình quân giản đơn (phương pháp Dow Jones). Giá 3 cổ phiếu hình thành như sau: Cổ phiếu Giá ngày giao dịch 1 Giá ngày giao dịch 2 Giá ngày giao dịch 3 A B C 17 13 15 19 13 16 19 13 8 Tổng giá 45 48 30 DJA ngày 1 là 45/3 = 15 (ngàn đồng, hay điểm) DJA ngày 2 là 48/3 = 16 (ngàn đồng, hay điểm), tăng 1 điểm hay 6.7% Ngày thứ 3 cổ phiếu C tách làm hai và giá coi như không có gì thay đổi (cổ phiếu C giảm còn 8 không coi là giảm giá, mà chỉ vì cổ phiếu tách đôi). Về nguyên tắc, nếu giá không có gì thay đổi, thì chỉ số vẫn giữ nguyên. Ta không thể lấy tổng mới chia cho 3: 30/3=10 để kết luận chỉ số giá đã giảm 5 ngàn (điểm) được. Vì thực chất giá không hề thay đổi. Bởi vậy chỉ số giá mới tính ra phải bằng 15 như ngày 2. Đây là cốt lõi của kỹ thuật tính toán lại hệ số chia. Kỹ thuật hết sức đơn giản: áp dụng quy tắc tam suất mà chúng ta đã học từ lớp 4. Cụ thể là: 48 =======> Hệ số chia là 3 (Do) 30 =======> Hệ số chia là D1 Từ đây suy ra D1 = (30 x 3)/48 = 1.875 và DJA ngày thứ 3 là 30/1.875 = 16 không có gì thay đổi. Chỉ số này phản ánh đúng động thái của giá (không đổi). Trong thực tế giá thường có thay đổi nên chỉ số sẽ có dao động. Nhưng khi tính lại hệ số chia, người ta luôn giả định giá không đổi. Tức là hệ số chia của ngày giao dịch được xác định trước khi xảy ra giao dịch. Chỉ số VN INDEX thể hiện biến động giá cổ phiếu giao dịch tại TTGDCK TP.HCM. Công thức tính chỉ số áp dụng đối với toàn bộ các cổ phiếu niêm yết tại TTGDCK nhằm thể hiện xu hướng giá cổ phiếu hàng ngày. Chỉ số VN INDEX so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào ngày gốc 28/07/2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động. Giá trị thị trường cơ sở trong công thức tính chỉ số được điều chỉnh trong các trường hợp như niêm yết mới, huỷ niêm yết và các trường hợp có thay đổi về vốn niêm yết. Công thức tính chỉ số VN INDEX: Chỉ số VN INDEX = (Giá trị thị trường hiện hành / Giá trị thị trường cơ sở) x 100 = (Pit x Qit)/(Pi0 x Qi0) x100 Trong đó: Pit: Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu i Qit: Số lượng niêm yết hiện hành của cổ phiếu i Pi0: Giá thị trường vào ngày gốc của cổ phiếu i Qi0: Số lượng niêm yết vào ngày gốc của cổ phiếu i I= 1,n Định giá CP áp dụng phương pháp P/E là phương pháp thông dụng và phổ biến nhất, phù hợp với tất cả nhà đầu tư (NĐT), đặc biệt rất hiệu quả đối với các NĐT cá nhân vì phương pháp này có ưu điểm dễ tính và dễ hiểu. NĐT cần xác định liệu một CP của Cty có giá trị gấp bao nhiêu lần thu nhập hiện tại của nó, giá CP trên thị trường là đắt hay rẻ có phản ánh đúng giá trị nội tại của CP. * Các nhân tố ảnh hưởng tới P/E - EPS (thu nhập trên mỗi CP): Tỉ lệ tăng trưởng EPS càng cao thì hệ số P/E có xu hướng cao theo. - Hệ số đòn bẩy tài chính: Nguồn vốn của Cty được hình thành từ vốn nợ và vốn chủ sở hữu, nên khi một Cty có hệ số đòn bẩy tài chính cao thì P/E của Cty đó sẽ thấp hơn so với một Cty khác tương đương trong ngành. - P/E toàn thị trường: P/E toàn thị trường có ảnh hưởng rất lớn tới P/E riêng lẻ của từng loại CP. Điều này chúng ta có thể thấy rất rõ tại TTCK VN khi TTCK điều chỉnh tăng hay giảm thì đa số các Cty đơn lẻ cùng tăng hoặc cùng giảm dẫn đến P/E của các Cty này tăng giảm theo. - P/E của các CP cùng ngành: Phần lớn CP của các Cty trong cùng một ngành thường có xu hướng biến động cùng chiều. Cách so sánh nhanh nhất để biết CP một Cty trong ngành là cao hay thấp là so sánh P/E của Cty với P/E trung bình ngành. - Lĩnh vực kinh doanh đa dạng: Một Cty có nhiều mảng hoạt động kinh doanh thì đồng nghĩa với việc phân tán rủi ro, ổn định thu nhập và sự đa dạng này sẽ giúp làm giảm sự biến động mạnh về thu nhập mỗi CP của Cty đó. Những Cty đa dạng hoá họat động kinh doanh thường được NĐT đánh giá cao. - Lãi suất thị trường: Giá cả các loại CK chịu tác động nhiều từ yếu tố lãi suất. Nếu lãi suất thị trường cao sẽ dẫn đến giá CK và hệ số P/E thấp hơn vì giá trị hiện tại của các khoản thu nhập tương lai của Cty sẽ thấp hơn do phải chiết khấu ở mức lãi suất cao. Lựa chọn P/E trong định giá CP Khi sử dụng phương pháp định giá bằng P/E ta có thể lựa chọn một trong các cách sau: * Xác định hệ số P/E theo công thức: Với: Re- tỉ lệ chiết khấu; g- tốc độ tăng trưởng thu nhập; b- tỉ lệ chia cổ tức. D1: Cổ tức tại năm dự đoán. Sau đó nhân hệ số P/E này với thu nhập dự kiến của Cty để đạt được mức giá dự kiến hợp lý. * Xác định hệ số P/E bình quân của nhóm Cty tương đương trong ngành về kỹ thuật, mạng lưới khách hàng, quy mô, cơ cấu vốn và nhân hệ số này với thu nhập dự kiến của Cty để có mức giá hợp lý. * Xác định hệ số P/E trung bình các Cty tương đương cùng ngành các nước trong khu vực và nhân hệ số này với thu nhập dự kiến để có mức giá hợp lý. Xem xét CP có ý định đầu tư đắt hay rẻ không chỉ đơn thuần dựa vào hệ số P/E mà cần phải kết hợp nhiều yếu tố và phương pháp khác để có kết quả chính xác hơn. Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định, vẫn có thể sử dụng hệ số P/E như một phương pháp tham khảo để đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý.  IX. CÁC NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA TTCK Theo chúng ta biết thị truờng chứng khoán biến động không đồng đều và rất phức tạp. Để cho giá cả chứng khoán được hình thành một cách thống nhất công bằng cho các bên giao dịch. Nên để khắc phục điều đó thì thị trường chứng khoán thống nhất hoạt động theo 3 nguyên tắc cơ bản sau: Nguyên tắc trung gian, nguyên tắc đấu giá và nguyên tắc công khai. - Nguyên tắc trung gian: Mọi hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán trên thị truờng chứng khoán đều đuợc thực hiện thông qua các trung gian, hay còn gọi là các nhà môi giới. Các nhà môi giới thực hiện giao dịch theo lệnh của khách hàng và hưởng hoa hồng. Ngoài ra, nhà môi giới còn có thể cung cấp các dịch vụ khác như cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng trong việc đầu tư... Theo nguyên tắc trung gian, các nhà đầu tư không thể trực tiếp thoả thuận với nhau để mua bán chứng khoán. Họ đều phải thông qua các nhà môi giới của mình để đặt lệnh. Các nhà môi giới sẽ nhập lệnh vào hệ thống để khớp lệnh. -Nguyên tắc đấu giá: Giá chứng khoán đuợc xác định thông qua việc đấu giá giữa các lệnh mua và các lệnh bán. Tất cả các thành viên tham gia thị truờng đều không thể can thiệp vào việc xác định giá này. Có hai hình thức đấu giá là đấu giá trực tiếp và đấu giá tự động. Đấu giá trực tiếp là việc các nhà môi giới gặp nhau trên sàn giao dịch và trực tiếp đấu giá. Đấu giá tự động là việc các lệnh giao dịch từ các nhà môi giới đuợc nhập vào hệ thống máy chủ của Sở giao dịch chứng khoán. Hệ thống máy chủ này sẽ xác định mức giá sao cho tại mức giá này, chứng khoán giao dịch với khối luợng cao nhất. -Nguyên tắc công khai: Tất cả các hoạt động trên thị truờng chứng khoán đều phải đảm bảo tính công khai. Sở giao dịch chứng khoán công bố các thông tin về giao dịch chứng khoán trên thị trường. Các tổ chức niêm yết công bố công khai các thông tin tài chính định kỳ hàng năm của công ty, các sự kiện bất thuờng xảy ra đối với công ty, nắm giữ cổ phiếu của giám đốc, nguời quản lý, cổ đông đa số. Các thông tin càng được công bố công khai minh bạch, thì càng thu hút đuợc nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán. àCác nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán đuợc hình thành một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch. Do đó, ở hầu hết các nuớc trên thế giới hiện nay, mỗi nước chỉ có một Sở giao dịch chứng khoán duy nhất (tuy nhiên, người dân mọi miền đất nuớc đều có thể tiếp cận thị trường thông qua các phòng giao dịch của công ty chứng khoán mở tới các điểm dân cư). Một số nước khác còn tồn tại vài Sở giao dịch chứng khoán do lịch sử để lại thì đều nối mạng với nhau hoặc giao dịch những chứng khoán riêng biệt. X. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ CỔ PHIẾU Sự tác động của các nhân tố  tới giá cổ phiếu như thế nào cũng còn rất nhiều tranh luận. Rất khó để có thể xác định nhân tố nào sẽ ảnh hưởng tới giá cổ phiếu trong một trường hợp nhất định. Giá của cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố, cả những yếu tố vĩ mô và vi mô. Sau đây là tóm tắt những kết luận, ý kiến của các nhà kinh tế, các nhà hoạt động thị trường trên thế giới về những nhân tố chủ yếu có thể ảnh hưởng đến giá cổ phiếu. Giá cổ phiếu được quyết định bởi thị trường nơi mà cung - cầu gặp nhau, cung nhiều cầu ít thì giá sẽ thấp và ngược lại. Tuy nhiên cũng chẳng thể tìm được một công thức đầy đủ diễn tả chính xác sự di chuyển giá cả của các cổ phiếu, nhưng ít nhất chúng ta cũng biết được một số nguyên nhân khiến giá cổ phiếu lên hoặc xuống. Các nguyên nhân ấy được xếp thành 3 nhóm chính: yếu tố kinh tế, các yếu tố phi kinh tế và xúc cảm của thị trường. Các yếu tố kinh tế a/ Về tăng trưởng kinh tế. Giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển và giảm khi nền kinh tế kém phát triển. Ví dụ: các bạn có thể thấy rõ nét nhất khi nền kinh tế thế giới khủng hoảng năm 2008, đến nay đang dần hồi phục. Giá cổ phiếu trên hầu hết các thị trường chứng khoán thế giới giảm mạnh xuống đáy và hiện nay đang tăng trưởng trở lại. Thị trường chứng khoán là thị trường của “hi vọng” nên diễn biến của thị trường chứng khoán thường là “la bàn” cho cả nền kinh tế .Các chuyên gia kinh tế cho rằng TTCK thường diễn biến tăng giảm trước nền kinh tế khoảng chừng vài tháng. Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm cổ phiếu và tình hình biến động của từng cổ phiếu phụ thuộc vào tình hình hoạt động cụ thể của từng công ty. b/ Về mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty: Biến động giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động hoạt động kinh doanh, đôi khi xảy ra sau. Thời gian xảy ra và mức độ biến động này có sự chênh lệch đáng kể qua theo dõi tình hình. Qua một thời gian dài, nhiều người cho rằng giá cổ phiếu phổ thông thay đổi trước hoạt động kinh doanh. Ví dụ: giá cổ phiếu của các công ty thường thay đổi rất nhiều ở thời điểm trước và sau báo cáo kết quả kinh doanh hàng quý hàng năm của mỗi công ty. c/ Thu nhập công ty: những người theo trường phái này cho rằng, thu nhập hay lợi nhuận của công ty được coi là nhân tố quan trọng nhất tác động tới giá cổ phiếu. Những nhà kinh doanh và nhà đầu tư mua và bán cổ phiếu chủ yếu dựa trên cơ sở dự đoán về mức thu nhập. Tuy nhiên, giá cổ phiếu không phải lúc nào cũng có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập. Có những thời điểm, giá cổ phiếu tăng nhanh hơn thu nhập; vào những thời điểm khác, nó bị tụt lại đằng sau thu nhập. Đôi khi trên thực tế, nó lại biến động theo chiều hướng ngược lại với thu nhập. Do vậy, dù một người theo dõi rất sát thị trường đã dự đoán đúng xu hướng thay đổi của thu nhập, nhưng không có gì bảo đảm rằng anh ta có thể dự đoán chính xác xu hướng biến đổi của giá cổ phiếu. chúng ta nên quan tâm đến thu nhập của công ty trong một thời gian dài khoảng 2 đến 5 năm trong quá khứ. d/ Cổ tức: những người theo trường phái này cho rằng cổ tức là nhân tố cơ bản, chủ yếu thứ hai sau thu nhập, trong việc xác định giá chứng khoán. Thực chất điều này không khác gì một câu thành ngữ cổ xưa “1 con chim trong nhà có trị giá bằng 2 con chim trong rừng”. Tuy nhiên, cổ tức không đóng vai trò quan trọng đối với loại cổ phiếu tăng trưởng là loại cổ phiếu mà người ta coi sự tăng giá của chúng là rất quan trọng, thường xuyên mang lại lợi suất đầu tư cuối cùng lớn hơn nhiều so với cổ tức hiện tại. Một công ty tăng trưởng có khả năng sử dụng số vốn này có hiệu quả hơn cho các cổ đông, là những người luôn phải tìm kiếm cơ hội đầu tư. Trong tất cả các nhân tố báo chí sử dụng để giải thích về sự biến động giá hàng ngày của từng cổ phiếu, các thông tin về cổ tức luôn được xếp ở vị trí quan trọng gần đầu. e/ Lãi suất: mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi. Nguyên nhân là do luồng thu nhập từ cổ phiếu có thể thay đổi theo lãi suất và chúng ta không thể chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm tăng hay bù đắp cho mức biến động về lãi suất hay không. Để giải thích rõ vấn đề này, chúng ta sẽ xem xét các khả năng có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau: Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng và thu nhập công ty theo đó cũng tăng vì công ty có thể tăng giá cho phù hợp với mức tăng của chi phí. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có thể khá ổn định vì ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng tỷ suất lợi nhuận đã được đền bù một phần hay toàn bộ bởi phần tăng của tỷ lệ tăng trưởng thu nhập và cổ tức. Lãi suất tăng, nhưng luồng thu nhập dự tính thay đổi rất ít do công ty không có khả năng tăng giá để phù hợp với chi phí tăng, do vậy, giá cổ phiếu giảm. Tỷ suất lợi nhuận quy định có thể tăng nhưng tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức là không đổi, nên mức chênh lệch giữa 2 nhân tố này càng lớn. Lãi suất tăng trong khi luồng thu nhập giảm vì các nguyên nhân làm tăng lãi suất lại gây tác động xấu tới thu nhập của công ty. Hoặc là người ta có thể hình dung thời kỳ lạm phát trong đó chi phí sản xuất tăng, nhưng nhiều công ty không thể tăng giá, dẫn tới biên độ lợi nhuận giảm. Tác động của một loạt các sự kiện này là rất tồi tệ. Trong những trường hợp này, giá cổ phiếu sẽ sụt nghiêm trọng vì tỷ suất lợi nhuận giảm khi cổ tức giảm, dẫn tới chênh lệch giữa 2 nhân tố này càng lớn. Đối với những trường hợp ngược lại so với các trường hợp trên, bạn có thể hình dung ra một loạt các khả năng ngược lại khi lạm phát và lãi suất giảm. Mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và giá cổ phiếu là một vấn đề đòi hỏi phải có kinh nghiệm và ảnh hưởng của chúng thay đổi theo từng thời kỳ. Do vậy, mặc dù mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và thu nhập từ cổ phiếu là tiêu cực, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Hơn nữa, ngay cả khi điều này là đúng trên toàn bộ thị trường, thì vẫn tồn tại một số ngành nhất định có thể có thu nhập và cổ tức tạo ảnh hưởng tích cực từ những biến động về lạm phát và lãi suất. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có mối quan hệ tốt với lạm phát và lãi suất. f/ Giá cả hàng hoá: Lịch sử thị trường chứng khoán Mỹ đã cung cấp nhiều thông tin về sự bất cập của giá chứng khoán trong mối quan hệ với giá hàng hoá. Từ năm 1923 tới 1929 là một giai đoạn đáng ghi nhớ khi giá bán buôn ổn định và giá hàng hoá có xu hướng giảm nhẹ. Tuy nhiên, trong thời kỳ đó, giá chứng khoán theo thống kê tăng vọt phổ biến trên các thị trường đầu cơ giá lên. Ngược lại, giá hàng hoá tăng vào năm 1940, 1941, và 1942, nhưng giá cổ phiếu lại hạ. Vào mùa xuân năm 1946, việc kiểm soát giá hàng hoá đã bị bãi bỏ, và lạm phát về giá hàng hoá đã lên tới đỉnh điểm cho đến hết năm và tiếp tục tăng cho đến đến giữa năm 1948, giá cả tăng đều trong hai năm. Giá cổ phiếu bắt đầu biến động gần như vào đúng ngày giá hàng hoá bắt đầu tăng vào năm 1946; giá cổ phiếu giảm mạnh từ tháng 8 cho tới cuối năm. Nói cách khác, giá chứng khoán sụp đổ vào năm 1946 đúng vào thời điểm nguy cơ lạm phát tăng mạnh nhất do ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới lần thứ II. g/ Lạm phát: Chúng ta đã nhắc đến lạm phát như một trong các yếu tố đầu vào của hệ số nhân giá trị. Thế nhưng ngoài ra lạm phát còn có một sức điều khiển to lớn toàn bộ bối cảnh kỹ thuật. Thực tế đã chứng minh, lạm phát thấp có tương quan nghịch khá rõ ràng đối với việc giá trị cổ phiếu (lạm phát thấp, hệ số nhân giá trị cao và ngược lại). h/ Chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng khoán: Nếu khoản thuế đánh vào thu nhập từ chứng khoán cao (hoặc tăng lên) sẽ làm cho số người đầu tư giảm xuống, từ đó làm cho giá chứng khoán giảm. i/ Các yếu tố kinh tế khác .Trong những năm gần đây, các chỉ số hàng đầu thường được các nhà dự báo chứng khoán nhắc tới bao gồm số liệu về việc làm, những thay đổi về hàng tồn kho, và những biến động về lượng cung tiền. Lãi suất cơ bản (thường là lãi suất trái phiếu chính phủ) trong những năm gần đây đã thu hút sự chú ý đáng kể cho dù từ lâu nó chỉ được coi là một nhân tố không đáng kể chứ không phải là nhân tố hàng đầu. Bởi vì giá chứng khoán là một trong những chỉ số được coi trọng nhất trong 12 chỉ số hàng đầu, nên các nhà dự báo cho rằng tốt nhất nên dự tính lãi suất cơ bản theo giá chứng khoán hơn là dự đoán giá chứng khoán theo những thay đổi của lãi suất cơ bản. Các chỉ số quan trọng khác bao gồm vốn vay liên ngân hàng, các khoản vay thương mại và dịch vụ, giao dịch vốn trên thị trường tiền tệ, và các số liệu về giao dịch và thanh toán của quỹ tương hỗ. Nhóm yếu tố phi kinh tế Những yếu tố phi kinh tế bao gồm sự thay đổi về các điều kiện chính trị, ví dụ chiến tranh hoặc thay đổi cơ cấu Chính phủ, thay đổi về thời tiết và những nhân tố tự nhiên khác, và thay đổi về điều kiện văn hoá, như tiến bộ về công nghệ v.v… Tuy nhiên, những yếu tố này chỉ có ảnh hưởng lớn đối với giá chứng khoán ở những nước có nền kinh thế thị trường phát triển, thị trường sẽ đánh giá những chính sách này. Trong điều kiện Việt Nam, nền chính trị ổn định, mặt khác thị trường chứng khoán còn chưa phát triển, thì yếu tố này ít có tác động. Nhóm yếu tố thị trường Các yếu tố thị trường, là những nhân tố bên trong của thị trường, bao gồm sự biến động thị trường và mối quan hệ cung cầu có thể được coi là nhóm yếu tố thứ ba tác động tới giá cổ phiếu. Sự biến động thị trường là một hiện tượng chờ đợi thái quá từ việc dự tính quá cao giá trị thực chất của cổ phiếu khi giá cổ phiếu cao nhờ sự phát đạt của công ty, và ngược lại do dự đoán thấp giá trị tại thời điểm thị trường đi xuống. Mối quan hệ giữa cung và cầu được trực tiếp phản ánh thông qua khối lượng giao dịch trên thị trường, hoạt động của những nhà đầu tư có tổ chức, giao dịch ký quỹ v.v… cũng có ảnh hưởng đáng kể. Mặc dù số lượng giao dịch ký quỹ tăng khi mà giá cổ phiếu tăng, nhưng một khi giá cổ phiếu giảm số lượng cổ phiếu bán ra tăng và làm cho giá càng giảm. Như vậy, dao động giá cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp của nhiều nhân tố khác nhau, hạt nhân chính là các yếu tố về khả năng thu nhập công ty. Có thể thống kê những yếu tố chủ yếu sau: a/ Yếu tố tâm lý “bầy đàn”: thể hiện tương đối rõ nét nhất là ở trong giai đoạn đầu thị trường mới thành lập. Hiện tượng này biểu hiện qua giá của đa số các cổ phiếu đều lên hoặc đều xuống, giá cổ phiếu biến động tăng/giảm không phản ánh tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, mà chủ yếu do yếu tố tâm lý của người đầu tư trên thị trường. Sau này mới có sự phân hoá về biến động giá giữa các loại cổ phiếu khác nhau, tuy nhiên, hiện nay yếu tố này vẫn chiếm xu thế chủ đạo. b/ Các yếu tố về nhân khẩu học: Một vài nghiên cứu quan trọng được thực hiện để nghiên cứu yếu tố cơ bản về nhà đầu tư (các nghiên cứu nhân khẩu học) đã cho thấy: Trong khi các nhà đầu tư từ trẻ đến trung niên là những nhà đầu tư rất háo hức kiếm tiền, họ có khuynh hướng thích đầu tư vào cổ phiếu bởi vì đây được xem là mảnh đất màu mỡ, thì các nhà đầu tư lớn tuổi hơn lại có khuynh hướng muốn rút ra khỏi thị trường cổ phiếu, tìm kiếm những cơ hội đầu tư an tòan hơn nhằm phục vụ cho kế hoạch hưu trí. Lý thuyết trên cũng cho biết khi tỷ lệ những nhà đầu tư từ trẻ đến trung niên chiếm tỷ lệ lớn hơn trong dân chúng đầu tư thì mức cầu cổ phiếu cũng gia tăng và hệ số nhân giá trị cũng cao hơn. c/ Khả năng thanh khoản: Thanh khoản là một yếu tố rất quan trọng và đôi khi được xem là yếu tố quan trọng nhất. Thanh khoản cho thấy mức độ quan tâm và chú ý của nhà đầu tư đối với một cổ phiếu nào đó. Cổ phiếu của Wal- Mart là cổ phiếu có tính thanh khoản rất cao, các công ty nhỏ hơn, có mức vốn hóa thấp thì có tính thanh khỏan thấp hơn. Mức độ giao dịch cũng là một thước đo thanh khoản. Thanh khoản cũng là mục tiêu mà hoạt động truyền thông doanh nghiệp hướng tới (đó chính là mức độ thu hút nhà đầu tư). d/ Xúc cảm của thị trường: Xúc cảm của thị trường là muốn nói đến tâm lý của những người tham gia thị trường. Đây là yếu tố khó đo lường nhất. Xúc cảm thị trường thường có là tính chủ quan, sự a dua hùa theo hay còn gọi là tâm lý đám đông và sự cố chấp. Ví dụ: bạn có thể thực hiện một nhận định quan trọng về viễn cảnh tăng trưởng tương lai của cổ phiếu và tương lai thậm chí cũng ủng hộ bạn nhưng vào lúc đó, thị trường có thể đã nghĩ về những tin tức đang giữ giá cổ phiếu cao hoặc thấp và đôi khi bạn phải đợi một thời gian dài để các nhà đầu tư khác cũng chú ý đến những giá trị cơ bản như bạn. Xúc cảm thị trường được phát hiện ra thông qua một lĩnh vực mới trong tài chính có tên gọi: tài chính hành vi. Nó bắt đầu với giả định rằng các thị trường không phải lúc nào cũng hiệu quả và sự không hiệu quả này có thể được giải thích bằng tâm lý học và các khoa học xã hội khác. Rất nhiều ý kiến trong tài chính hành vi cho thấy rằng nhiều nhà đầu tư phản ứng mạnh hơn đối với nỗi đau khi bị thua lỗ hơn là niềm hạnh phúc khi kiếm được tiền lời và do đó nhà đầu tư có khuynh hướng cứ cố chấp mãi trong sai lầm. Sai lầm tiếp nối sai lầm! XI. CỔ PHIẾU ĐEM LẠI LỢI ÍCH GÌ CHO CHÚNG TA? Ø Lợi ích của việc đầu tư qua cổ phiếu - Được chia lời dưới hình thức cổ tức Mua vàng bạc, đá quý và bất động sản chỉ có lợi khi giá tăng, không có cổ tức và mệnh giá tăng như mua cổ phiếu. Cổ phiếu được hưởng lợi tuỳ theo kết quả kinh doanh của công ty phát hành, không có sự bảo đảm chắc chắn như trái phiếu. Nhưng cổ phiếu có thể được chia lời nhiều hơn cả trái phiếu khi công ty làm ăn phát đạt, và mệnh giá cổ phần gia tăng bởi tích luỹ nội bộ của công ty. - Giá cổ phiếu trên thị trường tăng cao hơn mệnh giá. Thực tế cho thấy, những nước đang trong giai đoạn phát triển thường cổ phiếu tăng giá rất nhanh, nên nó trở thành một công cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu. Ttong thời gian từ 1969-1980, cổ phiếu công ty Schlumberger tăng từ 3,50 USD lên 131 USD, chưa kể sau 5 lần tách cổ phiếu từ 100 thành 160, và cổ tức tăng từ 0,09 USD lên 0,97 USD…Trong thập niên 70, giá cổ phiếu tăng chậm hơn so với giá vàng, kim cương, bất động sản…Nhưng chính giá cổ phiếu tăng chậm hơn giá các thứ hàng hoá đó, cổ phiếu lại hấp dẫn đối với người mua vì nhiều người tin rằng giá cổ phiếu sẽ tăng lên sau đó. - Với một lượng cổ phiếu trong tay, các cổ đông được quyền tham gia biểu quyết các vấn đề của công ty. Thậm chí khi đạt tới một mức độ sở hữu quy định, cổ đông đó được quyền quản trị, kiểm soát công ty. - Cổ phiếu có thị trường rộng lớn, nên việc mua bán dễ dàng và nhanh chóng. Bán nhà, bán đất, bán xe hơi khó khăn hơn nhiều so với bán cổ phiếu. Cổ phiếu có thể giúp nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào, không cần thiết phải có sự hiểu biết về kỹ thuật công nghệ của lĩnh vực đó. Một khi không bằng lòng ở lĩnh vực này sẽ bán cổ phiếu đó đi để mua cổ phiếu của lĩnh vực khác. - Một ưu điểm đáng chú ý nữa là ngành chứng khoán hiện nay đang rất được chính phủ của các nước khuyến khích nên có nhiều ưu đãi về thuế thu nhập. Luật thuế thu nhập thường đánh rất thấp hoặc có thời kỳ được miễn hẳn cho số lợi nhuận thu được từ đầu tư chứng khoán. - Mua cổ phiếu có lợi như vậy, nhưng đó là trường hợp mua đúng. Nếu mua không đúng loại cổ phiếu cần mua, mua phải những cổ phiếu công ty đang trong thời kỳ khủng hoảng hoặc phá sản…thì không những không có lợi mà còn bị mất luôn cả vốn đầu tư. Vì vậy, việc mua bán cổ phiếu phải có sự lựa chọn. Ø Lựa chọn mua cổ phiếu Trong việc lựa chọn ta phải tìm hiểu quá trình hoạt động của công ty cũng như ngành nghề kinh tế liên quan đến loại cổ phiếu đó. Đồng thời cũng cần theo dõi và tìm hiểu trào lưu giá cả lên xuống trên thị trường, để quyết định lúc nào nên mua, lúc nào nên bán. Để cho vấn đề trở nên dễ hiểu, có thể chọn một số cách thức phân tích theo nguyên tắc cơ bản sau: Chọn công ty tốt. Công ty tốt thường là công ty ít nợ trong thời gian đã qua (thời gian càng dài càng tốt), và có lợi nhuận cao, hiện tại có lãi và triển vọng tương lai sáng sủa. Chọn thời điểm mua cổ phiếu: Giá cổ phiếu thường không đứng yên, mà lúc lên lúc xuống. Vậy nếu ta chịu khó theo dõi trào lưu, mua vào khi giá ở mức thấp nhất và bắt đầu đi lên, và bán ra lúc thị trường ở mức cao nhất và bắt đầu đi xuống thì sẽ có lời cao. Đây cũng là nguyên tắc thông thường trong kinh doanh. Giá một loại cổ phiếu luôn luôn chịu ảnh hưởng của những trào lưu lên xuống giá của TTCK. Trong thời kỳ lên giá, thị trường thường kéo theo 70-80% loại cổ phiếu cũng lên. Khi xuống giá cũng tương tự. Bởi vì cũng giống như thị trường hàng hoá, khi có nhiều người cùng mua một món hàng nào đó thì giá hàng đó sẽ lên, kéo theo các hàng hóa khác cũng lên. Giá một loại chứng khoán sẽ lên khi có nhiều người cùng mua, và giá sẽ tụt xuống khi có nhiều người cùng bán. Mua cổ phiếu được chia lợi nhuận. Thông thường cứ 6 tháng một lần, công ty lại tiến hành trả cổ tức. Đây là khoản thu nhập định kỳ của Cổ phiếu. Mức chi trả cổ tức căn cứ vào tình hình hoạt động và lợi nhuận của công ty trong kỳ cũng như các chính sách phát triển của công ty ØLợi ích của việc mua cổ phiếu - Nhà đầu tư nào nếu nắm vững được Quyền mua cổ phiếu sẽ có những thuận lợi lớn trong toàn bộ quá trình đầu tư. Họ có thể chủ động hơn trong các hoạt động của mình trên thị trường chứng khoán. Quyền mua cổ phiếu cho phép người nắm giữ có quyền (nhưng không phải là nghĩa vụ) được mua một số lượng cổ phiếu xác định trước với một giá đã xác định trước và thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu đó trên thị trường. - Quyền mua được dành cho các cổ đông của tổ chức phát hành muốn phát hành bổ sung cổ phiếu. Thông thường, cứ ứng với một cổ phiếu đang nắm giữ, cổ đông sẽ có được một quyền mua tương ứng. Quyền mua có giá trị tách biệt và có thể được giao dịch trên thị trường thứ cấp trong khoảng thời gian trước khi quyền mua được thực hiện. Chỉ những người đang nắm quyền mua mới mua được cổ phiếu phát hành bổ xung với giá thấp hơn giá thị trường, những người không giữ quyền mua thì hoặc không thể mua được cổ phiếu đó hoặc phải mua cổ phiếu đó với giá hiện hành trên thị trường. Quyền mua mà công ty đưa ra cho các cổ đông là đặc quyền ngắn hạn (thông thường từ 30 - 45 ngày) và chỉ được dành cho mỗi cổ phiếu thường mà cổ đông sở hữu. - Quyền mua cổ phiếu được giao dịch trên thị trường trong thời hạn hiệu lực của cổ phiếu đó và những cổ đông không có ý định thực hiện quyền mua có thể tách quyền mua để bán riêng. Số quyền mua cần có để mua 1 cổ phiếu mới sẽ được căn cứ vào số lượng cổ phiếu hiện hành và số lượng cổ phiếu mới được chào bán. Ví dụ, Công ty A có 5 triệu cổ phiếu đang lưu hành và muốn phát hành thêm 1 triệu cổ phiếu nữa, khi đó mỗi một cổ phiếu hiện hữu sẽ được trao 1 quyền, như vậy sẽ có 5 triệu quyền mua được phát hành. Những quyền này chỉ mang đến cho cổ đông 1 triệu cổ phiếu mới, vì vậy 5 triệu quyền chia cho 1 triệu cổ phiếu mới, nghĩa là cứ có 5 quyền mua sẽ được mua 1 cổ phiếu mới. Ø Thực hiện quyền mua như thế nào? Khi nhận được thông báo phân phối quyền mua và chứng nhận quyền mua từ tổ chức phát hành, cổ đông nhận quyền mua có thể thực hiện theo một trong ba cách sau: 1. Thực hiện quyền mua: điền vào mẫu đăng ký mua CP mới và gửi kèm chứng nhận quyền mua cùng với tiền mua CP đến đại lý bảo lãnh phát hành CP mới (trường hợp tổ chức phát hành có đại lý bảo lãnh phát hành CP) hoặc đến CTCK, nơi nhà đầu tư có tài khoản giao dịch (trường hợp chứng khoán niêm yết). 2. Bán quyền mua: vì chứng chỉ quyền mua là chứng khoán giao dịch được, nên cổ đông có thể bán quyền mua trên thị trường thứ cấp và thu lãi từ giá thị trường (mặc dù bằng cách bán quyền, cổ đông đã từ bỏ lợi nhuận tiềm năng có thể có từ việc thực hiện quyền và sở hữu CP). 3. Không thực hiện quyền mua: cổ đông có thể không thực hiện quyền mua cho tới khi quyền mua hết hiệu lực và họ cũng bị mất nhiều quyền lợi do bị giảm tỷ lệ sở hữu trong công ty. Ø Thủ tục thực hiện quyền mua. 1. Trường hợp phân bổ quyền mua cho cổ đông hiện hữu: Khi quyết định phát hành bổ sung cổ phiếu mới, Ban giám đốc phải thông báo cho Uỷ ban chứng khoán và kèm theo lịch trình phát hành và bản tóm tắt nội dung quyết định của Ban giám đốc, hồ sơ đăng ký phát hành bổ sung... Sau khi được UBCK chấp thuận, Ban giám đốc sẽ thông báo việc phát hành cổ phiếu bổ sung và thời hạn đăng ký mua cho các cổ đông. 2. Trường hợp phân bổ quyền mua cho bên thứ ba: Cũng giống như trường hợp trên nhưng đơn giản hơn nhiều. Cụ thể là không cần đệ trình hồ sơ đăng ký phát hành bổ sung và báo cáo sau phát hành cho UBCK, không cần chốt sổ cổ đông. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của các cổ đông hiện hữu, cổ phiếu bổ sung thường được phát hành với giá cao hơn giá thị trường hiện hành của cổ phiếu đó. Đại lý bảo lãnh phát hành cổ phiếu mới bổ xung cũng có thể đồng thời làm luôn công việc trợ giúp thực hiện quyền mua, tức là giúp tổ chức phát hành lưu giữ danh sách người sở hữu quyền mua và khi quyền mua được bán thì đại lý bảo lãnh giúp ghi lại tên chủ sở hữu mới của quyền mua. Phí dịch vụ của bên bảo lãnh phát hành sẽ do 2 bên thỏa thuận với nhau, thường thì bên bảo lãnh sẽ nhận được khoảng 3% trên tổng giá trị số cổ phiếu phát hành bổ sung . Ngoài ra, nếu lượng cổ phiếu không bán hết thì bên bảo lãnh phát hành sẽ phải mua lại tất cả số cổ phiếu đó nhưng với một mức giá thỏa thuận trước, thường là khoảng 97% của giá cổ phiếu chào bán. ØGiá trị của quyền mua . Từ lúc quyền mua cổ phiếu được công bố cho đến khi được phát hành thì cổ phiếu đó chỉ có giá trị trên lý thuyết. Giá trị này là số thu được của nhà đầu tư khi thực hiện quyền mua cổ phiếu bổ sung với giá thấp hơn giá thị trường. Ví dụ sau giúp xác định được giá trị quyền mua như thế nào: Công ty A chào bán quyền mua cho cổ đông, giá thị trường cổ phiếu A là 40 USD. Theo quy định quyền mua, cứ ứng với mỗi 5 quyền mua (ứng với 5 cổ phiếu hiện có) sẽ được mua 1 cổ phiếu mới với giá 25 USD. Khi đó, để có 5 quyền mua, nhà đầu tư phải mua 5 cổ phiếu với giá 5 x 40 USD = 200 USD. Với 5 quyền mua vừa có được, nhà đầu tư sẽ mua được 1 cổ phiếu mới với giá 25 USD. như vậy, nhà đầu tư có tất cả 6 cổ phiếu (6 cổ phiếu này đều không còn quyền mua kèm theo) với tổng số tiền bỏ ra là 225 USD. như vậy, giá mới của mỗi cổ phiếu là 225 USD/6 = 37,5 USD. Khi đó, giá 1 quyền mua là (40 USD - 37,5 USD) = 2,5 USD. ØNgày giao dịch cổ phiếu không có quyền mua kèm theo. Trong ngày giao dịch không có quyền mua, giá cổ phiếu sẽ rớt xuống một mức giá trị chính bằng giá trị của quyền mua. Tại nhiều nước, nếu tổ chức phát hành có phát hành bổ sung cổ phiếu mới thì giá cổ phiếu trên thị trường sẽ được điều chỉnh ngay theo mức giá mới của cổ phiếu (cổ đông hiện hữu vẫn không bị thiệt vì phần giá trị cổ phiếu cũ mất đi cũng chính bằng giá trị của quyền mua mà họ đã nhận được trước đó). Trường hợp có một số cổ phiếu không còn quyền (do cổ đông nắm giữ cổ phiếu đó đã tách quyền mua ra để bán riêng trên thị trường) thì số cổ phiếu này cũng vẫn được giao dịch bình thường trên thị trường, nhưng sau đó khi thực hiện thủ tục thanh toán bù trừ thì bộ phận thanh toán bù trừ chứng khoán sẽ trừ lại của người bán cổ phiếu đó một khoản tiền đúng bằng giá trị của quyền mua mà họ đã tách ra để bán riêng trên thị trường chứng khoán. XII. Ưu và nhược điểm hiện nay của các công ty chứng khoán trong việc phát hành cổ phiếu Ưu điểm: - Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư:TTCK tạo ra cơ hội thuận tiện khuyến khích mọi người dân tiết kiệm và biết cách sử dụng tiền tiết kiệm một cách tích cực mang lại hiệu quả qua việc đầu tư vào các loại chứng khoán. Khả năng sinh lời của các loại CK gây ra ý muốn tiết kiệm để đưa tiền vào đầu tư. Mỗi người trong xã hội chỉ có một số tiền tiết kiệm bé nhỏ, nhưng tổng số tiền tiết kiệm của cả xã hội sẽ to lớn hơn bất cứ tài sản của cá nhân nào. - Công cụ đảm bảo thanh khỏan cho sổ tiết kiệm phục vụ đầu tư dài hạn: Vai trị của TTCK bảo đảm cho việc nhanh chĩng chuyển tiền mặt của các chứng khoán có giá. Đây chính là yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư đến với TTCK, với một TTCK hoạt động càng hữu hiệu thì tính thanh khỏan càng cao. - Công cụ đo lường giá trị các tích sản của doanh nghiệp: Những thông tin doanh nghiệp cung cấp cho các nhà đầu tư trên TTCK qua các bảng phân tích đánh giá năng lực sản xuất của doanh nghiệp, triển vọng của doanh nghiệp trên thị trường, khả năng sinh lợi của hoạt động sản xuất kinh doanh, xu thế phát triển của doanh nghiệp trong thời kỳ tương lai từ 3 đến 5 năm đã phần nào lượng giá được tích sản của doanh nghiệp khách quan và khoa học. Mặt khác, với tính chất đặc biệt nhạy bén của TTCK, sự lên xuống gía cả chứng kháon trên thị trường cũng nói lên sự biến động của giá trị doanh nghiệp tại bất kỳ thời điểm nào - Thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả: với nguyên tắc hoạt động chủ đạo trên TTCK là công khai, công bằng và trung thực, mọi thông tin về doanh nghiệp đều được công chứng kiểm tra đánh giá. TTCK vừa tạo điều kiện vừa bắt buộc các doanh nghiệp không những phải hoạt động sản xuất kinh doanh đúng pháp luật mà còn phải hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả - Vai trị chống lạm phát của TTCK: TTCK còn làm giảm áp lực lạm phát, Ngân hàng TW với vai trị điều hịa hệ thống tiền tệ sẽ tung ra nhiều trái phiếu kho bạc bán trên TTCK với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền lưu hành, nhờ đó số tiền sẽ giảm bớt và áp lực lạm phát cũng giảm đi. - Hỗ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển: có thể nói, hai loại định chế tài chính này đi đơi với nhau như hình với bĩng. Thật vậy, TTCK là điều kiện không thể thiếu trong việc đưa cổ phiếu ra công chứng giúp cho quá trình phát hành và lưu hành cổ phiếu đạt hiệu quả. Nhược điểm - Thị trường chứng khoán luôn chứa đựng yếu tố đầu cơ. Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người đầu tư. Họ có thể mua chứng khoán với hy vọng là giá chứng khoán sẽ tăng lên trong tương lai, và qua đó thu đ ược lợi nhuận. Yếu tố đầu c ơ dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá giả tạo. Sự kiện này càng dễ xảy ra khi có nhiều người cùng cấu kết với nhau để đồng thời mua vào hay bán ra một loại chứng khoán nào đó, dẫn đến sự khan hiếm hay dư thừa chứng khoán một cách giả tạo trên thị trường, làm cho giá chứng khoán có thể tăng lên hay giảm xuống một cách đột biến, gây tác động xấu đến thị trường. - Hoạt động giao dịch nội gián thường xảy ra trên thị trường chứng khoán. Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm bắt những thông tin nội bộ của doanh nghiệp, cũng như các thông tin mật không được hoặc chưa được phép công bố và sử dụng các thông tin đó cho giao d ịch chứng khoán nhằm thu lợi bất chính gọi là giao dịch nội gián. Các giao dịch nội gián được xem là phi đạo đức về mặt thương mại, vì người có nguồn tin nội gián sẽ có lợi thế trong đầu tư so với các nhà đầu tư khác để thu lợi bất chính cho riêng mình. Điều này sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư. Như vậy sẽ tác động tiêu cực tới tích luỹ và đầu tư. - Thị trường chứng khoán hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo. Song khi có tin đồn không chính xác hoặc thông tin lệch lạc về hoạt động của một doanh nghiệp, điều n ày gây tác động đến tâm lý của những người đầu tư, dẫn tới thay đổi xu hướng đầu tư, ảnh hưởng đến thị giá chứng khoán của doanh nghiệp trên thị trường và gây thiệt hại cho đại đa số người đầu tư. Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán được thực hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của thị trường chứng khoán thực sự phát huy hay bị hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia trên thị trường XIII. KHÓ KHĂN THÁCH THỨC CỦA THỰC TRẠNG HIỆN NAY Ở VN a/ Bất ổn từ các báo cáo tài chính “Hàng loạt doanh nghiệp niêm yết đang giải trình về chênh lệch số liệu trong Báo cáo tài chính năm 2009 sau khi có kiểm toán làm các nhà đầu tư hoang mang vì không biết tin vào đâu”èHiện tượng phổ biến này hiện nay xuất phát từ việc “trích lập dự phòng” mới ban hành theo thông tư số 13/2006 tuy nhiên việc quy định chưa rõ ràng khiến các doanh nghiệp hiểu và vận dụng thông tư theo cách riêng tùy theo mục đích của từng đối tượng. b/ Nhiều chiêu làm giá chứng khoán Nhiều đối tượng muốn bán cổ phiếu với giá cao đã đặt nhiều lệnh mua cổ phiếu với khối lượng lớn với giá trần hoặc sát trần trong nhiều phiên liên tiếpè điều này tạo nên cầu ảo khiến giá tăng trần liên tục mục đích là thu hút các nhà đầu tư khác tham gia mua theo, khi giá đạt đến ngưỡng kỳ vọng các đối tượng này sẽ thu lợi. Đây chỉ là thủ thuật làm giá “kinh điển” trên thị trường, muốn gom cổ phiếu thì làm giá xuống, muốn bán cổ phiếu thì làm giá lên. Đặc biệt các cổ phiếu sắp có thông tin tốt sẽ có nhiều cơ hội làm bơm đẩy thành công hơn. Để thực hiện việc này, nhóm nhà đầu tư sẽ áp dụng chiến thuật “rải đinh” hay che giá trên bảng điện tử. Vì bảng giá chỉ thể hiện ba mức giá từ giá trần xuống nhưng mỗi lệnh chỉ mua số lượng không lớn, khi đó, toàn bộ các lệnh mua khác bị che khuất đi và nhà đấu tư không thể biết số lượng mua đó là bao nhiêu, nghĩa là không biết cầu thưc sự của cổ phiếu đó như thế nào. Việc “che giá” sẽ được thực hiện theo kiểu nhà đầu tư bán ra tới tấp ở mức giá thấp ngay từ khi thị trường mở cửa nhằm tạo tâm lý bất an cho những nhà đầu tư khác để họ bán ra với giá thấp hơn. Trong khi đó cũng chính nhà đầu tư này sẽ âm thầm đặt lệnh mua gom lại ở giá thấp.Thủ thuật này nếu được thực hiện vào những phút cuối cùng của khớp lệnh định kỳ trên sàn sẽ mang lai hiệu quả cao cho đối tượng. c/Lệnh ma Hầu hết các công ty chứng khoán hiện nay đều lơi lỏng trong việc để nhân viên môi giới nhận lệnh khách hàng qua điện thoại di động mà không có băng ghi âm nhất là “ưu ái” đối với khách hàng VIP mua trả chậm. Đây là một hình thức cho sử dụng đòn bẩy tài chính theo kiểu T+ và các khách hàng VIP nhanh chóng thu được một khoảng lợi nhuận khổnh lồ mà không cần có tiền trong tài khoản. Khi sử dụng dịch vụ mua hàng trả chậm này, thông thường khách hàng VIP phải gọi điện thoại thẳng cho nhân viên môi giới của mình để được phép đặt lệnh giao dịch( vì các hình thức khác như giao dịch qua internet, gọi số điện thoại bàn chung của công ty chứng khoán để đặt lệnh.v.v…. thì tài khoản khách hàng phải có đủ số tiền để mua theo khối lượng cổ phiếu yêu cầu)èĐây chính là rủi ro đến cho cả hai phía công ty chứng khoán và nhà đầu tư trong trường hợp nếu giá cổ phiếu giảm mạnh và nhà đầu tư không đủ tiền trả hoặc nhân viên môi giới đưa ra khối lương giao dịch, giá mua/bán cổ phiếu không đúng ý nhà đầu tư….Ngoài ra hiện nay cũng có không ít nhà đầu tư giao tài khoản của mình cho nhân viên môi giới tự quyết định mua bán. â Chính những ưu nhược điểm trên đã làm cho thị trường chứng khoán luôn gặp vấn đề rắc rối, thông tin không chính xác gây ảnh hường đến nhiều đối tượng trong đó có công ty chứng khoán XIV. Kiến nghị Thị trường chứng khoán sẽ ngày càng phát triển, sẽ có tác dụng tốt cho nền kinh tế nhưng rất cần sự can thiệp, hướng dẫn, quản lý nhà nước thông qua Luật Chứng khoán, thông qua việc kiểm tra kiểm soát các cơ quan tài chính trung gian, yêu cầu thông tin trung thực, kịp thời, đầy đủ từ các công ty sản xuất phát hành cổ phiếu. Việc tăng cường quản lý sẽ tránh được các đổ vỡ dây chuyền và làm cho thị trường vận hành đúng hướng có tác dụng tích cực. Người tham gia thị trường chứng khoán, mua hoặc bán cổ phiếu cần am hiểu, tìm hiểu cặn kẽ luật pháp; có tiền đưa vào đầu tư là rất tốt nhưng mua đi, bán lại cổ phiếu chỉ thuần túy kiếm lời là rất mạo hiểm. Chớ nên đem tiền thật đi mua ảo vọng. Là người lao động sản xuất cần mua cổ phần để tăng vốn cho đơn vị mình, là người kinh doanh cổ phiếu phải tuân thủ luật pháp không được lừa dối, không được cung cấp thông tin giả. Bạn là người có tiền không nên cất giữ mà nên mua công trái, trái phiếu, gửi tiết kiệm, liên doanh góp vốn vào sản xuất. Nếu dư dật qua thị trường chứng khoán cũng không nên say sưa quá mức. Cái gì cũng có điểm dừng, dừng đúng lúc là khôn ngoan là hiểu biết. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức tài chính, các cơ quan ngôn luận rất nên thông tin đầy đủ, huấn luyện, đào tạo để nhiều tầng lớp nhân dân thông suốt về thị trường mới mẻ này tránh những xáo trộn bất ổn trước khi muộn. Cần thiết bổ sung nhanh những chế tài để quản lý thị trường này chẳng hạn xử lý nghiêm minh những sai phạm, thu thuế thu nhập những người có thu nhập cao từ hoạt động chứng khoán v.v... Yếu tố “tâm lý của nhà đầu tư” có ảnh hưởng rất lớn tới giá cổ phiếu do vậy từng nhà đầu tư cần phải có những phân tích, suy xét của riêng mình trước khi đưa ra quyết định mua hay bán, tránh bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tâm lý trên thị trường.. Sở giao dịch được tổ chức tốt sẽ thật sự là trung tâm thu hút vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế,đồng thời là nơi đảm bảo các hoạt động mua bán chứng khoáng diễn ra an toàn-công bằng và đúng pháp luật,từ đó củng cố niềm tin đối với người đầu tư. Vì vậy sở giao dịch cần được tổ chức tốt và hiện đại. â Tóm lại, các yếu tố kinh tế, phi kinh tế, thị trường luôn ảnh hưởng đến giá cả cổ phiếu luôn được các nhà đầu tư và các công ty quan tâm. Vì vậy, mỗi cá nhân con người phải có nét văn hóa trong cách hành xử, có sự suy luận, phân tích vấn đề một cách logic và chính xác, không bị ảnh hưởng bởi trào lưu,biết nắm bắt cơ hội kịp thời cũng như biết thích ứng với tình hình kinh tế… song song đó phải có một luật pháp chặt chẽ và hoàn chỉnh giúp bảo vệ lợi ích của từng nhà đầu tư, của các công ty phát hành cổ phiếu, giúp cho nền kinh tế phát triễn, mang lại lợi ích cho xã hội một cách công bằng và thiết thật. TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo thanh niên. Đề cương bài giảng môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ - Giảng viên: ThS. Phan Anh Tuấn. www. Google.com www. Saga.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_co_phieu_doanh_nghiep_7538.doc