Đề tài Bàn về việc thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan Bảo hiểm xã hội quận Đống Đa

Tài liệu Đề tài Bàn về việc thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan Bảo hiểm xã hội quận Đống Đa: Lời nói đầu Cùng với những vấn đề thiết yếu của cuộc sống con người là việc làm và thu nhập, thì bảo hiểm xã hội trong bất kỳ một chế độ xã hội nào cũng là một vấn đề luôn luôn được xem xét, bởi vì rủi ro luôn là một vấn đề dễ xảy ra với mọi người. BHXH là chính sách xã hội được nhiều quốc gia coi trọng nhằm đảm bảo về mặt thu nhập cho người lao động khi họ tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. Bảo hiểm xã hội đã trở thành quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động gắn liền với quyền về việc làm và thu nhập. Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ khi mới thành lập nước và nó đã đóng góp to lớn cho sự phát triển của đất nước. Hoạt động của bảo hiểm xã hội ngày càng hiệu quả hơn đặc biệt là sau năm 1995 khi mà quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành độc lập nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Quỹ bảo hiểm xã hội là xương sống của bất kỳ một hệ thống bảo hiểm xã hội nào vì chế độ bảo hiểm xã hội đều nhằm mục đích bảo đảm an toàn về thu nhập cho người lao độn...

doc72 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1007 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Bàn về việc thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan Bảo hiểm xã hội quận Đống Đa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Cùng với những vấn đề thiết yếu của cuộc sống con người là việc làm và thu nhập, thì bảo hiểm xã hội trong bất kỳ một chế độ xã hội nào cũng là một vấn đề luôn luôn được xem xét, bởi vì rủi ro luôn là một vấn đề dễ xảy ra với mọi người. BHXH là chính sách xã hội được nhiều quốc gia coi trọng nhằm đảm bảo về mặt thu nhập cho người lao động khi họ tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. Bảo hiểm xã hội đã trở thành quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động gắn liền với quyền về việc làm và thu nhập. Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ khi mới thành lập nước và nó đã đóng góp to lớn cho sự phát triển của đất nước. Hoạt động của bảo hiểm xã hội ngày càng hiệu quả hơn đặc biệt là sau năm 1995 khi mà quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành độc lập nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Quỹ bảo hiểm xã hội là xương sống của bất kỳ một hệ thống bảo hiểm xã hội nào vì chế độ bảo hiểm xã hội đều nhằm mục đích bảo đảm an toàn về thu nhập cho người lao động, muốn vậy thì cơ quan bảo hiểm xã hội phải có một lượng tiền nhất định. Cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa được thành lập và bắt đầu hoạt động từ tháng 10 năm 1995 cho đến nay đã thu được nhiều thành tự như: phí thu được ngày càng nhiều, chi trả đúng đối tượng ... Tuy nhiên trong quá trình hoạt động vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế như: thu bảo hiểm xã hội vẫn chưa đạt kết quả cao, nhiều đơn vị vẫn còn lợi dụng kẽ hở pháp luật để trốn nộp bảo hiểm xã hội, vẫn tồn tại trục lợi bảo hiểm xã hội ... Điều này đã làm cho hiệu quả hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội còn chưa cao và còn phải nhờ vào Ngân sách Nhà nước. Như vậy, vấn đề thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội có một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của chế độ xã hội Việt Nam cũng như bảo hiểm xã hội các tỉnh, huyện trong cả nước trong đó có bảo hiểm xã hội quận Đống Đa. Do vậy mà em chọn đề tài: “Bàn về việc thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan Baỏ hiểm xã hội quận Đống đa “ Mục đích của đề tài: - Làm rõ thu và chống thất thu bảo hiểm xã hội là gì? - Đánh giá thực trạng công tác thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội quận Đống Đa giai đoạn 1995 – 2001? - Đề xuất ý kiến và giải pháp nhằm nâng cao công tác thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội quận Đống Đa trong thời gian tới Nội dung của chuyên đề bao gồm: Lời nói đầu Chương I: Khái chung về bảo hiểm xã hội và thu quỹ bảo hiểm xã hội Chương II: Thực trạng công tác thu, và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa . Chương III: Một số ý kiến nhằm nâng cao công tác thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa. Kết luận. Chuyên đề này được hoàn thành là nhờ sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo GS- TS Nguyễn cao thường và tập thể cán bộ công nhân viên của cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa. Mặc dù bản thân em đã có nhiều cố gắng nhưng do trình độ còn hạn chế và bảo hiểm xã hội là một vấn đề lớn và quan trọng nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong thầy giáo và các cán bộ trong cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa đóng góp ý kiến để chuyên đề được hoàn chỉnh hơn. Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2001. Sinh viên Lê khánh việt. Chương I khái quát chung về bảo hiểm xã hội và thu quỹ bảo hiểm xã hội I. Khái quát chung về BHXH 1. Khái niệm và sự cần thiết khách quan của BHXH Bảo hiểm xã hội ( BHXH ) ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu Âu. Như vậy, BHXH là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và đến nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. So với các loại hình bảo hiểm khác, đối tượng, chức năng và tính chất của BHXH có những điểm khác biệt do bản chất của nó chi phối. Con người muốn tồn tại và phát triển thì trước hết phải thoả mãn những nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc, ở, đi lại do vậy họ phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiếp. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế không phải lúc nào con người cũng gặp thuận lợi, có thu nhập và điều kiện sống bình thường mà ngoài ra có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập và các điều kiện sinh sống khác. Những trường hợp như ốm đau, tai nạn lao động, mất khả năng lao động do tuổi tác... những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần có người chăm sóc, nuôi dưỡng... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: đi vay, san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi xin hoặc sự cứu trợ của Nhà nước ... Nhưng rõ ràng các cách đó hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn công nhân trở lên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc đảm bảo cho người làm thuê có số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may họ bị tai nạn, ốm đau, thai sản ... Trong thực tế nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi trả một đồng nào, tuy nhiên nhiều khi nó lại xảy ra dồn dập buộc họ phải bỏ ra một lúc một khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ thợ phát sinh. Giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc giới chủ và thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán một cách chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo. Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vậy, "BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội". Qua khái niệm về bảo hiểm xã hội ta có thể thấy được sự cần thiết của BHXH đối với người lao động và xã hội. BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây: - Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập cũng sẽ được hưởng trợ cấp cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế hoạt động của BHXH. - Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ gặp phải biến cố làm giảm hay mất thu nhập. Số lượng những người này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu nhập cao và thu nhập thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm đau phải nghỉ việc... Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. - Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó người lao động luôn yên tâm gắn bó tận tình với công việc và với nơi làm việc. Từ đó họ rất tích cực lao động, sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng xuất lao động cá nhân và kéo theo năng suất lao động xã hội. - Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động... Thông qua BHXH những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế chính trị và xã hội được phát triển, an toàn hơn. 2. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH. BHXH đã xuất hiện từ rất lâu mà mầm mống của nó từ thế kỷ 13 ở Nam Âu khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển. Tuy nhiên, ban đầu BHXH chỉ mang tính chất sơ khai, với phạm vi nhỏ hẹp. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động nghề nghiệp họ đã thành lập nên các loại quỹ tương trợ để giúp nhau.( ở Anh năm ) đã thành lập hội "bằng hữu" để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau hau tai nạn nghề nghiệp). Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, BHXH lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, phát triển rất phong phú, đa dạng và có nhiều thay đổi bổ sung. BHXH ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là một trong các trung tâm chú ý của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Theo Công ước Giơnever - 1952 của Tổ chức Lao động Quốc tế(TLO) đã xác định BHXH gồm 9 chế độ sau: - Chăm sóc y tế - Trợ cấp ốm đau - Trợ cấp thất nghiệp - Trợ cấp tuổi già - Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp - Trợ cấp gia đình - Trợ cấp thai sản - Trợ cấp khi tàn phế - Trợ cấp cho người còn sống( trợ cấp mất người nuôi dưỡng) Nhưng trên thực tế không phải nước nào cũng thực hiện được toàn bộ 9 chế độ trên và không phải nước nào cũng có phạm vi, đối tượng nguồn hình thành quỹ giống nhau. Có nghĩa là việc thực hiện BHXH ở những nước khác nhau thì khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước và hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển mà mỗi nước có những hình thức áp dụng khác nhau cho phù hợp. Trên thế giới có 35 nước thực hiện được 9 chế, 37 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 ( trợ cấp thất nghiệp), 67 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 và chế độ thứ sáu ( trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình). TạiViệt Nam dưới chính quyền Pháp thuộc, chúng đã thực hiện BHXH đối với công chức và quân nhân Việt Nam hưởng lương phục vụ trong bộ máy hành chính và quân đội Pháp ở Đông Dương khi họ ốm đau, tuổi già hoặc chết. Còn đối với công nhân Việt Nam việc thực hiện BHXH hết sức khó khăn, gần như chính quyền Pháp không công nhận một quyền lợi nào về BHXH. Công nhân Việt Nam chết, ốm đau, tai nạn trong các nhà máy, đồn điền cao su không được mai táng, chữa bệnh, phụ nữ sinh đẻ vẫn phải làm việc, trẻ em sinh ra yếu ớt không được chăm sóc. Từ khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được thành lập. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH.Sắc lệnh 54SL ngày 14\6\1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức. Hai sắc lệnh này quy định công chức phải đóng bảo hiểm và trong quỹ hưu bổng có phần đóng thêm của nhà nước . Sắc lệnh 76/SL ngày 20\5\1950 ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí , thai sản và chăm sóc y tế, tai nạn và tiền tuất đối với công chức. Trong khu vực sản xuất lúc này chưa thành lập quỹ BHXH , Nhưng sắc lệnh 29\SL ngày 12\3\1947 và sắc lệnh 77/SL ngày 22\5\1950 đã ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí . tai nạn lao động , ốm đau , thai sản , tử tuất đối với công nhân. Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc , thực hiện hiến pháp năm 1949 Hội đồng chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân vieen chức nhà nước kèm theo nghị định 218/CP ra ngày 27\12\1961 của hội đồng chính phủ quy điịnh như sau: Chế độ trợ cấp BHXH gồm 6 loại : Trợ cấp ốm đau . Trợ cấp Thai sản. Trợ cấp Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Trợ cấp hưư trí . Trợ cáp mất sức lao động Trợ cấpTử tuất. Do môthành phần kinh tế thời kỳ dài bao cấp , nhìn chung 6 chế độ này đã đáp ứng được yêu cầu của người lao động và của xã hội.Gop phần vào việc thực hiện nhiều chính sáchxã hội của đảng và nhà nước.Tuy nhiên khi chuyển sang kinh tế thị trường điều kiện kinh tế của nhà nước đã thay đổi vì vậy nghị định43\CP ra đời ngày 22/6/1993 và nghị định 12\ CP ngày 26\1\1995 đều thống nhất một quan điểm là chỉ thực hiện 5 chế độ và bỏ trợ cáp mất sức lao động (MC) 3. Tính chất của bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội gắn liền với người đời sống của người lao động, vì vậy nó có một số tính chất cơ bản sau: - Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội. Trong quá trình lao động sản xuất người lao động có thể gặp phải nhiều biến cố, rủi ro khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém như: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng và hợp đồng lao động luôn phải được đặt ra để thay thế v.v... Sản xuất càng phát triển, những rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng lao động càng nhiều và trở nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ – thợ ngày càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua bảo hiểm xã hội. Và như vậy, bảo hiểm xã hội ra đời hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước. - Bảo hiểm có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của bảo hiểm xã hội. Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ bảo hiểm xã hội. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian đến mức trợ cấp bảo hiểm xã hội theo từng chế độ cho người lao động v.v... - Bảo hiểm vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội , đồng thời còn có tính dịch vụ. Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ, quỹ bảo hiểm xã hội muốn được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải được tính toán rất cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại của tập hợp người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu dùng để trợ cấp cho người lao động theo các điều kiện của bảo hiểm xã hội. Thực chất, phần đóng góp của mỗi bên người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận được là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với người sử dụng lao động việc tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội là để bảo hiểm cho người lao động mà mình sử dụng. Xét dưới góc độ kinh tế, họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải cho những người lao động bị mất hoặc giảm khả năng lao động. Với Nhà nước, bảo hiểm xã hội góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách, đồng thời quỹ bảo hiểm xã hội còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nên kinh tế quốc dân. BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống đảm bảo xã hội vì vậy tính xã hội của nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động. Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính chấ dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế – xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính xã hội hoá của BHXH cũng ngày càng cao. II: THU QUỹ BHXH Và VấN Đề CHốNG THấT THU. 1. Quỹ bảo hiểm xã hội a. Khi niệm về quỹ bảo hiểm xã hội Quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên tham gia bảo hiểm: người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước nhằm mục đích chi trả cho các chế độ BHXH và đảm bảo hoạt động của hệ thống BHXH. Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước. b. Đặc điểm - Là một quỹ tiền tệ tập trung, giữ vị trí là khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Là tổ chức tài chính nằm giao thoa giữa ngân sách Nhà nước với các tổ chức tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp và sau đó là tài chính dân cư. - Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả. Tính không hoàn trả của quỹ BHXH được áp dụng với những người đã tham gia BHXH trong suốt qúa trình lao động nhưng không ốm đau, tai nạn lao động, sinh con. - Sự ra đời, tồn tại và phát triển của BHXH gắn liền với chức năng vốn có của Nhà nước là vì quyền lợi của người lao động chứ không vì mục đích kiếm lời, đồng thời nó cũng phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Khi nền kinh tế càng phát triển thì càng có nhiều chế độ BHXH được thực hiện, và bản thân từng chế độ cũng được áp dụng rộng rãi hơn, nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâng cao. Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển thì mức thu nhập của người lao động càng cao và họ càng có khả năng tham gia vào nhiều chế độ BHXH. - Một mặt, quỹ BHXH mang tính tiêu dùng được thể hiện thông qua mục tiêu, mục đích của nó là chi trả cho các chế độ BHXH. Nhưng mặt khác nó lại mang tính dự trữ vì thông thường, khi người lao động đóng góp vào quỹ BHXH thì họ không được quỹ này chi trả ngay khi gặp rủi ro mà phải có đủ thời gian dự bị. - Hoạt động của quỹ BHXH đặt ra yêu cầu và hình thành tất yếu chế độ tiết kiệm bắt buộc của xã hội và người lao động dành cho ốm đau, hưu trí. Đó cũng là quá trình phân phối lại thu nhập của cá nhân và cộng đồng. c. Nguồn quỹ bảo hiểm xã hội Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây: - Người sử dụng lao động đóng góp. - Người lao động đóng góp. - Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm. -Người tự nguyện tham gia BHXH đóng. - Các nguồn thu khác( như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi ...). Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ – thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ. Mối quan hệ chủ – thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của Nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình thức khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau. Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí Quản lý BHXH v.v... Bảng 1: Mức đóng BHXH ở một số nước trên thế giới Tên nước Chính phủ Tỷ lệ đóng góp của người lao động so với tiền lương (%) Tỷ lệ đóng góp của người sử dụng lao động so với quỹ lương(%) CHLB Đức Bù thiếu 14,8 – 18,8 16,3 – 22,6 CH Pháp Bù thiếu 11,82 19,68 Inđônêxia Bù thiếu 3,0 6,5 Philipin Bù thiếu 2,85 – 9,25 6,85 – 8,05 Malaixia Chi toàn bộ chế độ ốm đau,thai sản 9,5 12,75 (Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới) ở nước ta, từ năm 1962 đến năm 1987, quỹ BHXH chỉ được hình thành từ hai nguồn: các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của xí nghiệp, phần còn lại do ngân sách Nhà nước đài thọ. Thực chất là không tồn tại quỹ BHXH độc lập. Từ năm1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp 15% quỹ lương của đơn vị. Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngay 22/06/1993 và Điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995, trong các văn bản này đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây: - Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. - Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất. - Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. - Các nguồn khác. Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn cứ tính toán khác nhau: - Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở xác định mức phí đóng. - Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó mới xác định mức hưởng. - Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định được mức phí phải đóng. - Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc : cân bằng thu chi , lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất. Phí BHXH được xác định theo công thức: P= f1+f2+f3 Trong đó: P: Phí BHXH f1: phí thuần tuý trợ cấp BHXH f2: phí dự phòng f3: phí quản lý Phí thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngăn hạn và dài hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn( thường là 1 năm) như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ ... Vì vậy, số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với chế độ BHXH dài hạn như: hưu trí , trợ cấp mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp nặng v.v... quá trình đóng và quá trình hưởng BHXH tương đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên sự cân bằng giữa đóng góp và hưởng BHXH phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế, ngoài phí thuần tuý phải có phí dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn. d. Mục đích sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội Quỹ bảo hiểm xã hội bao gồm 3 bộ phận: phí thuần, phí quản lý và phí dự trữ. Như vậy, quỹ bảo hiểm xã hội được sử dụng cho 3 mục đích: chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội, chi cho việc quản lý hệ thống bảo hiểm xã hội và chi trích lập quỹ dự phòng cho những trường hợp tổn thất lớn. Trong cơ cấu chi bảo hiểm xã hội thì chi cho các chế độ bảo hiểm xã hội là rất lớn và chiếm đa phần lớn nguồn quỹ này vì đây là mục tiêu cơ bản nhất của bảo hiểm xã hội: đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động, đảm bảo ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị, tổ chức. Thực tế cho thấy việc chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội diễn ra thường xuyên và liên tục với số lượng lớn trên phạm vi rất rộng. Một trong những khoản chi thường xuyên là chi lương hưu cho những người đã nghỉ công tác; và chi trả trợ cấp hàng tháng cho thân nhân của người lao động khi họ đã qua đời. Nguồn chi thứ hai trong bảo hiểm xã hội là chi cho việc quản lý nghiệp vụ bảo hiểm xã hội. Đây là nguồn chi không lớn trong cơ cấu chi bảo hiểm xã hội nhưng nó cũng là một khoản chi ngày càng lớn. Bởi vì các chế độ bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng để đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của người lao động, do đó đội ngũ cán bộ phục vụ bảo hiểm xã hội ngày càng nhiều dẫn đến chi lương cán bộ ngày càng lớn. Mặt khác, xã hội càng phát triển thì nhu cầu về điều kiện làm việc ngày càng tăng. Vì vậy, chi phí cho việc xây dựng cơ bản , mua sắm máy móc, trang thiết bị văn phòng ngày càng tăng lên. Mục đích thứ ba của quỹ bảo hiểm xã hội là chi dự trữ. Thực chất đây là quá trình tích luỹ trong quá trình sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội. Định kỳ hàng tháng (quý, năm) cơ quan bảo hiểm xã hội tiến hành giữ lại một phần quỹ của mình để thành lập nên quỹ dự trữ bảo hiểm xã hội. Quỹ này chỉ được sử dụng trong trường hợp nhu cầu chi trả lớn dẫn đến thâm hụt quỹ bảo hiểm xã hội hoặc trong lúc đồng tiền mất giá. 2.Nội dung của công tác thu a. Đối tượng đóng bảo hiểm xã hội Theo quy định về quản lý thu BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định số 177/BHXH ngày 30 tháng 12 năm 1996 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam ) đối tượng thu BHXH là người sử dụng lao động và người lao động (kể cả người lao động được cử đi học, đi thực tập, điều dưỡng, công tác ở trong, ngoài nước vẫn thuộc danh sách trả lương hoặc tiền công của cơ quan và đơn vị) làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức sau đây: - Các doanh nghiệp Nhà nước. - Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên. - Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực chế xuất, khu công nghiệp. - Các tổ chức kinh doanh, dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, Đoàn thể. - Các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức Quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia có quy định khác. - Các đơn vị sự nghiệp gán thu bù chi, đơn vị sự nghiệp hưởng nguồn thu bằng viện trợ nước ngoài( kể cả viện trợ của tổ chức phi Chính phủ) để trả lương cho công nhân viên chức trong đơn vị. - Các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, Đoàn thể, hội quần chúng, dân cử, từ Trung ương đến cấp huyện. Ngoài ra, còn chú ý một số trường hợp sau: - Cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang được cử sang làm việc tại các doanh nghiệp, liên kết, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hưởng lương của tổ chức này cũng thuộc đối tượng nộp bảo hiểm xã hội. - Người lao động đã được đăng ký hợp đồng lao động nhưng trong thời gian đầu đang được học nghề, tập nghề, thử việc để sau đó làm việc cho người sử dụng lao động thì người lao động và người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội ngay từ khi ký hợp đồng lao động. + Trường hợp các cơ quan, đơn vị, tổ kinh tế bị giải thể, sáp nhập, phá sản, chuyển quyền sở hữu, cổ phần hoá đều phải đóng đủ BHXH theo các quy định hiện hành của Nhà nước. + Trường hợp một người lao động ký kết hợp đồng lao động ở nhiều nơi với nhiều chủ sử dụng lao động khác nhau thì chỉ đóng BHXH ở một nơi ; nơi nào quản lý lao động chính thì phải đóng BHXH và đăng ký cấp sổ BHXH cho người đó; hoặc do người lao động chọn đơn vị đóng BHXH cho mình thông qua hợp đồng lao động khi ký kết. + Cán bộ công tác tại phường, xã hưởng sinh hoạt phí. - Các đối tượng chưa hoặc không thu BHXH : + Những người lao động làm việc theo hình thức hợp đồng theo vụ, việc có thời hạn dưới 3 tháng sau đó kết thúc không ký lại hợp đồng hoặc làm những công việc có tính chất tạm thời khác đã được tính gộp tiền BHXH trong tiền lương, tiền công. + Lao động tự do, người sử dụng lao động không quản lý về mặt nhân sự, điều kiện và phương tiện làm việc tự nguyện tham gia. + Người lao động đang nghỉ hưởng chế độ BHXH như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động. + Người lao động đã nghỉ hưu, mất sức lao động, nghỉ hưởng trợ cấp 1 lần đã quá độ tuổi lao động nhưng vẫn tiếp tục hợp đồng lao động. b. Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội Tiền lương là cấp bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp( phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp thâm niên, phụ cấp tái cử, hệ số bảo lưu nếu có) của từng người. Các khoản phụ cấp ngoài quy định trên không thuộc diện phải đóng BHXH và cũng không được đóng để tính vào tiền lương hưởng BHXH. Đối với đơn vị sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thấp, tiền lương tháng trả cho người lao động không đủ mức lương cấp bậc, chức vụ của từng người để đăng ký đóng BHXH thì được đóng BHXH theo mức tiền lương đơn vị thực trả cho người lao động, nhưng mức đóng cho từng người không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Mức lương tối thiểu theo Thông tư 06 hướng dẫn thực hiện Nghị định 25, 26 của Chính phủ từ ngày 01 tháng 4 năm 1993 đến 30 tháng 12 năm 1996 là 120.000 đồng/tháng và mức lương tối thiểu được quy định tại Nghị định 06/CP ngày 21 tháng 01 năm1997 và Nghị định 28/CP ngày 28 tháng 3 năm 1997 của Chính phủ là 144.000 đồng/ tháng. Nghị định 175/CP ngày 15 tháng 12 năm 1999 của Chính phủ thì tiền lương tối thiểu được quy định tại Nghị định này là 180.000 đồng/ tháng và đến Nghị định 77/2000/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu là 210.000 đồng/ tháng. Mức lương tối thiểu của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, các văn phòng đại diện kinh tế thương mại nước ngoài hoạt động tại Việt Nam có thuê lao động Việt Nam tiền lương tính băng đô la Mỹ(USD) được quy định trong quyết định số 385/LĐ- TBXH ngày 01 tháng 04 năm 1996 của Bộ lao động - Thương binh xã hội áp dụng cho khu vực Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là 45 USD Đối với người lao động đi làm việc có thời gian ở nước ngoài theo quy định tại Thông tư số 05/LB-TBXH ngày 16 tháng 01 năm 1996 của Liên Bộ Tài chính - Lao động Thương binh Xã hội kể từ tháng 01 năm 1996 tổ chức hợp tác đưa người đi làm việc ở nước ngoài hàng tháng phải đóng 15% của 2 lần mức lương tối thiểu do Chính phủ Việt Nam quy định trong từng thời kỳ. Theo Thông tư 17/TT - LĐTBXH ngày 24 tháng 01 năm 1997 thì đối với người lao động đã có quá trình tham gia đóng bảo hiểm xã hội thì mức đóng bảo hiểm xã hội trước khi ra nước ngoài làm việc bao gồm: Tiền lương cấp bậc, chức vụ, hợp đồng, hệ số chênh lệch bảo lưu và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ( nếu có). Đối với lao động tham gia bắt buộc ở trong nước hoặc người đã có thời gian làm việc và đóng bảo hiểm xã hội ở trong nước nhưng thời gian làm việc và đóng bảo hiểm xã hội ở trong nước đã được giải quyết chế độ ở thì mức đóng bảo hiểm xã hội hàng tháng bằng 15% của 2 lần mức lương tối thiểu của công nhân viên chức Nhà nước( hiện nay là 210.000 đồng/tháng). c. Cách xác định tổng quỹ tiền lương. Cộng tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của từng người lại sẽ được tổng quỹ lương của đơn vị làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy, muốn biết tổng quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của cả đơn vị, nhất thiết phải lập danh sách lao động thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội gồm các tiêu thức sau: Số TT Họ và tên Năm sinh Nghề nghiệp cấp bậc, chức vụ Hệ số bậc lương Mức lương Các khoản phụ cấp Tiền lương làm căn cứ đóng BHXH Cách xác định mức đóng bảo hiểm xã hội của từng người và của cả đơn vị khi đã có danh sách lao động và tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, ta chỉ việc lấy tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của từng người nhân với 20%( tức 0.2) sẽ được mức đóng của mỗi người. Mức đóng của cả đơn vị sẽ bằng tổng quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội nhân với 20% ( tức 0.2) hoặc bằng số tiền đóng bảo hiểm xã hội của từng người cộng lại. d. Thời gian và phương thức đóng bảo hiểm xã hội. Theo quy định ngay sau ngày trả lương hàng tháng nếu trả lương tháng 2 kỳ thì đóng bảo hiểm xã hội vào sau ngày trả lương kỳ thứ 2 trong tháng và có thể đóng bảo hiểm xã hội theo quý. Nhưng phải đóng vào tháng giữa quý. (Ví dụ: Quý I đóng vào tháng 2, quý II đóng vào tháng 5, quý III đóng vào tháng 8, quý IV đóng vào tháng 11). Nếu đóng chậm tháng nào phải nộp lãi suất tiền gửi Ngân hàng ở thời điểm nộp chậm( quy định tại Thông tư số 58/TC-HCSN ngày 24 tháng 5 năm 1995 của Bộ Tài chính). Và tại Điều 4 phần III Thông tư số 85-1998/TT-BTC ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Tài chính quy định: " Trường hợp các đơn vị sử dụng chậm nộp bảo hiểm xã hội từ 30 ngày trở lên so với kỳ hạn phải nộp, thì ngoài việc phải nộp phạt theo quy định tại điểm 8 Điều 11 trong Nghị định số 38/CP ngày 25 tháng 06 năm 1996 quy định xử phạt hành chính về vi phạm pháp luật lao động còn phải nộp số tiền chậm nộp theo mức lãi suất tiền vay quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tại thời điểm truy nộp, đồng thời bảo hiểm xã hội các cấp được quyền yêu cầu kho bạc, Ngân hàng trích tiền từ tài khoản của đơn vị sử dụng lao động để nộp tiền bảo hiểm xã hội và tiền phạt chậm nộp bảo hiểm xã hội ( nếu có) mà không cần có sự chấp nhận thanh toán của đơn vị sử dụng lao động" Hàng tháng, hàng quý các cơ quan, đơn vị sử dụng lao động đóng, căn cứ vào kế hoạch Quỹ tiền lương để đăng ký mức đóng với cơ quan bảo hiểm xã hội. Đồng thời với việc trả lương, đơn vị sử dụng lao động trích nộp 20% tổng Quỹ tiền lương trong đó 15% tổng quỹ tiền lương do người sử dụng lao động đóng góp và 5% tiền lương của người lao động. Cuối mỗi quý các cơ quan, đơn vị sử dụng lao động cùng cơ quan bảo hiểm xã hội đối chiếu danh sách trả lương và Quỹ tiền lương, lập bảng xác nhận số nộp bảo hiểm xã hội. Nếu có chênh lệch giữa số đã nộp và số phải nộp sẽ phải nộp tiếp trong quý sau( nếu có chênh lệch thiếu) hoặc coi như nộp trước cho quý sau( nếu chênh lệch thừa) và được quyết toán trong năm. Những đơn vị sử dụng lao động cố tình vi phạm thời hạn nộp bảo hiểm xã hội thì cơ quan bảo hiểm xã hội các cấp có quyền từ chối việc chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội đối với tất cả những người lao động của đơn vị sử dụng lao động đó. Đồng thời lập hồ sơ chuyển sang cơ quan pháp luật đối với chủ sử dụng lao động. Vì vậy, đóng bảo hiểm xã hội là nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị người sử dụng lao động và người lao động. Kết quả đóng bảo hiểm xã hội là cơ sở để thực hiện tốt các chế độ hưởng bảo hiểm xã hội. e. Tính đặc thù của nghiệp vụ thu BHXH Quá trình thu BHXH có những đặc thù sau: - Việc qui định đóng BHXH đã thành mối quan hệ 3 bên: người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, giữa các bên có sự ràng buộc giám sát lẫn nhau về mock đóng và thời gian đóng BHXH đến từng người suốt quá trình tham gia BHXH, lấy đó làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các chế độ BHXH theo luật định. Đây là một nội dung của nghiệp vụ thu BHXH không giống với các nghiệp vụ khác. - Yêu cầu theo dõi kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị theo từng tháng, để từ đó ghi nhận kết quả đóng BHXH cho từng người, tương đương với mức lương làm căn cứ đóng BHXH. Đây là công việc đòi hỏi tính chính xác cao, thường xuyên, liên tục kéo dài hàng chục năm, lại có sự biến động về mức đóng. Đồng thời việc theo dõi ghi chép kết quả đóng BHXH của mỗi người là căn cứ pháp lý để thực hiện chế độ BHXH, do đó mỗi lần giải quyết chế độ BHXH là mỗi lần kinh tế, xác định độ chuẩn xác của nghiệp vụ BHXH. - Trong nghiệp vụ Quản lý thu BHXH, ngoài nghiệp vụ kế toán thực hiện quản lý theo chế độ tài chính thực hiện thu tập trung vào một tài khoản của cơ quan BHXH các tỉnh, thành phố chuyển lên quỹ BHXH trung ương đúng kịp thời; còn có nghiệp vụ quản lý thu BHXH theo danh sách lao động đăng ký đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị cùng với sổ BHXH của từng người mà việc quản lý theo dõi phảI được thực hiện ở cả 3 cấp là : BHXH thành phố quản lý danh sách, lao động, tiền lương đơn vị, cơ quan đăng ký đóng BHXH cơ bản tăng, giảm hàng tháng để ghi nhận kết quả đóng lập thành hồ sơ gốc. BHXH quận, huyện làm nhiệm vụ đôn đốc và đối chiếu kết quả đóng của cơ quan, đơn vị theo địa bàn quản lý, từ đó hướng dẫn cơ quan, đơn vị ghi kết qủa đóng BHXH vào sổ BHXH của từng người. Đây là căn cứ để giải quyết chế độ hưởng BHXH. Chính vì những đặc thù trên mà hoạt động thu BHXH đòi hỏi phải được tập trung thống nhất, có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài chính tiền tệ, đảm bảo độ chính xác trong việc ghi chép kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị đến từng lao động theo tiền lương, lấy đó làm căn cứ đóng BHXH từng tháng trong nhiều năm, kể cả trường hợp liên tục cũng như gián đoạn, làm việc một nơi hay nhiều nơi ... Như vậy, quá trình theo dõi ghi kết quả thu BHXH đòi hỏi liên tục trong nhiều năm, kể cả thời gian ngừng đóng BHXH vẫn phải lưu giữ để đảm bảo khi người lao động tiếp tục đóng hoặc yêu cầu giải quyết chế độ đều được thực hiện ngay. Hoạt động thu của BHXH là hoạt động của cả đời người, có tính kế thừa, cho nên nghiệp vụ quản lý thu, lưu giữ sổ biều là không có giới hạn và thời gian. 3. Tổ chức và quản lý BHXHVN Theo nghị định19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ, hệ thống BHXH được thành lập đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, sự quản lý Nhà nước của Bộ lao động – thương binh xã hội và các cơ quan Quản lý Nhà nước có liên quan, sự giám sát của Tổ chức công đoàn. Cơ cấu tổ chức: Chính phủ Hội đồng quản lý BHXH BHXH Việt Nam Bộ LD TB và XH BHXH tỉnh, thành phố Sở ldtb và xh tỉnh, thành phố BHXH quận, huyện Phòng lđ tb xh quận, huyện Đại diện của BHXH ở cơ sở (chi nhánh BHXH xã phường) Quan hệ ngang Quan hệ dọc Tổ chức bộ máy Bảo hiểm xã hội Việt Nam như sau: Hội đồng Quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan quản lý cao nhất của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến địa phương, gồm có: ở trung ương: Bảo hiểm xã hội Việt Nam ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là tỉnh) là Bảo hiểm xã hội tỉnh trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. ở các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh( gọi chung là huyện) là Bảo hiểm xã hội huyện trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh. Bảo hiểm xã hội Việt Nam do Tổng giám đốc quản lý và điều hành thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau: Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam như sau: - Ban quản lý chế độ chính sách bảo hiểm xã hội. - Ban quản lý thu bảo hiểm xã hội . - Ban quản lý chi bảo hiểm xã hội . - Ban kiểm tra – pháp chế. - Ban kế hoạch – tài chính. - Ban tổ chức cán bộ. - Văn phòng. - Trung tâm thông tin – khoa học. Nhiệm vụ, quyền hạn và biên chế của các đơn vị nói trên do Tổng giám đốc quy định. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm chức vụ lãnh đạo của các tổ chức nói trên do Tổng giám đốc quyết định. Bảo hiểm xã hội tỉnh thực hiện các nhiệm vụ về bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh theo quy định của Tổng giám đốc bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội tỉnh do một giám đốc quản lý và điều hành. Giúp việc giám đốc có 1 – 2 phó giám đốc. Giám đốc, các phó giám đốc bảo hiểm xã hội tỉnh do Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam bổ nhiệm và miễn nhiệm. Nhiệm vụ, quyền hạn, biên chế các phòng chuyên môn nghiệp vụ nói trên do Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam quyết định. Bảo hiểm xã hội huyện có nhiệm vụ là tiếp nhận đăng ký hưởng chế độ bảo hiểm xã hội do bảo hiểm xã hội tỉnh chuyển đến; thực hiện việc đôn đốc, theo dõi nộp bảo hiểm xã hội đối với người sử dụng lao động và người lao động trên địa bàn: tổ chức mạng lưới hoặc trực tiếp chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người được hưởng trên địa bàn huyện. Bảo hiểm xã hội huyện do một giám đốc quản lý và điều hành. ở các huyện có khối lượng công việc nhiều có thể có phó giám đốc giúp việc giám đốc bảo hiểm xã hội tỉnh bổ nhiệm và miễn nhiệm theo phân cấp của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội huyện không có cơ cấu tổ chức phòng. Biên chế của bảo hiểm xã hội huyện do giám đốc bảo hiểm xã hội tỉnh quyết định trong phạm vi tổng biên chế của bảo hiểm xã hội tỉnh được Tổng giám đốc phân bổ. Giám đốc bảo hiểm xã hội huyện quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng viên chức thuộc quyền quản lý. Việc thành lập bảo hiểm xã hội huyện do Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam quy định căn cứ vào khối lượng công việc, số lượng người và đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội trên địa bàn. Tại những nơi chưa có đủ điều kiện thành lập bảo hiểm xã hội huyện thì giám đốc bảo hiểm xã hội tỉnh cử người đại diện tại huyện để thực hiện việc chi trả và đôn đốc theo dõi việc thu, nộp bảo hiểm xã hội trên địa bàn. Chương II: thực trạnG HOạT ĐộNG thu và chống thất thu ở cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống đa. I. vàI nét về BHXH thành phố hà nội. 1.Qúa trình hình thành và phát triển của BHXH Thành phố Hà Nội BHXH là một chính sách lớn của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới nhằm bảo về quyền lợi cho người lao động. ở nước ta chính sách này đã được Đảng và Nhà nước chú trọng ngay từ khi mới thành lập. Nhưng phải đến năm 1995 thì chúng ta mới có một hệ thống bảo hiểm xã hội đầy đủ và hoàn chỉnh với sự ra đời của BHXH Việt Nam và 61 cơ quan BHXH tại 61 tỉnh và thành phố trong cả nước. BHXH Thành phố Hà Nội cũng thuộc vào hệ thống này nhưng quá trình phát triển của nó thì lại bắt đầu ngay từ đầu thập niên 90. Năm 1990 Thủ đô Hà Nội được Chính phủ cho phép tổ chức thí điểm BHXH. Mười năm qua được sự quan tâm của Thành uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội cùng với sự kết hợp của các cấp, các ngành, BHXH Thành phố Hà Nội đã từng bước đổi mới về tổ chức và cơ chế hoạt động theo hướng tập trung thống nhất vào một đầu mối phù hợp với cơ chế kinh tế nhiều thành phần, tạo tiền đề đi vào hoạt động theo hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam, triển khai thực hiện BHXH theo Luật lao động, góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế thủ đô phát triển. Quá trình phát triển của BHXH Hà Nội trải qua một số giai đoạn chủ yếu sau: - Từ tháng 1 năm 1990 đến tháng 12 năm 1992 Đầu năm 1990, Hà Nội là một trong 5 tỉnh, thành phố được Nhà nước chọn cho tổ chức thực hiện thí điểm bản dự thảo Điều lệ BHXH đối với lao động ngoài quốc doanh. Công ty BHXH đối với lao động ngoài quốc doanh được thành lập theo Quyết định 79/QĐ-UB ngày 09 tháng 01 năm 1990 của UBND Thành phố Hà Nội đặt trực thuộc Sở Lao động - Thương binh Xã hội, trụ sở đặt tại 22 Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm. Ngay từ khi thành lập, Thành uỷ, UBND Thành phố Hà Nội đã xác định lấy việc nghiên cứu ứng dụng đổi mới đảm bảo BHXH cho phù hợp với cơ chế kinh tế nhiều thành phần là chủ yếu. Việc áp dụng dự thảo Điều lệ BHXH đối với người lao động ngoài quốc doanh chỉ mang tính thử nghiệm, thực hiện thí điểm. Kết quả nghiên cứu có tính khả thi, đã được Bộ lao động - Thương binh và Xã hội và UBND Thành phố Hà Nội cho phép ứng dụng trên toàn địa bàn. - Sau khi xem xét kết quả nghiên cứu của Công ty BHXH đối với lao động ngoài quốc doanh Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 1992 Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã ký Quyết định số 2645/QĐ- UB cho phép thành lập BHXH Hà Nội trên cơ sở Công ty BHXH đối với người lao động ngoài quốc doanh Hà Nội và phần sự nghiệp bb đối với công nhân viên chức Nhà nước do Sở Lao động và Thương binh xã hội quản lý, trụ sở chuyển về 72 Triệu Việt Vương- Quận Hai Bà Trưng. Như vậy, tại Hà Nội sự nghiệp BHXH thuộc ngành Lao động - Thương binh xã hội đã được tập trung vào một mối, một tổ chức. Đây là thời điểm đột phá có tính chất quyết định cho cả quá trình nghiên cứu và đổi mới các bước tiếp theo đồng thời xác lập mô hình tổ chức thống nhất BHXH trong quốc doanh và ngoài quốc doanh. Đó là một cơ sở quan trọng tạo tiền đề, tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu, tổ chức triển khai thực hiện Nghị định 43/CP ngày 22 tháng 06 năm1993 của Chính phủ, với nội dung đổi mới sự nghiệp BHXH theo hướng tập trung thống nhất vào một đầu mối. Đây cũng là thời kỳ ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn, đi đôi với tiếp tục nghiên cứu đổi mới cơ chế hoạt động BHXH theo hướng công khai, dân chủ, công bằng xã hội. + Từ tháng 06 năm 1995 BHXH Thành phố Hà Nội được thành lập theo Nghị định 19/CP ngày 16 tháng12 năm 1995 của Chính phủ trên cơ sở BHXH Hà Nội tiếp nhận thêm cả phần sự nghiệp BHXH từ Liên đoàn Lao động chuyển sang, và nhiệm vụ thu BHXH từ ngành Tài chính và Thuế chuyển sang. BHXH Thành phố Hà Nội trực thuộc BHXH Việt Nam. Từ đây triển khai thực hiện BHXH theo quy định của Luật lao động trên cơ sở Điều lệ bảo hiểm xã hội mới ban hành, đồng thời tiếp tục nghiên cứu đổi mới nhằm hoàn thiện cơ chế hoạt động bảo hiểm xã hội đáp ứng yêu cầu thu, chi bảo hiểm xã hội đúng, đủ kịp thời, an toàn; xây dựng mối quan hệ ba bên người lao động , người sử dụng lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện bình đẳng, công khai, công bằng xã hội theo nguyên tắc có đóng bảo hiểm xã hội mới được hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội. Đến nay, Hà Nội là địa phương đi đầu trong cả nước về việc thống nhất sự nghiệp bảo hiểm xã hội vào một mối, với 12 quận, huyện, 228 phường, xã, có 4.700 cơ quan đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội với trên 650.000 người được bảo hiểm xã hội trong đó trên 420.000 đang tham gia đóng và hưởng bảo hiểm xã hội; 230.000 người hưởng hưu trí hoặc trợ cấp hàng tháng. Thực hiện chi trả lương hưu và trợ cấp, đảm bảo an toàn kịp thời, đúng đối tượng được hưởng, trước ngày 10 hàng tháng. 2. Cơ cấu tổ chức của BHXH Thành phố Hà Nội BHXH Thành phố Hà Nội cũng như các cơ quan BHXH khác mang tính nhân văn sâu sắc, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, vì vậy, cơ cấu tổ chức và hoạt động mang những nét riêng biệt. Cũng như các ngành, lĩnh vực khác thì ngành BHXH cũng có những thay đổi cơ cấu hoạt động trong các thời kỳ sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong từng thời kỳ đó, BHXH Thành phố Hà Nội cũng không nằm ngoài quy luật đó. Từ khi được thành lập đến nay, BHXH Thành phố Hà Nội cũng đã ba lần thay đổi cơ cấu tổ chức hoạt động của mình. Cơ cấu tổ chức của BHXH Thành phố Hà Nội qua các giai đoạn phát triển được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ quá trình đổi mới tổ chức bảo hiểm xã hội thành phố hà nội 1990 - 1995 BHXH Thuôc liên đoàn LĐ thu và chi trả 3 chế độ : TC ốm đau, thai sản và TNLĐ-BNN BHXH thuộc ngành LĐ - TBXH quản lý BHXH trong khu vực NN quản lý. Phòng BHXH thực hiện hai chế độ hưu trí, MSLĐ và tử tuất Công ty BHXH đối với lao động ngoài QD 1990-1992.Trụ sở: 22 Lý Thái Tổ BHXH Hà Nội(1993-1995) Thuộc sở LĐ - TBXH Hà Nội thống nhất trong quốc doanh và ngoài quốc doanh vào một đầu mối. Thực hiện 3 chế độ: hưu trí, MSLĐ, tử tuất, 6 phòng nghiệp vụ: Trụ sở 72 Triệu Việt Vương Phòng nghiệp vụ thu BHXH Phòng nghiệp vụ BHXH Phòng kế hoạch tài vụ Phòng hồ sơ Phòng vi tính Văn phòng Từ năm 1995 thực hiện Nghị định 19/CP ngày 16 tháng 2 năm 1995 của Chính phủ thành lập BHXH Việt Nam BHXH Thành phố Hà Nội Trực thuộc BHXH Việt Nam gồm 8 phòng nghiệp vụ và 12 BHXH Quận huyện Phòng quản lý thu BHXH Phòng quản lý CĐ chính sách Phòng máy tính Phòng kế hoạch Tài vụ Phòng quản lý hồ sơ Phòng cấp sổ BHXH Phòng kiểm tra Phòng tổ chức hành chính Bảo hiểm xã hội quận Bảo hiểm xã hội huyện Hai Bà Trưng Ba Đình Tây Hồ Thanh Xuân Đống Đa Cầu Giấy Gia Lân Đông Anh Thanh Trì Sóc Sơn Từ Liêm Hoàn Kiếm Dưới đây là chức năng cụ thể của từng phòng ban tại trụ sở của BHXH Thành phố Hà Nội: - Phòng quản lý thu BHXH: có chức năng theo dõi việc đóng BHXH của các cơ quan đơn vị thuộc diện bắt buộc phải đóng BHXH trên địa bàn thành phố cũng như tự nguyện đóng BHXH cho nhân viên của họ. Hàng tháng, hàng quý phòng tổ chức tập hợp số liệu đối chiếu thu BHXH của các cơ quan BHXH các quận huyện để phát hiện ra những đơn vị chậm đóng hoặc cố tình không đóng BHXH từ đó đề ra các biện pháp phối hợp với các cơ quan chức năng đôn đốc họ trong việc nộp BHXH. - Phòng quản lý chế độ chính sách: Bộ phận tiếp nhận hồ sơ, và lập các giấy tờ liên quan, cần thiết cho việc chi trả các chế độ, các loại trợ cấp cho các đối tượng. - Phòng quản lý hồ sơ: Duy trì hồ sơ gốc của người lao động, trên cơ sở những tài liệu này mà công tác thanh tra, kiểm tra, tìm kiếm, sao chụp cũng như rút hồ sơ được tiến hành nhanh chóng. - Phòng kế hoạch tài vụ: Bộ phận đánh giá các kết quả đã đạt được và những khó khăn tồn tại cần tháo gỡ, xây dựng các phương án, kế hoạch, phương hướng phát triển cho từng giai đoạn, thời kỳ. Ngoài ra, còn tiếp nhận ngân sách và các nguồn kinh phí khác cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đảm bảo cấp kịp thời đầy đủ các khoản chi phí cần thiết cho việc chi trả các chế độ chính sách tại các quận, huyện... - Phòng kiểm tra: Tiến hành các đợt thanh tra, kiểm tra các công tác đề ra của BHXH Việt Nam và BHXH Thành phố Hà Nội... - Phòng tổ chức hành chính: Quản lý nhân sự trong cơ quan và tiến hành mua sắm thêm trang thiết bị. - Phòng cấp sổ BHXH: Tập hợp các tờ khai cấp sổ BHXH của người lao động đăng ký tại cơ quan BHXH các quận, huyện sau đó tiến hành kiểm tử tuất tính chính xác của tờ khai và tiến hành cấp sổ BHXH cho người lao động, đồng thời tiến hành lập hồ sơ theo dõi sự biến động của số lượng người lao động đã được cấp sổ,... - Phòng máy tính: Tiến hành điều tra, nghiên cứu các phần mềm chuyên dụng trong quản lý của cơ quan BHXH, xây dựng kế hoạch cung cấp các trang thiết bị máy tính cho các cơ quan BHXH các quận, huyện. Bộ phận này cũng tiến hành đào tạo hướng dẫn sử dụng các phần mềm cho người trực tiếp phụ trách công tác này tại các quận, huyện. 3. Thực trạng hoạt động của BHXH Thành phố Hà Nội trong những năm qua 3.1. Những kết quả đạt được a. Về thu BHXH: Hà Nội có hơn 650.000 đăng ký danh sách đóng BHXH với mức thu trên 692 tỷ đồng/năm( số liệu 2001) trong đó khu vực ngoài quốc doanh chiếm 1/4 tổng thu toàn thành phố. Thực tế khu vực ngoài quốc doanh số người tham gia BHXH năm sau cao hơn năm trước, song vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa tham gia BHXH, chủ yếu là doanh nghiệp có sử dụng 10 lao động trở lên. Hà Nội thực hiện thu BHXH tập trung vào 1 khoản thu nên kết quả thu đến đâu chuyển ngay lên quỹ BHXH Việt Nam, đảm bảo tuyệt đối an toàn nguồn thu BHXH. BHXH các quận, huyện làm nhiệm vụ theo dõi đôn đốc đối chiếu kết quả thu và hướng dẫn việc ghi sổ BHXH làm cơ sở thực hiện các chế độ BHXH theo luật định. Số liệu cụ thể từng năm như sau: Bảng 2: Số người đăng ký đóng BHXH và số thu BHXH qua các năm Năm Tổng số người Tổng số tiền (tỷ đồng) Riêng khu vực ngoài quốc doanh Số người Số tiến(tỷ) Trước tháng 6 năm 1995 15.497 12 12,094 6 tháng cuối năm 1995 258.738 99 15.986 21,005 1996 319.717 287 16.763 34,460 1997 316.845 382 19.703 70,000 1998 368.308 415 23.648 97,939 1999 381.632 456 26.838 121,800 2000 415.852 554 36.392 135,154 2001 650.000 692 (Nguồn: BHXH Thành phố Hà Nội). b. Về giải quyết hưởng chế độ: Bảng 3: Số lượt người hưởng các loại trợ cấp BHXH giai đoạn 1995-2001 Năm Tổng số Hưu trí MSLĐ Trợ cấp 1 lần Tuất TNLĐ BNN 1995 4.060 3.158 1.902 1996 8.475 3.262 3.045 1.952 216 1997 9.992 3.331 3.003 3.390 238 1998 14.319 4.274 6.336 3.539 179 1999 18.000 6.000 7.500 4.200 300 2000 20400 7000 8300 5100 450 2001 23700 8945 9247 5210 537 Nhìn chung, việc giải quyết chế độ hưởng BHXH theo quy định người có đóng mới có hưởng thuận lợi hơn trước, nhất là khi Hà Nội thực hiện giải quyết theo quy trình khép kín, tập trung vào một đầu mối, đảm bảo kịp thời, an toàn, công khai và công bằng, tạo mối quan hệ ràng buộc với nhau giữa các phần nghiệp vụ, mối quan hệ gắn bó chặt chẽ mật thiết đoàn kết, hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Bảng 4: Chi trả lương hưu và trợ cấp hàng tháng Năm Tổng số tiền (tỷ đồng) Chia ra Nguồn ngân sách Nguồn quỹ BHXH 1996 642,297 622,755 39,452 1997 778,003 704,983 73,050 1998 797,443 619,870 105,576 1999 818,831 696,259 122,571 2000 1.030,264 843,457 186,807 2001 1.643,254 1.412,356 230,898 (Nguồn: BHXH Thành Phố Hà Nội) d. Thực hiện cấp sổ BHXH: Quá trình thực hiện cấp sổ BHXH có sự phân công, phân cấp và phối hợp giữa BHXH với Liên đoàn lao động thành phố, giữa thành phố với quận, huyện; giữa BHXH với cơ quan đơn vị sử dụng lao động, giữa chủ sử dụng lao động với công đoàn nên mọi vướng mắc được tháo gỡ, thực hiện đúng quy định. 3.2. Những khó khăn, tồn tại - Văn bản của Nhà nước quy định về BHXH( Nghị định 12/CP ) mới chỉ quy số đối tượng bắt buộc phải tham gia BHXH mà chưa bắt buộc mọi người lao động. Do đó số lượng người ở Hà Nội tham gia BHXH còn thấp chỉ mới tập trung ở các cơ quan đơn vị của Nhà nước và các cơ quan Đảng. Đặc biệt là số lượng lao động làm việc trong khu vực ngoài quốc doanh tham gia BHXH còn thấp. Có thể do: + Về phía người lao động: Chưa có nhận thức đúng và đầy đủ về nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia BHXH hoặc có nhận thức đủ nhưng không giám đòi hỏi quyền lợi vì sợ bị ảnh hưởng đến công việc hoặc không muốn đóng vì thu nhập quá thấp. + Về phía người sử dụng lao động: Có thể do gặp khó khăn trong công việc kinh doanh, tài chính hạn hẹp hoặc không muốn trích 15% quỹ lương đóng BHXH cho người lao động mà để hỗ trợ sản xuất, cắt giảm chi phí,... Do đó, quyền lợi của người lao động không được đảm bảo, tình trạng trốn tránh đóng hoặc nợ đọng BHXH xảy ra thường xuyên. - Số thu không đủ yêu cầu chi trả cho các chế độ BHXH do đó tỷ lệ chi trả từ nguồn quỹ BHXH so với ngân sách Nhà nước còn rất nhỏ. - Các chế độ quy định tại NĐ 12/CP còn nhiều điểm bất cập chưa đầy đủ và hợp lý. - Thủ tục chi trả đòi hỏi nhiều các loại giấy tờ đặc biệt là chế độ tuất và cả những giấy tờ đã cấp từ thời chiến tranh Nhìn chung, đứng trước những khó khăn, tồn tại nhưng BHXH Hà Nội đạt được thành tích đáng khâm phục. Với những thành tích đáng khâm phục. Với những thành tích đó, BHXH Thành phố Hà Nội đã được Nhà nước tặng huân chương lao động hạng ba, chính phủ tặng cờ thường thi đua xuất sắc và bằng khen, UBND Thành phố tặng giải thưởng Thăng long về công trình nghiên cứu đổi mới sự nghiệp bảo hiểm xã hội giai đoạn 1991-1995 cũng nhiều bằng khen của các bộ, ngành Trung ương và Hà Nội. ii. tổ chức BHXH quận đống đa Tổ chức bộ máy và hoạt động chuyên môn nghiệp vụ *. Chức năng, nhiệm vụ Quận Đống Đa là một trong những quận tập trung nhiều khu công nghiệp lớn, khu dân cư đông đảo và đang trên đà đô thị hoá của Thành phố Hà Nội. Với địa bàn rộng, trên 36 vạn dân và được chia thành 26 phường do đó để đảm bảo quyền lợi cho người lao động và đưa BHXH vào cuộc sống, ngày 12 tháng 07 năm 1995 Quyết định 01 của Giám đốc BHXH thành phố Hà Nội quyết định thành lập BHXH quận Đống Đa. BHXH quận Đống Đa trực thuộc BHXH Thành phố Hà Nội, thực hiện nhiệm vụ do BHXH Thành phó giao cho, cụ thể: - Hướng dẫn, theo dõi đôn đốc các cơ quan đơn vị trên lãnh thổ quận. Lập danh sách lao động thuộc diện áp dụng loại hình BHXH bắt buộc để thực hiện đóng BHXH theo Luật định. Hàng tháng phải nắm được danh sách, số lượng công nhân viên chức trước đây trong biên chế, hợp đồng dài hạn tham gia đóng BHXH. - Tổ chức, triển khai thực hiện chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp theo Điều lề BHXH quy định. - Tổ chức theo dõi di biến động trong cơ quan đơn vị về người đóng, hưởng BHXH. Hàng tháng đơn vị làm phiếu báo tăng giảm mức đóng BHXH so với danh sách đăng ký đóng BHXH để kịp thời điều chỉnh đến từng người lao động. - Tổ chức tiếp nhận người đến đăng ký hưởng BHXH, làm thủ tục di chuyển đi nơi khác theo quyết định của BHXH. - Tổ chức chi trả lương hưu, trợ cấp mất sức, các chính sách xã hội đảm bảo an toàn đúng đối tượng. - Lập dự toán, thanh quyết toán trợ cấp theo quy định của Bộ Tài chính và Kiểm toán Nhà nước. - Quản lý lưu trữ hồ sơ, khai thác danh sách đóng BHXH. - Thực hiện chế độ tử tuất đối với người hưởng hưu trí hoặc đi công tác theo quy định của Nhà nước ban hành. - Thanh tra xác minh các đơn thư khiếu nại, có kết luận kịp thời trước khi đối tượng yêu cầu. - Thực hiện điều chỉnh lương hưu và trợ cấp theo quy định của Nhà nước và hướng dẫn của BHXH cấp trên. - Quản lý cán bộ, tài sản, quỹ lương và kinh phí hoạt động thuộc BHXH quận. Để thực hiện 11 nhiệm vụ được BHXH Thành phố Hà Nội giao cho, cơ quan BHXH quận Đống Đa phân chia thành 4 phòng nghiệp vụ để thực hiện chức năng một cách cụ thể. Mỗi bộ phận có một chức năng và nhiệm vụ riêng. Làm tốt nhiệm vụ đó có nghĩa là hoàn thành nhiệm vụ của BHXH Thành phố đề ra. b. Cơ cấu tổ chức của cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa: Cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa chia thành các bộ phận sau: *. Bộ phận thu và cấp sổ bảo hiểm: Để thực hiện chỉ tiêu thu năm sau cao hơn năm trước, giải quyết tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội và đốc thu theo đúng kế hoạch, thu đủ, chính xác, cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa chủ trương phân chia mỗi cán bộ được giao quản lý công tác đốc thu ở một vài phường nhất định. Mỗi cán bộ trực tiếp làm việc với các đơn vị sử dụng lao động, gặp gỡ cán bộ phụ trách công tác bảo hiểm xã hội ở đơn vị đó, hướng dẫn đôn đốc, theo dõi ghi chép kết quả đóng bảo hiểm xã hội, đồng thời xác nhận để thanh toán hai chế độ ốm đau, thai sản và hướng dẫn đơn vị viết tờ khai cấp sổ bảo hiểm, đối chiếu tờ khai cấp sổ với hồ sơ gốc để thực hiện việc cấp sổ bảo hiểm xã hội. Kể từ tháng 09 năm 1996 thì cơ quan đã thực hiện việc cấp sổ cho 97 - 98% số tham gia đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 01 năm 1995 trở về trước. *. Bộ phận chính sách. Để thực hiện được chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao động một cách kịp thời, nhanh chóng, cơ quan bảo hiểm xã hội quận giao cho 2 cán bộ phụ trách làm nhiệm vụ: + Tiếp nhận chuyển đến, chuyển đi các cán bộ hưu trí, mất sức lao động. + Thanh toán chế độ mai táng phí và giải quyết chế độ tuất. *. Bộ phận kế toán tài vụ. Vào sáng thứ hai, thứ tư và thứ sáu hàng tuần, bộ phận kế toán tài vụ làm nhiệm vụ trực tiếp chi trả tiền lương và chính sách xã hội của đối tượng chưa lĩnh, thanh toán mai táng phí, lập chứng từ chi trả trực tiếp chế độ ốm đau, tai nạn lao động. Ngoài ra, bộ phận còn xây dựng nhiệm vụ kế hoạch với cấp trên và với kho bạc Nhà nước, cuối cùng thực hiện thanh quyết toán với bảo hiểm xã hội cấp trên. *. Bộ phận lưu trữ hồ sơ Việc bảo quản lưu trữ hồ sơ cho người lao động là công việc hết sức quan trọng trong công tác quản lý của ngành, do đó ở bộ phận này, cơ quan bảo hiểm xã hội quận giao cho công tác quản lý về: + Quản lý về mặt hồ sơ của cán bộ hưu trí - mất sức, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: thực hiện cập nhật theo danh sách chi trả của công tác chi trả. + Quản lý về mặt chứng từ chi trả. + Quản lý về hồ sơ đóng bảo hiểm xã hội của cán bộ công nhân viên chức. + Tổ chức khai thác hồ sơ để phục vụ cho các nhiệm vụ khi có yêu cầu như: cần xét khen thưởng huân chương phải có xác nhận năm công tác từ hồ sơ hoặc xác nhận năm công tác của Nhà nước, giải quyết quyền lợi của cán bộ lão thành cách mạng khi họ bị mất hồ sơ ... Vậy mỗi bộ phận ở cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa đều thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao theo chức năng của bộ phận mình nhưng giữa các bộ phận luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Quyền và lợi ích của người lao động( được đảm bảo ) về các chính sách bảo hiểm xã hội được đảm bảo kịp thời, nhanh chóng. Trong thời gian qua bảo hiểm xã hội quận Đống Đa thực thi hoàn thành các chỉ tiêu đề ra, đây là một cố gắng lớn của toàn bộ các cán bộ trong cơ quan bảo hiểm xã hội quận. c. Một số kết quả thu được trong các mặt hoạt động của BHXH quận Đống Đa trong thời gian qua. Phát huy thành tích và kết quả đạt được của các năm trước phấn đấu hoàn thành chương trình chỉ tiêu nhiệm vụ được BHXH Thành phố giao cho, BHXH quận Đống Đa đã tiến hành tổ chức , chỉ đạo, quản lý, biện pháp tháo gỡ khó khăn hoàn thành nhiệm vụ của ngành. Kết quả đạt được như sau: *. Về công tác đốc thu và thu BHXH Để đạt được mục tiêu thu quỹ đầy đủ, kịp thời và đúng luật cho các đối tượng thuộc diện đóng BHXH bắt buộc và thực hiện chính sách công bằng thì việc đối chiếu xác định số lượng lao động, quỹ tiền lương của từng cơ sở theo từng tháng tren địa bàn quận là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Với các biện pháp tổ chức triển khai thực hiện của BHXH Đống Đa, từ tháng 10 năm 1995 đến tháng 12 năm 2001 đã thu được 390 tỷ đồng, trong đó năm 2001 đã thu được 86 tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2000. Số lượng cơ sở tham gia đóng BHXH cho người lao động tăng lên (từ 18 đơn vị năm 1998, đến nay đã tăng lên 140 đơn vị). Vì vậy chỉ tiêu thu BHXH quận ngày càng tăng lên, cụ thể năm 2002 dự kiến thu BHXH sẽ là 92,1 tỷ đồng. Bảng 5: Kết quả cụ thể các khối Khối Số đơn vị Tổng số lao động DN Trung ương 218 29.763 Dn thành phố 65 25.761 Dn quận 6 266 Hc - sn trung ương 118 12.734 Hc - sn thành phố 38 2.259 Hc sn quận 102 3.318 Cty tnhh 111 2.138 Khối tư thục 8 208 Khối phường 21 120 Tổng cộng 638 59.157 (Nguồn: BHXH Quận Đống Đa) Từ hình thức biện pháp tổ chức chỉ đạo của BHXH quận Đống Đa với sự quan tâm tạo điều kiện của các cấp lãnh đạo từ cơ sở đến quận, thành phố, kết hợp với hệ thống thông tin tuyên truyền đại chúng mà nhận thức về BHXH tại các đơn vị, cơ quan được nâng cao hơn, việc kiện toàn củng cố hồ sơ, danh sách người lao động ở từng đơn vị được kiện toàn việc trích đóng quỹ BHXH hàng tháng, hàng quý được đầy đủ, việc đối chiếu số thu BHXH với số lao động, quỹ tiền lương từng tháng giữa BHXH quận và cán bộ nghiệp vụ cơ sở đã đi vào nền nếp hơn. Tính đến tháng 12 năm 2001: + Số cơ sở chưa đối chiếu năm 2001 còn 60 đơn vị. + Số đơn vị còn nợ đọng quỹ BHXH từ 6 tháng trở lên là 10 đơn vị. *. Công tác cấp sổ BHXH Sự nghiệp BHXH muốn tồn tại, phát triển phải đảm bảo quyền lợi cho người lao động làm việc hưởng tiền công, tiền lươg ở mọi thành phần kinh tế theo Điều 149 Luật Lao động. Việc cấp sổ BHXH nhằm phân biệt người đóng BHXH và người không đóng, trên cơ sở pháp lý giúp người lao động và người sử dụng lao động; người lao động và cơ quan BHXH. Tính đến tháng 12 năm 2000 đã hoàn thành 100% số cơ sở hướng dẫn cho người lao động kê khai thời gian công tác của mình. BHXH quận đã đối chiếu xong tờ khai và làm thủ tục cấp sổ BHXH cho 100% số đơn vị đã đăng ký danh sách đóng BHXH của năm 1996. Bảng 6: Tính đến tháng 20 tháng 12 năm 2001 công tác cấp sổ BHXH của BHXH quận Đống Đa đạt được như sau: Khối Số đơn vị Số LĐ đăng ký đóng BHXH Số tờ khai đối chiếu Số tờ khai đăng ký DN Trung ương 190 30.170 29.958 28.762 Dn thành phố 55 5.797 5.614 5.416 Dn quận 6 266 258 204 Hc-sn TW 118 12.989 12.766 12.604 Hc – sn TP 37 2.265 2.251 2.103 Hc – sn quận 102 3.439 3.234 3.118 Cty tnhh 115 2.784 2.581 2.407 Khối tư thục 21 120 107 94 Khối phường 644 59.462 56.769 54.708 ( Nguồn: BHXH quận Đống Đa) *. Thực hiện các chế độ BHXH đối với cán bộ hưu trí và người lao động Duyệt cấp kinh phí thanh toán hai chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động: Cán bộ BHXH quận kết hợp chặt chẽ với cán bộ nghiệp vụ cơ sở đảm bảo không để chứng từ tồn đọng, duyệt đến đâu cấp kinh phí cho đơn vị kịp thời đến đấy. Bảng 7: Kết quả chi hai chế độ ốm đau, thai sản năm 2001 như sau: Năm 2001 ốm đau Thai sản Người Ngày Tiền Người Ngày Tiền 12.114 86.456 1.227.873.360 2.088 108.209 2.023.674.329 Bảng 8: Công tác tổ chức chi trả lương hưu và trợ cấp xã hội đối tượng Ngân sách Nhà nước Ngân sách BHXH Người Tiền(tỷđồng) Người Tiền(tỷđồng) Hưu hc 24952 124.755 6671 45.176 Hưu hq 2879 32.293 7.359 Mất sức lđ 4819 13.572 Tai nạn lao động 232 0.273 34 0.55 Tử tuất 2042 2.582 0.266 336 0.501 Nđ 91 204 Bh y tế Trợ cấp tết 1.294 0.361 3.352 0.621 Tổng cộng : 178.391 +54.075 = 232.466 tỷ Công tác tiếp nhận chuyển đến, chuyển đi của cán bộ hưu trí và trợ cấp xã hội tại BHXH quận năm 2001. Công tác tiếp nhận cán bộ hưu trí và người hưởng chính sách xã hội khi có nhu cầu đi các tỉnh và quận huyện khác là việc làm thường xuyên với tinh thần trách nhiệm của cán bộ viên chức BHXH quận Đống Đa. Mặc dù trụ sở BHXH quận còn đang chật hẹp. BHXH quận luôn đổi mới hình thức lề lối, phương thức phục vụ nên BHXH quận đã đảm bảo giải quyết kịp thời yêu cầu nhiệm vụ. Bảng 9: Kết quả cụ thể năm 2001 biến động tăng giảm Loại đối tượng Tăng Giảm Mới về Điều chỉnh lương Tỉnh khác Quận khác Đi tỉnh khác Đi quận khác Tạm vắng Quỹ NS HC 296 215 HQ 24 30 Quỹ BHXH HC 1591 73 HQ 109 5 Công tác giải quyết chế độ hưởng mất sức lao động Công tác giải quyết chế độ hưởng mất sức lao động được quan tâm tổ chức thực hiện thường xuyên, khảo sát nắm lại các đối tượng hưởng mất sức lao động khi hết hạn hưởng thông qua hồ sơ đang quản lý. Kết quả năm 2001 đã giải quyết được 204 người. Những đối tượng sắp hết hạn hưởnh có thông bảo chuyển tới gia đình kèm theo thông báo, văn bản, Nghị định được xét hưởng lại, góp phần thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước. Công tác giải quyết chế độ tử tuất, mất sức lao động là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là quyền lợi của cán bộ hưu trí mang tính chất nhân văn nhân đạo.. Năm 2001 BHXH quận Đống Đa đã thanh toán cho 468 đối tượng và giải quyết chế độ tuất cho 219 với 316 suất, góp phần làm giảm khó khăn cho gia đình và động viên các cháu yên tâm học tập tốt. Như vậy, năm 2001, năm BHXH quận được cấp trên giao với chỉ tiêu thu, chi khá cao song với tinh thần đoàn kết nhất trí sự hỗ trợ và giúp nhau hoàn thành nhiệm vụ được nhân lên. Với tinh thần phấn đấu đó, được sự chỉ đạo sát sao của quận uỷ, UBND, HĐND, sự hướng dẫn kịp thời của BHXH Hà Nội, BHXH quận Đống Đa đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tạo được niềm tin, uy tín của cán bộ cơ quan trên địa bàn quận, cán bộ hưu trí 26 phường góp phần giữ gìn trật tự kỷ cương xã hội tại địa bàn quận Đống Đa. III. Thực trạng thu bảo hiểm xã hội và công tác chống thất thu tại cơ quan bảo hiểm xã hội quận đống đa. 1.Vài nét về doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn quận Đống Đa Đống Đa là một quận lớn của Thành phố Hà Nội, nơi có địa bàn rộng lớn, dân cư tập trung đông đảo, đang trên đà phát triển mạnh và đô thị hoá với tốc độ cao, đồng thời là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp lớn, các cơ quan hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp Nhà nước và đặc biệt là nơi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm số lượng nhiều nhất. Với chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế thị trường thực sự được đổi mới đã tạo đà cho sự ra đời và phát triển ngày càng nhiều của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp này tham gia hầu hết ở mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng chủ yếu vẫn tập trung vào kinh doanh thương mại, dịch vụ, thương nghiệp, sản xuất, nhà hàng, khách sạn, đất đai, siêu thị,... cùng với đó các hoạt động tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và các hợp tác xã cũng phát triển theo. Đây cũng là xu hướng phát triển của cả nước và quận Đống Đa. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập và hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn quận thường bao gồm các loại hình doanh nghiệp cơ bản là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã chiếm phần lớn còn lại là các loại hình doanh nghiệp khác như: chi nhánh, văn phòng đại diện, công tai nạn 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, ... chiếm một phần nhỏ. Theo thống kê của chi cục thuế, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2001, quận Đống Đa có 268 đơn vị đăng ký thành lập kinh doanh, trong đó công tai nạn trách nhiệm hữu hạn là 199 đơn vị, doanh nghiệp tư nhân là 36 đơn vị, hợp tác xã là 33 đơn vị tập trung kinh doanh vào các lĩnh vực chủ yếu như: - Trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ: Số lượng loại hình doanh nghiệp tham gia trong lĩnh vực này: Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 39% với 78 đơn vị, các doanh nghiệp tư nhân là 12 đơn vị chiếm 33,3%, các hợp tác xã là 10 đơn vị, chiếm 30%. Như vậy, các doanh nghiệp thương mại dịch vụ vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất, đã và đang làm thay đổi cơ cấu tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội (chiếm 78% tổng mức lưu chuyển hàng hoá xã hội) và tác động mạnh mẽ đến việc hình thành hệ thống marketing mới. Trong điều kiện thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc chăm sóc khách hàng và các dịch vụ hậu mãi rất được các công ty, doanh nghiệp chú trọng, và chủ động trong việc tiếp thị chào hàng thông qua đội ngũ nhân viên đông đảo và năng động từ đó sản phẩm có thể đến tay người tiêu dùng một cách nhanh chóng, thuận tiện với mẫu mã đa dạng phong phú và giá thành thích hợp. Trên địa bàn quận Đống Đa, có thể kể đến một số công ty phát triển trong lĩnh vực này như: Công ty phát triển công nghệ và thương mại, công ty thương mại và dịch vụ, công ty đầu tư thương mại quốc tế, công ty công nghệ thương mại Phú Hà,... hoạt động của các công ty này chủ yếu tập trung vào buôn bán lắp đặt, sửa chữa, bảo hành sản phẩm và được người tiêu dùng tín nhiệm, đóng góp phần không nhỏ cho ngân sách Nhà nước, giải quyết việc làm cho người lao động. Điều đó chứng tỏ kinh doanh thương mại và dịch vụ phát triển mạnh, đó cũng chính là xu thế phát triển của các doanh nghiệp hiện nay. Bên cạnh doanh nghiệp kinh doanh thương mại và dịch vụ phát triển thì các doanh nghiệp hoạt động thương nghiệp trên địa bàn quận nhất là công nghệ phẩm, lương thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, gốm sứ, bán lẻ hàng hoá, dịch vụ cá nhân, gia công đồ trang sức...cũng phát triển và trở thành những doanh nghiệp đạt mức doanh thu cao nhất, như doanh nghiệp: Công ty Tân á, công ty cổ phần Hữu Nghị, Công ty Đông Nam Dược Bảo Long, Công ty Đài Bắc,... Đặc trưng của những doanh nghiệp, cơ sở làm ra mặt hàng này không cần đòi hỏi nhiều máy móc công nghệ hiện đại mà phần lớn sử dụng lao động phổ thông và dựa vào sự khéo léo tính sáng tạo của bản thân người lao động. Cũng nhờ những ưu điểm của mình mà ngành nghề này thu hút được nhiều lao động và giải quyết việc làm cho người lao động. Hiện nay, các sản phẩm trạm trổ, khắc trạm, đẽo tượng đang từng bước khẳng định uy tín của mình cả thị trường trong nước lẫn thị trường thế giới, đặc biệt là các nước phương Tây. Những sản phẩm mang đậm phong cách và bản sắc của người Việt Nam rất được ưa chuộng. Ngay thị trường trong nước, các sản phẩm của các cơ sở sản xuất, gia công chế tác đồ trang sức, mỹ nghệ, đặc biệt là các sản phẩm từ mây, tre đang được khách hàng yêu thích và tiêu thụ được nhiều. Do đó, việc mở mang và phát triển ngành nghề truyền thống có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển đồng thời khôi phục lại những giá trị văn hoá tiềm ẩn trong những đường nét kinh tế của mỗi sản phẩm làm ra mang đậm phong cách, lối sống con người Việt Nam, từ đó tạo được một chỗ đứng vững chắc trong các ngành nghề đang tồn tại và phát triển trên thị trường. - Các doanh nghiệp, công ty kinh doanh dịch vụ vận tải cũng rất phát triển như: Công ty cổ phần vận tải dịch vụ du lịch, công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển,... Hoạt động của các doanh nghiệp này tương đối ổn định và ngày một phát triển, có địa bàn hoạt động rộng, lao động đòi hỏi có nghề, được qua đào tạo bài bản. Hàng năm đảm nhận hơn 60% khối lượng hàng hoá vận tải và khối lượng hành khách. Tuy nhiên, đây cũng là lĩnh vực kinh doanh có nhiều rủi ro, mang tính thời vụ cao như chở khách trong mùa lễ hội, du lịch, nghỉ mát, hoặc chuyển hàng hoá nông sản mùa thu hoạch. Trong thế kỷ bùng nổ thông tin như hiện nay, đã có nhiều doanh nghiệp chuyên cung cấp các loại máy tính, sản xuất phần mềm, mua bán, lắp ráp sửa chữa bảo hành máy tính có số lượng lớn và hoạt động kinh doanh khá hiệu quả, điển hình phải kể đến một số công ty như: Trung tâm viễn thông KVI, Công ty tư vấn chuyển giao công nghệ viễn thông tin học FPT, Công ty trách nhiệm hữu hạn máy tính Net, Công ty đầu tư và PTBCVT, ... Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, các doanh nghiệp đang tích cực giới thiệu những ưu thế của mình mua máy tính có dịch vụ sửa chữa, dịch vụ bảo hành, sửa chữa thay thế linh kiện và lắp đặt sản phẩm tại nhà. Thông qua phương tiện điện thoại và đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm, khách hàng có thể nắm bắt được về giá cả, chủng loại chất lượng hàng hoá cũng như thời gian bảo hành của sản phẩm. Song song với việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, chăm sóc khách hàng, các doanh nghiệp cũng đang tăng cường đầu tư vào các yếu tố con người, đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị văn phòng từ đó xây dựng đội ngũ những người có trình độ chuyên môn cao, chuyên thiết kế, phát minh các phần mềm đặc biệt là phần mềm trong kế toán, quản lý. Như vậy, hoạt động của các công ty này có thị phần rộng lớn, mức thu nhập khá cao, đòi hỏi lao động được thu hút phải có trình độ chuyên môn, tay nghề, trí tuệ cao. Đây là lĩnh vực với nhiều hữa hẹn trong tương lai. May mặc là ngành nghề không thể thiếu trong cuộc sống, trong nền kinh tế hiện nay, nó trở thành một mũi nhọn cho xuất khẩu. Gia công các sản phẩm may mặc cho nước ngoài cũng thu hút được nhiều doanh nghiệp, cơ sở tham gia, có thể kể đến: Công ty thảm may Hà Nội, ... Doanh nghiệp trong ngành may thu hút một số lượng lớn lao động trong xã hội, chủ yếu là lao động nữ, lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá hay chuyển sang mặc dù thu nhập không cao lắm nhưng tương đối ổn định và ít rủi ro nếu doanh nghiệp luôn chú trọng đến tay nghề của người lao động cũng như chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí sản xuất . Hệ thống siêu thị, nhà hàng khách sạn mini rất phát triển đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, tập trung ở các phường tiếp giáp với trung tâm thành phố, trong quận tập trung một số khách sạn kinh doanh lớn như: Khách sạn Kim Liên... Loại hình kinh doanh này tạo ra thu nhập khá lớn cho doanh nghiệp khi số lượng khách du lịch ngày một tăng, đồng thời thu hút một số lượng khá lớn lao động có nghề nghiệp trình độ (quan trọng hơn là phải có trình độ ngoại ngữ). Trên một số phường của Quận Đống Đa có tập trung một số lượng các cơ sở gia công, sản xuất thép, vật liệu xây dựng, sản xuất cơ khí, gia công cán thép, sản xuất dép... phát triển rất mạnh và cạnh tranh gay gắt. Các cơ sở hoạt động tương đối có hiệu quả như: Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu, Công ty cổ phần thép Việt Nam, công ty thiết bị công nghiệp, công ty sản xuất hàng tiêu dùng Bình Tiên,.. thu hút đông các lao động, công nhân có tay nghề, thu nhập ổn định. Như vậy, trên địa bàn Quận Đống Đa số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm nhiều nhất, tham gia vào mọi lĩnh vực h kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp đã và đang phát triển vững chắc trong nền kinh tế thị trường, được khách hàng tín nhiệm và đánh giá cao, uy tính của doanh nghiệp không ngừng được nâng lên. Do đó, có doanh nghiệp luôn có xu hướng mở rộng sản xuất, thuê mướn thêm công nhân. Số lao động mà doanh nghiệp sử dụng khá lớn, trung bình khoảng gần 30 người /doanh nghiệp. Người lao động có chỗ làm ổn định với mức thu nhập khá, ổn định được cuộc sống. Và doanh nghiệp cũng hoàn toàn có đủ điều kiện để tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc cho người lao động, đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Tuy nhiên, đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động còn phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có trách nhiệm của chủ doanh nghiệp, của cơ qua bảo hiểm xã hội, của các cơ quan chức năng, đôn đốc, bắt buộc chủ doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ đối với người lao động, đối với Nhà nước và xã hội. 2.Với khu vực hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước. Quận Đống đa là quận trung tâm thành phố nên ở đây tập trung nhiều cơ quan của trung ương , của thành phố , và quận. Số lao động của khu vực hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp Nhà nước giảm nhẹ trong năm 2000 mặc dù có nhiều đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội hơn năm 1999 song đến năm 2001 thì số lao động của 2 khu vực này lại tăng lên nhưng số đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội lại giảm. Còn số lao động trong loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng lên rất nhanh: Năm 1999 gấp 1,03 lần; năm 2000 gấp 1,74 lần; năm 2001 gấp 1,36 lần Bảng 10: Kết cấu lao động, thu bảo hiểm xã hội Năm 1998 1999 2000 2001 Khối Số thu (tr.đ) Kết cấu Số thu (tr.đ) Kết cấu Số thu (tr.đ) Kết cấu Số thu (tr.đ) Kết cấu DNNN 34.757 65,37 31.432 62,87 40.485 57,11 45.326 52.28 HCSN 17.477 32,87 17.348 34,7 24.318 34,3 27.105 31.26 NQD 933 1,76 1.210 2,43 6.085 8,59 14.254 16.44 Cộng 53167 100 49.990 100 70888 100 86.685 100 (Nguồn: BHXH quận Đống Đa) Theo bảng số liệu trên thì: - Khối ngoài quốc doanh là khối có số lao động, số tiền phải nộp bảo hiểm rất nhỏ. Số lao động của khối này chỉ chiếm 1,97%: năm 1998; 2,19% năm 1999; 3,86% năm 2000 và 5,02% năm 2001. Còn tỷ lệ thu bảo hiểm xã hội từ khối này lần lượt qua các năm lần lượt là 1,76%; 2,43%; 8,59% và %. Như vậy, cơ cấu lao động thì nhỏ hơn cơ cấu thu bảo hiểm xã hội, đặc biệt là năm 2000. Điều này chứng tỏ là tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bình quân của khối này lớn hơn 2 khối HCSN và DNNN. Bảng 11: Tiền lương bình quân đóng bảo hiểm xã hội của các khối. Năm 1999 2000 2001 Khối Số ld (người) Số thu (Tr.đ) Lương bq năm Số ld (người) Số thu (Tr.đ) Lương bq năm Số ld (người) Số thu (Tr.đ) Lương bq năm DNNN 36.543 31.432 4,3 35.252 40.485 5,74 39.954 43.354 5.94 HCSN 18.245 17.348 4,75 17.945 24.318 6,77 18.045 27.210 7.25 NQD 1.223 2.210 4,97 2.133 6.085 11,.01 2.945 7.251 11.9 (Nguồn: BHXH quận Đống Đa) 3. Tổ chức thu bảo hiểm xã hội tại cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa "Có thu mới có chi" là nguyên tắc hoạt động của các cơ quan nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Do đó thu bảo hiểm xã hội là một nhiệm vụ trọng tâm trong toàn ngành bảo hiểm xã hội. Với đặc điểm quận Đống Đa có địa bàn rộng lớn, khu tập thể dân cư nhiều, khu công nghiệp lớn, số lượng cán bộ công nhân lao động về nghỉ hưu và sinh hoạt tại quận ngày một đông, số lượng người hưởng chế độ chính sách trên 4 vạn người. Mỗi năm cơ quan bảo hiểm xã hội quận tổ chức chi trả lương hưu, chế độ tử tuất, thai sản, mất sức lao động, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hơn 200 tỷ đồng. Cụ thể năm 2001 hơn 232 tỷ 466 triệu đồng trong khi đó tổng thu bảo hiểm xã hội của quận là 86 tỷ đồng. Số thu chỉ chiếm 1/3 số chi bảo hiểm xã hội quận. Do đó, để đảm bảo nguyên tắc cân đối thu chi, giảm ngân sách Nhà nước, tăng ngân sách bảo hiểm xã hội cơ quan quận đề ra biện pháp, hình thức tổ chức triển khai nhằm hoàn thành chỉ tiêu thu quỹ bảo hiểm xã hội năm sau cao hơn năm trước, mở rộng đối tượng thu bảo hiểm xã hội bắt buộc, cụ thể: - Bảo hiểm xã hội quận giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ chuyên thu tại bộ phận thu - cấp sổ bảo hiểm xã hội chịu trách nhiệm quản lý các đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội. Để thực hiện mục tiêu thu qũy bảo hiểm xã hội đầy đủ, kịp thời đúng luật cho các đối tượng thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực hiện chính sách công bằng thì mỗi cán bộ thu nói riêng và bộ phận thu của cơ quan bảo hiểm xã hội quận nói chung phải thực hiện tốt được nhiệm vụ được bảo hiểm xã hội cấp trên giao phó, đó là: - Phát hiện thêm các đối tượng phải tham gia bảo hiểm xã hội trên địa bàn quản lý của mình. Đây là công việc có vị trí quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội quận Đống Đa nói riêng vì có phát hiện thêm các đơn vị, cơ sở tham gia bảo hiểm xã hội thì số lượng người lao động tham gia bảo hiểm xã hội sẽ tăng lên và nguyên tắc số đông bù số ít trong hoạt động bảo hiểm xã hội càng được thực hiện tốt hơn, đồng thời còn tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội, dần làm cho quỹ bảo hiểm xã hội tách khỏi ngân sách Nhà nước. - Tiếp xúc với các cơ quan đơn vị sử dụng lao động. Trước hết, để tạo điều kiện cho cán bộ chuyên quản bảo hiểm xã hội tiếp xúc và làm việc với các đơn vị sử dụng lao động được dễ dàng, thuận lợi. Giám đốc bảo hiểm xã hội quận Đống Đa đã có các cuộc tiếp xúc trước với lãnh đạo đơn vị sử dụng lao động, đặt mối quan hệ ngày từ đầu giữa người tham gia bảo hiểm xã hội với cơ quan bảo hiểm xã hội quận. Sau đó, mỗi cán bộ chuyên quản bảo hiểm xã hội được phân công quản lý phụ trách các đơn vị sử dụng lao động sẽ trực tiếp gặp gỡ cán bộ phụ trách công tác bảo hiểm xã hội đơn vị đó để thực hiện theo công văn số 480/LĐ TBXH ngày 24 tháng 03 năm 1999 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc bố trí cán bộ làm các công việc sau: + Tuyên truyền, giải thích các chế độ chính sách về bảo hiểm xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động. + Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động lập danh sách lao động và quỹ tiền lương tham gia đóng bảo hiểm xã hội (theo mẫu). + Hướng dẫn đơn vị làm phiếu báo tăng, giảm mức đóng bảo hiểm xã hội hàng tháng đến người lao động, lập bảng đối chiếu nộp bảo hiểm xã hội. + Thông báo cho đơn vị về số tài khoản thu bảo hiểm xã hội, mức thu bảo hiểm xã hội. Số tài khoản thu bảo hiểm xã hội quận Đống Đa là : 994 - 03 - 040 tại Kho bạc Đống Đa, mức thu bảo hiểm xã hội: người sử dụng lao động góp 15% quỹ lương và người lao động góp 5% tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội. + Thống nhất với đơn vị về lịch làm việc hàng tháng giữa cán bộ chuyên thu với đơn vị sử dụng lao động. + Kiểm tra số lượng đối chiếu với danh sách, với đơn vị đã đăng ký bảo hiểm xã hội để yêu cầu đơn vị đóng đủ bảo hiểm xã hội cho người lao động thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. - Đôn đốc, theo dõi, ghi chép kêt quả đóng bảo hiểm xã hội: + Hàng tháng căn cứ vào danh sách lao động , quỹ tiền lương đơn vị đã đăng ký và phiếu tăng giảm mức đóng bảo hiểm xã hội để xác định số tiền bảo hiểm xã hội phải đóng, đôn đốc đơn vị đóng bảo hiểm xã hội theo đúng quy định tại thông tư số 58/TT - HCSN ngày 24 tháng 07 năm 1995 của Bộ Tài chính, thông báo kịp thời những đơn vị nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội từ hai tháng trở lên. + Ghi chép kết quả đóng bảo hiểm xã hội của từng cơ quan, đơn vị vào đầy đủ các mục, cột trong sổ, hàng tháng đối chiếu với cán bộ tổng hợp thu của Thành phố về kết quả đóng bảo hiểm xã hội của những đơn vị được phân công, theo dõi, quản lý. + Hàng tháng đối chiếu kết quả đóng của các cơ quan, đơn vị được phân công theo dõi, khi đối chiếu cần kiểm tra lại số lao động, quỹ tiền lương tham gia đóng bảo hiểm xã hội của các tháng trong kỳ đối chiếu và số đơn vị đã đóng trong kỳ đối chiếu từ ngày đầu tháng, đầu quý đến ngày cuối cùng của kỳ đối chiếu. + Hàng quý tổng hợp kết quả đóng bảo hiểm xã hội theo khối (nhóm) quản lý. Ngoài ra cán bộ thu bảo hiểm xã hội cũng phải xác nhận để thanh toán chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức và hướng dẫn các đơn vị viết tờ khai cấp sổ bảo hiểm xã hội, ghi chép vào sổ bảo hiểm xã hội. * Bên cạnh việc phân công cán bộ phụ trách quản lý số cơ sở nhất định thì bảo hiểm xã hội quận đã kiện toàn lại 4 nhóm, mỗi nhóm từ 2 đến 3 cán bộ viên chức đến từ cơ sở để đối chiếu phần đã đóng, số còn nợ đọng từ những năm trước đều được chuyển sang năm 2001 và được đôn đốc nhắc nhở bằng công văn hoặc trực tiếp làm việc với lãnh đạo đơn vị để có biện pháp thực hiện nghĩa vụ trích đóng quỹ bảo hiểm xã hội, làm cơ sở thực hiện giải quyết quyền lợi cho người lao động. * Vào sổ cập nhật theo dõi đối chiếu việc thực hiện trích đóng bảo hiểm xã hội của từng đơn vị kịp thời. * Có kế hoạch phối kết hợp với các ngành tổ chức kiểm tra việc thực hiện điều lệ bảo hiểm xã hội theo chỉ thị 15 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 17 của Thường vụ Thành uỷ Hà Nội về tăng cường công tác lãnh đạo thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội với người lao động. * Triển khai tổ chức vận động các doanh nghiệp tư nhân thực hiện đăng ký đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, hướng dẫn các cơ sở tổ chức thực hiện tốt các quyền lợi cho người lao động theo luật định và điều lệ bảo hiểm xã hội. Vì vậy, cùng với các biện pháp tổ chức triển khai thu bảo hiểm xã hội và sự nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ cuả toàn bộ tập thể cán bộ viên chức bảo hiểm xã hội quận thì chỉ tiêu thu theo kế hoạch của bảo hiểm xã hội Thành phố luôn luôn được hoàn thành xuất sắc, năm sau luôn cao hơn năm trước với tốc độ phát triển cao, cụ thể: Bảng 12: Số thu bảo hiểm xã hội tại cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa qua các năm. Năm Số thu (triệu đồng) Tốc độ phát triển liên hoàn (%) 1995 31096 1996 65462 201,5 1997 56463 86,25 1998 53167 94,20 1999 49990 94,02 2000 70888 141,8 2001 86000 121,32 2002 (dự kiến) 91,5 106,4 Chung 504566 (Nguồn: BHXH quận Đống Đa) Như vậy, qua 7 năm hoạt động, từ tháng 10 năm 1995 tới tháng 12 năm 2001, bảo hiểm xã hội quận Đống Đa đã thu được 413, 066 tỷ đồng, bình quân mỗi năm thu được hơn 59,1 tỷ đồng. Mặc dù số thu bảo hiểm xã hội năm 1997 có giảm so với năm 1996 nhưng thực chất số thu vẫn tăng lên, bởi vì trong năm 1997, UBND Thành phố Hà Nội đã quyết định cắt một phần đất đai của quận Đống Đa chuyển sang quận Thanh Xuân. Năm 1998, 1999 số thu bảo hiểm xã hội có giảm nhẹ do thực hiện giảm biên chế nên số lượng lao động làm việc trong khối hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp Nhà nước giảm. Bắt đầu từ năm 2000, số thu bảo hiểm xã hội tăng vọt. Năm 2001 tăng 20% so với năm 2000 đó là do sự phát triển của số đơn vị, lao động khu vực ngoài quốc doanh. Điều đó cho thấy thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng thu bảo hiểm xã hội toàn quận Đống Đa. Trong những năm tới, bảo hiểm xã hội đang cố gắng, nỗ lực mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội nhất là khu vực ngoài quốc doanh, một khu vực với nhiều tiềm năng chưa khai thác. Thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh (với các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã, các cơ sở, trường công lập...) được xem là một trong những chiến lược lâu dài, quan trọng. Cơ quan bảo hiểm xã hội Quận Đống Đa xác định thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh thực sụ là một vấn đề khó khăn và nan giải. Do đó, cần có sự nỗ lực không chỉ riêng mỗi cán bộ, tập thể cơ quan bảo hiểm xã hội quận mà cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành chức năng tạo điều kiện cho việc tổ chức thu bảo hiểm xã hội được tiến hành theo đúng luật, thu đầy đủ, kịp thời đảm bảo quyền lợi của người lao động, thực hiện an sinh xã hội. 4. Thực trạng thu và thất thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn quận Đống Đa. Mặc dù trụ sở của cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa còn chật, nhỏ hẹp, số lượng cán bộ của cơ quan là 20 người với 12 nữ và 6 nam phải giải quyết, thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội choặc số lượng lớn người hưởng chế độ của 21 phường, hơn 4,2 vạn người hưởng lương hưu và quản lý hơn 700 đầu mối tham gia bảo hiểm xã hội. Khối lượng công việc quá nhiều nhưng bằng sự nỗ lực phán đấu của toàn thể cơ quan bảo hiểm xã hội quận để hoàn thành chỉ tiêu, giải quyết kịp thời yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Bảng 13: Tình hình thu và nợ đọng thu BHXH Quận Đống đa năm 2001. Khối Tổng quỹ lương (triệu đ) Số phải Thu (triệu đ) Nợ BHXH 2001 (triệu đ) Tổng số Phải thu (triệu đ) Số đã thu (triệu đ) Còn lại năm sau (triệu đ) DNNN 231,534 46,305 5,474 54,799 51,240 0,439 HC-SN 128,922 25,584 0,181 25,775 27,088 -0,298 Ngoài QD 16,527 3,3054 0,806 4,106 4,017 0,089 Tổng 375,973 75,195 6,461 81,656 82,345 -0,689 (Nguồn :BHXH quận Đống đa) Ngay khi thành lập, bảo hiểm xã hội quận Đống Đa đã có nhiều cố gắng tổ chức khai thác, mở rộng các đối tượng thu bảo hiểm xã hội theo quy định đặc biệt không ngừng mở rộng thu bảo hiểm xã hội ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhưng kết quả bước đầu đạt được rất đáng khích lệ, số thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh năm sau cao hơn năm trước và năm nào cũng hoàn thành kế hoạch được giao, số đơn vị ngoài quốc doanh tham gia bảo hiểm xã hội cũng như số lao động tham gia bảo hiểm xã hội ngày một tăng, cụ thể: a. Những khó khăn, tồn tại Mặc dù đã có những thành tựu rất đáng khích lệ trong thời gian qua số thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh hàng năm có sự gia tăng, năm sau cao hơn năm trước cả về tỷ trọng lẫn số tuyệt đối. Tuy nhiên so với tổng số thu cần khai thác thì kết quả này còn rất khiêm tốn. Thu bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, đó là: * Tồn tại lớn nhất số lượng lớn các doanh nghiệp và người lao động thuộc khu vực ngoài quốc doanh chưa tham gia bảo hiểm xã hội. Số đơn vị ngoài quốc doanh cũng như số lao động tham gia bảo hiểm xã hội chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Theo số liệu thống kê của chi cục thuế, tính đến thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2001, trên địa bàn quận Đống Đa có 268 đơn vị ngoài quốc doanh đăng ký thành lập với số lao động là 5460 người. Nhưng thực tế chỉ có 166 đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội đạt tỷ lệ 62% và 3259 lao động đạt tỷ lệ 59,7%. Trên đăng ký kinh doanh là như vậy, nhưng trong thực tế vẫn còn một số lượng rất lớn doanh nghiệp sử dụng 10 lao động trở lên mà chưa cơ quan nào kiểm soát được. Sở dĩ có tình trạng này vì lợi dụng kẽ hở của pháp luật, một số doanh nghiệp tuy có tên (giây phép ngành nghề) nhưng hoạt động không ổn định, không thường xuyên hoạt động kinh doanh theo mùa vụ, luôn thay đổi địa điểm kinh doanh và phương thức kinh doanh. Đặc biệt, còn một số doanh nghiệp có giấy phép ngành nghề nhưng không có địa chỉ, hoặc địa chỉ không rõ ràng địa chỉ "ma", thậm chí chủ doanh nghiệp do người khác đứng lên hoặc tìm chủ doanh nghiệp cũng không có. Việc buông lỏng trong quản lý và sử dụng kinh doanh của cơ quan chức năng dẫn đến tình trạng doanh nghiệp có đăng ký thành lập doanh nghiệp nhưng không đăng ký sử dụng lao động. Khi sử dụng lao động không có hợp đồng cụ thể, không đảm bảo các điều kiện quy định của Bộ Luật lao động. Do đó, cơ quan bảo hiểm xã hội không có cơ sở xác định hình thức hợp đồng lao động để khai thác đối tượng thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Ngoài ra ở khu vực này, doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để tránh né việc thực hiện bảo hiểm xã hội cho người lao động theo Điều lệ bảo hiểm xã hội. Tình trạng này ngày càng trở lên phổ biến. Cụ thể: - Kê khai số lao động thấp hơn số thực tế đang làm việc. - Duy trì những hợp đồng ngắn hạn dưới ba tháng nhiều lần, nếu cần thì tiếp tục gia hạn thêm. - Nhiều chủ doanh nghiệp thực hiện hành vi lảng tránh nghĩa vụ thông qua "sáng kiến" chỉ tuyển lao động vào làm việc theo thời vụ, sau đó nếu cần mới tiếp tục gia hạn. Ngoài ra, chỉ ký hợp đồng lao động dài hạn với số lao động ít hơn 10 người và thường là bộ máy lãnh đạo, còn phần lớn số người lao động trực tiếp thì được ký kết hợp đồng theo mùa vụ bằng miệng. - Biện minh lý do người lao động không muốn tham gia bảo hiểm xã hội vì dựa vào kẽ hở văn bản, nghị định của cơ quan bảo hiểm xã hội. - Tự ban hành cho mình những quy chế riêng trái với luật lao động và Điều lệ bảo hiểm xã hội. - Ngoài ra, một thủ đoạn để doanh nghiệp né tránh nghĩa vụ với người lao động là đưa hàng hoá ra ngoài gia công, áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm, thực chất chuyển đổi quan hệ sản xuất, quan hệ lao động sang tay người khác, đó là thủ đoạn doanh nghiệp nhằm giảm chi phí tiền lương cho doanh nghiệp nhưng đồng thời đẩy hàng loạt người lao động vào cảnh sống bấp bênh. - Khi chủ doanh nghiệp tham gia bảo hiểm xã hội nhưng lại cố tình khai mức tiền công tham gia bảo hiểm xã hội nhỏ hơn tiền công thực tế trả và tiền công đưa vào tính thuế, khai giảm quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để sử dụng vào các mục đích khác.Trong thực tế một số doanh nghiệp luôn tối thiểu hoá quỹ lương , mức lương của người lao động chỉ xấp xỉ mức lương tối thiểu hoặc cao hơn một chút nhưng phụ cấp hay tiền thưởng thì có rất nhiều loại có khi chiếm 40-50% tổng thu nhập một ví dụ là Công ty công nghệ thông tin FIPT khi nộp BHXH thì lương chính bình quân một lao động trong công ty chỉ là 325.000 đồng trong khi thực tế thu nhập của một lao động trung bình là 820.000 đồng. - Tình trạng sử dụng lao động ngoài quỹ lương đang là hiện tượng khá phổ biến được người sử dụng lao động áp dụng để né tránh nghĩa vụ với người lao động. Để giảm bớt chi phí, những doanh nghiệp tự hoạch toán thu, chi thường khoán cho người lao động việc tái sản xuất sức lao động. Bằng nhiều cách, nhiều thủ đoạn chủ doanh nghiệp luôn tìn cách né tránh nghĩa vụ cho người lao động, quyền lợi của người lao động bị xâm phạm. Trên địa bàn quận Đống Đa, nhiều doanh nghiệp biện minh khó khăn trong sản xuất để sử dụng 5% trích nộp của người lao động để phục vụ mục đích khác thì nhiều doanh nghiệp ăn nên làm ra vẫn cố tình lợi dụng kẽ hở pháp luật để trốn đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Một trong những đơn vị đó là : Công ty Cổ phần Nam Thắng... 1 "lô cốt" điển hình, Công ty chuyên sản xuất giày thể thao xuất khẩu. Thời kỳ hoàng kim Công ty sử dụng đến 1600 lao động, nhưng do sự cạnh tranh thị trường và khó khăn chung của ngành giày, hiện nay công ty sử dụng tới 922 lao động nhưng về số người được đóng bảo hiểm xã hội chỉ là 324 lao động, người phụ trách công tác bảo hiểm xã hội của Công ty giải thích do đặc thù sản xuất của ngành giày là sử dụng lao động trẻ, lao động từ nông thôn ra làm việc và có tới 80% là nữ, công việc không ổn định là làm theo thời vụ. Trong số 324 lao động tham gia bảo hiểm xã hội đa số là cán bộ làm công tác chuyên quản, bộ phận làm gián tiếp và những công nhân có từ 3 năm làm việc trở lên. Vậy đã rõ, quyền lợi bảo hiểm xã hội của người lao động làm việc trên 3 tháng và dưới ba năm bị lãng quên và ngay cả 324 công nhân đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội thì công ty cũng còn nợ bảo hiểm xã hội đến 250 triệu đồng. Làm ngơ việc đóng bảo hiểm xã hội cho 600 lao động (2/3 số lao động đang sử dụng), công ty đổ lỗi bởi đặc trưng của ngành giày, bởi tâm lý người lao động không ổn định, không gắn bó với công ty. Vậy, quyền lợi của người lao động ai lo? Họ biết trông cậy vào đâu? Ngoài công ty cổ phần Nam Thắng, tại công ty xuất nhập khẩu may mặc, là đơn vị may gia công có sử dụng lao động 300 người nhưng chỉ đăng ký cho trên dưới 91 người tham gia bảo hiểm xã hội, theo ban giám đốc thì do lực lượng lao động biến động thường xuyên, do doanh nghiệp khó khăn về vốn nên không thể ký hợp đồng dài hạn mà chỉ ký hợp đồng 3 tháng và khoánbh xã hội cùng các chế độ khác. Trên thực tế, số lao động đều có thời gian công tác trên 5 năm nhưng vẫn ký hợp đồng theo mùa vụ cũng có người chỉ ký hợp đồng theo mùa vụ một lần nhưng đã làm việc trên 3 năm vẫn chưa ký hợp đồng mới. Công ty xuất nhập khẩu Thuỷ sản sử dụng hơn 156 lao động nhưng cho đến nay hơn 100 lao động mùa vụ không được tham gia bảo hiểm xã hội, công ty giải thích do lao động chưa qua đào tạo bài bản, nên mọi khâu kỹ thuật đều do công ty hướng dẫn ít nhất sau 1 năm mới xác định được khả năng làm việc để ký hợp đồng dài hạn. Đã hơn 3 năm rồi, công ty đã kèm cặp nghề và thử việc lao động nhưng chỉ có 56 người được ký hợp đồng dài hạn còn đến 100 lao động phải thử việc chưa biết đến bao giờ? * Về mức tiền công, tiền lương đăng ký trích nộp bảo hiểm xã hội cũng không đúng với thực tế. Các doanh nghiệp tìm mọi cách để khai giảm quỹ tiền lương, số tiền đóng bảo hiểm xã hội. Cách thông thường mà họ hay dùng là ghi mức lương trong hợp đồng thấp hơn mức thực tế. Đa số tiền lương, tiền công làm căn cứ trích nộp bảo hiểm xã hội thấp, thậm chí có trường hợp thấp hơn lương tối thiểu. * Ngoài việc trốn đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động thì tình trạng doanh nghiệp nợ đọng bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã và đang là vấn đề hết sức nóng bỏng hiện nay. Đến cuối năm 2000, Hà Nội có 363 đơn vị nợ bảo hiểm xã hội trên 6 tháng với 30 tỷ 110 triệu đồng. Với sự nỗ lực của toàn ngành đến tháng 6 năm 2001 vẫn còn hơn 100 đơn vị nợ với số tiền 27 tỷ 561 triệu đồng. Trong số 27 tỷ 561 triệu đồng chủ yếu rơi vào doanh nghiệp Nhà nước: nợ 20 tỷ 37 triệu; đơn vị liên doanh văn phòng đại diện nước ngoài nợ: 6 tỷ 172 triệu đồng và khối ngoài quốc doanh (công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn nợ 1 tỷ 352 triệu đồng). Số nợ bảo hiểm xã hội có ở khắp 12 quận, huyện của Thành phố Hà Nội. Dẫn đầu là quận Hai Bà Trưng với số nợ 6,229 tỷ, tiếp đến là quận Thanh Xuân với 4,413 tỷ đồng và thứ ba là quận Đống Đa nợ 3,959 tỷ đồng. Thống kê của bảo hiểm xã hội quận Đống Đa, tháng 6 năm 2001 có 3,959 tỷ đồng nợ bảo hiểm xã hội nằm ở 33 đơn vị, trong đó có 24 doanh nghiệp Nhà nước nợ 2 tỷ 191 triệu đồng, 6 doanh nghiệp ngoài quốc doanh nợ 391 triệu đồng, 8 đơn vị liên doanh nợ 1 tỷ 377 triệu đồng. Vậy trong 6 tháng đầu năm 2001 có 6 doanh nghiệp ngoài quốc doanh nợ với 391 triệu đồng thì đến 31 tháng 12 năm 2001 con số doanh nghiệp ngoài quốc doanh nợ bảo hiểm xã hội lên 10 đơn vị với 800 triệu đồng trong tổng số 166 doanh nghiệp tham gia bảo hiểm xã hội chiếm 6%. Như vậy, tình hình nợ đọng bảo hiểm xã hội có xu hướng gia tăng, đơn vị tăng 4, gấp 1,5 lần và số tiền tăng 2,2 lần. Trong 10 đơn vị nợ đọng bảo hiểm xã hội không phải 6 tháng, 1 năm mà kéo dài năm này qua năm khác, điển hình: Công ty may mặc xuất nhập khẩu thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Công ty điện tử thuộc Bộ giao thông vận tải, Công ty Hanel, Công ty DaSimex,... Ngoài ra, còn một số công ty nợ bảo hiểm xã hội trên 6 tháng là: Công ty trách nhiệm hữu hạn công nghệ thông tin nợ với số tiền là 61,920 triệu đồng; Công ty Dịch vụ Đầu tư và Du lịch Nghi Tâm là 66,189 triệu đồng; Công ty Nhật Hà 45,150 triệu đồng; Công ty trách nhiệm hữu hạn Đầu tư xây dựng cơ khí nợ 53,471 triệu đồng, Công ty trách nhiệm hữu hạn Toàn Mỹ nợ 25,415 triệu đồng. Và trong những thực trạng không thể không nhắc đến ảnh hưởng đến công tác thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh của cơ quan bh xã hội quận Đống Đa là số tiền bảo hiểm xã hội thường hay bị nộp chậm, không đúng thời gian quy định. Hiện tại, vẫn còn một cán bộ thu của cơ quan chưa am hiểu hết quy trình quản lý của bảo hiểm xã hội quận Đống Đa, thường chậm trễ trong việc lập các danh sách lao động, quỹ tiền lương, biểu tăng, giảm số lượng lao động thậm chí cả trường hợp họ đã làm đầy đủ các giấy tờ cần thiết nhưng lại cố tình không chuyển vào tài khoản của bảo hiểm xã hội quận Đống Đa. Số thu bảo hiểm xã hội của quý này thì phải đến quý sau mới thu được. b. Nguyên nhân Như vậy, nếu so sánh số doanh nghiệp tham gia bảo hiểm xã hội so với các doanh nghiệp hoạt động trên thực tế sẽ là một con số rất nhỏ. Thực trạng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia bảo hiểm xã hội quá ít như hiện nay, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, lý do khác nhau, cụ thể: - Các văn bản của Nhà nước: Trước hết là N

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc13001.DOC
Tài liệu liên quan