Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 106
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT SỬA CHỮA KÊNH NHĨ THẤT 
TRUNG GIAN VÀ TOÀN PHẦN TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC 
Y DƯỢC TP. HỒ CHÍ MINH 
Vũ Trí Thanh* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Bệnh kênh nhĩ thất chiếm tỉ lệ 2,9% trong số các bệnh tim bẩm sinh. Điều trị nội khoa chỉ có 
tính chất nâng đỡ, điều trị Ngoại khoa thì triệt để nhưng phải đúng thời điểm, đúng chỉ định và kỹ thuật mổ phù 
hợp. Để đánh giá về đặc điểm tổn thương bệnh, thời điểm mổ, kỹ thuật mổ và kết quả, chúng tôi nghiên cứu đánh 
giá kết quả điều trị sớm phẫu thuật kênh nhĩ thất toàn phần tại bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM. 
Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt dọc, tiền cứu 
Kết quả: Chúng tôi có 53 bệnh nhân, trong đó nam chiếm tỉ lệ 43,4% và nữ 56,6%; 23 bệnh nhân là kênh 
nhĩ thất thể trung gian và 30 toàn thể; tuổi trung bình 5,2 ± 9,3; trọng lượng trung bình 13,8 ± 12,7 kg. Kết quả 
sau mổ, trong nhóm kênh nhĩ thất thể trung gian, có 1,9% hở van hai lá nặng, 5,7% hở van hai lá trung bình và 
11,3% hở van hai lá nhẹ; có 7,5% hở van ba lá trung bình; không có trường hợp nào hở van hai lá nặng; không có 
thông liên nhĩ hay thông liên thất tồn lưu; có 1 trường hợp (1,9%) bị Block nhĩ thất độ 3 sau đó tự hồi phục; 
không có trường hợp nào tử vong. Tuy nhiên trong nhóm kênh nhĩ thất toàn thể, có 11,3% hở van nhĩ thất chung 
bên trái nặng; 37% hở van nhĩ thất chung bên trái trung bình; 20,7% hở nặng van nhĩ thất chung bên phải trung 
bình; có 9,4% block nhĩ thất độ 3 sau đó tự hồi phục; 1,9% bị tử vong. 
Kết luận: Phẫu thuật sửa chữa triệt để kênh nhĩ thất trung gian và toàn phần cho kết quả sớm tương đối tốt, 
tuy nhiên tùy thuộc vào thể loại bệnh và tổn thương kèm theo, nếu phẫu thuật đúng thời điểm và đúng kỹ thuật 
thì có thể giảm được tỉ lệ biến chứng và tử vong, tuy nhiên cần được nghiên cứu với số bệnh nhân lớn và theo dõi 
dài hạn hơn. 
Từ khóa: Phẫu thuật sửa chữa kênh nhĩ thất trung gian và toàn phần 
ABSTRACT 
RESULT EVALUATION FOR SURGICAL REPAIR OF ATRIOVENTRICULAR SEPTAL DEFECTS AT 
UNIVERSITY MEDICAL CENTER, HO CHI MINH CITY 
Vu Tri Thanh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 106 – 111 
Introduction: Atrioventricular septal defect (AVSD) contributes to 2.9% of congenital heart defects. 
Internal medicine treatment is only for supportive. Surgical treatment is full recovery, but must be timely, 
appropriate indication and surgical techniques. To assess the characteristics of lesions, time of surgery, surgical 
techniques and results, we study and assess the results of early treatment of AVSD surgery at University Medical 
Center, Ho Chi Minh city. 
Method: Prospective descriptive study 
Results: There were 53 patients, of which males accounted for 43.4% and females 56.6%; 23 patients had 
intermediate and 30 patients had complete AVSD; mean age was 5,2 ± 9,3 years; mean weight was 13,8 ± 12,7 kg. 
At post - operative results, in intermediate AVSD group, 1.9% of patients showed severe mitral valve 
regurgitation, while 5.7% had moderate and 11.3% had mild mitral valve regurgitation; 7.5% with moderate 
* Bộ môn Ngoại lồng ngực – Tim mạch, Đại học Y Dược TPHCM 
Tác giả liên lạc: TS BS Vũ Trí Thanh ĐT: 0938999929 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 107
tricuspid regurgitation; There were no cases of severe mitral valve regurgitation; no persistent atrial or 
ventricular septal defect; there was 1 case (1.9%) with type 3 atrioventricular block, then self - recovery; There was 
no mortality in our series. However, in complete AVSD group, 11.3% having severe left common AV valve 
regurgitation; while 37% was moderate; 20.7% had moderate right common AV regurgitation; 9.4% had type 3 
atrioventricular block then self - recovery; 1.9% was dead. 
Conclusion: Surgical repair of intermediate and complete AVSD carried early good outcomes, however, 
based on the type of disease and associated lesions, the surgery is timely with appropriate technique could reduce 
the rate of death and complications, but it should be done with larger number of patients and longer -term studies. 
Keywords: surgical repair of transitional and complete atrioventricular septal defects 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh kênh nhĩ thất toàn phần được gọi là 
bệnh do khiếm khuyết gối nội mạc hoặc kênh 
nhĩ thất hoặc thông sàn nhĩ thất. Tần suất bệnh 
Kênh nhĩ thất chiếm tỉ lệ 2,9% trong số các bệnh 
tim bẩm sinh. Bệnh này đặc trưng bởi Thông liên 
nhĩ lỗ thứ nhất, thông liên thất rộng không hạn 
chế và tổn thương van nhĩ thất nặng. Van hai lá 
và ba lá không có sự phân chia rõ rệt, nó có 
chung một vòng van. Van nhĩ thất chung thường 
có 5 mảnh. Kênh nhĩ thất được chia thành 4 loại 
là Kệnh nhĩ thất bán phần (Partial AVSD), Kênh 
nhĩ thất thể chuyển tiếp (Transitional AVSD), 
Kênh nhĩ thất thể trung gian (Intermediate 
AVSD) và Kênh nhĩ thất toàn phần (Complete 
AVSD) tùy vào mức độ bắc cầu của van nhĩ thất 
chung trên trái trên thông liên thất(1,Error! 
Reference source not found.,12,14). Bệnh này 
diễn tiến ngày càng nặng gây suy tim sung 
huyết, tăng áp động mạch phổi làm cho trẻ bị 
khó thở, chậm phát triển về thể chất và tinh thần. 
Điều trị nội khoa chỉ có tính chất nâng đỡ, điều 
trị Ngoại khoa có tính chất điều trị triệt để, tuy 
nhiên phải đúng thời điểm, đúng chỉ định và kỹ 
thuật mổ phù hợp. Trên thế giới, sau báo cáo đầu 
tiên về phẫu thuật điều trị kênh nhĩ thất bởi 
Lillehei và cộng sự, nhiều kỹ thuật sửa chữa triệt 
để đã được mô tả, trong đó bao gồm sửa chữa hở 
van nhĩ thất và đóng các lỗ thông trong tim bằng 
1 hay 2 miếng patch(1,Error! Reference source 
not found.,13,14). Tại Việt Nam, phẫu thuật điều 
trị kênh nhĩ thất đã được tiến hành tại một số 
bệnh viện như: bệnh viện E, bệnh viện tim Hà 
nội, viện tim thành phố Hồ Chí Minh. Song các 
nghiên cứu hồi cứu và mới chỉ đánh giá kết quả 
ban đầu. Do vậy việc đánh giá chi tiết về đặc 
điểm tổn thương bệnh, mổ bằng kỹ thuật nào, 
kết quả ra sao là rất cần thiết. 
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
Đánh giá kết quả điều trị sớm sau phẫu thuật 
kênh nhĩ thất toàn phần tại bệnh viện Đại học Y 
Dược TP.HCM 
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
Tổng số bệnh nhân được phẫu thuật kênh 
nhĩ thất trung gian và toàn phần tại bệnh viện 
Đại học Y Dược TP.HCM từ tháng 1/2016 đến 
tháng 7/2017 được lựa chọn với tiêu chuẩn: Chẩn 
đoán xác định bằng siêu âm, kênh nhĩ thất trung 
gian hoặc toàn phần. Những trường hợp bị tăng 
áp phổi nặng được thông tim đo kháng lực phổi. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Mô tả cắt dọc, tiền cứu. 
Từ 1/2016 đến 7/2017, tại bệnh viện Đại học Y 
Dược TP.HCM, chúng tôi đã phẫu thuật điều trị 
28 trường hợp kênh nhĩ thất. Các bệnh nhân khi 
nhập viện sẽ được tiến hành chẩn đoán các vấn 
đề của kênh nhĩ thất thông qua bệnh sử (có hội 
chứng Down hay không), khám lâm sàng, cận 
lâm sàng (X-quang ngực thẳng, điện tâm đồ, siêu 
âm tim). Chẩn đoán xác định kênh nhĩ thất dựa 
vào siêu âm tim. Siêu âm tim là phương tiện đơn 
giản, không xâm lấn nhưng rất hữu ích để chẩn 
đoán và đánh giá, tiên lượng, lên kế hoạch phẫu 
thuật. Xác định chẩn đoán kênh nhĩ thất qua các 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 108
đặc điểm: có thông liên nhĩ nguyên phát, có hoặc 
không có thông liên thất, có chẽ ở lá trước van 
nhĩ thất trái gây hở van với các mức độ khác 
nhau, có 1 hoặc 2 bộ máy van nhĩ thất, đánh giá 
mức độ hở van nhĩ thất trái, phải, xác định các 
tổn thương phối hợp: tồn tại lỗ bầu dục, thông 
liên nhĩ thứ phát, tồn tại TM chủ trên (T), đánh 
giá kích thước thất trái, chức năng co bóp thất 
trái, áp lực động mạch phổi... Nếu trên siêu âm 
tim có tăng áp lực động mạch phổi nặng hoặc 
nghi ngờ có nhiều tổn thương phối hợp sẽ làm 
thông tim chẩn đoán. 
Mở ngực đường giữa xương ức. Thiết lập 
tuần hoàn ngoài cơ thể qua ống lấy máu hai tầng 
ở nhĩ phải và ống cho máu ở gốc động mạch chủ. 
Nhiệt độ cơ thể có thể giữ ở 37oC hay hạ xuống 
32oC. Bảo vệ cơ tim bằng cách truyền dung dịch 
liệt tim xuôi dòng vào gốc động mạch chủ. Dung 
dịch liệt tim lạnh 4oC có máu. Làm lạnh bề mặt 
tim bằng đá nhuyễn. Mở nhĩ (P) từ đáy tiểu nhĩ 
đến gần TM chủ dưới, song song với rãnh nhĩ 
thất. Sau khi mở nhĩ (P), xác định các cấu trúc 
giải phẫu trong tim. Những thành phần giải 
phẫu cần đánh giá và điều trị bao gồm: thông 
liên nhĩ, thông liên thất, van nhĩ thất chung, van 
nhĩ thất trái và van nhĩ thất phải. Phẫu thuật 
gồm các bước đóng lại thông liên thất, đóng lại 
khe hở trên lá van trái, phân chia van nhĩ thất 
chung thành van nhĩ thất trái và van nhĩ thất 
phải riêng biệt, sửa chữa van nhĩ thất trái, sửa 
chữa van nhĩ thất phải, đóng lại thông liên nhĩ, 
bảo tồn đường dẫn truyền. Kết quả phẫu thuật 
sớm được đánh giá dựa trên các thông số đánh 
giá trên lâm sàng, cận lâm sàng. Trên siêu âm 
tim sẽ đánh giá: không còn thông liên nhĩ và 
thông liên thất tồn lưu. Hậu phẫu sẽ đánh giá 
các biến chứng, xác định tỷ lệ tử vong. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 53 bệnh 
nhân, trong đó 23 bệnh nhân là nam, chiếm tỉ lệ 
43,4% và 30 nữ chiếm 56,6%. 
Có 23 bệnh nhân là kênh nhĩ thất thể trung 
gian và 30 bệnh nhân thể toàn phần. Tuổi 
trung bình là 5,2 ± 9,3. Trọng lượng trung bình 
là 13,8 ± 12,7 kg. 
Hình 1: Phân bố bệnh theo giới 
Hình 2: Phân bố bệnh theo nhóm tuổi 
Hầu hết bệnh nhân đến muộn nên tất cả đều 
có tình trạng tăng áp phổi từ mức độ trung bình 
đến nặng, trong đó, tăng áp phổi ở mức độ trung 
bình là 42 bệnh nhân (79,2%) trong khi mức độ 
nặng là 11 bệnh nhân (20,8%). Những bệnh nhân 
này có bóng tim lớn và có tăng tuần hoàn phổi 
trên XQ ngực thẳng. Những trường hợp có tăng 
áp phổi nặng đều được thông tim chẩn đoán để 
đánh giá mức độ tăng áp động mạch phổi. Đối 
với những bệnh nhân này, chúng tôi thường sử 
dụng chất ức chế milrinone (chất ức chế 
phosphodiesterase) trước mổ và tiếp tục dùng 
trong thời gian sau mổ, đồng thời được an thần, 
thở máy trong ICU từ 12 đến 24 giờ. 
Trong nhóm kênh nhĩ thất trung gian, 
nghiên cứu siêu âm tim cho thấy 17,4% người 
bệnh trước phẫu thuật (n = 4) hở van 2 lá nhẹ, 
17,4% (n=4) ở mức độ vừa và 65,2% (n=15) ở mức 
độ nặng; 78,3% (n = 18) bệnh nhân hở van 3 lá ở 
mức độ vừa. Trong nhóm kênh nhĩ thất toàn thể, 
nghiên cứu siêu âm tim cho thấy 100% trường 
hợp có hở nặng van chung nhĩ thất. Ngoài ra, 
chúng tôi ghi nhận các tổn thương kèm theo 
gồm có tim 1 thất dạng thất phải 8 trường hợp 
(15,1%), thất phải hai đường thoát 4 trường hợp 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 109
(7,5%), tứ chứng Fallot 2 trường hợp (3,8%), bất 
thường hồi lưu tĩnh mạch phổi 4 trường hợp 
(7,5%), hẹp động mạch phổi 2 trường hợp (3,8%), 
còn ống động mạch 9 trường hợp (17%); 1 
trường hợp có MAPCAs (1,9%) và 1 trường hợp 
situs inversus (1,9%). 
Kết quả sau mổ, trong nhóm kênh nhĩ thất 
thể trung gian, có 1 trường hợp (1,9%) hở van hai 
lá nặng, 3 trường hợp (5,7%) hở van hai lá trung 
bình, và 6 trường hợp (11,3%) có hở van hai lá 
nhẹ, có 4 trường hợp (7,5%) hở van ba lá trung 
bình, không có trường hợp nào hở van hai lá 
nặng; không có thông liên nhĩ hay thông liên 
thất tồn lưu; có 1 trường hợp (1,9%) bị Block nhĩ 
thất độ 3 sau đó tự hồi phục; không có trường 
hợp nào tử vong. Tuy nhiên trong nhóm kênh 
nhĩ thất toàn thể, có 6 trường hợp (11,3%) hở van 
nhĩ thất chung bên trái nặng; 11 trường hợp 
(37%) hở van nhĩ thất chung bên trái trung bình; 
17 trường hợp (20,7%) hở nặng van nhĩ thất 
chung bên phải trung bình; có 5 trường hợp 
(9,4%) bị block nhĩ thất độ 3 sau đó tự hồi phục; 1 
trường hợp (1,9%) bị tử vong. 
Bảng 1. Biến chứng sau mổ 
Biến chứng sau mổ Số trường 
hợp 
Tỉ lệ (%) 
Nhiễm trùng 
Nhiễm trùng vết mổ 
Viêm phổi 
5 
18 
9,4 
34 
Tràn dịch màng phổi 
Tràn dịch dưỡng trấp 
Tràn dịch không dưỡng trấp 
1 
13 
1,9 
24,5 
Tràn khí màng phổi 3 5,7 
Tràn dịch màng tim 4 7,5 
Block nhĩ thất độ III tạm thời 6 11,3 
Nội khí quản và thở máy sau 
mổ, kéo dài trên 2 tuần 
7 13,2 
Tử vong 1 1,9 
BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy 
kênh nhĩ thất trung gian và toàn phần thể hiện 
trên lâm sàng bệnh tim ở nhiều mức độ khác 
nhau. Hầu hết bệnh nhân đều là những người 
phát hiện trễ vì được chuyển đến muộn, với các 
yếu tố tiên lượng xấu như suy tim, hở van mức 
độ vừa đến nặng trước phẫu thuật và tăng áp 
phổi(1,Error! Reference source not found.,14). 
Với tiến bộ trong kỹ thuật mổ, gây mê, hồi sức, 
kết quả của phẫu thuật điều trị triệt để kênh nhĩ 
thất trung gian và toàn phần ngày càng được cải 
thiện(5,Error! Reference source not found.,11). 
Việc chọn thời điểm phẫu thuật là rất quan 
trọng. Trong nghiên cứu, chúng tôi chọn thời 
điểm mổ nhiều nhất là trước 1 tuổi vì những 
bệnh nhân này hở nặng van 2 lá và van nhĩ thất 
chung và lỗ thông liên nhĩ và thông liên thất lớn, 
tăng áp phổi nặng, suy tim ứ huyết, kém đáp 
ứng điều trị nội khoa. Với những trường hợp bị 
hở van mức độ nhẹ hoặc vừa, lỗ thông liên nhĩ 
nhỏ hoặc vừa, chưa tăng áp động mạch phổi 
hoặc tăng nhẹ, chúng tôi điều trị nội khoa và thời 
điểm mổ tốt nhất là từ 2 đến 6 tuổi. 
Weintraub RG(15) cho rằng nếu sau mổ tình 
trạng hở van mức độ vừa tăng lên đáng kể, đó là 
do sự hở van mức độ nặng trước mổ; hở van 
trước phẫu thuật cũng làm tăng tỷ lệ tử vong. 
Chowdhury UK(3) và các cộng sự cũng cho rằng 
sau khi sửa chữa kênh nhĩ thất, 10% bệnh nhân 
đã hở van tim nặng hơn và hầu hết những bệnh 
nhân này đều bị hở van tim nặng trước mổ. Jerbi 
S(7) cùng cộng sự cũng quan sát thấy rằng trong 
56 bệnh nhân được sửa chữa kênh nhĩ thất bị hở 
van hai lá hậu phẫu, có 28,5% trường hợp ở cấp 
độ I, 60% trường hợp ở cấp độ 2, trong khi 7,5% 
trường hợp hở van hai lá cấp độ 3,4. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, nhóm kênh nhĩ thất 
toàn thể, có 6 trường hợp (20%) hở van nhĩ thất 
chung bên trái nặng. Tất cả những trường hợp 
này đều có hở van nặng trước mổ. Manning(8) 
cũng gợi ý rằng sự cùng tồn tại của tăng áp phổi 
cùng những bất thường van hai lá phức tạp làm 
tăng tỷ lệ mắc bệnh trong phẫu thuật. Tuy nhiên, 
phẫu thuật sửa chữa sớm có thể ngăn diễn tiến 
bệnh hở van hai lá, tăng áp phổi, loạn nhịp tim 
và suy tim. 
Nghiên cứu của Jeffrey P. Jacobs và Martin J 
Elliot(Error! Reference source not found.) cùng 
cộng sự nghiên cứu phẫu thuật kênh nhĩ thất 
bán phần có tỉ lệ block tim vĩnh viễn dưới 1% và 
cần đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn; Portman MA(13) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 110
cùng cộng sự cũng cho rằng phẫu thuật sửa chữa 
kênh nhĩ thất trung gian có tỷ lệ tử vong thấp, 
tuy nhiên hở van hai lá tồn lưu lại khá phổ biến 
mặc dù ở mức độ nhẹ đến vừa và rối loạn nhịp 
tim là một biến chứng khá thường, đôi khi đòi 
hỏi phải đặt máy tạo nhịp. Trong NC của chúng 
tôi, nhóm kênh nhĩ thất thể trung gian có 4,7% bị 
block và nhóm kênh nhĩ thất toàn thể có 16,7% bị 
block nhĩ thất độ 3 nhưng tất cả trường hợp tự 
hồi phục không cần đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn. 
Để tránh biến chứng block nhĩ thất, trước đây 
chúng tôi chủ động để lỗ xoang vành sang bên 
trái. Nhiều nghiên cứu của các tác giả trên thế 
giới nhận thấy việc để lỗ xoang vành bên trái và 
bên phải không có khác biệt về tỉ lệ rối loạn dẫn 
truyền sau mổ. Vì vậy, chúng tôi vẫn để bên 
phải, đồng thời hết sức cẩn thận trong các mũi 
khâu ở vùng nguy hiểm, dùng kim nhỏ, mũi 
khâu rất nông chỉ vừa đủ để giữ miếng vá màng 
tim. 
Gurbuz AT(4) và cộng sự báo cáo rằng việc 
tắc nghẽn đường thoát thất trái sau khi sửa chữa 
kênh nhĩ thất bán phần có thể phổ biến hơn 
nhiều so với các nghiên cứu khác nhau. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi không có trường hợp 
nào tắc nghẽn đường thoát thất trái sau phẫu 
thuật, tuy nhiên cần theo dõi thêm trong thời 
gian hậu phẫu. Để tránh hẹp đường ra thất trái, 
trong những trường hợp bị thiểu sản lá trước 
van hai lá, chúng tôi chủ động mở rộng lá van 
bằng miếng vá màng ngoài tim. 
Bảng 2. Kết quả sau phẫu thuật kênh nhĩ thất trung 
gian, so sánh với các tác giả 
Tác giả Hở van 2 
lá nhẹ (%) 
Hở van 2 
lá vừa (%) 
Hở van 2 lá 
nặng (%) 
Tử 
vong 
(%) 
Jerbi S (2009) 28,5 60 7,5 1,8 
Murashita 
(2004)
(10)
67,7 30 3,3 1,6 
Chúng tôi 
(2017) 
11,3 5,7 1,9 0 
Hầu hết các trường hợp kết quả không tốt 
như hở van nhĩ thất chung bên trái nặng, block 
nhĩ thất độ 3, viêm phổi, tràn dịch dưỡng trấp, 
cần thở máy và nằm lâu trong hồi sức xảy ra ở 
bệnh nhân có thương tổn ở tim phối hợp, nhỏ ký 
và tăng áp phổi nặng; có 1 trường hợp tử vong 
xảy ra trên bệnh nhân đến trễ, 6 tuổi, bị kênh nhĩ 
thất toàn phần, tim 1 thất dạng thất phải, hẹp 
phổi, hở van chung nhĩ thất nặng. 
KẾT LUẬN 
Phẫu thuật sửa chữa triệt để kênh nhĩ thất 
trung gian và toàn phần cho kết quả sớm tương 
đối tốt, tuy nhiên tùy thuộc vào thể loại bệnh và 
tổn thương kèm theo, nếu phẫu thuật đúng thời 
điểm và đúng kỹ thuật thì có thể giảm được tỉ lệ 
biến chứng và tử vong, tuy nhiên cần được 
nghiên cứu với số bệnh nhân lớn và theo dõi dài 
hạn hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Barratt-Boyes B (1973). Heart Disease in Infancy: Diagnosis 
and Surgical Treatment: Correction of atrioventricular canal 
defects in infancy using profound hypothermia, EA Harris 
Edinburgh and London, Churchill Livingstone, p.285. 
2. Backer C, Mavroudis C (2013). Pediatric Cardiac Surgery (4rth 
Edition): Atrioventricular Canal Defects, Wiley-Blackwell, 
p.342–358. 
3. Chowdhury UK, Airan B, Malhotra A, Bisoi AK, Kalaivani M, 
Govindappa RM, et al (2009). Specific issues after surgical 
repair of partial atrioventricular septal defect: actuarial 
survival, freedom from reoperation, fate of the left 
atrioventricular valve, prevalence of left ventricular outflow 
tract obstruction, and other events, J Thorac Cardiovasc Surg, 
137(3), p.548–555. 
4. Gurbuz AT, Novick WM, Pierce CA, Watson DC (1999). Left 
ventricular outflow tract obstruction after partial 
atrioventricular septal defect repair, Ann Thorac Surg, 68(5), 
p.1723–1726. 
5. Jacobs JP, Elliott MJ, Larry R, Kaiser R, Kron IL (2014). Mastery 
of cardiothoracic surgery of Thomas: Atrioventricular canal 
defects, L Spray 3rd editors, p.892–909. 
6. Jacobs JP, Elloit MJ (2014). Mastery of Cardiothoracic 
Surgery 3rd Edition: Atrioventricular Canal Defects, 
Philadelphia Wolters Kluwer/Lippincott Williams, p. 892–909. 
7. Jerbi S, Tarmiz A, Romdhani N, Kortas C, Chaouch N, Alimi 
F, et al (2009): Surgery of 56 patients having a partial 
atrioventricular septal defect, Ann Cardiol Angeiol (Paris), 58(2), 
p.129–133. 
8. Manning PB, Mayer JE, Jr, Sanders SP, Coleman EA, Jonas RA, 
Keane JF, et al (1994): Unique features and prognosis of 
primum ASD presenting in the first year of life, Circulation, 
90(5 Pt 2), p.30–35. 
9. Kanani M, Elliott MJ (2014). Johns Hopkins Textbook of 
Cardiothoracic Surgery. 2nd Edition: Atrioventricular Septal 
Defect, New York: McGraw Hill Education, p.1043–1060. 
10. Murashita T, et al (2004). Left atrioventricular valve 
regurgitation after repair of incomplete atrioventricular septal 
defect, The Annals of Thoracic surgery, Volume 77, Issue 6, 
p.2157-2162 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 111
11. Nicholas TK, Eugene HB, Frank LH, James K Kirklin (2013). 
Atrioventricular Septal Defect, Kirklin/Barratt-Boyes Cardiac 
Surgery Philadelphia 4th edition, p.1228–1273. 
12. Pillai R, Ho SY, Anderson RH, Lincoln C (1986). Ostium 
primum atrioventricular septal defect: an anatomical and 
surgical review, Ann Thorac Surg, 41(4), p.458–461 
13. Portman MA, Beder SD, Ankeney JL, van Heeckeren D, 
Liebman J, Riemenschneider TA: A 20-year review of ostium 
primum defect repair in children, Am Heart J, 110(5), 
p.1054–1058. 
14. Somerville J (1965). Ostium primum defect: factors causing 
deterioration in the natural history, Br Heart J, 27(3), p.413–
423. 
15. Weintraub R, Brawn W, Venables A, Mee R (1990). Two-patch 
repair of complete atrioventricular septal defect in the first 
year of life. Results and sequential assessment of 
atrioventricular valve function, J Thorac Cardiovasc Surg, 99(2), 
p.320–326. 
Ngày nhận toàn văn: 23/11/2017 
Ngày nhận bài nhận xét: 24/12/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018