Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa II 54
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG BỆNH NHÂN XUẤT HUYẾT NÃO 
TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TỈNH BẾN TRE 
Cao Phi Phong*, Hoàng Thúy Oanh** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Xuất huyết não chiếm khoảng 10 – 20% đột quỵ Hơn 30% trường hợp xuất huyết não tử 
vong trong vòng 1 tháng, các bệnh nhân sống sót phải chịu di chứng lâu dài, ảnh hưởng nặng nề đến cuộc 
sống và xã hội. 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ các yếu tố nguy cơ, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, các biến chứng 
nằm viện ở bệnh nhân xuất huyết não. Đánh giá kết cục điều trị và xác định các yếu tố liên quan đến kết cục. 
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu mô tả hàng loạt ca các bệnh nhân xuất huyết não nhập viện bệnh viện 
Nguyễn Đình Chiểu tỉnh Bến Tre từ tháng 11/2014 đến hết tháng 3/2015. Các biến số thu thập được xử lý bằng 
phần mềm thống kê SPSS 16.0. 
Kết quả: Tổng số 101 bệnh nhân, tuổi trung bình 62,74; nữ chiếm 42,57%. Các yếu tố nguy cơ: tăng huyết 
áp 77,2%, đái tháo đường 7,9%, hút thuốc lá 35,6%, uống rượu 37,6%. Tỷ lệ tăng huyết áp lúc nhập viện chiếm 
90,1%, sốt ≥37,5oC lúc nhập viện chiếm 6,93%, điểm Glasgow ≤ 8 điểm chiếm 33,66%, tăng đường huyết lúc 
nhập viện 58,42%. Vị trí xuất huyết thường gặp là hạch nền 50,50%, xuất huyết dưới lều chiếm 9,9%, thể tích 
khối máu tụ trung bình là 27,40±21,10ml, khối máu tụ ≥30ml chiếm 36,63%, 52,48% bệnh nhân có xuất huyết 
nhu mô kèm não thất, 25,74% có đẩy lệch đường giữa. Điểm ICH lúc nhập viện ≥ 3 chiếm 36,63%. Tỷ lệ phẫu 
thuật là 3,96%. Các biến chứng trong lúc nằm viện là: cơn động kinh 6,93%, rối loạn cơ vòng 43,56%, viêm phổi 
bệnh viện 15,84%, nhiễm trùng tiểu 3,96%, xuất huyết tiêu hóa 1,98%. Tỷ lệ hồi phục tốt (mRS ≤ 3) là 51,49%. 
Các yếu tố liên quan đến kết cục của bệnh nhân lúc ra viện là: sốt ≥ 37,5oC, Glasgow lúc nhập viện ≤ 8 điểm, xuất 
huyết dưới lều, thể tích khối máu tụ ≥ 30ml, tràn máu não thất, đẩy lệch đường giữa và điểm ICH. Có ba yếu tố 
thực sự có liên quan đến kết cục là điểm Glasgow lúc nhập viện, thể tích khối máu tụ và đẩy lệch đường giữa 
Kết luận: Ở những bệnh nhân xuất huyết não, sự xuất hiện của điểm Glasgow ≤8, khối xuất huyết lớn ≥30 
ml, có hiệu ứng đẩy lệch đường giữa là yếu tố thực sự liên qan đến hậu quả xấu của bệnh nhân. Việc phát hiện 
sớm những yếu tố này nhằm đưa ra hướng xử trí thích hợp có thể đem lại tiên luợng tốt hơn cho bệnh nhân. 
Từ khóa: xuất huyết não, điểm mRS, điểm Glasgow 
ABSTRACT 
ASSESSMENT OF THE STATUS OF INTRACEREBRAL HEMORRHAGE PATIENTS IN NGUYEN 
DINH CHIEU HOSPITAL IN BEN TRE PROVINCE 
Cao Phi Phong, Hoang Thuy Oanh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 1 - 2016: 54 - 62 
Background: Hemorrhage accounts for about 10-20% of stroke. By over 30% of cases of cerebral hemorrhage 
die within 1 month, patients who survive suffer permanent sequelae, heavily influenced the lives and social 
assembly. 
Objective: Determine the ratio of risk factors, clinical features, sub-clinical, hospital complications in 
patients with cerebral hemorrhage. Assess treatment outcomes and identify factors related to outcome. 
* Khoa Y - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh ** Trường TCYT Bến tre 
Tác giả liên lạc: BS. Hoàng Thúy Oanh ĐT: 0919 313 575 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 55
Methods: The prospective, descriptive a case series study of patients with cerebral hemorrhage hospitalized 
Nguyen Dinh Chieu Hospital in Ben Tre province from 3/2015 - 11/2014. Statistical analysis is done with the 
software SPSS 16.0 for window. 
Results: A total of 101 patients, mean age was 62.74 years; female ratio was 42.57%. The risk factors: 
hypertension rate was 77.2%, diabetes rate was 7.9%, smoking rate was 35.6%, alcohol – associated ICH rate was 
37.6% alcohol. The rate of hypertension accounted for 90.1% at admission, fever ≥37.5oC 6.93%, GCS ≤ 8 points 
accounted for 33.66%, hyperglycemia on admission 58.42%. Common bleeding sites was 50.50% basal ganglia, 
infratentorial hemorrhage occupied 9.9%, hematoma volume average 27.40 ± 21,10ml, hematoma occupied 
36.63% ≥30ml, 52.48% of patients with intraventricular extension of hematoma, 25.74% with midline shift. 
36.63% of patients with ICH ≥ 3 points. Patients with surgical treatment rate were 3.96%. Complications during 
hospitalization were: seizure 6.93%, 43.56% sphincter disorders, nosocomial pneumonia 15.84%, 3.96% UTI, 
gastrointestinal bleeding 1.98 %. Outcomes at hospital discharge of ICH patients: a good recovery rate (mRS ≤ 3) 
accounted for 51.49%. Factors related to poor outcome at discharge were: fever ≥ 37,5oC, GCS ≤ 8 points, 
infratentorial hemorrhage, hematoma volume was ≥ 30ml, intraventricular hemorrahage, midline shift and ICH 
score. Through multivariate analysis, Three factors really related to outcome were: GCS, hematoma volume and 
midline shift. 
Conclusion: In patients with cerebral hemorrhage, the appearance of Glasgow ≤8 point, major bleeding ≥30 
ml volume, with effect push midline deviation factor is actually associated to poor outcome of patients. Early 
detection of these factors in order to arrive at an appropriate management can bring better prognosis for the 
patient. 
Keywords: Hemorrhage, mRS, Glasgow coma scale. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đột quỵ luôn là vấn đề thời sự của y học, là 
căn bệnh phổ biến với tỷ lệ tử vong cao đứng 
hàng thứ hai trên toàn thế giới, là một trong 
những nguyên nhân hàng đầu của tình trạng 
khuyết tật, để lại nhiều di chứng nặng nề, thực 
sự là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Xuất 
huyết não tự phát có kết cục xấu hơn nhiều so 
với nhồi máu não, hơn 30% trường hợp xuất 
huyết não tử vong trong vòng 1 tháng, tỷ lệ tử 
vong trong năm đầu là 62% và chỉ 20% bệnh 
nhân sống sót có thể sống độc lập sau 6 tháng, 
các bệnh nhân sống sót phải chịu di chứng lâu 
dài, ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống và xã 
hội(13). Nhằm đánh giá hiện trạng bệnh nhân xuất 
huyết não, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: 
“Đánh giá hiện trạng bệnh nhân xuất huyết não 
tại bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu tỉnh Bến Tre” 
với các mục tiêu sau: Xác định các yếu tố nguy 
cơ, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, các biến 
chứng ở bệnh nhân xuất huyết não. Đánh giá kết 
cục điều trị khi ra viện và tìm các mối liên hệ. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Dân số mục tiêu gồm các bệnh nhân xuất 
huyết não không do chấn thương. Dân số chọn 
mẫu gồm các bệnh nhân mới vào khoa cấp cứu 
bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu. 
Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca. Các biến 
số độc lập là các đặc điểm dân số, các yếu tố 
nguy cơ,, đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học, điểm 
ICH, các biến chứng nằm viện, biến số phụ 
thuộc là tình trạng hồi phục chức năng tốt hay 
xấu khi bệnh nhân xuất viện. Việc đánh giá tình 
trạng hồi phục chức năng được thực hiện lúc 
bệnh nhân ra viện dựa trên thang điểm mRS. 
Các dữ liệu thu thập được ghi trong bệnh án 
nghiên cứu, sau đó nhập liệu vào phần nhập dữ 
liệu của phần mềm thống kê SPSS 16.0. Các biến 
định tính thì được tính tần số, tỷ lệ phần trăm. 
Trong phân tích đơn biến, sử dụng phép kiểm 
Chi bình phương (χ2) để kiểm định các biến định 
tính, nếu không thỏa mãn điều kiện của phép 
kiểm χ2 thì dùng Fisher-test, sự khác biệt có ý 
nghĩa khi p<0,05. Trong phân tích đa biến, các 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa II 56
biến số có liên quan với kết cục của bệnh nhân 
được đưa vào phân tích hồi qui logistic đa biến 
bằng phương pháp đưa vào một lần để tìm yếu 
tố tiên lượng với tỷ lệ hồi phục. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm xuất huyết não: 
Trong thời gian từ tháng 11/2014 đến hết 
tháng 3/2015 có 101 bệnh nhân xuất huyết não 
được thu thâp vào mẫu nghiên cứu. 
Bảng 1: Đặc điểm xuất huyết não 
Đặc điểm N(%), trung 
bình±ĐLC, 
trung vị 
Tuổi 62,74 14,22 
Nam 58 (57,43) 
Yếu tố nguy cơ Tăng HA 78 (77,23) 
 Đái tháo đường 8 (7,92) 
 Hút thuốc lá 36 (35,64) 
 Uống rượu 38 (37,62) 
Đặc điêm lâm 
sàng 
HA tâm thu (mmHg) 171,58±32,43 
HA trung bình (mmHg) 120±21,65 
Tăng HA 91 (90,1) 
Nhiệt độ (
o
C) 37,06±0,55 
≥37,5
 o
C 7 96,93) 
GCS 10,34±4,47 
GCS ≤8 34 (33,63) 
Đường huyết (mg/dl) 134,12±43,95 
Tăng đường huyết 59 (58,42%) 
CT scan não Dưới lều 10 (9,9) 
Thể tích (ml) 27,40±21,1 
≥30ml 37 (36,63) 
Tràn máu não thất 53 (52,48) 
Lệch đường giữa 26 (25,74) 
Điểm ICH ≥3 37 (36,63) 
Phẫu thuật 4 (3,96) 
Biến chứng Động kinh 7 (6,93) 
Rối loạn cơ vòng 44 (43,56) 
Viêm phổi 16 (15,84) 
Nhiễm trùng tiểu 4 (3,96) 
Xuất huyết tiêu hóa 2 (1,98) 
Kết cục mRS >3 49 (48,51) 
Các yếu tố liên quan đến kết cục bệnh nhân 
xuất huyết não 
Các yếu tố có liên quan đến kết cục lúc ra 
viện của bệnh nhân xuất huyết não bao gồm: 
sốt ≥37,5oC lúc nhập viện, GCS≤8, xuất huyết 
dưới lều, thể tích khối xuất huyết ≥30ml, có 
tràn máu não thất, đẩy lệch đường giữa, điểm 
ICH ≥3 (bảng 2). 
Bảng 2: Phân tích đơn biến 101 bệnh nhân xuất huyết não 
Đặc điểm 
XHN 
Kết cục 
OR KTC 95% p 
mRS > 3 mRS ≤ 3 
Sốt≥ 37,5
o
C 6 (12,25%) 1 (1,92%) 7,116 1,82-61,43 0,04 
GCS≤8 32 (65,31%) 2 (38,46%) 47,059 10,18-217,52 <0,001 
XH dưới lều 10 (20,41%) 0 (0%) - - <0,001 
V≥30ml 33 (67,35%) 4 (7,69%) 24,75 7,59-80,70 <0,001 
Tràn máu não thất 33 (67,35%) 20 (38,46%) 3,3 1,46-7,48 0,004 
lệch đường giữa 21 (42,86%) 5 (9,62%) 7,05 2,39-20,80 <0,001 
ICH ≥3 33 (67,35%) 4 (7,69%) 24,75 7,59-80,70 <0,001 
Phân tích đa biến các biến số 
Bảng 3: Phân tích đa biến các yếu tố liên quan đến kết 
cục 
Biến số p OR KTC 95% 
GCS ≤ 8 0,005 16,134 2,35-110,71 
V ≥ 30ml 0,042 5,812 1,06-31,71 
Lệch đường giữa 0,028 4,982 1,19-20,79 
Qua phân tích đa biến có 3 yếu tố thật sự liên 
quan đến kết cục của bệnh nhân xuất huyết não 
bao gồm: điểm Glasgow lúc nhập viện thể tích 
khối máu tụ và có đẩy lệch đường giữa (bảng 3). 
BÀN LUẬN 
Các đặc điểm xuất huyết não: 
Tuổi trung bình của bệnh nhân xuất huyết 
não trong nghiên cứu của chúng tôi là 
62,74±14,22. So với nghiên cứu trong và ngoài 
nước, tuổi trung bình của bệnh nhân trong 
nghiên cứu của chúng tôi tương đương với các 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 57
tác giả Nguyễn Văn Đạt(18) là 64,89±14,30, 
Nguyễn Văn Dũng(17) là 65,54, Appellboom(2) tại 
Columbia là 61,92 ± 18,99, Cao Phi Phong(5) là 
60,9±12,9, cao hơn kết quả của tác giả Nguyễn 
Thanh Tân(19) là 59,03 ±13,003, Hu Yun-Zhen(12) 
cứu là 57,9 ± 15,2 tuổi, Wang(23) tại Trung Quốc là 
59,6±14,2, Bhatia(3) tại Ấn Độ là 56,89±13,05 và 
thấp hơn tác giả Chiu(8) là 69,1±12,6. 
Tỷ lệ bệnh nhân nam giới chiếm 57,43%, 
nữ chiếm 42,47%. Tương đương với nhiều 
nghiên cứu trong và ngoài nước từ 52,3% -
65,4%(1)(3)(7)(18)(19). Một số nghiên cứu cho kết quả 
ngược lại như trong nghiên cứu của Ganti(10) 
hoặc trong nghiên cứu của Bhattacharya. Tuy 
có sự khác biệt ở một số nghiên cứu nước 
ngoài, nhưng nhìn chung phần lớn các nghiên 
cứu đều ghi nhận tỷ lệ nam giới mắc bệnh 
nhiều hơn nữ giới. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 77,23% có 
tiền căn tăng huyết áp. Tỷ lệ tăng huyết áp ở một 
số nghiên cứu trong nước là 72%-82%(18,19,15). Các 
nghiên cứu nước ngoài của tỷ lệ bệnh nhân có 
tiền sử tăng huyết áp là 68,5%-72%, trong nghiên 
cứu của Bhattacharya tỷ lệ này lên đến 90,70%. 
Như vậy tỷ lệ bệnh nhân có tiền căn tăng huyết 
áp trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương 
với đa số các nghiên các nghiên cứu trong nước, 
còn so với các nghiên cứu nước ngoài thì sự khác 
biệt tùy theo nghiên cứu. Trong xuất huyết não, 
tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất 
có thể điều chỉnh được. Bệnh nhân có đái tháo 
đường chiếm 7,92%. Tỷ lệ này ở các nghiên cứu 
trong nước như của Đỗ Văn Vân(9) là 7,86%, của 
Nguyễn Văn Đạt là 8,3%. Tỷ lệ bệnh nhân đái 
tháo đường trong nghiên cứu của Wang là 8,2%, 
của Bhatia là 15,8%, của Chiu là 20%. Như vậy, 
tỷ lệ bệnh nhân xuất huyết não có đái tháo 
đường trong nghiên cứu của chúng tôi tương 
đương với các nghiên cứu trong nước, nhưng 
thấp hơn nhiều so với hầu hết các nghiên cứu 
ngoài nước. Điều này có thể do tỷ lệ bệnh nhân 
mắc bệnh đái tháo đường trong dân số nước ta 
thấp hơn, do đó tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường 
bị xuất huyết não cũng thấp hơn. Có 35,64% 
bệnh nhân hút thuốc lá, 37,62% có tiền sử uống 
rượu, tất cả là bệnh nhân nam. Tỷ lệ hút thuốc lá, 
uống rượu thay đổi tùy theo đặc điểm nhóm 
nghiên cứu như tỷ lệ nam/nữ cũng như thói 
quen hút thuốc lá ở từng nước. 
Huyết áp tâm thu trung bình lúc nhập viện 
là 171,58 ± 32,43 mmHg, trị số huyết áp tâm 
thu thấp nhất là 110 mmHg, cao nhất là 
300mmHg, trong đó có 90,10% bệnh nhân có 
tăng huyết áp lúc nhập viện, cao hơn các 
nghiên cứu trước đây từ 77,4%, của Nguyễn 
Văn Đạt là 86,4%, của Yun-zhen HU là 47%. 
Trị số huyết áp lúc nhập viện trong nghiên 
cứu của chúng tôi không có sự khác biệt so với 
các nghiên cứu trước đây. Những bệnh nhân 
đột quỵ cấp lúc nhập viện thường ghi nhận có 
tăng huyết áp. Cơ chế tăng huyết áp lúc nhập 
viện chưa rõ nhưng có thể liên quan đên đột 
quỵ bằng những thay đổi hoạt động hệ giao 
cảm do tổn thương não tạo nên, stress, cơ chế 
trung ương hoặc do phản xạ Cushing ở những 
bệnh nhân có tăng áp lực nội sọ. 
Thân nhiệt trung bình của bệnh nhân xuất 
huyết não trong nghiên cứu của chúng tôi là 
37,06±0,55oC. Có 6,93% bệnh nhân có thân 
nhiệt ≥ 37,5oC. Tỷ lệ bệnh nhân có thân nhiệt 
>37,5 oC trong nghiên cứu của Châu Nam 
Huân là 22%(8), nghiên cứu của tác giả Nguyễn 
Văn Đạt có 6,8% bệnh nhân có thân nhiệt 
≥39oC. Tỷ lệ bệnh nhân có sốt trong một 
nghiên cứu hồi cứu tại Australia là 29%(16). 
Như vậy, tỷ lệ bệnh nhân có sốt trong nghiên 
cứu của chúng tôi thấp hơn các tác giả khác. 
Trong nghiên cứu của tác giả Asaf Honig(11) thì 
tỷ lệ bệnh nhân có thân nhiệt ≥38,3 oC là 41% 
trong một tuần sau xuất huyết não, tác giả 
cũng xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thân 
nhiệt bệnh nhân sau xuất huyết não là: thể tích 
khối máu tụ là 86,7ml ở nhóm bệnh nhân có 
sốt so với 30,4ml ở nhóm không sốt, và xuất 
huyết lan vào não thất cũng là một yếu tố liên 
quan đến sốt không do nhiễm khuẩn ở bệnh 
nhân xuất huyết não(11). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa II 58
Điểm Glasgow lúc nhập viện trung bình là 
10,34 ± 4,47, tương đương với nghiên cứu của 
Nguyễn Văn Đạt 9,42±46, của Bhattacharya là 
12,7±4,2, Alpellboom là 1, thấp hơn của tác giả 
Nguyễn Thanh Tân là 13,24±2,8, và cao hơn của 
tác giả Bhatia là 7,81±2,84. Nhóm bệnh nhân có 
điểm Glasgow ≤ 8 điểm điểm chiếm 33,66%, 
trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Đạt nhóm 
bệnh nhân có điểm Glasgow < 8 chiếm 40,8%, 
của Nguyễn Thanh Tân nhóm <8 chiếm 5,8%.. 
Kết quả của chúng tôi nhưng lại cao hơn kết quả 
nghiên cứu của tác giả Bhattacharya là 20,93%. 
Các tác giả chọn điểm mốc là <8, trong khi 
nghiên cứu của chúng tôi chọn ≤ 8 điểm. Sự khác 
biệt có thể một phần khác là do đặc điểm mẫu 
nghiên cứu khác nhau như là tuổi bệnh nhân, vị 
trí xuất huyết và hiệu ứng choáng chỗ. 
Đường huyết lúc nhập viện trung bình là 
134,12 ± 43,95 mg/dL, tỷ lệ bệnh nhân tăng 
đường huyết lúc nhập viện là 58,42%. Nghiên 
cứu của tác giả Đỗ Văn Vân(9) thì giá trị đường 
huyết lúc nhập viện là 141.35 ± 56,76mg/dL. Một 
nghiên cứu tại bệnh viện 115 trên 148 bệnh nhân 
xuất huyết não, đường huyết trung bình lúc 
nhập viện là 125,4±49mg/dL. Giá trị đường huyết 
lúc nhập viện trong nghiên cứu của tác giả 
Koga(14) về múc đường huyết và dự hậu bệnh 
nhân xuất huyết não là 134.8±46mg/dL. Như 
vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng 
tương đương với các tác giả trong và ngoài nước. 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có 
mối liên hệ giữa trị số đường huyết lúc nhập 
viện và tiền sử đái tháo đường. 
Về vị trí xuất huyết, xuất huyết não dưới lều 
chiếm 9,90%, thấp hơn các nghiên cứu trong và 
ngoài nước 16% -19,1%. Tỷ lệ bệnh nhân xuất 
huyết dưới lều trong nghiên cứu của tác giả 
Nguyễn Văn Đạt chiếm 19,1%(18), của tác giả 
Nguyễn Thanh Tân 13,1%(19), của Bhatia 9,8%(3), 
của tác giả Appelboom là 18,9%(2), tác giả Yun-
Zhen HU là 7,9%(12). Vị trí xuất huyết não liên 
quan với tuổi bệnh nhân và nguyên nhân xuất 
huyết não. Kết quả nghiên cứu của tác giả Yun-
Zhen HU đã ghi nhận: vị trí xuất huyết não 
thường gặp là thùy não (50,0%) và tiểu não 
(28.6%) ở nhóm bệnh nhân trẻ (<30 tuổi), thùy 
não (61,1%) và hạch nền (22,2%) ở nhóm ≥ 30 
tuổi. Trong nghiên cứu của tác giả Ganti(10), tỷ lệ 
xuất huyết tiểu não ở bệnh nhân nữ là 19,5% so 
với 5,5% ở bệnh nhân nam, xuất huyết bao trong 
ở nữ là 1% so với 8,2% ở nam. Nhìn chung, 
nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với các 
tác giả khác là xuất huyết não trên lều chiếm tỷ lệ 
cao hơn dưới lều, thường gặp theo thứ tự: hạch 
nền, đồi thị, thùy não. 
Thể tích khối máu tụ trung bình trong 
nghiên cứu là 27,40±21,10ml, tương đương với 
nghiên cứu của đa số tác giả trong và ngoài nước 
trong nghiên cứu của tác giả Cao Phi Phong(5) tại 
bệnh viện 115 là 23,4±24,8ml, của Nguyễn Văn 
Đạt là 47,05%±47,99ml, của tác giả Alpellboom(2) 
là 24,14±27,34ml, của tác giả Bhattacharya(4) là 
32,41±46,1ml, của Wang(24) là 23±30,35, của Bhatia 
là 56,57±25,79ml. Nhóm bệnh nhân có thể tích 
khối máu tụ ≥30ml chiếm 36,63%, so với kết quả 
nghiên cứu của tác giả Cao Phi Phong là 31%, 
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Dũng(17) 
≥30ml chiếm 33,77%, thấp hơn trong nghiên cứu 
của tác gải Nguyễn Văn Đạt là 47%. Như vậy kết 
quả của chúng tôi cũng tương đương với đa số 
các nghiên cứu trong và ngoài nước. 
Bệnh nhân xuất huyết nhu mô não đơn 
thuần chiếm 47,52%, có tràn máu não thất chiếm 
52,48%. Nhìn chung, kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi cũng phù hợp với các tác giả trong và 
ngoài nước, khoảng 50% bệnh nhân xuất huyết 
não có lan vào não thất. Nghiên cứu của Châu 
Nam Huân(7) tỷ lệ bệnh nhân có xuất huyết lan 
vào não thất chiếm 52,8%, tác giả Nguyễn Văn 
Đạt tỷ lệ này là 50,4%, của tác giả Nguyễn Văn 
Dũng(17) là 43,50%, của Bhatia là 51,6%, 
Alpellboom là 54,3%. Kết quả của chúng tôi cao 
hơn tác giả Bhattacharya có tỷ lệ là 37,50%, của 
tác giả Wang là 29,6%. 
Tỷ lệ bệnh nhân có dấu hiệu đẩy lệch đường 
giữa >5mm trên phim chụp cắt lớp vi tính chiếm 
tỷ lệ 25,74%, tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu của tác 
giả Nguyễn Văn Đạt 17,4%, nhưng thấp hơn của 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 59
Châu Nam Huân (45,95%), của tác giả Bhatia có 
nhóm bệnh nhân có đẩy lệch đường giữa ≥ 6mm 
chiếm 43,46%, của tác giả Bhattacharya là 
38,28%. Sự khác biệt do đặc điểm bệnh nhân 
trong các nghiên cứu khác nhau. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi, tỷ lệ đảy lệch đường giữa 
tăng gấp 5,2 lần ở nhóm có thể tích khối máu tụ 
≥30ml so với nhóm có thể tích nhỏ hơn 30ml 
(p<0,001). Thể tích khối máu tụ trung bình trong 
nghiên cứu của chúng tôi (24,4ml) nhỏ hơn có ý 
nghĩa so với của tác giả Bhattacharya là (32,4ml) 
và của tác giả Bhatia (56,57ml). Tỷ lệ bệnh nhân 
có thể tích khối máu tụ ≥30ml chiếm 36,63% thấp 
hơn nghiên cứu của Châu Nam Huân (44,7%). 
Điểm xuất huyết não lúc nhập viện trong 
nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận có 36,63% 
bệnh nhân có điểm xuất huyết não ≥ 3 chiếm,. 
Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thanh 
Tân, điểm xuất huyết não ≥ 3 chiếm 12,6%, 
không có điểm xuất huyết não bằng 5-6. Nghiên 
cứu của Cao Phi Phong, nhóm bệnh nhân có 
điểm xuất huyết não ≥3 chiếm 23,7%. Trong 
nghiên cứu của Appelboom trên 127 bệnh nhân, 
67,72% bệnh nhân có điểm xuất huyết não <3, 
32,28% bệnh nhân có điểm xuất huyết não ≥ 3 
điểm. Như vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi, 
bệnh nhân có điểm xuất huyết não ≥ 3 chiếm tỷ 
lệ tương đương nghiên cứu của Appelboom và 
cao hơn nghiên cứu của tác giả khác. 
Tỷ lệ bệnh nhân phẫu thuật chiếm 3,96% 
bệnh nhân xuất huyết não. Tỷ lệ bệnh nhân xuất 
huyết điều trị phẫu thuật thay đổi tùy theo 
nghiên cứu, trong nghiên cứu của tác giả Wang 
rên 3255 bệnh nhân, tỷ lệ này là 2,7%, trong 
nghiên cứu của tác giả Woo là 26,64%, của tác giả 
Appelboom là 44,1%, trong đó dẫn lưu não thất 
31,1% và lấy máu tụ là 12,6%, của tác giả Bhatia 
là 44,6% với 22,9% lấy máu tụ và 21,5% dẫn lưu 
não thất. Như vậy, tỷ lệ bệnh nhân phẫu thuật 
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn các 
nghiên cứu khác. 
Các biến chứng được ghi nhận trong nghiên 
cứu bao gồm rối loạn cơ vòng 43,56% là biến 
chứng gặp nhiều nhất, kế đến là viêm phổi bệnh 
viện 15,86%, cơn động kinh 6,93%, có nhiễm 
trùng tiểu 3,96% và có 1,98% bệnh nhân xuất 
huyết tiêu hóa. Trong nghiên cứu của tác giả 
Alsumrain(1) thì tỷ lệ bệnh nhân có viêm phổi 
bệnh viện là 13,93%, tác giả đã ghi nhận sự khác 
biệt về tỷ lệ viêm phổi ở bệnh nhân xuất huyết 
não có liên quan đến điểm Glasgow lúc nhập 
viện, mRS lúc nhập viện, việc sử dụng thuốc ức 
chế bơm proton, thuốc ức chế men chuyển và 
không liên quan đến các đặc điểm tuổi, giới, tiền 
căn hút thuốc, uống rượu, đái tháo đường, tăng 
huyết áp và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. 
Nghiên cứu của Woo ghi nhận tỷ lệ bệnh nhân 
có cơn động kinh là 8,4% cũng cho thấy biến 
chứng động kinh sau xuất huyết não có liên 
quan đến các yếu tố như tuổi bệnh nhân (dưới 
60 tuổi), não úng thủy, xuất huyết cận vỏ não. 
Về kết quả điều trị và các yếu tố liên quan 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân 
có kết cục tốt (mRS ≤ 3) chiếm 51,49% kết cục xấu 
(mRS>3) chiếm 48,51% bệnh nhân xuất huyết 
não. So sánh với các nghiên cứu cùng đánh giá 
tại thời điểm ra viện, tác giả Bhatia ghi nhận tỷ lệ 
bệnh nhân xuất huyết não hồi phục tốt (mRS≤ 3) 
chiếm 3,27%, tỷ lệ bệnh nhân xuất huyết não tử 
vong bệnh viện là 32,7%, của tác giả Wang(23) thì 
thỉ lệ hồi phục tốt (mRS≤3) lúc ra viện chiếm 
57,79%, hồi phục xấu (mRS>3) chiếm 42,21%, tác 
giả Bhattacharya thì tỷ lệ bệnh nhân có sự hồi 
phục chức năng tốt (mRS ≤2) là 37,98%. Tỷ lệ 
bệnh nhân hồi phục xấu trong nghiên cứu của 
chúng tôi tương đương với tác giả Wang và thấp 
hơn nghiên cứu của tác giả Bhatia và tác giả 
Bhattacharya. Sự khác biệt là do thời điểm đánh 
giá bệnh nhân và đặc điểm bệnh nhân trong 
nhóm nghiên cứu khác nhau như điểm GCS, thể 
tích khối máu tụ. 
Nghiên cứu của Ganti đã tiến hành trên 261 
bệnh nhân xuất huyết não tự phát, cho thấy: nữ 
giới là có dự hậu xấu hơn nam giới ở thời điểm 
ra viện gấp 2 lần (p=0,0062) và tỷ lệ tử vong 7 
ngày ở bệnh nhân nữ cao hơn gấp 2 lần bệnh 
nhân nam. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
không ghi nhận có sự liên quan giữa các yếu tố 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa II 60
tuổi và giới tính bệnh nhân và kết cục lúc ra viện. 
Các yếu tố nguy cơ khác như tăng huyết áp, đái 
tháo đường, hút thuốc lá và uống rượu cũng 
chưa có sự liên quan đến với kết cục của bệnh 
nhân xuất huyết não lúc ra viện. So với kết quả 
nghiên cứu của tác giả Wang, không có sự khác 
biệt về tỷ lệ tử vong và kết cục chức năng tại các 
thời điểm 1, 3, 6, 12 tháng giữa 2 nhóm bệnh 
nhân có và không có đái tháo đường. Kết quả 
của Umeano(22), Bhatia và Bhattacharya cũng cho 
kết quả tương tự chúng tôi. 
Chúng tôi ghi nhận tỷ lệ bệnh nhân có kết 
cục xấu ở nhóm có tăng huyết áp lúc nhập viện 
là 91,83%, so với nhóm không có tăng huyết áp 
lúc nhập viện là 8,16%,. Các tác giả Bhatia, 
Umeano, Bhattacharya cũng ghi nhận: không có 
sự liên quan có ý nghĩa giữa trị số huyết áp lúc 
nhập viện và kết cục lúc ra viện ở bệnh nhân 
xuất huyết não. Nghiên cứu của Bruce(5) huyết áp 
lúc nhập viện không liên quan đến tử vong 
nhưng liên quan đến hồi phục chức năng đánh 
giá tại thời điểm 3 tháng, huyết áp động mạch 
trung bình ở nhóm hồi phục tốt (mRS≥3) là 
66,7mmHg so với nhóm hồi phục xấu (mRS<3) là 
86,8mmHg (p=0,016). 
Bệnh nhân có thân nhiệt lúc nhập viện ≥ 
37,5oC có kết xấu là 12,25% cao hơn nhóm bệnh 
nhân có thân nhiệt <37,5oC (p=0,041). Kết quả 
nghiên cứu của tác giả Châu Nam Huân tăng 
thân nhiệt là một yếu tố thực sự liên quan với tử 
vong bệnh viện ở bệnh nhân xuất huyết não, tác 
giả Nguyễn Văn Dũng cũng ghi nhận có sự liên 
quan giữa nhiệt độ lúc nhập viện và tử vong 48 
giờ sau xuất huyết não. Tác giả Honig thì cũng 
ghi nhận có sự liên quan giữa sốt và kết cục bệnh 
nhân tại thời điểm 3 tháng, 100% bệnh nhân có 
kết cục xấu (mRS>3), trong khi chỉ 46,1% bệnh 
nhân không sốt có kết cục xấu (p<0,05). Tác giả 
Palm(20) đánh giá tử vong 1 năm, các tác giả cho 
thấy không có sự khác biệt về thân nhiệt lúc 
nhập viện với kết cục của bệnh nhân xuất huyết 
não. Tác giả Bruce thì ghi nhận, không có sự liên 
quan giữa thân nhiệt và tử vong kể cả lúc nằm 
viện và sau 3 tháng, nhưng liên quan đến hồi 
phục chức năng sau 3 tháng. 
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ lệ 
bệnh nhân có điểm Glasgow ≤8 điểm có kết cục 
xấu 65,31%, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm bệnh nhân có điểm Glasgow >8 (p<0,001). 
Kết quả này tương tự như các tác giả khác. Tác 
giả Umeano(22) thì cho thấy điểm Glasgow trung 
bình ở nhóm có kết cục xấu là 7,13 so với nhóm 
có kết cục tốt là 12,04 (p<0,0001). Nghiên cứu 
Bhattacharya cũng ghi nhận bệnh nhân xuất 
huyết não có điểm Glasgow lúc nhập viện ≤8 có 
tỷ lệ kết cục xấu (mRS>2) cao hơn. Tỷ lệ tử vong 
ở nhóm bệnh nhân có điểm Glasgow lúc nhập 
viện ≤8 cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh 
nhân có điểm Glasgow>8. Điểm Glasgow lúc 
nhập viện là một yếu tố quan trọng trong tiên 
lượng kết cục bệnh nhân xuất huyết não. 
Tỷ lệ kết cục xấu ở nhóm bệnh nhân có tăng 
đường huyết lúc nhập viện ≥126mg/dl là 55,10%, 
chưa ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa về kết cục 
ở hai nhóm bệnh nhân có và không có tăng 
đường huyết lúc nhập viện. Trong nghiên cứu 
của Nguyễn Cảnh Nam ghi nhận có sự liên hệ 
giữa đường huyết lúc nhập viện ≥7mmol/L và 
kết cục của bệnh nhân xuất huyết não (OR=6,44, 
p=0,02), tương tự như vậy, tác giả Koga(14) cũng 
đánh giá tại thời điểm 3 tháng, đường huyết lúc 
nhập viện trung bình ở nhóm không mất chức 
năng hoặc mất chức năng tối thiểu là 120,2mg/dL 
thấp hơn so với nhóm còn lại là 138,1mg/dL, 
trong khi đó các tác giả Bhattacharya, Bhatia 
cũng không nhận thấy có sự liên quan giữa 
đường huyết lúc nhập viện và kết cục bệnh nhân 
lúc ra viện. 
Về vị trí xuất huyết, bệnh nhân xuất huyết 
não dưới lều 20,41% có kết cục xấu. Nghiên cứu 
của tác giả Nguyễn Văn Đạt cũng cho thấy rằng 
xuất huyết não dưới lều liên quan đến tình trạng 
tử vong bệnh viện. Kết quả của Lê Duy Phong(15), 
vị trí xuất huyết liên quan đến tử vong 2 tuần 
đầu. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu của các tác giả 
trong và ngoài nước lại cho kết quả là không có 
sự khác biệt có ý nghĩa giữa vị trí xuất huyết 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 61
dưới lều với kết cục lúc ra viện của bệnh nhân(43). 
Thể tích khối máu tụ là một yếu tố được ghi 
nhận là có liên quan đến kết cục bệnh nhân xuất 
huyết não. Tỷ lệ bệnh nhân có thể tích khối máu 
tụ ≥30ml có kết cục xấu là 67,35%. Bệnh nhân có 
thể tích khối máu tụ ≥30ml tiên lượng phục hồi 
kém hơn nhóm <30ml, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê với p<0,001, OR=50,571. Bệnh nhân 
xuất huyết lan vào não thất có tỷ lệ kết cục xấu 
67,35%, (p=0,004, OR= 3,393). Nhiều tác giả cũng 
ghi nhận mối liên hệ này(3,4). Xuất huyết lan não 
thất có kết cục xấu hơn và tử vong cao hơn nhóm 
không có xuất huyết lan não thất. Nếu xuất 
huyết nhỏ và nằm xa não thất thì thường khu trú 
trong nhu mô não đơn thuần, nhưng khi ổ xuất 
huyết lớn, hoặc nằm sâu và gần não thất thì ổ 
xuất huyết vỡ, chảy máu vào não thất thường 
xảy ra, từ đó có thể dẫn đến tắc cống não gây 
dãn não thất cấp, tăng áp lực nội sọ, khi đó lâm 
sàng thường nặng nề và tử vong cao hơn. 
Điểm xuất huyết não lúc nhập viện có liên 
quan đến và kết cục của bệnh nhân xuất huyết 
não. Bệnh nhân có điểm xuất huyết não bằng 5 
có kết cục xấu 100%, điểm xuất huyết não bằng 4 
kết cục xấu 92,86%, điểm xuất huyết não bằng 3 
có kết cục xấu 83,33%. (p<0,001). Năm 2009, tác 
giả Claude Hemphill III kết luận rằng điểm ICH 
là thang điểm lâm sàng đánh giá kết cục chức 
năng lâu dài của bệnh nhân xuất huyết não và sự 
cải thiện chức năng có thể vẫn tiếp tục sau 6 
tháng. Nghiên cứu của Raymond Tak Fai 
Cheung và Liang-Yu Zou ghi nhận điểm ICH ≥ 3 
và < 3 lần lượt là yếu tố có ý nghĩa tiên lượng tỷ 
lệ tử vong và kết cục tốt. Nghiên cứu của tác giả 
Tao(21) trong ghi nhận điểm ICH có liên quan đến 
kết cục của bệnh nhân xuất huyết não, điểm xuất 
huyết não trung bình (median) ở nhóm có kết 
cục tốt (mRS<2) là 1 so với nhóm có kết cục xấu 
(mRS>2) là 2 (p=0,03). Tác giả Bhatia cũng cho 
thấy điểm ICH có sự khác biệt giữa nhóm bệnh 
nhân tử vong bệnh viện và nhóm bệnh nhân 
sống (median là 3,5 so với 2,4, p<0,001). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chưa có sự 
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các biến 
chứng lúc nằm viện như động kinh, rối loạn cơ 
vòng, viêm phổi bệnh viện, nhiễm trùng tiểu và 
xuất huyết tiêu hóa cũng như việc điều trị phẫu 
thuật với kết cục bệnh nhân xuất huyết não. 
Kết quả phân tích đơn biến chúng tôi ghi 
nhận có 7 yếu tố liên quan đến kết cục của bệnh 
nhân xuất huyết não khi ra viện: sốt, điểm 
Glasgow ≤ 8 điểm, xuất huyết dưới lều, thể tích 
khối máu tụ ≥ 30ml, tràn máu não thất, đẩy lệch 
đường giữa và điểm xuất huyết não ≥3. 
Qua phân tích đa biến thì chúng tôi chỉ tìm 
được 3 yếu tố có liên quan đến kết cục của 
bệnh nhân là điểm Glasgow, thể tích khối máu 
tụ và đẩy lệch đường giữa. Cùng đánh giá kết 
cục của bệnh nhân lúc ra viện, tác giả 
Bhatachyrya ghi nhận thể tích khối máu tụ là 
yếu tố thực sự liên quan đến điểm mRS của 
bệnh nhân lúc ra viện, trong nghiên cứu của 
tác giả Bhatia thì có 2 yếu tố là điểm Glasgow 
lúc nhập viện và thể tích khối máu tụ. Tác giả 
Umeano thì ghi nhận ba yếu tố thực sự liên 
quan đến kết cục không thuận lợi của bệnh 
nhân xuất huyết não là giới tính, tuổi bệnh 
nhân và điểm Glasgow lúc nhập viện 
KẾT LUẬN 
Về đặc điểm xuất huyết não 
Tuổi trung bình là 62,74, nam chiếm 57,4%, 
tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ có tỷ lệ cao nhất 
77,23%. Tăng huyết áp lúc nhập viện chiếm 
90,1%, GCS≤8 chiếm 33,65%, sốt ≥37,5oC chiếm 
6,93%, 58,42% bệnh nhân có tăng đường huyết 
lúc nhập viện. Xuất huyết hạch nền là vị trí 
thường gặp, thể tích khối máu tụ trung bình 
27,40ml, ≥30ml chiếm 36,63%, 52,48% bệnh nhân 
có xuất huyết não lan vào não thất, 25,74% có 
đẩy lệch đường giữa. Điểm ICH ≥3 chiếm 
36,63%. Tỷ lệ phẫu thuật là 3,96%. Các biến 
chứng trong lúc nằm viện là: cơn động kinh 
6,93%, rối loạn cơ vòng 43,56%, viêm phổi bệnh 
viện 15,84%, nhiễm trùng tiểu 3,96%, xuất huyết 
tiêu hóa 1,98% 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa II 62
Về kết cục bệnh nhân xuất huyết não và 
các yếu tố liên quan 
Tỷ lệ hồi phục tốt (mRS ≤ 3) chiếm 51,49%. 
Các yếu tố liên quan đến kết cục xấu của bệnh 
nhân lúc ra viện trong nghiên cứu là: sốt ≥37,5oC, 
Glasgow lúc nhập viện ≤ 8 điểm, xuất huyết 
dưới lều, thể tích khối máu tụ ≥ 30ml, tràn máu 
não thất, đẩy lệch đường giữa và điểm ICH. Qua 
phân tích đa biến thì còn ba yếu tố thực sự có 
liên quan là điểm Glasgow lúc nhập viện, thể 
tích khối máu tụ và đẩy lệch đường giữa 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Alsumrain M, Melillo N, Debari VA, et al (2013), “Predictors 
and outcomes of pneumonia in patients with spontaneous 
intracerebral hemorrhage”, J Intensive Care Med. 28 (2): 118-23. 
2. Appelboom G, Bruce SS, Han J, et al (2012), “Functional 
outcome prediction following intracerebral hemorrhage", J 
Clin Neurosci. 19 (6): 795-8. 
3. Bhatia R, Singh H, Singh S, et al (2013), “A prospective study 
of in-hospital mortality and discharge outcome in 
spontaneous intracerebral hemorrhage”, Neurol India. 61 (3): 
244-8. 
4. Bhattacharya P, Shankar L, Manjila S, et al (2010), 
“Comparison of outcomes of nonsurgical spontaneous 
intracerebral hemorrhage based on risk factors and physician 
specialty” J Stroke Cerebrovasc Dis. 19 (5): 340-6. 
5. Bruce SS, Appelboom G, Piazza M, et al (2011), “A 
comparative evaluation of existing grading scales in 
intracerebral hemorrhage” Neurocrit Care. 15 (3): 498-505. 
6. Cao Phi Phong, Mạc Văn Hòa (2011). “Nghiên cứu các yếu tố 
tiên lượng xuất huyết não tự phát”, Tạp chí y học Thành phố Hồ 
Chí Minh. 15 (1): 596-602. 
7. Châu Nam Huân (2011), “Các yếu tố tiên lượng tử vong trên 
bệnh nhân tai biến mạch máu não tại bệnh viện Đa khoa Long 
An”, Luận án chuyên khoa cấp 2 Đại học Y Dược Thành Phố Hồ 
Chí Minh. 
8. Chiu D, Peterson L, Elkind MS, Glycine Antagonist in 
Neuroprotection Americas Trial Investigators (2010) 
“Comparison of outcomes after intracerebral hemorrhage and 
ischemic stroke” J Stroke Cerebrovasc Dis. 19 (3): 225-9. 
9. Đỗ Văn Vân (2011), “Nghiên cứu các yếu tố tiên lượng tử 
vong trong xuất huyết não” Kỷ yếu Hội nghị Khoa học bệnh viện 
An Giang. Số tháng 10/2011: 139-145. 
10. Ganti L, Jain A, Yerragondu N, et al (2013) “Female gender 
remains an independent risk factor for poor outcome after 
acute nontraumatic intracerebral hemorrhage”, Neurol Res Int. 
2013, 219097. 
11. Honig A, Michael S, Eliahou R, Leker RR (2015) “Central fever 
in patients with spontaneous intracerebral hemorrhage: 
predicting factors and impact on outcome”, BMC Neurol. 15, p. 
6. 
12. Hu YZ, Wang JW, Luo BY (2013), “Epidemiological and 
clinical characteristics of 266 cases of intracerebral hemorrhage 
in Hangzhou”, China, J Zhejiang Univ Sci B. 14 (6): 496-504. 
13. Ikram MA, Wieberdink RG, Koudstaal PJ (2012), 
“International epidemiology of intracerebral hemorrhage”, 
Curr Atheroscler Rep. 14 (4): 300-6. 
14. Koga M, Yamagami H, Okuda S, et al, Investigators Samurai 
Study (2015), “Blood glucose levels during the initial 72 h and 
3-month functional outcomes in acute intracerebral 
hemorrhage: the SAMURAI-ICH study”, J Neurol Sci. 350 (1-
2): 75-8. 
15. Lê Duy Phong (2012), “Tiên lượng tử vong tai biến mạch máu 
não trong hai tuần đầu ở bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình 
Dương”, Luận án chuyên khoa cấp 2, Đại học Y Dược Thành Phố 
Hồ Chí Minh. 
16. Middleton Sandy (2013), “Management of fever, 
hyperglycemia, and swallowing dysfunction following 
hospital admission for acute stroke in New South Wales, 
Australia”, International Journal of Stroke © 2013 World Stroke 
Organization. 9: 23-31. 
17. Nguyễn Văn Dũng (2011) “Một số yếu tố tiên lượng tử vong 
sớm trong xuất huyết não tại bệnh viện đa khoa trung tâm 
Tiền Giang”, Tạp chí y học Thành phố Hồ Chí Minh. 15 (4): 125-
132. 
18. Nguyễn Văn Đạt (2013), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, 
hình ảnh chụp cắt lớp vi tính đầu và nhận xét kết quả điều trị 
nội khoa của xuất huyết não tai bệnh viện Nguyễn Đình 
Chiểu – Bến Tre”, Luận án chuyên khoa cấp 2, Đại học Y Dược 
Cần Thơ. 
19. Nguyễn Thanh Tân (2014), “Đánh giá hiện trạng bệnh nhân 
xuất huyết não tại BV 115”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Y Dược TP 
Hồ Chí Minh. 
20. Palm F, Henschke N, Wolf J, Zimmer K, et al (2013), 
“Intracerebral haemorrhage in a population-based stroke 
registry (LuSSt): incidence, aetiology, functional outcome and 
mortality”, J Neurol. 260 (10): 2541-50. 
21. Tao WD, Wang J, Schlaug G, Liu M, Selim MH (2014), “A 
comparative study of fractional anisotropy measures and ICH 
score in predicting functional outcomes after intracerebral 
hemorrhage”, Neurocrit Care. 21 (3): 417-25. 
22. Umeano O, Phillips-Bute B, Hailey CE, et al (2013), “Gender 
and age interact to affect early outcome after intracerebral 
hemorrhage”, PLoS One. 8 (11): e81664. 
23. Wang Q, Wang D, Liu M, Fang Y, el at (2015), “Is diabetes a 
predictor of worse outcome for spontaneous intracerebral 
hemorrhage?”, Clin Neurol Neurosurg. 134: 67-71. 
24. Wang W, Lu J, Wang C, Wang Y, Li H, Zhao X, Investigators 
for the China National Stroke Registry Investigators (2013), 
“Prognostic value of ICH score and ICH-GS score in Chinese 
intracerebral hemorrhage patients: analysis from the China 
National Stroke Registry (CNSR)”, PLoS One. 8 (10): e77421. 
25. Woo KM, Yang SY, Cho KT (2012), “Seizures after 
spontaneous intracerebral hemorrhage”, J Korean Neurosurg 
Soc. 52 (4): 312-9. 
Ngày nhận bài báo: 20/11/2015 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2015 
Ngày bài báo được đăng: 15/02/2016