Đánh giá độ tin cậy và giá trị chẩn đoán suy yếu của thang điểm Edmonton Frail Scale ở người cao tuổi điều trị tại 2 khoa ngoại tiêu hóa và chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh

Tài liệu Đánh giá độ tin cậy và giá trị chẩn đoán suy yếu của thang điểm Edmonton Frail Scale ở người cao tuổi điều trị tại 2 khoa ngoại tiêu hóa và chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 325 ĐÁNH GIÁ ĐỘ TIN CẬY VÀ GIÁ TRỊ CHẨN ĐOÁN SUY YẾU CỦA THANG ĐIỂM EDMONTON FRAIL SCALE Ở NGƯỜI CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ TẠI 2 KHOA NGOẠI TIÊU HÓA VÀ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH, BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HCM Võ Yến Nhi*, Thân Hà Ngọc Thể**, Trịnh Thị Bích Hà**, Tăng Thị Thu*, Nguyễn Ngọc Mai Phương*, Nguyễn Ngọc Hoành Mỹ Tiên** TÓM TẮT Cơ sở: Nền tảng trong y học Lão khoa là xác định, đánh giá và điều trị người cao tuổi (NCT) suy yếu, phòng ngừa mất khả năng độc lập và những kết cục bất lợi. Hiện nay có rất nhiều công cụ được lựa chọn để đánh giá tình trạng suy yếu, riêng đối tượng NCT phẫu thuật, thang điểm Edmonton Frail Scale (EFS) được Hội Lão Khoa Anh khuyến cáo sử dụng đánh giá suy yếu tiền phẫu. Mục tiêu: Đánh giá độ tin cậy và giá trị chẩn đoán suy yếu của thang điểm Edmonton Frail Scale ở người cao tuổi phẫu thuật tại 2 khoa Ngoại Tiêu Hóa và Chấn Thương Chỉnh Hình (CTCH...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 125 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá độ tin cậy và giá trị chẩn đoán suy yếu của thang điểm Edmonton Frail Scale ở người cao tuổi điều trị tại 2 khoa ngoại tiêu hóa và chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 325 ĐÁNH GIÁ ĐỘ TIN CẬY VÀ GIÁ TRỊ CHẨN ĐOÁN SUY YẾU CỦA THANG ĐIỂM EDMONTON FRAIL SCALE Ở NGƯỜI CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ TẠI 2 KHOA NGOẠI TIÊU HÓA VÀ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH, BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HCM Võ Yến Nhi*, Thân Hà Ngọc Thể**, Trịnh Thị Bích Hà**, Tăng Thị Thu*, Nguyễn Ngọc Mai Phương*, Nguyễn Ngọc Hoành Mỹ Tiên** TÓM TẮT Cơ sở: Nền tảng trong y học Lão khoa là xác định, đánh giá và điều trị người cao tuổi (NCT) suy yếu, phòng ngừa mất khả năng độc lập và những kết cục bất lợi. Hiện nay có rất nhiều công cụ được lựa chọn để đánh giá tình trạng suy yếu, riêng đối tượng NCT phẫu thuật, thang điểm Edmonton Frail Scale (EFS) được Hội Lão Khoa Anh khuyến cáo sử dụng đánh giá suy yếu tiền phẫu. Mục tiêu: Đánh giá độ tin cậy và giá trị chẩn đoán suy yếu của thang điểm Edmonton Frail Scale ở người cao tuổi phẫu thuật tại 2 khoa Ngoại Tiêu Hóa và Chấn Thương Chỉnh Hình (CTCH), Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM. Phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là 258 bệnh nhân cao tuổi (≥ 60 tuổi) nhập viện điều trị và phẫu thuật chương trình tại 2 khoa Ngoại Tiêu Hóa và Ngoại CTCH Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM trong thời gian từ tháng 10/2016 đến tháng 5/2017. Thiết kế nghiên cứu là mô tả cắt ngang tiến cứu. Phương tiện đánh giá suy yếu là công cụ Edmonton Frail Scale.Đánh Giá Lão Khoa toàn diện (Comprehensive Geriatric Assessment - CGA) được sử dụng như tiêu chuẩn so sánh. Chúng tôi ước tính độ tin cậy bằng tính nhất quán nội tại (chỉ số Crohnbach’s alpha), tính tương quan đồng nhất của EFS so với thang đo CGA (chỉ số Kappa) và tính giá trị lặp lại(hệ số test-retest). Ước tính giá trị chẩn đoán suy yếu của thang điểm EFS bằng cách đánh giá diện tích dưới đường cong ROC, độ nhạy và độ đặc hiệu. Kết quả: Tỷ lệ suy yếu theo thang điểm EFS là 31,01% với điểm số trung bình là 5,56 ± 3,95 điểm. Độ tin cậy của thang điểm EFS: Tính nhất quán nội tại chấp nhận được với hệ số Cronbach’s Alpha = 0,78, tính tương quan đồng nhất mức độ trung bình với chỉ số Kappa = 0,4684 và hệ số test-retest = 0,98. Giá trị chẩn đoán tốt với diện tích dưới đường cong ROC (AUC) = 0,8947, độ nhạy = 53,19%, độ đặc hiệu = 95,73%. Kết luận: EFS là bộ công cụ chẩn đoán suy yếu với độ tin cậy cao và giá trị chẩn đoán tốt. Từ khóa: Edmonton Frail Scale, suy yếu, người cao tuổi ABSTRACT IDENTIFICATION OF RELIABILITY AND DIAGNOSTIC VALUE FRAILTY IN ELDERLY PATIENTS OF THE EDMONTON FRAIL SCALE AT BOTH THE GENERAL SURGERY DEPARTMENT AND ORTHOPEDIC SURGERY DEPARTMENT, UNIVERSITY MEDICAL CENTER HCMC Vo Yen Nhi, Than Ha Ngoc The, Trinh Thi Bich Ha, Tang Thi Thu, Nguyen Ngoc Mai Phuong, Nguyen Ngoc Hoanh My Tien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 325 - 331 Background: The cornerstone of geriatric medicine is the identification, evaluation and management of frail older patients, prevention of disability, dependency and adverse outcomes. Currently, there are several measurement tools for evaluating the state of frailty. For elderly undergoing elective surgery, the Edmonton Frail * Cao học Lão 2015-2017, Đại học Y Dược TP.HCM, ** Bộ môn Lão khoa – Đại học Y Dược TP.HCM Tác giả liên lạc: BS. Võ Yến Nhi ĐT: 0919288814 Email: drvoyennhi@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Nội Khoa 326 Scale (EFS) is recommended by the British Geriatrics Society for assessing preoperative frailty. Objectives: To evaluate the reliability and diagnostic value of EFS in elderly patients from the General Surgery and Orthopedic Wards of University Medical Center (UMC) HCMC. Subjects and methods: Studied population was258 elderly patients (≥ 60 years old) who had admitted to the hospital and been scheduled for elective surgeries at General Surgery and Orthopedic Wards of UMC HCMC from October 2016 to May 2017. The study design was a descriptive cross-sectional study. The studied instrument was the EFS. Comprehensive Geriatric Assessment (CGA) was used as reference standard. We evaluated the reliability of the EFS by assessing the internal consistency (the Cronbach's alpha coefficient), the correlation with the CGA (the Kappa index) and the test- retestreliability. We estimated the diagnostic value of EFS by evaluating the area under the ROC curve, the sensitivity and the specificity. Results: The prevalence of preoperative frailty was 31.01%, the mean EFS score was 5.56 ± 3.95. The reliability of EFS was expressed as: the internal consistency was acceptable with the Cronbach's alpha coefficient = 0.78, the value of the test-retest reliability = 0.98, the correlation was moderate with the Kappa index = 0.47. Diagnostic value was considered good with the area under ROC curve (AUC) = 0.89, the sensitivity = 53.19% andthe specificity = 95.73%. Conclusions: EFS is a diagnostic instrumentfor frailty with high reliability and good diagnostic value. Keywords: Frail elderly, older people, Edmonton Frail Scale ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay cùng với nhịp độ phát triển kinh tế và y tế, tỷ lệ dân số người cao tuổi (NCT) ngày càng tăng. Theo thống kê, ước tính năm 2050 tại Hoa Kỳ có đến hơn 20,3% (82 triệu người) tổng dân số là NCT và tại Việt Nam con số này là 22%(4, 5). Nền tảng của Lão khoa khoa là xác định, đánh giá và điều trị NCTsuy yếu, phòng ngừa mất khả năng độc lập và những kết cục bất lợi. Hiện nay có rất nhiều công cụ được lựa chọn để đánh giá tình trạng suy yếu ở nhiều đối tượng khác nhau, phần lớn các công cụ đánh giá thường mất nhiều thời gian và khó thực hành trong lâm sàng, tuy nhiên mục đích cuối cùng vẫn là dự báo những kết cục bất lợi trên sức khỏe NCT. Riêng ở đối tượng NCT phẫu thuật, thang điểm Edmonton Frail Scale (EFS) được Hội Lão Khoa Anh khuyến cáo sử dụng đánh giá suy yếu tiền phẫu vì thang điểm này thuận tiện dễ thực hiện và có thể đánh giá được nhiều phương diện của suy yếu(6). Ngoài ra thang điểm EFS còn có độ tin cậy và giá trị cao khi so sánh với các công cụ khác(2). Thang điểm EFS được thiết lập dựa trên đánh giá 9 lĩnh vực, bao gồm: suy giảm nhận thức được kiểm tra thông qua yêu cầu thực hiện bài kiểm tra vẽ đồng hồ, thời gian đứng lên và đi cho sự cân bằng và di chuyển, ngoài ra còn có các lĩnh vực khác như tâm trạng, sự độc lập về chức năng, vấn đề sử dụng thuốc, sự hỗ trợ về xã hội, dinh dưỡng, thái độ về sức khỏe, vấn đề tiểu tiện, tình trạng tổng quát và chất lượng cuộc sống. Tổng điểm EFS là 17 điểm và bệnh nhân có suy yếu khi đạt > 7 điểm(2). Tại Việt Nam, thang điểm EFS chưa được áp dụng rộng rãi trong việc đánh giá suy yếu tiền phẫu ở NCT phẫu thuật, độ tin cậy và giá trị chẩn đoán của thang điểm này cũng vẫn chưa được nghiên cứu rõ ràng. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm xác định độ tin cậy và giá trị chẩn đoán suy yếu tiền phẫu của thang điểm EFS so với tiêu chuẩn vàng đánh giá suy yếu là đánh giá lão khoa toàn diện CGA - Comprehensive Geriatrics Assessment ở NCT phẫu thuật tại 2 khoa Ngoại Tiêu Hóa và Ngoại Chấn Thương Chỉnh Hình (CTCH) Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu 258 bệnh nhân cao tuổi (≥ 60 tuổi) nhập viện điều trị và phẫu thuật chương trình tại 2 khoa Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 327 Ngoại Tiêu Hóa và Ngoại CTCH Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM trong thời gian từ tháng 10/2016 đến tháng 5/2017. Thiết kế nghiên cứu là mô tả cắt ngang tiến cứu. Chọn mẫu thuận tiện. Tiêu chuẩn loại trừ: Những bệnh nhân không đủ năng lực trả lời câu hỏi nghiên cứu (bệnh tâm thần, sa sút trí tuệ, bệnh cấp tính đang diễn tiến nặng) và không đồng ý tham gia nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu Tất cả các bệnh nhân đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu được đánh giá suy yếu bằng thang điểm EFS và thang điểm đánh giá lão khoa toàn diện CGA. Sau đó bệnh nhân được chia thành 2 nhóm suy yếu theo 2 thang điểm. Đồng thời các bệnh nhân được thu thập 1 số các thông tin như tuổi, giới, chỉ số khối cơ thể, hoàn cảnh gia đình, các bệnh nội ngoại khoa phối hợp, tình trạng đa bệnh và đa thuốc, loại phẫu thuật, phương pháp vô cảm, Các biến số nghiên cứu Edmonton Frail Scale Bảng câu hỏi gồm 9 lĩnh vực: nhận thức, đo thời gian đứng lên và đi cho hoạt động thể lực, tâm trạng, sự độc lập về chức năng, vấn đề sử dụng thuốc, sự hỗ trợ về xã hội, dinh dưỡng, thái độ về sức khỏe, vấn đề tiểu tiện, tình trạng tổng quát và chất lượng cuộc sống. Suy yếu khi EFS > 7 điểm(3). Đánh giá Lão Khoa Toàn Diện (CGA) Gồm 5 phương diện. Tình trạng chức năng được đánh giá bằng Các hoạt động sống cơ bản hằng ngày (ADL) với chỉ số Barthel(1) và Các hoạt động sống sinh hoạt hằng ngày (IADL) với thang điểm Lawton(7). Tình trạng tâm thần được đánh giá bởi thang điểm Lượng giá trạng thái tâm thần tối thiểu (MMSE)(1). Triệu chứng trầm cảm được đánh giá bởi Thang trầm cảm lão khoa (GDS-15)(1). Dinh dưỡng được đánh giá bởi MNA(1) và Các bệnh đồng mắc bởi chỉ số bệnh đồng mắc Charlson (Charlson Comorbidity Index). Các ngưỡng giá trị xác định cho mỗi phương diện bất thường ít nhất hai câu lượng giá của tình trạng hoạt động chức năng (ADL và IADL), ≤ 17 cho MMSE, ≥ 10 cho GDS-15, <7 cho MNA, ≥ 2 cho chỉ số Charlson. Suy yếu được định nghĩa khi có suy giảm ít nhất 2 lĩnh vực của đánh giá trong CGA. Bộ công cụ thu thập số liệu Bộ câu hỏi công cụ EFS so sánh với đánh giá Lão khoa toàn diện (CGA). Phương pháp xử lý số liệu Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1 và xử lý bằng phần mềm Stata 13. Chúng tôi đánh giá độ tin cậy của thang điểm EFS thông qua đánh giá tính nhất quán nội tại (hệ số Cronbach’s Alpha)(10), tính tương quan đồng nhất của EFS so với thang đo CGA (chỉ số Kappa)(9) và tính giá trị lặp lại của 2 lần đo (hệ số test-retest). Giá trị chấp nhận hệ số Cronbach’s Alpha là(10): < 0,5: không chấp nhận 0,5 - <0,6: kém 0,6 - 0,7: tạm chấp nhận 0,7 - 0,8: chấp nhận 0,8 - <0,9: tốt ≥ 0,9: xuất sắc Giá trị của chỉ số Kappa là(9): <0: không có tính đồng nhất 0 - 0,2: đồng nhất rất thấp 0,21 - 0,4: đồng nhất thấp 0,41 - 0,6: đồng nhất vừa 0,61 - 0,8: đồng nhất đáng kể 0,81 - 1: đồng nhất rất tốt Chúng tôi khảo sát giá trị chẩn đoán của thang điểm EFS bằng cách sử dụng phần diện tích dưới đường cong ROC (AUC), độ nhạy và độ đặc hiệu. Diện tích dưới đường cong thay đổi 0,5 - 1. AUC ≥ 0,8 được xem như có giá trị chẩn đoán tốt(11). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Nội Khoa 328 Đây là nghiên cứu quan sát, không can thiệp vào quá tình điều trị nên không vi phạm về mặt y đức. KẾT QUẢ Trong thời gian từ tháng 10/2016 đến tháng 5/2017, nghiên cứu của chúng tôi đã ghi nhận được 258 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn nghiên cứu. Kết quả như sau: Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu (n = 258) Biến số Tần số Tỷ lệ (%) Khoa Điều trị Ngoại CTCH 127 49,22 Ngoại Tiêu Hóa 131 50,78 Giới Nam 101 39,15 Nữ 157 60,85 Tuổi trung bình (Trung bình ± độ lệch chuẩn) 72,36 9,64 Nhóm tuổi 60 – 69 tuổi 127 49,22 70-79 tuổi 66 25,58 ≥ 80 tuổi 65 25,19 Chỉ số khối cơ thể BMI(TB ĐLC) 22,39 4,5 Phân nhóm BMI Gầy BMI ≤ 18,5 40 15,50 Bình thường (BMI từ 18,5 – 23) 103 39,92 Thừa cân và béo phì (BMI ≥ 23) 115 44,58 Tình trạng hôn nhân Độc thân 70 27,13 Đã kết hôn 188 72,87 Hoàn cảnh gia đình Sống 1 mình 4 1,55 Sống cùng người thân 254 98,45 Nơi sinh sống Thành thị 158 61,24 Nông thôn 100 38,76 Có tình trạng đa bệnh (≥ 2 bệnh mãn tính) 192 74,42 Có tình trạng đa thuốc (≥ 5 loại thuốc) 168 65,12 Có tình trạng té ngã trong năm vừa qua 95 36,82 Số ngày nằm viện (Trung bình ± độ lệch chuẩn) 11,67 6,9 Các bệnh mạn tính thường gặp là tăng huyết áp (72,48% TH), bệnh lý viêm loét dạ dày tá tràng (63,18%), bệnh phổi mạn tính (43,8%), thoái hóa khớp (37,74%), ung thư (34,11%), bệnh mạch máu ngoại biên (31,78% TH), đái tháo đường (27,52%), Điểm trung bình thang điểm EFS là 5,56 ± 3,95 điểm với tỷ lệ suy yếu là 81TH (31,01%). Điểm trung bình thang điểm CGA là 1,94 ± 1,36 điểm với tỷ lệ suy yếu là 141TH (54,65%). Độ tin cậy của thang điểm EFS so với CGA (hệ số Cronbach’s Alpha, chỉ số Kappa và hệ số Test-retest) Hệ số Cronbach’s Alpha thang điểm EFS Bảng 2 cho thấy hệ số Cronbach’s Alpha của thang điểm EFS là 0,78 với điểm số dao động từ 0,73 – 0,79 cho từng câu hỏi. Bảng 2. Hệ số Cronbach’s Alpha thang điểm EFS Câu hỏi Cronbach’s Alpha Câu 1 0,73 Câu 2 0,74 Câu 3 0,74 Câu 4 0,79 Câu 5 0,76 Câu 6 0,78 Câu 7 0,75 Câu 8 0,78 Câu 9 0,75 Bộ câu hỏi 0,78 Chỉ số Kappa 0,4684 cho thấy cho mối tương quan đồng nhất ở mức độ vừa (bảng 3). Bảng 3. So sánh giá trị thang điểm EFS Log likelihood CGA Nhạy (%) Đặc hiệu (%) AUC Kappa EFS (điểm cắt >7) - 103,89678 53,19% 95,73% 0,894 7 0,4684 Hệ số Test-retest (tương quan giữa 2 lần đo) Có mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa 2 lần đo với hệ số tương quan mạnh r = 0,98 (p < 0,01) (Biểu đồ 1). Giá trị chẩn đoán suy yếu của thang điểm EFS so với thang đo CGA (độ nhạy, độ đặc hiệu và diện tích dưới đường cong ROC) Bảng 3 và biểu đồ 2 cho thấy giá trị chẩn đoán của thang điểm EFS với AUC = 0,8947, độ nhạy 53,19% và độ đặc hiệu 95,73%. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 329 0 5 1 0 1 5 2 0 0 5 10 15 Lan 2 diem tong efs Fitted values Biểu đồ 1: Hệ số Test-retest. Biểu đồ 2: Diện tích dưới đường cong ROC thang điểm EFS BÀN LUẬN Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành trên 258 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn. Chúng tôi ghi nhận được độ tuổi trung bình là 72,36 9,64 tuổi và nhóm tuổi từ 60 – 69 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là 49,22% trường hợp. Kết quả này tương đồng với tác giả Dasgupta (2009) với độ tuổi trung bình là 76,3 5 tuổi(3). Tỷ lệ bệnh nhân nữ (60,85%) chiếm nhiều hơn bệnh nhân nam (39,15%), kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu của tác giả Dasgupta với tỷ lệ bệnh nhân nữ chiếm 58%(3). Tình trạng đa bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi khá cao chiếm đến 74,42%, do đó góp phần làm cho những bệnh nhân cao tuổi này phải uống nhiều loại thuốc mỗi ngày, điều này có thể là lý do dẫn đến tỷ lệ sử dụng đa thuốc trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm đến 65,12%, cao hơn rất nhiều so với tác giả Dasgupta chỉ 48%(3). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Nội Khoa 330 Bảng 4. Tỷ lệ suy yếu tiền phẫu theo thang điểm EFS và CGA Tỷ lệ suy yếu Chúng tôi Tác giả khác CGA 54,65% 59,4% Kristjansson (8) EFS 31,01% 12,8% Dasgupta (3) Tỷ lệ bệnh nhân có tình trạng suy yếu theo EFS là 31,01% với điểm số trung bình 5,56 3,95 điểm. Tỷ lệ suy yếu theo EFS trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn rất nhiều so với nghiên cứu của tác giả Dasgupta (12,8%)(3). Điều này có thể được lý giải do đặc tính dân số nghiên cứu và cỡ mẫu nghiên cứu. Tuy nhiên có sự tương đồng ở tỷ lệ suy yếu theo thang điểm CGA là 54,65% khi so sánh với tác giả Kristjansson và cộng sự(8). Tỷ lệ suy yếu theo thang điểm CGA lớn hơn rất nhiều so với thang điểm EFS, điều này có thể được lý giải do CGA là thang điểm đánh giá Lão khoa toàn diện, được xem là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán suy yếu, được đánh giá một cách phức tạp và chính xác, vì vậy dẫn đến tỷ lệ suy yếu theo CGA cao hơn so với thang điểm EFS. Độ tin cậy của thang điểm EFS so với CGA (hệ số Cronbach’s Alpha, chỉ số Kappa và hệ số tin cậy Test-retest) Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận thang điểm EFS có tính nhất quán nội tại ở mức chấp nhận được với hệ số Cronbach’s Alpha là 0,78; cao hơn so với nghiên cứu của tác giả Darryl B.Rolfson ghi nhận được tính nhất quán nội tại ở mức độ tạm chấp nhận được với Cronbach’s Alpha = 0,62 trong nghiên cứu của tác giả Darryl(2). Chúng tôi còn ghi nhận được kết quả về tính tương quan đồng nhất của thang điểm EFS so với thang điểm CGA ở mức độ vừa với chỉ số kappa = 0,4684, thấp hơn chỉ số Kappa của tác giả Darryl B.Rolfson (chỉ số Kappa = 0,77)(2). Lý giải cho sự khác biệt này có thể do nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành đánh giá trên bệnh nhân NCT cao tuổi trước phẫu thuật, còn nghiên cứu của tác giả này được tiến hành đánh giá tại cộng đồng và đơn vị điều trị ngoại trú. Giá trị chẩn đoán suy yếu của thang điểm EFS so với thang đo CGA (độ nhạy, độ đặc hiệu và diện tích dưới đường cong ROC) Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thang điểm EFS có giá trị tốt trong chẩn đoán suy yếu ở NCT với diện tích dưới đường cong ROC (AUC) = 0,8947 (chỉ số Likelihood = - 103,89678). Tuy nhiên thang điểm này có độ nhạy không cao và độ đặc hiệu tương đối cao, cụ thể thang điểm EFS có độ nhạy là 51,39% và độ đặc hiệu là 95,73%. So sánh với nghiên cứu của tác giả Dasgupta và cộng sự (2009) vớiAUC của thang điểm EFS là 0,69 cho thấy thang điểm EFS có giá trị chẩn đoán suy yếu tiền phẫu ở NCT phẫu thuật đạt mức độ trung bình, với độ đặc hiệu tương đương trong nghiên cứu của chúng tôi là 93% nhưng độ nhạy là 29% thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi rất nhiều(3). Nghiên cứu này cho kết quả khác nghiên cứu của chúng tôi có thể được lý giải vì chúng tôi dùng thang điểm CGA làm tiêu chuẩn để so sánh giá trị chẩn đoán của thang điểm EFS, còn nghiên cứu của tác giả này thì dùng thang điểm Fried làm tiêu chuẩn để so sánh giá trị chẩn đoán của thang điểm EFS(3). KẾT LUẬN Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 258 bệnh nhân cao tuổi phẫu thuật tại 2 khoa Ngoại Tiêu Hóa và Chấn Thương Chỉnh Hình Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM, ghi nhận được tỷ lệ suy yếu theo thang điểm CGA là 54,65% và theo thang điểm EFS là 31,01%. Độ tin cậy của thang điểm EFS ở mức độ chấp nhận với hệ số Cronbach’s Alpha = 0,78, chỉ số Kappa = 0,4684 và hệ số test-retest = 0,98. Giá trị chẩn đoán suy yếu của thang điểm EFS ở mức độ tốt với AUC = 0,8947, độ nhạy trung bình = 51,39% và độ đặc hiệu cao = 95,73%. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 331 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Crum RM, Yesavage JA, and Lum O, (1982), "Population based norm for the mini mental state examination by age and educational level", JAMA. 269 (18), pp. 2386-91. 2. Darryl BR, Sumit RM (2014), "Validity and reliability of the Edmonton Frail Scale", Ageing Oxford of Journals, pp. 526-9. 3. Dasgupta M, Rolfson DB, Stolee P, Borrie MJ, Speechley M (2009), "Frailty is associated with postoperative complications in older adults with medical problems ", Arch Gerontol Geriatr. 48, pp. 78-83. 4. Dương Huy Lương, Trần Thị Mai Oanh, Đàm Viết Cương, Dương Anh Tuấn (2005), "Một số kết quả nghiên cứu về triển khai chính sách chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi ở Việt Nam", Tạp chí chính sách Y tế. 5. Đàm Viết Cương, Trần Thị Mai Anh và cộng sự (2006), "Đánh giá tình hình chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi ở Việt Nam", Viện chiến lược và chính sách Y tế. 6. Fit for Frailty Consensus best practice guidance for the care of older people living with frailty in community and outpatient settings, British Geriatrics Society. 7. Joint National Committee (2003), "The seven report of the joint national committee on prevention, detection, evaluation and treatment of high blood pressure. NIH publication", JAMA. 289, pp. 2560-72. 8. Kristjansson SR, et al (2010), "Comprehensive geriatric assessment can predict complications in elderly patients after elective surgery for colorectal cancer: a prospective observational cohort study", Crit Rev Oncol Hematol. 76, pp. 208-17. 9. Landis JR, Koch GG (1977), "The measurement of observer agreement for categorical data", Biometrics. 33, 159-74. 10. Mohsen T, Reg D (2011), "Making sense of Cronbach's alpha", International Journal of Medical Education. 2, 53-55. 11. Murphy JM, Berwick DM, Weinstein MC, Borus JF, Budman SHKlerman GL (1987), "Performance of screening and diagnostic tests. Application of receiver operating characteristic analysis", Arch Gen Psychiatry. 44, 550-5. Ngày nhận bài báo: 18/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_do_tin_cay_va_gia_tri_chan_doan_suy_yeu_cua_thang_d.pdf