Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
 85
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA DỊ ỨNG ALLOPURINOL 
TRÊN BỆNH NHÂN GOUT 
Đỗ Duy Anh*, Mai Phương Thảo** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Gout là một trong những bệnh lý viêm khớp phổ biến nhất. Allopurinol là thuốc điều trị gout 
đầu tay, đồng thời là tác nhân gây dị ứng nặng hàng đầu. Nhiều yếu tố nguy cơ đã được báo cáo trong y văn, 
nhưng hiện chưa có nghiên cứu khảo sát các đặc điểm lâm sàng của tình trạng này trên đối tượng người Việt 
Nam mắc bệnh gout. 
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân gout bị dị ứng với allopurinol. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả loạt ca tiến cứu được tiến hành trên 161 bệnh nhân gout, 
gồm 10 trường hợp dị ứng nặng, 23 trường hợp dị ứng nhẹ và 128 trường hợp dung nạp với allopurinol. Các 
thông tin về đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng, điều trị và kết cục được thu thập và phân tích. 
Kết quả: Dị ứng allopurinol thường khởi phát muộn sau 7 ngày và trong vòng 60 ngày đầu tiên sau tiếp 
xúc. Các yếu tố liên quan với dị ứng nặng gồm giới nữ, suy giảm chức năng thận, dùng liều cao ngay từ đầu và 
dùng chung với thuốc lợi tiểu. Nhóm dị ứng nhẹ có biểu hiện thoáng qua và hồi phục hoàn toàn. Nhóm dị ứng 
nặng có thời gian điều trị kéo dài, tổn thương da nặng nề, bất thường trên xét nghiệm, 50% bị di chứng sau hồi 
phục và tỷ lệ tử vong là 20%. 
Kết luận: Nghiên cứu khẳng định các yếu tố nguy cơ của dị ứng nặng do allopurinol trên đối tượng người 
Việt Nam mắc bệnh gout, cũng như sự khác biệt rõ rệt về biểu hiện và dự hậu lâm sàng giữa dị ứng nhẹ và dị 
ứng nặng do thuốc này gây ra. 
Từ khóa: allopurinol, gout, phản ứng da, dị ứng thuốc 
ABSTRACT 
CLINICAL FEATURES OF ALLOPURINOL-INDUCED SKIN REACTIONS IN VIETNAMESE GOUT 
PATIENTS 
Đo Duy Anh, Mai Phuong Thao 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 23 - No 1- 2019: 85-90 
Background: Gout is one of the most popular inflammatory arthritis. Allopurinol is the mainstay drugs in 
chronic gout management, otherwise the leading cause of severe cutaneous adverse drug reactions (SCAR). Many 
risk factors for this condition have been identified. However, no clinical features investigation has been conducted 
in Vietnamese gout patients. 
Objectives: This study aimed to demonstrate the clinical manifestations, treatments and outcome of gout 
patients with skin reactions to allopurinol. 
Materials and methods: We prospectively enrolled and examined 161 gout patients included 10 SCARs, 
23 mild skin reactions and 128 allopurinol-tolerant controls. Demographic data, drug usage, clinical 
presentations, laboratory findings, treatment and outcome were analyzed. 
Results: A majority of skin reactions manifested within 60 days, but no sooner than 7 days after exposure. 
Factors associated with SCAR included female, renal insufficiency, initiated with high dosage and concomitant 
*Bộ môn Sinh Lý-Sinh Lý Bệnh-Miễn Dịch Học, trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, 
**Trung tâm Y Sinh Học Phân Tử, Đại học Y Dược Thành phố ồ Chí Minh; 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Mai Phương Thảo ĐT: 0918329999 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019
 86
diuretic use. All the mild cases experienced transient skin rash and full recovery, whereas SCAR patients had 
prolonged hospitalization, severe skin lesions, critical laboratory abnormalities, increased risk of complication after 
recovery (50%) and high mortality rate (20%). 
Conclusion: This study confirmed several risk factors for allopurinol-induced SCAR in Vietnamese gout 
population, along with significant difference in clinical presentations and outcome between mild skin reactions 
and SCAR due to this agent. 
Keywords: allopurinol, gout, skin reaction, drug hypersensitivity, SCAR 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Gout là dạng viêm khớp phổ biến nhất và 
đang có xu hướng gia tăng tại nhiều quốc gia 
trên thế giới(10). Allopurinol đã được sử dụng 
hơn 50 năm qua và hiện vẫn là thuốc hạ acid uric 
máu phổ biến nhất trong điều trị gout nhờ 
những ưu điểm về hiệu quả và giá thành(8). Mặc 
dù dung nạp khá tốt, allopurinol vẫn gây phản 
ứng dị ứng trên khoảng 2 - 6% người dùng(9,21), 
đồng thời là tác nhân hàng đầu gây dị ứng 
nặng(2,7). 
Dị ứng nhẹ và dị ứng nặng do allopurinol là 
hai tập hợp bệnh lý có biểu hiện lâm sàng và dự 
hậu khác biệt. Tổn thương da trong dị ứng nhẹ 
xuất hiện ít, biến mất nhanh chóng sau khi 
ngưng thuốc và không kèm triệu chứng toàn 
thân. Dị ứng nặng do allopurinol có tần suất 
thay đổi từ 0,01% đến 0,2%, có tổn thương da 
nặng nề kèm triệu chứng toàn thân như sốt và 
tổn thương gan thận, gây các biến chứng nghiêm 
trọng như nhiễm trùng huyết, suy đa cơ quan và 
rối loạn đông máu, với tỷ lệ tử vong từ 10% đến 
32%(12,14,18). 
Phản ứng quá mẫn muộn thông qua tế bào 
lympho CD8+ giữ vai trò chủ chốt trong cơ chế 
bệnh sinh. Nồng độ thuốc trong máu và thụ thể 
miễn dịch trên màng bạch cầu là hai yếu tố quan 
trọng quyết định sự tương tác giữa phân tử 
thuốc và hệ miễn dịch của cơ thể(22). Những yếu 
tố được ghi nhận có liên quan với dị ứng nặng 
do allopurinol bao gồm biến thể HLA, giới tính 
nữ và các yếu tố dược động học như liều dùng, 
chức năng thận và tương tác với thuốc lợi 
tiểu(3,4,15,17). Cho đến nay, chưa có phương pháp 
điều trị hiệu quả đối với tình trạng dị ứng thuốc 
nói chung và dị ứng allopurinol nói riêng. 
Nhanh chóng cắt đứt sự tiếp xúc với thuốc có 
thể cải thiện đáng kể tiên lượng, nhưng đặc tính 
khởi phát muộn sau nhiều ngày gây khó khăn 
trong việc phát hiện sớm và xác định đúng tác 
nhân gây dị ứng(6). 
Tại Việt Nam, mặc dù gout là bệnh lý viêm 
khớp phổ biến và allopurinol được chỉ định rất 
rộng rãi, nhưng chưa có nhiều báo cáo về tình 
trạng dị ứng với thuốc này, đặc biệt là dị ứng 
nhẹ. Mặt khác, chưa có nghiên cứu tập trung 
trên đối tượng bệnh nhân được chẩn đoán gout, 
vốn có thể mang những đặc điểm khác biệt so 
với người dùng allopurinol nói chung. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng và thiết kế nghiên cứu 
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả cắt 
ngang trên đối tượng bệnh nhân gout được điều 
trị với allopurinol tại Phòng khám Viện Gút 
Thành phố Hồ Chí Minh và khoa Bệnh Nhiệt 
Đới bệnh viện Chợ Rẫy từ ngày 01/10/2017 đến 
ngày 31/5/2018. 
Nghiên cứu áp dụng chọn mẫu thuận tiện 
với cỡ mẫu tối thiểu 150, chọn vào đối tượng có 
chẩn đoán gout, có thời gian sử dụng allopurinol 
với liều hiện tại từ 90 ngày trở lên và không ghi 
nhận phản ứng dị ứng, hoặc có thời gian sử dụng 
allopurinol với liều hiện tại dưới 90 ngày và có 
phản ứng dị ứng trong khoảng thời gian này. 
Tiêu chuẩn loại là những đối tượng có ít nhất 
một trong các tiêu chí sau đây: (1) sử dụng các 
loại thuốc khác có khả năng cao gây dị ứng, (2) 
từng có khoảng thời gian sử dụng allopurinol 
ngắt quãng trước đây, (3) không đồng ý tham 
gia nghiên cứu. Các chẩn đoán bệnh lý và thông 
tin lâm sàng được thu thập dựa trên hồ sơ bệnh 
án và sổ khám bệnh của đối tượng. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
 87
Mẫu nghiên cứu được chia thành 3 nhóm: 
nhóm “Dung nạp” gồm các đối tượng không có 
phản ứng dị ứng, nhóm “Dị ứng nhẹ” gồm đối 
tượng bị dị ứng không kèm triệu chứng toàn 
thân, nhóm “Dị ứng nặng” gồm các đối tượng 
được chẩn đoán (1) Hội chứng Stevens-Johnson 
(SJS) hoặc hoại tử thượng bì độc tính (TEN), có 
tổn thương da đặc trưng là hồng ban sậm màu, 
bóng nước và bong tróc thượng bì (dấu 
Nikolsky), loét niêm mạc quanh các lỗ tự nhiên 
như miệng, mắt và vùng niệu dục(1,13). (2) Hội 
chứng phát ban da do thuốc kèm tăng bạch cầu 
ái toan và triệu chứng toàn thân (DRESS) được 
chẩn đoán theo tiêu chuẩn RegiSCAR(20). 
Xử lý và phân tích số liệu 
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Stata® 
phiên bản 14.0 (StataCorp Inc., Texas, Hoa Kỳ). 
Dữ liệu có phân phối chuẩn được trình bày tóm 
tắt dưới dạng trung bình (độ lệch chuẩn) hoặc 
trung vị (bách phân vị thứ 25 - 75), áp dụng 
phép kiểm t Student hoặc Mann-Whitney U. 
Biến số định tính được trình bày dưới dạng tần 
số (tỷ lệ phần trăm) và áp dụng phép kiểm χ2 
(Pearson) hoặc phép kiểm chính xác Fisher. Sự 
khác biệt được xem là có ý nghĩa thống kê khi 
giá trị p hai đuôi < 0,05. 
KẾT QUẢ 
Trong tổng số 161 đối tượng tham gia nghiên 
cứu, có 10 bệnh nhân thuộc nhóm dị ứng nặng, 
23 bệnh nhân thuộc nhóm dị ứng nhẹ và 128 
bệnh nhân thuộc nhóm dung nạp. 
Các đặc điểm lâm sàng cơ bản 
Đặc điểm về tuổi, giới, BMI và một số tình 
trạng bệnh lý đi kèm của mẫu nghiên cứu được 
trình bày trong Bảng 1. Chỉ có 3 trên tổng số 161 
đối tượng là nữ và đều thuộc nhóm dị ứng nặng. 
Đa số nhóm dung nạp (91,4%) có nồng độ acid 
uric máu đạt mục tiêu ≤ 355 µmol/L theo hướng 
dẫn của Hội Thấp Học Hoa Kỳ năm 2012(8), 
trong khi tỷ lệ này ở nhóm dị ứng nhẹ và nặng 
lần lượt là 4,3% và 0%. 
Phần lớn các đối tượng có chỉ số độ lọc cầu 
thận ước tính trước dị ứng (eGFR) nằm trong 
khoảng 60 - 89 mL/phút/1,73m2, tức giai đoạn 2 
theo phân độ bệnh thận mạn của KDIGO năm 
2012(5). Giữa hai nhóm dị ứng có sự khác biệt về 
eGFR: đa số các trường hợp còn lại trong nhóm 
dị ứng nhẹ có eGFR thuộc giai đoạn 1, trong 
nhóm dị ứng nặng có eGFR thuộc giai đoạn 3 
(p=0,019) (Bảng 1). 
Bảng 1. Các đặc điểm lâm sàng cơ bản của mẫu nghiên cứu 
Các đặc điểm 
lâm sàng cơ bản 
Dị ứng nặng 
(n = 10) 
Dị ứng nhẹ 
(n = 23) 
Dung nạp 
(n = 128) 
Tuổi (năm), trung vị 
(min-max) 
50,8 
(19 - 76) 
43,5 
 (26 - 64) 
46,3 
(22 - 74) 
Giới (nam), n (%) 7 (70,0) 23 (100) 128 (100) 
BMI (kg/m
2
), trung vị 
(min-max) 
22,9 
(19,0 - 26,8) 
25,7 
(18,4 - 34,8) 
24,4 
(16,9-35,8) 
Bệnh lý đi kèm, n (%) 
Tăng huyết áp 5 (50,0) 4 (17,4) 21 (16,4) 
Rối loạn lipid máu 6 (60,0) 12 (52,2) 35 (27,3) 
Đái tháo đường 2 (20,0) 0 (0) 5 (3,9) 
Bệnh mạch vành 2 (20,0) 0 (0) 2 (1,6) 
Acid uric máu
a
, n (%) 
≤ 355 µmol/L 0 (0) 1 (25) 117 (92,1) 
> 355 µmol/L 8 (100) 3 (75) 10 (7,9) 
eGFR
b
, n (%) 
≥ 90 
mL/phút/1,73m
2
1 (11,1) 9 (39,1) 24 (23,3) 
60 - 89 
mL/phút/1,73m
2
5 (55,6) 14 (60,9) 73 (70,9) 
≤ 59 
mL/phút/1,73m
2
3 (33,3) 0 (0) 6 (5,8) 
a Số liệu về acid uric máu trước dị ứng thu thập được từ 127/128 
trường hợp dung nạp. 4/23 trường hợp dị ứng nhẹ, và 8/10 
trường hợp dị ứng nặng. 
 b Số liệu về eGFR trước dị ứng thu thập được từ 103/128 trường 
hợp dung nạp, 23/23 trường hợp dị ứng nhẹ, và 9/10 trường hợp 
dị ứng nặng. 
Biểu hiện lâm sàng 
Bên cạnh liều allopurinol phổ biến nhất là 
300mg/ngày, các liều cao hơn thường gặp trong 
nhóm dung nạp, các liều thấp hơn thường gặp 
trong hai nhóm dị ứng (p < 0,001), và không có 
sự khác biệt giữa nhóm dị ứng nhẹ và dị ứng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019
 88
nặng (p = 0,565) (Hình 1). Gần 2/3 số đối tượng 
dị ứng nhẹ khởi phát triệu chứng sau khi tăng 
liều, trong khi toàn bộ các trường hợp dị ứng 
nặng đều xảy ra ở liều tiếp xúc đầu tiên (Hình 2). 
Chỉ có 03 trường hợp ghi nhận có sử dụng thuốc 
lợi tiểu chung với allopurinol và đều thuộc 
nhóm dị ứng nặng. 
Hình 1: Liều dùng allopurinol hiện tại 
Hình 2: Tỷ lệ tăng liều allopurinol 
Dị ứng nặng chỉ xuất hiện sau thời điểm tiếp 
xúc ít nhất 7 ngày, và đa số đều khởi phát trong 
vòng 30 ngày đầu tiên. Thời điểm xuất hiện dị 
ứng nhẹ có vẻ rải rác hơn nhưng vẫn tập trung 
trong 60 ngày đầu (Hình 3). 
Ban dát sẩn là dạng tổn thương da thường 
gặp nhất, chiếm 40% dị ứng nặng và 35% dị 
ứng nhẹ. Bên cạnh đó, dị ứng nặng còn có các 
sang thương đặc trưng là bóng nước (30%) và 
viêm da tróc vảy (20%); dị ứng nhẹ đa số biểu 
hiện dưới dạng hồng ban đa dạng (47,8%) và 
tình trạng ngứa da hoặc tổn thương da không 
đặc hiệu (17,4%) (Hình 4). Đa số trường hợp dị 
ứng nặng có loét niêm mạc miệng (n = 9), có 
thể kèm viêm kết mạc mắt tụ mủ (n = 7) và loét 
sinh dục (n = 3). Trong khi đó, chưa đến 10% 
số trường hợp dị ứng nhẹ có ghi nhận tổn 
thương niêm mạc. 
Hình 3. Thời gian tiếp xúc với allopurinol trước khi 
khởi phát dị ứng 
A. B. C. 
 D 
Hình 4. Các tổn thương da trong dị ứng nặng do allopurinol 
(A) Ban dát sẩn, (B) Bóng nước, (C) Bong tróc thượng bì, (D) Loét niêm mạc miệng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
 89
Xét nghiệm và tiêu chuẩn chẩn đoán 
Bảng 2. Chẩn đoán dị ứng allopurinol theo tiêu 
chuẩn Singer và Wallace 
 Tiêu chuẩn n (%) 
(1) Tiêu chuẩn chính Tổn thương gan cấp 6 (60,0) 
Suy giảm chức năng thận 6 (60,0) 
Phát ban da 10 (100) 
(2) Tiêu chuẩn phụ Sốt (thân nhiệt > 38,5°C) 10 (100) 
Tăng bạch cầu 2 (20,0) 
Tăng bạch cầu ái toan 4 (40,0) 
Thỏa tiêu chuẩn khi đối 
tượng có bệnh sử tiếp 
xúc với allopurinol được 
ghi nhận rõ ràng, kèm 
theo: 
Ít nhất 02 tiêu chuẩn chính 8 (80,0) 
01 tiêu chuẩn chính 
và ít nhất 01 tiêu chuẩn 
phụ 
2 (20,0) 
Các bất thường trên xét nghiệm máu của 10 
trường hợp dị ứng nặng gồm tăng số lượng bạch 
cầu (n=2), tăng bạch cầu ái toan (n=4), giảm tiểu 
cầu (n=3), tăng transaminase gan (n=6), tăng 
bilirubin toàn phần (n=3), tăng BUN (n=6), tăng 
creatinine huyết thanh (n = 5), tăng IgE huyết 
thanh (n=3), tăng fibrinogen (n=5) và 
prothrombin time kéo dài (n=2). Cả 10 trường 
hợp đều thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán dị ứng 
allopurinol của Singer và Wallace (1986)(16). 
Ngoài hai dấu hiệu luôn có là phát ban da và sốt, 
kết quả xét nghiệm máu cũng cho thấy nhiều bất 
thường cơ quan với tần suất từ 20 - 60% (Bảng 
2). Chẩn đoán thể dị ứng bao gồm 1 trường hợp 
hội chứng DRESS và 9 trường hợp hội chứng 
Stevens-Johnson. 
Điều trị và kết cục lâm sàng 
Các trường hợp dị ứng nhẹ được xử trí 
ngưng allopurinol và điều trị ngoại trú. Toàn bộ 
23 bệnh nhân đều khỏi hoàn toàn, không để lại 
di chứng và đa số hồi phục trong vòng 14 ngày 
(91,3%). Trái lại, 10 bệnh nhân dị ứng nặng được 
điều trị nội trú tại khoa Bệnh Nhiệt Đới bệnh 
viện Chợ Rẫy và phần lớn có thời gian nằm viện 
trên 14 ngày (70%). Điều trị chính là 
methylprednisolone truyền tĩnh mạch, điều trị 
hỗ trợ gồm bù dịch và điện giải, ổn định huyết 
động, paracetamol truyền tĩnh mạch, kháng 
histamine uống, NaCl 0,9% nhỏ mắt, 
chlorhexidine tắm, v.v. Có 3 trường hợp biến 
chứng nhiễm trùng huyết được chăm sóc tích 
cực tại phòng cách ly và điều trị kháng sinh. Về 
kết cục, có 2 trường hợp tử vong (20,0%), 3 
trường hợp hồi phục hoàn toàn (30,0%), và 5 
trường hợp hồi phục nhưng để lại di chứng 
(50%) như hư móng, khô mắt, hồng ban tẩm 
nhuận trên da và vết loét bội nhiễm. Thời gian 
nằm viện trung bình là 19,2 ngày. 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi có số lượng nam 
nhiều hơn nữ rõ rệt, một phần do tập trung thực 
hiện trên đối tượng mắc bệnh gout vốn là bệnh 
lý có nam giới chiếm ưu thế(10). Nghiên cứu cho 
thấy tỷ lệ nữ giới, tỷ lệ eGFR thấp trước dị ứng 
và tỷ lệ dùng chung với thuốc lợi tiểu của nhóm 
dị ứng nặng đều cao hơn rõ rệt so với nhóm dị 
ứng nhẹ và nhóm dung nạp, tương đồng với các 
báo cáo trên thế giới(3,4,15,17). Mặc dù không có sự 
khác biệt về liều dùng allopurinol giữa hai nhóm 
dị ứng, nhưng gần 2/3 số đối tượng dị ứng nhẹ 
khởi phát sau khi tăng liều, trong khi toàn bộ các 
trường hợp dị ứng nặng đều xảy ra ở liều tiếp 
xúc đầu tiên. Điều này cho thấy bệnh nhân dị 
ứng nặng ngay từ đầu đã được kê liều 
allopurinol khá cao, tương đương với liều hiện 
tại của bệnh nhân dị ứng nhẹ sau khi đã trải qua 
một (hoặc vài) lần tăng liều. 
Tương tự các báo cáo về dị ứng allopurinol 
trên thế giới, mẫu nghiên cứu của chúng tôi 
cũng cho thấy đặc tính xuất hiện muộn sau 7 
ngày (đặc biệt là dị ứng nặng) và tập trung trong 
60 ngày đầu tiên(14,18). Việc allopurinol bị ngưng 
sử dụng sau biến cố dị ứng có lẽ là nguyên nhân 
chính khiến nồng độ acid uric máu của các đối 
tượng này đều chưa đạt mục tiêu điều trị. 
Điều trị dị ứng nhẹ chủ yếu là giảm triệu 
chứng bằng kháng histamine và thay thế 
allopurinol bằng một thuốc hạ acid uric máu 
khác. Điều trị dị ứng nặng cũng chỉ mang tính 
hỗ trợ và giải quyết biến chứng. Có bằng 
chứng cho thấy corticoid toàn thân, 
cyclosporine, cyclophosphamide, chất ức chế 
TNF-α, immunoglobulin truyền tĩnh mạch 
(IVIG) và lọc huyết tương có đem lại hiệu 
quả(13,19). Trong số đó, corticoid toàn thân là 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019
 90
phương pháp duy nhất được sử dụng trong 
nghiên cứu của chúng tôi. Mặc dù phổ biến và 
chi phí thấp, hiệu quả của phương pháp này 
vẫn còn đang bàn cãi vì đi kèm nguy cơ nhiễm 
trùng huyết(11). Nghiên cứu của chúng tôi ghi 
nhận sự khác biệt rõ rệt về kết cục lâm sàng: dị 
ứng nhẹ đa số chỉ biểu hiện thoáng qua trong 
vòng 14 ngày và hồi phục hoàn toàn; dị ứng 
nặng có thời gian điều trị kéo dài, có thể để lại 
di chứng sau hồi phục và tỷ lệ tử vong 20%. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu khẳng định các yếu tố nguy cơ 
của dị ứng nặng do allopurinol trên đối tượng 
người Việt Nam mắc bệnh gout. Mặc dù cùng 
tác nhân là allopurinol, có sự khác biệt rõ rệt về 
biểu hiện và dự hậu lâm sàng giữa tình trạng dị 
ứng nhẹ và dị ứng nặng. Nghiên cứu của chúng 
tôi có nhược điểm là cỡ mẫu nhỏ và nam giới 
chiếm ưu thế. Các khảo sát tiếp theo cần thực 
hiện trên quy mô lớn hơn, đồng thời tập trung 
vào các yếu tố nguy cơ có mối liên hệ mạnh và 
giá trị chẩn đoán cao, phục vụ cho công tác tầm 
soát hiệu quả nhằm giảm thiểu biến cố dị ứng 
allopurinol tại Việt Nam. 
LỜI CẢM ƠN: Chúng tôi xin chân thành cảm ơn GS. Thomas 
Bardin, Trung tâm Nghiên Cứu Bệnh Gút và Các Bệnh Mãn 
Tính, Tp. Hồ Chí Minh và tổ chức Viggo ART, Cộng Hòa Pháp đã 
hỗ trợ nghiên cứu. Chúng tôi cũng xin gửi lời tri ân sâu sắc đến 
tất cả bệnh nhân đã tham gia nghiên cứu này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ardern-Jones MR et al (2011). “Skin manifestations of drug 
allergy”. Br J Clin Pharmacol, 71(5):pp.672-683. 
2. Atzori L et al (2012). “Cutaneous adverse drug reactions to 
allopurinol: 10 year observational survey of the dermatology 
department--Cagliari University (Italy)”. J Eur Acad Dermatol 
Venereol, 26(11):pp.1424-1430. 
3. Chung WH et al (2015). “Insights into the poor prognosis of 
allopurinol-induced severe cutaneous adverse reactions: the 
impact of renal insufficiency, high plasma levels of oxypurinol 
and granulysin”. Ann Rheum Dis, 74(12):pp.2157-2164. 
4. Day RO et al (2017). “Allopurinol: insights from studies of dose-
response relationships”. Expert Opin Drug Metab Toxicol, 
13(4):pp.449-462. 
5. Eknoyan G et al (2013). “KDIGO 2012 Clinical Practice 
Guideline for the Evaluation and Management of Chronic 
Kidney Disease”. Kidney International Supplements, 3:pp.136-150. 
6. Garcia-Doval I et al (2000). “Toxic epidermal necrolysis and 
stevens-johnson syndrome: Does early withdrawal of causative 
drugs decrease the risk of death?”. Archives of Dermatology, 
136(3):pp.323-327. 
7. Halevy S et al (2008). “Allopurinol is the most common cause of 
Stevens-Johnson syndrome and toxic epidermal necrolysis in 
Europe and Israel”. J Am Acad Dermatol, 58(1):pp.25-32. 
8. Khanna D et al (2012). “2012 American College of 
Rheumatology guidelines for management of gout. Part 1: 
systematic nonpharmacologic and pharmacologic therapeutic 
approaches to hyperuricemia”. Arthritis Care Res (Hoboken), 
64(10):pp.1431-1446. 
9. Kim SC et al (2013). “Severe cutaneous reactions requiring 
hospitalization in allopurinol initiators: a population-based 
cohort study”. Arthritis Care Res (Hoboken), 65 (4): 578-584. 
10. Kuo CF et al (2015). “Global epidemiology of gout: prevalence, 
incidence and risk factors”. Nat Rev Rheumatol, 11(11):pp.649-662. 
11. Lee HY et al (2012). “The role of prior corticosteroid use on the 
clinical course of Stevens-Johnson syndrome and toxic 
epidermal necrolysis: a case-control analysis of patients selected 
from the multinational EuroSCAR and RegiSCAR studies”. Br J 
Dermatol, 167(3):pp.555-562. 
12. Mockenhaupt M (2012). “Epidemiology of cutaneous adverse 
drug reactions”. Chem Immunol Allergy, 97:pp.1-17. 
13. Mustafa SS et al (2018). “Severe Cutaneous Adverse Drug 
Reactions: Presentation, Risk Factors, and Management”. Curr 
Allergy Asthma Rep, 18(4):pp.26. 
14. Ramasamy SN et al (2013). “Allopurinol hypersensitivity: a 
systematic review of all published cases, 1950-2012”. Drug Saf, 
36(10):pp.953-980. 
15. Saksit N et al (2017). “Risk factors of allopurinol-induced severe 
cutaneous adverse reactions in a Thai population”. 
Pharmacogenet Genomics, 27(7):pp.255-263. 
16. Singer JZ et al (1986). “The allopurinol hypersensitivity 
syndrome. Unnecessary morbidity and mortality”. Arthritis 
Rheum, 29(1):pp.82-87. 
17. Stamp LK et al (2012). “Furosemide increases plasma 
oxypurinol without lowering serum urate--a complex drug 
interaction: implications for clinical practice”. Rheumatology 
(Oxford), 51(9):pp.1670-1676. 
18. Stamp LK et al (2016). “Allopurinol hypersensitivity: 
investigating the cause and minimizing the risk”. Nat Rev 
Rheumatol, 12 (4): 235-242. 
19. Thong BY (2013). “Stevens-Johnson syndrome / toxic epidermal 
necrolysis: an Asia-Pacific perspective”. Asia Pac Allergy, 
3(4):pp.215-223. 
20. Watanabe H (2018). “Recent Advances in Drug-Induced 
Hypersensitivity Syndrome/Drug Reaction with Eosinophilia 
and Systemic Symptoms”. J Immunol Res, 2018:pp.5163129. 
21. Yang CY et al (2015). “Allopurinol Use and Risk of Fatal 
Hypersensitivity Reactions: A Nationwide Population-Based 
Study in Taiwan”. JAMA Intern Med, 175 (9):pp.1550-1557. 
22. Yun J et al (2014). “Oxypurinol directly and immediately 
activates the drug-specific T cells via the preferential use of 
HLA-B*58:01”. J Immunol, 192(7):pp.2984-2993. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 04/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019