T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 82 
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA VIÊM MỦ NỘI NHÃN 
SAU VẾT THƯƠNG XUYÊN NHÃN CẦU Ở TRẺ EM 
 Nguyễn Thị Ngọc Ánh1; Đỗ Như Hơn1; Thẩm Trương Khánh Vân1 
TÓM TẮT 
Mục đích: mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của viêm mủ nội nhãn sau vết thương 
xuyên nhãn cầu ở trẻ em. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả tiến cứu không có 
nhóm chứng trên 30 bệnh nhân trẻ em < 16 tuổi, được điều trị viêm mủ nội nhãn sau vết 
thương xuyên nhãn cầu tại Bệnh viện Mắt Trung ương. Kết quả: tuổi trung bình 8,03 ± 3,99, 
nhiều nhất ở nhóm 6 - 10 tuổi. Nguyên nhân gây chấn thương chủ yếu do tác nhân thực vật 
(n = 11) và tác nhân kim loại (n = 11). 27 mắt (90%) có vết thương xuyên giác mạc, chủ yếu là 
vết thương < 5 mm (n = 24). 25 mắt (83,3%) đục dịch kính độ 5. Trên siêu âm, 28 mắt (93,3%) 
vẩn đục dịch kính dày đặc thành đám, 1 mắt (3,3%) có dấu hiệu dày lên của hắc mạc. Hoại tử 
võng mạc thường dưới một góc phần tư (n = 26). 16 mắt (53,3%) có áp xe hắc võng mạc trên 
một góc phần tư. 6 mắt có bong võng mạc. Xét nghiệm vi sinh trực tiếp dương tính gặp 93,3% 
(n = 29), 63,3% vi khuẩn Gram (+). Trực khuẩn là tác nhân gây bệnh thường gặp (n = 20). Bệnh 
phẩm dịch kính có tỷ lệ xét nghiệm vi sinh dương tính cao hơn thủy dịch (p = 0,002). Kết quả 
nuôi cấy dương tính rất thấp (n = 1), phân lập được phế cầu. Kết luận: viêm mủ nội nhãn sau 
vết thương xuyên nhãn cầu ở trẻ em thường gặp ở độ tuổi 6 - 10, chủ yếu do vật sắc nhọn kim 
loại và thực vật gây ra. Tỷ lệ nuôi cấy dương tính rất thấp. Khả năng phát hiện tác nhân gây 
bệnh từ dịch kính cao hơn thủy dịch. Vi khuẩn Gram (+) là nguyên nhân gây bệnh chủ yếu. 
* Từ khóa: Viêm mủ nội nhãn; Vết thương xuyên nhãn cầu; Trẻ em. 
Clinical and Paraclinical Features of Pediatric Post-Traumatic 
Endophthalmitis 
Summary 
Objectives: To describe clinical features, ultrasound results, Gram stain and culture results of 
endophthalmitis in pediatric penetrating ocular injuries. Subjects and methods: Prospective, 
non-controlled study. Case series of 30 eyes presenting with post-traumatic endophthalmitis 
between 2015 and 2016 were reviewed. Results: Mean age at presentation was 8.03 ± 3.99 years. 
Metallic and organic etiologies were the most common causes for injuries (n = 11). 27 cases had 
penetrating corneal trauma. Dense opaque vitreous was seen in 25 eyes as grade 5. Retinal 
necrosis below one quadrant and chorioretinal abscess above one quadrant were the most 
common fundus lesions. 6 eyes presented with retinal detachment. Dense vitreous opacity on 
ultrasound was the most common in our cases (n = 28). Gram stain positivity was 93.3%. Gram-positive 
bacteria were isolated in 63.3%. Vitreous samples were more often positive than aqueous (p = 0,002). 
1. Bệnh viện Mắt Trung ương 
Người phản hồi (Corresponding): Thẩm Trương Khánh Vân (
[email protected]) 
Ngày nhận bài: 08/08/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 10/11/2018 
 Ngày bài báo được đăng: 15/11/2018 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 83 
Culture was positive only in 1 case of Streptococcus pneumoniae. Conclusion: Post-traumatic 
endophthalmitis in children is more common in boys 6 - 10 years of age and most often caused 
by injury with metallic and organic matter. Culture results were very low. Vireous samples 
were more often positive than aqueous. Gram-positive bacteria were the most common 
causative organism. 
* Keywords: Endophthalmitis; Penetrating ocular injuries; Children. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Viêm mủ nội nhãn (VMNN) là biến 
chứng nặng nề của vết thương xuyên 
nhãn cầu (VTXNC) ở trẻ em. Theo nghiên 
cứu của Narang (2004), tỷ lệ VMNN sau 
chấn thương ở trẻ em khá cao, có thể lên 
tới 54,1% số mắt VTXNC [1]. Bệnh gây 
tổn hại nặng nề về giải phẫu và chức 
năng thị giác của trẻ. Điều trị VMNN sau 
VTXNC ở trẻ em rất khó khăn, tỷ lệ thành 
công thấp, tỷ lệ di chứng cao do tác nhân 
gây bệnh thường là vi khuẩn có độc lực 
cao, phối hợp nhiều tác nhân gây bệnh, 
trẻ đến viện muộn, không phối hợp trong 
thăm khám. Chúng tôi thực hiện nghiên 
cứu này nhằm: Tìm hiểu sự khác biệt về 
đặc điểm lâm sàng giữa VMNN sau VTXNC 
ở trẻ em và người lớn. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu. 
30 trẻ < 16 tuổi với 30 mắt được chẩn 
đoán VMNN sau VTXNC tại Bệnh viện 
Mắt Trung ương từ tháng 8 - 2015 đến 
8 - 2016. 
- Tiêu chuẩn lựa chọn: 
+ Trẻ ≤ 16 tuổi, được chẩn đoán xác 
định VMNN sau VTXNC. 
+ Không mắc bệnh toàn thân nặng hay 
các bệnh mắt khác kèm theo. 
+ Gia đình đồng ý tham gia vào 
nghiên cứu. 
- Tiêu chuẩn loại trừ: 
+ Bệnh nhân (BN) có bệnh toàn thân 
nặng hoặc có bệnh phối hợp tại mắt. 
+ BN bỏ theo dõi điều trị. 
2. Phương pháp nghiên cứu. 
* Thiết kế nghiên cứu: 
Nghiên cứu mô tả tiến cứu không có 
nhóm chứng. 
* Cỡ mẫu nghiên cứu: 
p (1 - p) 
n = Z21-α/2 (p.ε)2 
Trong đó: 
p: tỷ lệ VMNN sau vết thương xuyên 
nhãn cầu đến muộn sau 72 giờ ở trẻ em 
theo nghiên cứu của Narang S (2004) là 
0,82 [1]. 
ε: khoảng sai lệch tương đối được ấn 
định trong nghiên cứu (ε = 0,2). 
α: mức ý nghĩa thống kê (α = 0,05). 
Z: hệ số tin cậy = 1,96 khi α = 0,05. 
Từ công thức trên, cỡ mẫu cần nghiên 
cứu n ≈ 21 mắt. 
Do đó, chúng tôi lấy cỡ mẫu nghiên cứu 
n = 30 mắt. 
* Phương pháp chọn mẫu: 
Chọn mẫu toàn thể liên tục BN được 
chẩn đoán VMNN sau VTXNC đáp ứng 
tiêu chuẩn lựa chọn. 
* Các chỉ số và tiêu chí đánh giá: 
BN được hỏi bệnh, thu thập thông tin 
về tuổi, giới, tác nhân và hoàn cảnh gây 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 84 
chấn thương, thời gian từ khi chấn thương 
đến khi được đóng kín vết thương. Khám 
lâm sàng đánh giá thị lực vào viện, phát 
hiện các tổn thương: vị trí và kích thước 
vết thương xuyên, tình trạng phù đục 
giác mạc, mủ tiền phòng, đục vỡ thể thủy 
tinh (TTT), mức độ đục dịch kính và các 
tổn thương tắc mạch, hoại tử võng mạc, 
áp xe hắc võng mạc qua thăm khám sinh 
hiển vi hoặc quan sát trong quá trình 
phẫu thuật. 
BN được làm siêu âm B để đánh giá 
tình trạng dịch kính võng mạc, chụp X quang 
hoặc CT-scan hốc mắt trong trường hợp 
nghi ngờ có dị vật cản quang ở hốc mắt 
hoặc nội nhãn, làm xét nghiệm vi sinh. 
Bệnh phẩm có thể lấy từ dịch tiền phòng 
hoặc dịch kính khi tiến hành cắt dịch kính 
mủ, soi tươi, nhuộm Gram xác định sơ bộ 
tác nhân gây bệnh và nuôi cấy phân lập 
vào các môi trường thích hợp để định 
danh tác nhân gây bệnh. 
* Tiêu chí đánh giá: 
Vị trí vết thương xuyên gồm 3 nhóm: 
rách giác mạc, rách giác củng mạc và 
rách củng mạc. 
Kích thước vết thương xuyên chia thành 
3 nhóm: 10 mm. 
Đánh giá phù đục giác mạc, áp xe vòng 
giác, tình trạng mủ tiền phòng. 
Đánh giá tổn thương phối hợp: đục vỡ 
TTT, dị vật nội nhãn, bong võng mạc, rách 
võng mạc, bong hắc mạc. 
Tổn thương đáy mắt bao gồm: viêm 
tắc mạch, hoại tử võng mạc, áp xe hắc 
võng mạc được chia theo mức độ tổn hại 
dưới một góc phần tư và trên một góc 
phần tư diện tích đáy mắt. 
Độ đục của dịch kính được chia thành 
5 độ trên lâm sàng dựa theo chi tiết võng 
mạc quan sát được: 
- Độ 1: soi rõ các mạch máu võng mạc. 
- Độ 2: chỉ thấy mạch máu võng mạc ở 
mức chia thứ hai trở lên. 
- Độ 3: chỉ thấy các gốc mạch máu lớn. 
- Độ 4: không thấy mạch máu võng mạc, 
nhưng vẫn thấy ánh hồng đồng tử. 
- Độ 5: mất ánh hồng đồng tử. 
Trên siêu âm, độ vẩn đục dịch kính được 
chia thành 3 mức độ: 
- Nhẹ: dịch kính vẩn đục hạt nhỏ ≤ 2 mm, 
rải rác. 
- Đục nhiều: dịch kính vẩn đục hạt to 
3 - 8 mm, lan tỏa. 
- Vẩn đục dày đặc: thành đám. 
Kết quả vi sinh chia làm các nhóm vi sinh 
vật: vi khuẩn Gram (+), vi khuẩn Gram (-), 
nấm. 
* Xử lý số liệu: bằng phần mềm SPSS 
20.0. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ 
BÀN LUẬN 
1. Đặc điểm BN. 
Tuổi trung bình 8,03 ± 3,99 (2 - 15 tuổi), 
tương đồng với nghiên cứu của Alfaro [6] 
và Rishi [4] là 8 tuổi và 9,2 tuổi. Nhóm 
tuổi tiểu học (6 - 10 tuổi) hay gặp nhất với 
43,3% trường hợp, tương đồng với một 
số nghiên cứu gần đây [3, 5]. 
BN nam nhiều hơn BN nữ, tỷ lệ 6,5/1 
(p = 0,000). Tỷ lệ VTXNC ở BN nam cao 
hơn BN nữ, do đó tỷ lệ BN nam bị VMNN 
sau VTXNC thường cao hơn BN nữ [2, 3, 4]. 
Chấn thương mắt ở nông thôn là một 
trong những yếu tố nguy cơ của VMNN 
sau VTXNC. Tương tự một số báo cáo khác, 
tỷ lệ chấn thương xảy ra ở nông thôn 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 85 
chiếm đa số với 76,7%, chỉ 23,3% các 
trường hợp chấn thương xảy ra ở khu 
vực thành thị, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p = 0,003) [2, 5]. 
2. Đặc điểm tổn thương trên lâm sàng. 
Đa số là vết thương xuyên giác mạc 
(90%). Trong nghiên cứu có 24 BN (90%) 
có kích thước vết thương < 5 mm, duy nhất 
1 BN có vết thương > 10 mm. Không có 
mắt nào bị vết thương xuyên thấu. Các 
báo cáo về VMNN sau VTXNC ỏ trẻ em 
của Junejo (2010) [5] và Wu (2016) [3] 
cũng có kết quả tương tự với tỷ lệ vết 
thương rách giác mạc lần lượt là 62,7% 
và 86,7%. 
Bảng 1: Hình thái, kích thước VTXNC. 
Kích thước 
Vị trí 10 mm Tổng số 
Giác mạc 22 4 1 27 (90%) 
Củng mạc 2 0 0 2 (6,7%) 
Giác củng mạc 0 1 0 1 (3,3%) 
Tổng số 24 (80%) 5 (16,7%) 1 (3,3%) 30 (100%) 
50% trường hợp có phòi kẹt mống mắt 
qua mép rách, mép rách bẩn nhiều tiết tố 
bám. 26,7% mắt không phòi kẹt tổ chức nội 
nhãn qua mép rách. 6 mắt đã được khâu 
vết thương tại tuyến dưới. 1 BN vết rách 
giác mạc do kim tiêm chọc vào tự liền. 
Tác nhân gây chấn thương chủ yếu là 
vật sắc nhọn kim loại (36,7%) như dao, 
kéo, đinh và các tác nhân thực vật (36,7%) 
như que gỗ, cành cây Nghiên cứu của 
Narang (2004) [2] và Wu (2016) [3] cũng 
chỉ ra nguyên nhân gây chấn thương chủ 
yếu là tác nhân kim loại. Tuy nhiên, chúng 
tôi ghi nhận 3 trường hợp (10%) do cò mổ 
và cá mổ, đây là loại tác nhân thường 
gặp ở các nước đang phát triển. 3 BN 
không rõ cơ chế chấn thương do người 
nhà không nhớ. 
* Tác nhân gây chấn thương: 
Thực vật (cành cây, que gỗ): 11 mắt 
(36,7%); kim loại (mảnh kim loại, dao, kéo...): 
11 mắt (36,7%); phi kim loại (thủy tinh, nhựa): 
2 mắt (6,6%); động vật cắn (cá, cò mổ): 
3 mắt (10%); không rõ tác nhân: 3 mắt (10%). 
Thời gian trung bình từ khi trẻ bị chấn 
thương đến khi được đóng kín vết thương 
là 31,88 ± 30,96 giờ, sớm nhất 3 giờ, 
muộn nhất 120 giờ. 60% trẻ được đóng 
vết thương sớm trong 24 giờ đầu, 30% trẻ 
được đóng vết thương trong vòng 24 - 
72 giờ, 3 trẻ được đóng vết thương muộn 
sau 72 giờ (10%). 
Chỉ 7 mắt (23,3%) được điều trị tại cơ 
sở tuyến dưới, trong đó 6 mắt được khâu 
vết thương, 1 mắt được điều trị nội khoa 
bằng kháng sinh đường toàn thân. 11 BN 
(36,7%) chỉ được sơ cứu rửa mắt, băng 
mắt rồi chuyển lên tuyến trên. Phần lớn 
BN được gia đình đưa thẳng vào Bệnh 
viện Mắt Trung ương điều trị mà không 
qua cơ sở tuyến dưới (40%). 
Thị lực vào viện rất thấp: số mắt có thị 
lực ST (+) - BBT chiếm 70% (n = 21), thị lực 
tốt hơn BBT chỉ đạt 6,6% (n = 2), 3,3% có 
thị lực khi vào viện ≥ 20/200. Nghiên cứu 
của Wu [3] cũng cho thấy phần lớn trẻ khi 
vào viện có thị lực rất thấp, 73,3% có thị 
lực vào viện chỉ ở mức ST (+) - BBT. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 86 
Biểu đồ 1: Thị lực vào viện. 
Vết thương xuyên nhãn cầu không có dị vật nội nhãn chiếm tỷ lệ cao nhất (28 mắt = 
93,4%). Dị vật nội nhãn được phát hiện ở 2 BN, trong đó 1 BN (3,3%) dị vật là mảnh 
kim loại nằm ở bán phần trước, trong TTT gây vỡ đục TTT. Trường hợp còn lại là dị 
vật mảnh gỗ nằm trong buồng dịch kính (3,3%). 
Dị vật nội nhãn kim loại được phát hiện nhờ chụp X quang hốc mắt thẳng nghiêng. 
Siêu âm B đã phát hiện được trường hợp dị vật mảnh gỗ trong dịch kính. 
Bảng 2: Đặc điểm tổn thương lâm sàng. 
Đặc điểm Số mắt (n = 30) Tỷ lệ (100%) 
Phù 27 90 
Giác mạc 
Áp xe vòng 3 10 
Mủ tiền phòng 28 93,3 
Độ 4 5 16,7 
Độ đục dịch kính 
Độ 5 25 83,3 
≤ một góc phần tư 21 70 
Viêm tắc mạch 
> một góc phần tư 9 30 
Không 3 10 
≤ một góc phần tư 26 86,7 Hoại tử võng mạc 
> một góc phần tư 1 3,3 
Không 2 6,7 
≤ một góc phần tư 12 40 Áp xe hắc võng mạc 
> một góc phần tư 16 53,3 
Bong võng mạc 6 20 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 87 
Ở bán phần trước, bệnh cảnh nhiễm 
trùng thể hiện mức độ phù đục giác mạc 
và mủ tiền phòng. 90% mắt phù đục giác 
mạc, 10% mắt (n = 3) xuất hiện áp xe 
vòng giác mạc là dấu hiệu nhiễm trùng 
đặc biệt nặng của bệnh cảnh VMNN. 
Nghiên cứu của Rishi (2016) cho thấy 
15% mắt kèm theo áp xe vòng giác mạc, 
tại cuối thời điểm theo dõi, tất cả những 
mắt này đều có kết quả điều trị xấu, tác 
giả nhận định đây là một trong những yếu 
tố làm tăng tỷ lệ điều trị thất bại trong 
nghiên cứu (p = 0,04) [4]. 93,3% BN trong 
nghiên cứu có mủ tiền phòng với các 
mức độ khác nhau, từ láng mủ tiền phòng 
đến mủ và xuất tiết chiếm gần hết tiền 
phòng, tương tự một số nghiên cứu gần 
đây [2, 5, 6]. Tuy nhiên, nghiên cứu của 
Wu (2016) chỉ quan sát được 60% mắt có 
mủ tiền phòng [3], của Rishi (2016) tỷ lệ 
này chỉ là 31% [4]. 
Chúng tôi ghi nhận các tổn thương 
dịch kính võng mạc và tổn thương phối 
hợp khi thăm khám bằng máy sinh hiển vi 
hoặc quan sát trong quá trình phẫu thuật 
bằng camera nội nhãn. 
Độ đục dịch kính và các tổn thương 
đáy mắt phản ánh trực tiếp tình trạng 
nhiễm trùng bán phần sau. Nghiên cứu 
của chúng tôi có 83,3% trẻ đục dịch kính 
độ 5. Trên bàn mổ, sau khi mủ dịch kính 
được cắt sạch, quan sát thấy các tổn hại 
ở đáy mắt rất đa dạng. Viêm tắc mạch 
gặp ở tất cả BN, hoại tử võng mạc gặp 
90% trường hợp. Tuy nhiên, diện tích tắc 
mạch và hoại tử võng mạc thường dưới 
một phần tư diện tích đáy mắt (70% và 
86,7%). 10% các trường hợp không bị 
hoại tử võng mạc, đây là những mắt có 
tiên lượng tốt, trong đó 1 mắt được điều 
trị nội khoa, 2 mắt còn lại được phẫu 
thuật cắt dịch kính mủ không phải bơm 
dầu silicon nội nhãn. Ngược lại, các ổ áp 
xe hắc võng mạc có xu hướng lan tràn 
trên một phần tư diện tích đáy mắt gặp 
53,3%. Sự khác biệt giữa mức độ hoại tử 
võng mạc và áp xe hắc võng mạc có ý 
nghĩa thống kê (p = 0,006). Nghiên cứu 
của Đỗ Tấn (2012) về VMNN nội sinh do 
vi khuẩn cũng có nhận định tương tự, 
phần lớn BN đều có tổn thương tắc mạch 
và hoại tử dưới một góc phần tư, còn áp 
xe hắc võng mạc thường lan rộng trên 
một góc phần tư. Bằng kiểm định thống 
kê, Đỗ Tấn chỉ ra mức độ tổn thương hoại 
tử võng mạc không liên quan đến mức độ 
lan tràn của ổ áp xe hắc võng mạc [1]. 
VMNN sau VTXNC phần lớn kèm theo 
đục vỡ TTT với tỷ lệ 63,3% (n = 19), 
13,3% mắt (n = 4) đục TTT nhưng không 
kèm theo vỡ bao TTT, 23,3% mắt (n = 7) 
TTT còn trong. Tỷ lệ đục vỡ TTT của chúng 
tôi tương tự nghiên cứu của Narang (2004) 
[2], Wu (2016) [3]. Tuy nhiên, nghiên cứu 
của Rishi (2016) [4] và Junejo (2010) [5] 
có tỷ lệ đục vỡ TTT thấp hơn hẳn, tương 
ứng 35% và 27,9%. 
Nghiên cứu chỉ phát hiện 2 mắt có dị 
vật nội nhãn: 1 dị vật trong TTT và 1 dị vật 
trong dịch kính. Xuất huyết tiền phòng gặp 
15 mắt (50%), 2 mắt kèm theo xuất huyết 
dịch kính, 3 mắt có bong hắc mạc. 
Rách võng mạc và đứt chân võng mạc 
gặp 12 mắt (40%). Chúng tôi thấy rách 
võng mạc gặp nhiều ở võng mạc chu biên. 
Điều này có thể giải thích do võng mạc bị 
hoại tử sau quá trình viêm cấp dữ dội, 
viêm tắc mạch thường ở vùng võng mạc 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 88 
chu biên là nơi có mạch máu nhỏ thưa thớt. 
Hơn nữa, lực tác động của chấn thương 
gây giằng xé khối dịch kính, tác động vào 
vùng nền dịch kính và võng mạc ngoại biên. 
Vì vậy, võng mạc chu biên nhanh chóng 
bị tổn thương gây ra rách võng mạc và 
đứt chấn võng mạc. 
 Đánh giá trong khi phẫu thuật và trên 
siêu âm, chúng tôi ghi nhận 20% các 
trường hợp (n = 6) bong võng mạc như 
báo cáo của Rishi [4]. Wu [3] chỉ quan sát 
được duy nhất 1/15 trường hợp vừa bong 
võng mạc vừa bong hắc mạc. Tình trạng 
vừa bong võng mạc vừa bong hắc mạc 
làm cho bệnh cảnh VMNN sau VTXNC 
trở nên trầm trọng hơn và tiên lượng kết 
quả điều trị tồi hơn. 
Các yếu tố làm tăng nguy cơ xuất hiện 
VMNN sau VTXNC gồm: đóng vết thương 
muộn sau 24 giờ, chấn thương xảy ra ở 
nông thôn, kèm theo vỡ đục TTT, dị vật 
nội nhãn và vết thương > 10 mm. 
Biểu đồ 2: Phân bố BN theo các yếu tố nguy cơ. 
Số BN có 2 yếu tố nguy cơ chiếm tỷ lệ 
cao nhất (46,7%), tiếp theo là có 1 yếu tố 
nguy cơ (33,3%). 1 mắt có đầy đủ cả 5 yếu 
tố nguy cơ. 2 BN bị VMNN sau VTXNC 
mà không có yếu tố nguy cơ nào. 
3. Đặc điểm cận lâm sàng. 
Trên siêu âm, tất cả BN đều bị đục 
dịch kính nhiều hoặc đục thành đám dạng 
tổ chức liên kết. 28 mắt (93,3%) đục dịch 
kính dày đặc. Mức độ đục dịch kính trên 
siêu âm khá tương đồng với lâm sàng. 
Đa số BN vẩn đục dịch kính thành đám 
dạng tổ chức liên kết, tương ứng với độ 5 
khi quan sát trên bàn mổ. 3 ca phát hiện 
bong hắc mạc trên siêu âm tương ứng 
trên lâm sàng. Do mủ dịch kính dày đặc 
nên chỉ phát hiện 2 trường hợp bong 
võng mạc trên siêu âm dù quan sát trong 
khi phẫu thuật có 6 mắt bong võng mạc. 
Siêu âm B cũng phát hiện 1 trường hợp 
dị vật mảnh gỗ trong dịch kính. Mặt khác, 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 89 
siêu âm cho thấy hắc mạc dày lên ở 1 mắt 
(3,3%), đây là một dấu hiệu nặng phản 
ánh tình trạng nhiễm trùng nặng nề ở bán 
phần sau. Như vậy, siêu âm là một phương 
tiện vô cùng hữu ích cho chẩn đoán VMNN, 
giúp đánh giá tình trạng dịch kính võng 
mạc trong trường hợp BN không phối 
hợp để thăm khám, các tổn thương bán 
phần trước như phù đục giác mạc, đục 
vỡ TTT làm cản trở quan sát tổn thương 
phía sau. 
Bảng 3: Phân bố tác nhân gây bệnh 
với kết quả xét nghiệm vi sinh nhuộm soi 
và soi tươi. 
Kết quả vi sinh Số mắt Tỷ lệ (%) 
Cầu khuẩn Gram (+) 8 26,7 
Trực khuẩn Gram (+) 11 36,7 
Trực khuẩn Gram (-) 9 30 
Nấm 5 16,7 
Âm tính 2 6,7 
30 trẻ bị VMNN sau VTXNC đều được 
làm xét nghiệm vi sinh trực tiếp và nuôi 
cấy định danh vi khuẩn/nấm. Bệnh phẩm 
lấy từ thủy dịch và/hoặc dịch kính. Tác 
nhân gây bệnh tìm thấy ở 28 mắt (93,3%) 
với xét nghiệm vi sinh nhuộm soi và soi 
tươi. 2 mắt (6,7%) có kết quả vi sinh âm 
tính nhưng bệnh cảnh nhiễm trùng rõ nét 
trên lâm sàng cũng như tình trạng đục 
dịch kính dày đặc thể hiện trên siêu âm B 
giúp chẩn đoán xác định VMNN. Nguyên 
nhân gây bệnh chủ yếu trong nghiên cứu 
là vi khuẩn Gram (+) với 63,3% (n = 19), 
tiếp theo là vi khuẩn Gram (-) chiếm 30%. 
Kết quả này tương đồng với nhiều nghiên 
cứu khác, tuy nhiên tỷ lệ nấm của chúng 
tôi cao hơn (16,7%) [3, 4, 6]. Trong nhóm 
vi khuẩn, trực khuẩn được phát hiện với 
tỷ lệ cao nhất (66,7%), cầu khuẩn 26,7%. 
Ngược lại, một số tác giả khác chỉ ra các 
loại tụ cầu và liên cầu mới là nguyên 
nhân chính gây VMNN sau VTXNC ở trẻ 
em [2, 3, 4, 5, 6]. Sự khác biệt này có thể 
do trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số 
trường hợp chấn thương xảy ra ở nông 
thôn, vết thương bẩn do cành cây, que gỗ 
chọc vào mắt, kèm theo đất cát, đá bẩn là 
những tác nhân chứa nhiều loại trực khuẩn 
gây bệnh. 
16,7% trường hợp có phối hợp nhiều 
tác nhân gây bệnh trong nhóm 30 trẻ 
nghiên cứu. Tỷ lệ phối hợp nhiều loại tác 
nhân gây bệnh khá khác nhau giữa các 
nghiên cứu: Alfaro (1995) [6] là 33,3%, 
Wu (2016) [3] là 13,3%, Rishi (2016) [4] 
là 7,3%. Đây là yếu tố góp phần vào 
tiên lượng nặng của VMNN sau VTXNC 
ở trẻ em. 
Tỷ lệ nuôi cấy dương tính theo nghiên 
cứu ở các nước phát triển khoảng 41 - 75% 
[3, 4, 6, 7]. Tuy nhiên, báo cáo của Narang 
và CS (2004) chỉ có 27% trường hợp 
nuôi cấy dương tính [2]. Nghiên cứu của 
chúng tôi gặp duy nhất 1 trường hợp 
(3,3%) nuôi cấy thành công, phân lập được 
phế cầu từ cả bệnh phẩm thủy dịch và 
dịch kính, còn nhạy cảm với các kháng 
sinh phổ rộng hay dùng trong nhãn khoa. 
Bệnh cảnh lâm sàng khá nặng nề do BN 
đến muộn sau chấn thương 48 giờ với thị 
lực lúc đầu chỉ còn ST (+), giác mạc áp 
xe hình vòng, nhuyễn tại mép vết rách 
giác mạc, mủ đầy tiền phòng, mủ dịch 
kính dày đặc với các ổ áp xe võng mạc lan 
tràn trên một phần tư diện tích đáy mắt. 
Như vậy, kết quả nuôi cấy dương tính 
thấp hơn rất nhiều so với các nghiên cứu 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 90 
trên thế giới. Chúng tôi cho rằng có thể do 
việc lấy bệnh phẩm quá ít, loãng, đa số 
BN được tiêm kháng sinh nội nhãn trong 
phẫu thuật xử trí cấp cứu trước đó làm 
giảm tỷ lệ mọc của vi khuẩn trong môi 
trường nuôi cấy. Mặt khác, tại Bệnh viện 
Mắt Trung ương, kết quả nuôi cấy vi 
khuẩn thường được đánh giá sau 3 ngày 
nuôi cấy, với nấm thời gian là 7 ngày nên 
với một số loại tác nhân vi sinh phát triển 
chậm, cần thời gian để phát triển thành 
khuẩn lạc trong môi trường nuôi cấy dài 
hơn, có thể sẽ cho kết quả âm tính giả do 
thời gian nuôi cấy chưa đủ. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ 
13 trường hợp được làm xét nghiệm vi 
sinh từ cả hai bệnh phẩm thủy dịch và 
dịch kính. Tỷ lệ dương tính ở bệnh phẩm 
thủy dịch và dịch kính lần lượt là 92,3% 
và 100%. Kiểm định thống kê cho thấy 
khả năng phát hiện tác nhân gây bệnh 
của bệnh phẩm thủy dịch thấp hơn bệnh 
phẩm dịch kính với p = 0,002. Điều này 
phù hợp với nghiên cứu của Cornut (2013) 
về 17 trường hợp VMNN sau chấn thương 
[8]. Báo cáo của Melo (2011) [9] và Đỗ Tấn 
(2012) [1] về VMNN nội sinh do vi khuẩn 
cũng cho thấy tỷ lệ phát hiện vi khuẩn gây 
bệnh ở bệnh phẩm dịch kính cao hơn rất 
nhiều so với bệnh phẩm thủy dịch. 
KẾT LUẬN 
Viêm mủ nội nhãn sau VTXNC ở trẻ 
em thường gặp ở trẻ nam, lứa tuổi học 
tiểu học, nguyên nhân chủ yếu là tác 
nhân kim loại với những tổn hại nặng cả 
bán phần trước và bán phần sau của 
nhãn cầu. Siêu âm giúp đánh giá tình 
trạng dịch kính võng mạc, góp phần vào 
chẩn đoán VMNN sau VTXNC. Tác nhân 
gây bệnh thường gặp là vi khuẩn Gram 
(+). Tỷ lệ nuôi cấy dương tính rất thấp, 
khả năng phát hiện tác nhân gây bệnh 
của bệnh phẩm dịch kính cao hơn bệnh 
phẩm thủy dịch. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đỗ Tấn. Đánh giá kết quả phẫu thuật cắt 
dịch kính bơm dầu silicon nội nhãn điều trị 
VMNN nội sinh do vi khuẩn. Luận án Tiến sỹ 
Y học. Trường Đại học Y Hà Nội. 2012. 
2. Narang S, Gupta V, Simalandhi P et al. 
Paediatric open globe injuries. Visual outcome 
and risk factors for endophthalmitis. Indian J 
Ophthalmol. 2004, 52 (1), pp.29-34. 
3. Wu H, Ding X, Zhang M et al. Pediatric 
post-traumatic endophthalmitis. Graefes Arch Clin 
Exp Ophthalmol. 2016, 254 (10), pp.1919-1922. 
4. Rishi E, Rishi P, Koundanya V.V et al. 
Post-traumatic endophthalmitis in 143 eyes of 
children and adolescents from India. Eye (Lond). 
2016, 30 (4), pp.615-620. 
5. Junejo S.A, Ahmed M, Alam M. 
Endophthalmitis in paediatric penetrating ocular 
injuries in Hyderabad. J Pak Med Assoc. 2010, 
60 (7), pp.532-535. 
6. Alfaro D.V, Roth D.B, Laughlin R.M et al. 
Paediatric post-traumatic endophthalmitis. 
Br J Ophthalmol. 1995, 79 (10), pp.888-891. 
7. Chhabra S, Kunimoto D.Y, Kazi L et al. 
Endophthalmitis after open globe injury: 
Microbiologic spectrum and susceptibilities of 
isolates. Am J Ophthalmol. 2006, 142 (5), 
pp.852-854. 
8. Cornut P.L, Youssef el B, Bron A et al. 
A multicentre prospective study of post-traumatic 
endophthalmitis. Acta Ophthalmol. 2013, 91 (5), 
pp.475-482. 
9. Melo G.B, Bispo P.JM, Yu M.CZ et al. 
Microbial profile and antibiotic susceptibility 
of culture-positive bacterial endophthalmitis. 
Eye (Lond). 2011, 25 (3), pp.382-388.