Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 131
ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU TRỊ SỐC NHIỄM TRÙNG 
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 TỪ 01/01/2014 ĐẾN 30/04/2016 
Bùi Văn Đỡ*, Đoàn Thị Ngọc Diệp*, Nguyễn Thụy Ý Nhi* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề- Mục tiêu: Sốc nhiễm trùng ở trẻ em có tỉ lệ tử vong cao. Phát hiện sốc sớm và điều trị 
sớm kịp thời có vai trò giảm tỉ lệ tử vong. Nghiên cứu nhằm khảo sát đặc điểm điều trị sốc nhiễm trùng tại 
Bệnh viện nhi đồng 2. 
Phương pháp: nghiên cứu mô tả hồi cứu 63 bệnh nhi sốc nhiễm trùng từ 1 tháng đến 15 tuổi điều trị tại 
Bệnh viện Nhi đồng 2 từ 01/01/ 2014 đến 30/04/2016. 
Kết quả: Đa số sốc nhiễm trùng gặp ở trẻ dưới 5 tuổi (80,9%) với tỉ lệ nam/ nữ = 0,7/1. Khoảng 50% trẻ 
được chuyển đến từ tuyến trước. 42,9% trẻ có bệnh nền. Phần lớn bệnh nhi vào sốc trong tình trạng nặng với 
66,7% rối loạn tri giác, 92,1% có mạch nhẹ đến không bắt được, 95,2% có huyết áp thấp hay không đo được, 81% 
có thở nhanh và đặc biệt 17,5% có ngưng thở, 46% có lactate máu tăng ≥ 4mmol/l. Về điều trị 90,5% trẻ được đặt 
nội khí quản giúp thở, 100% được điều trị ban đầu bằng dung dịch điện giải, thời gian cho dịch 20ml/kg liều đầu 
≤15 phút không cao (38,1%), hơn phân nửa có tổng lượng dịch trung bình giờ đầu ≥40 ml/kg (57%), phần lớn 
được cho kháng sinh trong giờ đầu (88,9%) và cho vận mạch sau truyền dịch 20-40ml/kg (84,1%). Tỉ lệ tử vong ở 
trẻ em cao (57,1%). 
Kết luận: Bệnh nhi vào sốc trong tình trạng nặng. Tỷ lệ tử vong còn cao. Điều trị sốc nhiễm trùng có những 
điểm không thích hợp đó là sử dụng dịch truyền chống sốc, vận mạch, sử dụng kháng sinh. Sử dụng đúng phác 
đồ điều trị là cần thiết để giúp cải thiện tử vong trong sốc nhiễm trùng trẻ em. 
Từ khóa: sốc nhiễm trùng, điều trị. 
ABSTRACT 
CHARACTERISTICS OF TREATMENT OF PEDIATRIC SEPTIC SHOCK 
IN CHILDREN’ S HOSPITAL 2 01/01/2014 – 30/04/2016 
Bui Van Do, Doan Thi Ngoc Diep, Nguyen Thuy Y Nhi 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 3 - 2017: 131 - 136 
Background- Objectives: Pediatric septic shock has high mortality. The early recognition and initial 
management of septic shock in children has important role in reducing mortality. Our study is to research 
therapeutic characteristics of pediatric septic shock in Children’s Hospital 2 from 1/1/2014 to 30/4/2016. 
Methods: Retrospective cases- series study of 63 children had septic shock with age of 1 month – 15 years old 
treated in Children’ Hospital 2 from 01/01/2014 to 30/04/2016. 
Results: Most of septic shock patient were under 5 years old (80.9%). The male/ female ratio was 0.7/1. 
Approximately a half of cases were transferred from other hospitals. Comorbidities were high (42.9%). A large 
number of children had severe condition with mental disorder (66.7%), decreased or impalpable pulse (92.1%), 
low or immeasurable blood pressure (95.2%), tachypnea (81%) or apnea (17.5%), increased blood lactate (46) 
when he or she had shocked. In initial therapy, most of patient were intubated (90.5%). Crystalloid solutions were 
choice in all patients. Rate of initial infusion 20ml/kg for 15 minutes or less was not high (38.1%). More than a 
* Bệnh viện Nhi Đồng 2 
Tác giả liên lạc: BS. Bùi Văn Đỡ ĐT: 0903637320 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 132
half patient were infused ≥40ml/kg/ first hour. The mortality rate of septic shock in children was high (57.1%). 
Most of patients were received antibiotic in an hour after initial resuscitation (88.9%) and vasoactive agents after 
fluid replacement 20- 40ml/kg (84.1%). 
Conclusion: The pediatric septic shock was recognized with severe condition and had high mortality rate. 
Initial treatment of pediatric septic shock was unsuitable problems such as fluid resuscitation, antibiotics, 
vasoactive agents. Application of septic shock protocol is necessary to reduce mortality rate. 
Key words: septic shock, treatment. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sốc nhiễm trùng là hội chứng nhiễm trùng 
huyết nặng có rối loạn chức năng tuần hoàn. Tỉ 
lệ tử vong của sốc nhiễm trùng (SNT) còn cao. 
Tại Hoa kỳ, năm 2003, tỉ lệ tử vong do nhiễm 
trùng huyết là 4-10% và 13-34% ở sốc nhiễm 
trùng(4). Nghiên cứu trong nước cho thấy tỉ lệ tử 
vong trẻ sốc nhiễm trùng còn cao từ 40,5% đến 
86,5%(9,12). Năm 2000-2003 tại Bệnh viện Nhi 
đồng 2 tỉ lệ tử vong là 86,5%(12). Năm 2003 -2005 
tại Bệnh viện Nhi đồng 1 tỉ lệ tử vong là 49%(1), 
năm 2008 - 2011 là 40,5%(9). Tại Bệnh viện Nhi 
Trung ương năm 2005 - 2007 là 65,7%(11). 
 Điều trị đúng và kịp thời là yếu tố quan 
trọng trong việc cứu sống bệnh nhân. Trên thực 
tế lâm sàng, điều trị theo kinh nghiệm vẫn còn 
xãy ra, do đó tuân thủ đúng phác đồ nhất là tuân 
thủ về dịch truyền, vận mạch, kháng sinh là điều 
hết sức quan trọng góp phần thành công cho 
điều trị. Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu 
này nhằm khảo sát đặc điểm điều trị của sốc 
nhiễm trùng ở trẻ điều trị tại Bệnh viện Nhi 
đồng 2 từ 01/01/2016 đến 30/4/2016 từ đó rút ra 
những kinh nghiệm để cải thiện tỷ lệ tử vong sốc 
nhiễm trùng. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu hang loạt ca hồi cứu. 
Đối tượng nghiên cứu 
Dân số nghiên cứu 
Bệnh nhân từ 1 tháng tuổi đến 15 tuổi điều 
trị tại bệnh viện nhi đồng 2 được chẩn đoán sốc 
nhiễm trùng. 
Dân số mẫu 
Tất cả bệnh nhân từ 1 tháng tuổi đến 15 tuổi 
điều trị tại bệnh viện nhi đồng 2 được chẩn đoán 
sốc nhiễm trùng từ 01/01/2014 đến 30/6/2016. 
Tiêu chí chọn mẫu 
Tất cả bệnh nhân điều trị tại BVNĐ 2 trong 
thời gian từ 01/01/2014 đến 30/6/2016 được chẩn 
đoán sốc nhiễm trùng thỏa cả 3 tiêu chuẩn: 
Tiêu chuẩn rối loạn chức năng tuần hoàn 
tuần hoàn: 
Giảm huyết áp sau một giờ truyền dung dịch 
đẳng trương nhưng vẫn giảm huyết áp, hoặc 
Cần dùng thuốc vận mạch để duy trì huyết 
áp trong giới hạn bình thường với liều dopamin 
>5µg/kg/phút hay dobutamin, epinephrin và 
norepinephrin ở bất cứ liều nào, hoặc 
Có 2 trong các tiêu chuẩn sau: 
Toan chuyển hóa: BE < - 5 mEq/l. 
Tăng lactate máu động mạch > 4,4 mmol/lít. 
Thể tích nước tiểu < 0,5 ml/kg/giờ. 
Thời gian đổ đầy mao mạch > 5 giây. 
Nhiệt độ ngoại biên thấp hơn nhiệt độ 
trung tâm > 30C. 
Hội chứng đáp ứng viêm hệ thống (Systemic 
Inflammatory Response Syndrome-SIRS): có ít 
nhất 2 trong các biểu hiện sau, trong đó phải có 
tiêu chuẩn về thân nhiệt hay bạch cầu máu: 
Nhiệt độ > 38,5 0C hay < 36 0C. 
Nhịp tim nhanh so với tuổi hoặc nhịp tim 
chậm ở trẻ nhũ nhi. 
Nhịp thở nhanh so với tuổi hay thông khí cơ 
học do bệnh lý cấp và không do bệnh lý thần 
kinh cơ hay gây mê. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 133
Bạch cầu tăng hay giảm theo tuổi hay bạch 
cầu non > 10%. 
Bằng chứng nhiễm trùng: Nhiễm trùng nghi 
ngờ hay đã rõ (qua cấy dương tính, nhuộm 
gram) do bất kỳ tác nhân nào hay có hội chứng 
lâm sàng có nhiều khã năng do nhiễm trùng. 
Bằng chứng của nhiễm trùng được phát hiện 
qua khám lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh hay xét 
nghiệm (hiện diện bạch cầu ở dịch bình thường 
vô trùng, thủng tạng rỗng, viêm phổi, tử ban). 
Tiêu chí loại trừ 
Trẻ ≤28 ngày tuổi. 
Trẻ có bệnh tim bẩm sinh hoặc mắc phải. 
Hồ sơ không đạt 80% các biến thu thập. 
Cỡ mẫu 
Lấy trọn. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Công cụ nghiên cứu 
Bảng thu thập số liệu in sẵn. 
Hồ sơ bệnh án. 
Kỹ thuật thu thập số liệu 
Xem hồ sơ bệnh nhi thỏa tiêu chí chọn mẫu 
và tiêu chí loại trừ. 
Điền thông tin trong bệnh án vào phiếu thu 
thập in sẵn. 
Xử lý số liệu 
Số liệu được xử lý bằng phần mềm stata 13. 
Thống kê mô tả 
Biến định lượng: trình bày dưới dạng trung 
bình ± độ lệch chuẩn. 
Biến định tính: trình bày dưới dạng tần suất, 
tỉ lệ phần trăm. 
Phân tích đơn biến 
Dung phép kiểm Chi bình phương để so 
sánh 2 tỉ lệ. 
Với p < 0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm dân số nghiên cứu 
Trong thời gian nghiên cứu từ 1/1/2014 đến 
30/4/2016, chúng tôi chọn được 63 trẻ thỏa tiêu 
chuẩn sốc nhiễm trùng tại Bệnh viện Nhi đồng 2 
để đưa vào nghiên cứu. 
Bảng 1. Đặc điểm dịch tể của dân số nghiên cứu 
(n=63) 
Đặc điểm Tần số Tỉ lệ % 
Tuổi 
1 tháng- <12tháng 28 44,4 
12 tháng – 60 tháng 23 36,5 
>60 tháng 12 19,1 
Giới 
Nam 26 41,3 
Nữ 37 58,7 
Địa chỉ 
Tp Hồ Chí Minh 15 23,8 
Tỉnh 48 76,2 
Hình thức 
nhập viện 
Tự đến 32 50,8 
Chuyển viện 31 49,2 
Bệnh nền 
Có 27 42,9 
Không 36 57,1 
Nhận xét: Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
trẻ nam chiếm tỉ lệ 41,3%. Trẻ cư trú tại thành 
phố Hồ Chí Minh chiếm tỉ lệ 23,8%. Trẻ được 
chuyển đến từ tuyến trước 49,2%. Đa số trẻ 
dưới 60 tháng chiếm tỉ lệ 80,9%. Trẻ có bệnh 
nền 42,9%. 
Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng dân số nghiên cứu 
Đặc điểm Số ca Tỉ lệ % 
Thời điểm sốc 
Lúc nhập viện 41 65,1 
Sau nhập viện 22 34,9 
Rối loạn tri giác 42 66,7 
Co giật 18 28,6 
Mạch Nhanh theo tuổi 46 73 
 Chậm theo tuổi 2 3,2 
Tính chất mạch Không bắt được 11 17,5 
Huyết áp Không đo được 21 33,3 
Thời gian phục hồi 
màu sắc da 
≥ 3 giây 30 47,6 
Thân nhiệt 
Sốt 52 82,5 
Hạ thân nhiệt 1 1,6 
Nhịp thở 
Nhanh 51 81 
Ngưng thở 11 17,5 
Kiểu thở bất thường 42 66,7 
SpO2 giảm 31 49,2 
Nhận xét: 65,1% có tình trạng sốc tại thời 
điểm nhập viện. Ở thời điểm vô sốc, có 66,7% 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 134
trẻ có tình trạng rối loạn tri giác, 73% trẻ có 
mạch nhanh theo tuổi và 3,2% trẻ có mạch 
chậm, 17,5% trẻ có mạch không bắt được, 
33,3% trẻ có huyết áp không đo được, 47,6% 
trẻ có thời gian phục hồi màu sắc da kéo dài từ 
trên 3 giây, 82,5% trẻ có sốt,17,5% trẻ có ngưng 
thở, 66,7% trẻ có kiểu thở bất thường như thở 
co lõm ngực, thở hước, thở không đều,49,2% 
trẻ có SpO2 giảm dưới 92%. 
Bảng 3. Đặc điểm điều trị 
Điều trị 
Tần 
số 
Tỉ lệ 
% 
Hỗ trợ hô 
hấp 
Oxy cannula 2 3,2 
NCPAP 4 6,3 
NKQ+ giúp thở 57 90,5 
Truyền dịch 
chống sốc 
Loại dịch khởi đầu điện giải 63 100 
Dịch cao phân tử 
trong quá trình 
chống sốc 
Albumin 4 6,3 
Hemohes 6% 5 7,9 
Lượng dịch truyền khởi đầu 20 
ml/kg 
61 96,8 
Tốc độ truyền 
dịch ban đầu (với 
thể tích 20ml/kg) 
10 - 15 phút 24 38,1 
20-30 phút 17 27 
60 phút 22 34,9 
Tổng dịch trong 
giờ đầu (39,8 
±19,4 ml/kg) 
≥40 ml/kg 36 57 
<40ml/kg 27 43 
Vận mạch 
Loại vận mạch 
Dopamin 45 71,4 
Dobutamin 8 12,7 
Adrenalin 48 76,2 
Noradrenalin 37 58,7 
Thời điểm cho 
vận mạch 
<20 ml/kg 6 9,5 
20-40ml/kg 53 84,1 
>40ml/kg 4 6,4 
Kháng sinh 
Sử dụng kháng sinh 
trong giờ đầu 
57 88,9 
Corticoide Sử dụng corticoide 13 20,6 
Nhận xét: 100% các trường hợp được hỗ trợ 
hô hấp. 100% các trương hợp chống sốc bằng 
dung dịch diện giải. Lượng dịch khởi đầu với 20 
ml/kg được sử dụng chiếm tỉ lệ 96,8%. truyền 
liều dịch đầu tiên 20ml/kg ≤ 15 phút 38,1%, tổng 
lượng dịch truyền trong giờ đầu tiên 39,4 ±19,4 
ml/kg, 57% truyền ≥ 40 ml/kg/h, 76,2% sử dụng 
adrenalin, 71,4% sử dụng dopamine, 58,7% sử 
dụng noradrenalin. 84,1% sử dụng vận mạch sau 
khi truyền 20- 40 ml/kg dịch, 88,9% sử dụng 
kháng sinh trong giờ đầu, 20.6% các trường hợp 
sử dụng corticoide. 
Bảng 4. Kết quả điều trị 
Kết quả điều trị Số ca (Tỉ lệ %) 
Sống 27 (42,9%) 
Tử vong 36(57,1%) 
BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nữ có tỉ lệ 
mắc bệnh cao hơn nam, với tỉ lệ là 58,7%. Gần 
50% các trẻ được chuyển viện đến từ các bệnh 
viện khác, trẻ < 5 tuổi chiếm tỉ lệ 81%, trong đó, 
trẻ dưới 1 tuổi chiếm ưu thế với tỉ lệ 44,4%. Các 
trẻ mắc các bệnh lý kèm theo trước khi được 
chẩn đoán sốc nhiễm trùng chiếm tỉ lệ khá cao là 
42,9%. Sốc ngay tại thời điểm nhập viện chiếm tỉ 
lệ 65,1%. Triệu chứng lâm sàng lúc vô sốc nặng: 
66,67 % trẻ rối loạn tri giác, 33,3% huyết áp 
không đo được, 17,5% mạch không bắt được, 
47,6% có thời gian làm đầy mao mạch trên 3 
giây, 17,5% trẻ có ngưng thở, 66,7% trẻ có kiểu 
thở bất thường như thở chậm, thở hước, thở co 
lõm hay thở không đều chiếm tỉ lệ. Điều trị của 
chúng tôi gồm hỗ trợ hô hấp, truyền dịch chống 
sốc, vận mạch, kháng sinh, corticoide. 
Hỗ trợ hô hấp 
Tất cả các trẻ đều được hỗ trợ hô hấp trong 
đó 90,48% trẻ được đặt nội khí quản giúp thở. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự kết 
quả nghiên cứu Phạm Văn Quang(8). Chỉ định 
đặt nội khí quản trong trường hợp này không 
phải vì suy hô hấp mà nhằm gíup ổn định và 
theo dõi tốt huyết động. Tỉ lệ đặt nôi khí quản 
trong nghiên cứu của chúng tôi cao do ngoài việc 
để ổn định huyết động, bệnh nhân chúng tôi 
được đặt nội khí quản để thông khí do tình trạng 
bệnh nhân suy hô hấp, rối loạn tri giác. Theo 
hướng dẫn điều trị hiện nay nên xem xét đặt nội 
khí quản sớm khi huyết động học không ổn 
định, hoặc tri giác xấu đi sau bù dịch. 
Hồi sức dịch 
Tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu của 
chúng tôi đều được cho dịch ban đầu là dung 
dịch điện giải.Theo nghiên cứu của Phạm Văn 
Quang(8) tỷ lệ này là 85,1%. Kết quả của chúng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 135
tôi cao hơn của Đỗ Thị Mộng Hoàng, theo tác 
giả này tỷ lệ sử dụng dung dịch điện giải là 
90,6%(3). Mặc dù còn nhiều tranh cải về vai trò 
dung dịch keo và điện giải. Các tác giả đều 
cho thấy tỷ lệ tử vong không khác biệt giữa 
dung dịch keo và dung dịch điện giải(10). Theo 
phác đồ điều trị khuyến cáo dung dịch điện 
giải là lựa chọn đầu tiên. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 91,83% 
trường hợp cho liều dịch đầu tiên là 20 ml/kg cao 
hơn tỷ lệ của Đỗ Thị Mộng Hoàng (88,2%)(3). Tốc 
độ dịch liều đầu 20ml/kg trong thời gian ≤ 15 
phút theo nghiên cứu của chúng tôi là 38,1% cao 
hơn nghiên cứu Phạm Văn Quang (21,7%)(8). Có 
sự khác nhau do thời gian nghiên cứu của chúng 
tôi xãy ra sau so với nghiên cứu của Phạm Văn 
Quang (2010). Qua đó cho thấy còn nhiều trẻ 
được chông sốc với tốc độ chậm. Theo Hiệp hội 
Tim mạch Hoa kỳ, lượng dịch 20ml/kg được cho 
rất nhanh nói chung là trong vòng 5- 20 phút 
ngay sau khi có đường truyền tĩnh mạch hay 
đường truyền trong xương. Nếu có rối loạn chức 
năng cơ tim nặng có thể cho 5-10ml/kg trong 5- 
10 phút(6). Điều này có thể ở nghiên cứu của 
chúng tôi có nhiều trẻ có bệnh lý não hoặc có thể 
do bác sĩ còn chống sốc bằng phác đồ cũ cho 
dịch 20 ml/kg/60 phút ngay cả trong trường hợp 
nặng. Việc không đạt được tốc độ dịch chống sốc 
ban đầu theo phác đồ điều trị có thể gây ra hậu 
quả là bệnh nhân chậm hoặc không ra sốc, dẫn 
đến sốc không hồi phục và cuối cùng là tử vong. 
Theo nghiên cứu của chúng tôi, tổng lượng 
dịch trung bình trong giờ đầu là 39,76 ±19,35 
ml/kg cao hơn nghiên cứu của Phạm Văn Quang 
nghiên cứu tại BVNĐ 1 từ 2002-2008 (28,5 ± 17,2 
ml/kg) và Phùng Nguyễn Thế Nguyên tại BVNĐ 
1 năm 2008-2011 (33,3±16,7ml/kg) và tương tự 
Đỗ Thị Mộng Hoàng (37,1± 17,1 ml/kg)(3,8,9). Tổng 
lượng dịch trung bình trong giờ đầu theo nghiên 
cứu của chúng tôi cao hơn các tác giả trên có thể 
do nghiên cứu của chúng tôi xãy ra sau và các 
bác sỹ đã phần nào áp dụng theo phác đồ chống 
sốc với tốc độ nhanh. Chống sốc chậm (< 
40mg/kg/h đầu) liên quan đến tử vong(11). 
Sử dụng vận mạch 
Theo nghiên cứu của chúng tôi adrenalin 
được sử dụng nhiều nhất (76,19%), có khác so 
với nghiên cứu Phạm Văn Quang năm 2002-2008 
và Đỗ Thị Mộng Hoàng dopamine là thuốc được 
sử dụng nhiều nhất (83%), (92,1%)(3,8). Nghiên 
cứu của chúng tôi khác với các nghiên cứu của 
các tác giả khác là tỷ lệ sử dụng adrenalin là cao 
nhất. Sự khác biệt này là do bệnh nhân của 
chúng tôi khi vào sốc thường nặng và là sốc lạnh 
nên các bác sĩ không sử dụng dopamine từ đầu 
mà là adrenalin. Và sau khi không đáp ứng với 
dopamin sẽ nhanh chóng được đổi sang 
adrenalin.Theo SSC 2013 khuyến cáo dụng vận 
mạch cho trẻ em, thuốc vận mạch sử dụng ban 
đầu là dopamine, adrenalin, nếu không đáp ứng 
có thể phối hợp thêm các thuốc vận mạch khác(2). 
Theo nghiên cứu của chúng tôi đa số các trẻ 
(84,1%) được cho vận mạch sau khi truyền 
khoảng 20- 40 ml/kg. Theo khuyến cáo sau khi 
truyền 20- 40 ml/kg hoặc sau 1-2 liều dịch 20ml/kg 
bắt đàu cho vận mạch, ngay cả khi thể tích lòng 
mạch chưa đủ(2). Và thời điểm dùng vận mạch nên 
bắt đầu sớm trong 60 phút. Vẫn còn tỉ lệ nhỏ cho 
vận mạch sớm (9,5%) và trễ (6,4%). 
 Sử dụng kháng sinh 
Sốc nhiễm trùng là một tình trạng nhiễm 
trùng nặng nên việc cho kháng sinh để diệt vi 
trùng là hết sức quan trọng. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 88,9 % 
tuân thủ cho kháng sinh trong giờ đầu sau sốc 
thấp hơn kết quả của Đỗ Thị Mộng Hoàng 
(97,6%) và Nguyễn Minh Tiến (100%)(3,7). Kumar 
và cộng sự cho thấy tỷ lệ tử vong giảm khi cho 
khi cho kháng sinh thích hợp trong vòng 1 giờ 
sau khi sốc. Cứ mỗi giờ cho kháng sinh sớm 
trong 6 giờ đầu, tỷ lệ tử vong giảm 7,6%(5). 
Còn 11,1% trong nghiên cứu của chúng tôi 
không cho kháng sinh trong giờ đầu sâu sốc tuy 
không quá lớn nhưng điều này cần thay đổi để 
đem lại hiệu quả tốt nhất cho bệnh nhân. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 136
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ tử vong 
57,1% cao hơn Phùng Nguyễn Thế Nguyên 
(40,5%) thực hiện từ tháng 10/2008 đến tháng 4 
/2011(8) và thấp hơn Trần Minh Điển (65,7%) thực 
hiện năm 2010 tại BVNTƯ(8,11). Điều này có thể 
do nghiên cứu của chúng tôi chỉ loại trừ các trẻ 
có bệnh tim bẩm sinh, không loại trừ các trẻ có 
các bệnh lý bại não, thần kinh cơ hay các bệnh 
mạn tính khác như trong nghiên cứu của Phùng 
Nguyễn Thế Nguyên và do thời điểm thực hiện 
nghiên cứu của chúng tôi sau hơn các nghiên 
cứu khác, khi mà có sự ra đời và ứng dụng rộng 
rãi hơn các khuyến cáo hướng dẫn điều trị 
chung của SSC, ACCM. Điều này cũng phù hợp 
với kết quả một số nghiên cứu gần đây của Hoa 
Kỳ, các nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ tử vong do 
SNT đã giảm đáng kể từ cuối thế kỷ 20 còn 20-
30% do SNT được chẩn đoán sớm và điều trị tích 
cực theo những khuyến cáo điều trị chung(13). 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 63 trường hợp sốc nhiễm 
trùng điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng 2, từ 
1/1/2014 đến 30/4/2016, chúng tôi thấy có nhiều 
điểm chưa thích hợp trong điều trị sốc nhiễm 
trùng đó là sử dụng dịch truyền chống sốc, vận 
mạch, sử dụng kháng sinh. Tỷ lệ tử vong có 
giảm nhưng còn cao 57,1%. Việc điều trị đúng và 
kịp thời là cần thiết để giúp cải thiện tử vong 
trong sốc nhiễm trùng trẻ em. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bùi Quốc Thắng (2006), "Nghiên cứu lâm sàng và một số biến 
đổi sinh học trong nhiễm khuẩn huyết trẻ em", Luận án tiến sĩ y 
học Đại Học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh. 
2. Dellinger RP, Levy MM, Rhodes A, et al. (2013), "Surviving 
Sepsis Campaign: International Guidelines for Management of 
Severe Sepsis and Septic Shock".Crtical care medicine pp. 580-
637. 
3. Đỗ Thị Mộng Hoàng (2014), "Điều trị ban đầu sốc nhiễm 
khuẩn trẻ em nhập khoa cấp cứu bệnh viện Nhi đồng 1 năm 
2009-2013", Luận văn thạc sĩ y học Đại học Y khoa Phạm Ngọc 
Thạch. 
4. Hollenberg S. (2009), "Inotrope and Vasopressor Therapy of 
Septic Shock.". Crit Care Clin 25, pp. 781-802. 
5. Kumar A Roberts D, Wood KE, et al. (2006), "Duration of 
hypotension before initiation of effective antimicrobial therapy 
is the critical determinant of survival in human septic 
shock".Crit Care Med pp. 34. 
6. Mark W(2008), "Initial management of shock in children " 
uptodate 16.2, 
7. Nguyễn Minh Tiến, Nguyễn Hữu Nhân, Đinh Tấn Phương và 
cộng sự, "Đánh giá sự tuân thủ phác đồ ở trẻ em tại khoa hồi 
sức tích cực và chống độc Bệnh viện Nhi đồng 1", Kỹ yếu hội 
nghị khoa học Hồi sức cấp cứu thường niên 201. pp. 50-59. 
8. Phạm Văn Quang, Bạch Văn Cam (2010), "Điều trị ban đầu sốc 
nhiễm khuẩn trẻ em tại khoa cấp cứu Bệnh viện Nhi đồng 
1".Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh 1, pp. 14. 
9. Phùng Nguyễn Thế Nguyên (2011), " Đặc điểm lâm sàng, cận 
lâm sàng và một số yếu tố tiên lượng tử vong trong sốc nhiễm 
khuẩn trẻ em".Tạp chí y học thành phố Hồ Chí Minh 15, pp. 200- 
208. 
10. Saladino RA (2004), "Management of septic shockin the 
Pediatric Emergency Department in 2004".Clin Emerg Med, 5, 
pp. 20-27. 
11. Trần Minh Điển, Lê Nam Trà (2006), "Nghiên cứu két quả điều 
trị và một số yếu tố tiên lượng tử vong trong sốc nhiễm khuẩn 
trẻ em". Luận án tiến sĩ y học đại học Y Hà nội. 
12. Võ Công Đồng, Phùng Nguyễn Thế Nguyên, Nguyễn Thị Hữu 
(2005), "Đặc điểm sốc nhiêm trùng tại Bệnh viện Nhi đồng 2". 
Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh 9, pp. 33-37. 
13. Watson RS et (2003), "The Epidemiology of Severe Sepsis in 
Children in the United States".Am J Respir Crit care Med, 167, 
pp. 695- 701. 
Ngày nhận bài báo: 11/01/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 13/02/2017 
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2017