Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 172
 ĐẶC ĐIỂM ĐIỆN NÃO ĐỒ TRÊN BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH 
NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH 
Phạm Xuân Lãnh*, Vũ Anh Nhị** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm điện não ngoài cơn trong 12 giờ sau cơn và đánh giá mối liên quan điện não ngoài 
cơn với lâm sàng ở bệnh nhân động kinh người trưởng thành. 
Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. 
Kết quả: Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi thu thập được 114 bệnh nhân (68 nam và 46 nữ). Tuổi 
thường gặp là 20 đến 30 tuổi, với tuổi trung bình là 42. Loại cơn động kinh thường gặp nhất là cơn cục bộ toàn 
thể hóa thứ phát (65,8%), ngoài ra có 3 bệnh nhân không phân loại được loại cơn (2,6%). Trong số các nguyên 
nhân động kinh, di chứng đột quỵ chiếm tỷ lệ nhiều nhất (22,8%), tỷ lệ không xác định nguyên nhân hay căn 
nguyên ẩn là 46,4%. Thời điểm trung bình ghi điện não là 7,90 ± 2,94 giờ sau cơn. Có 21,1% bệnh nhân có bất 
thường kịch phát dạng động kinh trên điện não đồ. Không có mối liên quan có ý nghĩa giữa bất thường trên điện 
não đồ và các yếu tố lâm sàng. 
Kết luận: Kết quả điện não đồ ghi trong 12 giờ sau cơn trong nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ bất thường 
dạng động kinh không tốt hơn so với các nghiên cứu ghi điện não ở thời điểm bất kỳ sau cơn, và không có sự khác 
biệt có ý nghĩa về bất thường điện não phân bố theo các đặc điểm lâm sàng. 
Từ khóa: điện não đồ, động kinh, cơn động kinh, sóng dạng động kinh, sau cơn, ngoài cơn 
ABSTRACT 
ELECTROENCEPHALOGRAM PATTERNS OF EPILEPTIC ALDULTS 
Pham Xuan Lanh, Vu Anh Nhi 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 172 - 177 
Objectives: To understand the characteristics of interictally electroencephalogram in epileptic adults which 
records within 12 hrs. after ictus and evaluate the clinical-interictally EEG correlation. 
Methods: Descriptive cross study. 
Results: One hundred-fourteen patients satisfied the inclusion criteria (sixty-eight females and forty-six 
males). Mean age is 42; the most common age is 20-30. The most seizure type is secondarily generalized partial 
seizure (65.8%). Three patients (2.6%) have undetermined seizure type. The most common cause of epilepsy is 
consequences of stroke (22.8%). There are 53 patients (46.4%) have undetermined cause or cryptogenic epilepsy. 
Mean timing recording EEG is 7.90 ± 2.94 hrs. after ictus. Twenty four patients (21.1%) have interictally 
epileptiform abnormalities. There are no significant clinical-interictal EEG correlations in this study. 
Conclusion: The result of interictal EEG within 12 hrs after ictus in our study is no better than 
anothers which recording interictal EEG at any time and do not find out any significant clinical-interictal 
EEG correlations. 
Keywords: electroencephalogram, epilepsy, epileptic seizure, epileptiform waves, interictal 
* Bệnh viện Chợ Rẫy, ** Bộ môn Thần Kinh, Đại học Y Dược TPHCM 
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Xuân Lãnh ĐT: 0945160235 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 173
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Động kinh là bệnh thường gặp (0,5-1%)(7). 
Hiện nay, trên thế giới khoảng 40 triệu người có 
động kinh(4). Các tỉ suất bệnh thay đổi rất nhiều 
theo các vùng lãnh thổ khác nhau. Theo một số 
nghiên cứu gần đây ở châu Á, tỉ lệ bệnh mới là 
42,08/100000 dân/năm(17), tỉ lệ bệnh toàn bộ là 
6/1000 dân(14). 
Ở Việt Nam, tỉ lệ bệnh toàn bộ là 0,4-1%(20), 
khoảng 378000 bệnh nhân động kinh cần được 
chăm sóc y tế thường xuyên, phần lớn trong số 
này không được điều trị đúng phác đồ(15). Động 
kinh có thể để lại nhiều di chứng nặng nề cho 
bệnh nhân, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc 
sống, gánh nặng cho gia đình và xã hội. Do đó 
động kinh là một vấn đề quan trọng đối với 
ngành y tế Việt Nam cũng như ở các nước đang 
phát triển. 
Chẩn đoán và điều trị động kinh chủ yếu 
dựa vào lâm sàng kết hợp hình ảnh học và điện 
não đồ. Điện não đồ thường qui có vai trò rất 
quan trọng trong chẩn đoán và xử trí các cơn 
động kinh, là kỹ thuật dễ thực hiện, thuận tiện 
với chi phí tương đối thấp. Điện não đồ giúp ích 
trong việc chẩn đoán động kinh, phân loại cơn, 
theo dõi điều trị. Ngoài ra điện não còn giúp tiên 
lượng nguy cơ tái phát cơn động kinh. Theo một 
phân tích gộp, nguy cơ tái phát cơn sau hai năm 
là 27% với điện não bình thường, 37% với điện 
não bất thường không đặc hiệu, và đến 58% với 
điện não có bất thường dạng động kinh(3). 
Nhưng điện não đồ cũng có một số hạn chế. Một 
trong số đó là khả năng phát hiện bất thường 
ngoài cơn không cao. 
Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về 
động kinh, phần lớn là các nghiên cứu về dịch tễ 
học hoặc ở trẻ em. Nghiên cứu về điện não đồ 
ngoài cơn ở bệnh nhân động kinh người trưởng 
thành còn hạn chế. Từ những vấn đề vừa nêu, 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:”Đặc điểm 
điện não đồ trên bệnh nhân động kinh người 
trưởng thành”với mục đích khảo sát lâm sàng, 
hình ảnh học và điện não đồ ghi trong 12 giờ sau 
cơn, qua đó đánh giá khả năng phát hiện bất 
thường điện não ngoài cơn ghi trong 12 giờ sau 
cơn và liên quan với các yếu tố lâm sàng. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Bệnh nhân được chẩn đoán động kinh tuổi 
từ 15 trở lên nhập khoa Nội thần kinh Bệnh viện 
Chợ Rẫy từ tháng 01/2011 đến 09/2011. 
Được đo điện não đồ ngoài cơn trong vòng 
12 giờ sau cơn. 
 Tiêu chuẩn loại trừ 
Các trường hợp cơn co giật lần đầu, cơn co 
giật triệu chứng cấp, nguyên nhân chuyển hóa 
hoặc độc chất, do nguyên nhân tâm lý. 
Không được đo điện não trong 12 giờ 
sau cơn. 
Bệnh nhân trạng thái động kinh. 
Các yếu tố khảo sát 
Tuổi, giới, căn nguyên cơn động kinh, phân 
loại cơn động kinh, đặc điểm hình ảnh học, điện 
não đồ, tình trạng điều trị và mối liên quan giữa 
các yếu tố với bất thường điện não đồ. 
Công cụ thu thập số liệu: 
Bảng thu thập số liệu. 
Xử lý số liệu: 
Số liệu được mã hóa và phân tích bằng phần 
mềm thống kê SPSS 16.0. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu gồm 114 bệnh nhân, 68 nam và 
46 nữ, tỷ lệ nam:nữ là 1,48:1. Tuổi nhỏ nhất là 15 
và lớn nhất là 88 tuổi. Tuổi trung bình của các 
đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi là 
42,33 ± 21,33. Độ tuổi thường gặp nhất là 20-30 
tuổi (25,4%) và trên 60 tuổi (24,6%). Không có sự 
khác nhau về phân bố giới tính với các nhóm 
tuổi (p = 0,92). Có 21 bệnh nhân (18,5%) động 
kinh toàn thể, 75 bệnh nhân (65,8%) động kinh 
cục bộ toàn thể hóa thứ phát chiếm tỉ lệ cao nhất, 
15 bệnh nhân (13,1%) động kinh cục bộ, và 03 
bệnh nhân (2,6%) không xác định được loại cơn. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 174
Trong các loại cơn toàn thể, cơn co giật (15 
bệnh nhân) thường gặp nhất (71,4%), cơn co 
cứng (01 bệnh nhân) 4,8%, và cơn co cứng co giật 
(05 bệnh nhân) 23,8%. Các loại cơn toàn thể khác 
như cơn giật cơ, cơn mất trương lực, cơn vắng 
không gặp trong nghiên cứu của chúng tôi. 
18.5
9.6
3.5
65.8
2.6
0
10
20
30
40
50
60
70
Cơn toàn thể Cơn cục bộ
đơn giản
Cơn cục bộ
phức tạp
Cơn cục bộ
toàn thể thứ
phát
Cơn không
phân loại
T
æ 
le
ä %
Hình 1. Biểu đồ phân bố các loại cơn động kinh. 
46.4%
4.4%
0.9%
4.4%
7.0%
1.8%
0.9%
11.4%
22.8%
Đột quỵ
Chấn thương
Nhiễm trùng
U não
Lupus
Xơ chai thái dương
Dị dạng mạch máu
não
Nguyên nhân khác
Không xác định
Hình 2. Biểu đồ phân bố nguyên nhân của động kinh 
Về nguyên nhân động kinh, nghiên cứu 
của chúng tôi ghi nhân hai nguyên nhân 
thường gặp nhất là di chứng đột quỵ (22,8%) 
và di chứng chấn thương đấu (11,4%). Có đến 
46,4% bệnh nhân không xác định được 
nguyên nhân. Tuổi trung bình của bệnh nhân 
chấn thương đầu là 41, đột quỵ là 64, nhiễm 
trùng nội sọ là 31, u não là 54,4. 
Đa số bệnh nhân được chụp CT scan sọ não 
(97,4%). Có 64 (56,1%) bệnh nhân được chụp 
MRI sọ não. Tỉ lệ phát hiện tổn thương đặc hiệu 
trên hình ảnh học sọ não là 47,3%. Có 39 (34,2%) 
bệnh nhân đang điều trị thuốc chống động kinh 
trước nhập viện. Trong 114 bệnh nhân của 
nghiên cứu này, có 95 (83,3%) bệnh nhân đơn trị 
liệu, hai thuốc chống động kinh được sử dụng 
nhiều nhất nhất là valproate (47,4%) và 
phenytoin (42,2%). 
Trong thời gian nghiên cứu chúng tôi thu 
thập được 114 bệnh nhân vào mẫu nghiên cứu 
thỏa các tiêu chuẩn chọn bệnh. Mỗi bệnh nhân 
được ghi điện não đồ một lần trong vòng 12 giờ 
sau cơn. Thời gian trung bình từ lúc có cơn đến 
lúc ghi điện não đồ là 7,9 ± 2,94 giờ. Không có sự 
khác biệt đáng kể về thời gian trung bình từ lúc 
có cơn đến lúc ghi điện não theo giới tính, cũng 
như các nhóm tuổi. Có 47 (41,2%) bênh nhân có 
điện não đồ bất thường (24 bệnh nhân bất 
thường dạng động kinh, 23 bệnh nhân bất 
thường rối loạn nhịp cơ bản), trong đó 10 (21,3%) 
bệnh nhân ở nhóm tuổi 20-29, cao nhất trong các 
nhóm tuổi. Kế tiếp là nhóm tuổi 40-49 có 09 
(19,1%) bệnh nhân, nhóm tuổi < 20 có 08 (17%) 
bệnh nhân, nhóm tuổi 60-69 có 07 (14,9%) bệnh 
nhân. Như vậy, tỉ lệ bệnh nhân có điện não bất 
thường dạng động kinh trong nghiên cứu này là 
21,1%. Trong các loại cơn động kinh thì nhóm 
bệnh nhân cơn động kinh cục bộ toàn thể hóa 
thứ phát có tỉ lệ phát hiện bất thường dạng động 
kinh cao nhất là 62,5% (15/24 bệnh nhân). Tỉ lệ 
điện não đồ bất thường cao ở các nguyên nhân 
như di chứng chấn thương đầu, u não, và di 
chứng đột quỵ (lần lượt là 61,5%, 60%, 50%). 
Trong nhóm bệnh nhân có dùng thuốc chống 
động kinh trước nhập viện thì 23,1% có bất 
thường dạng động kinh. Tỉ lệ này ở nhóm không 
dùng thuốc là 20%. Không có sự khác biệt về 
phân bố kết quả điện não ngoài cơn theo giới 
tính (p = 0,41), loại cơn động kinh (p =0,10), 
nguyên nhân động kinh (p = 0,14), và tình trạng 
dùng thuốc chống động kinh trước đó (p = 0,46). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 175
58.8%
21.1%
20.1%
Bình thường
Loạn nhịp cơ
bản
Sóng dạng động
kinh
Hình 3. Biểu đồ phân bố kết quả điện não 
Hình 4. Biểu đồ phân bố kết quả điện não ở hai nhóm 
dùng và không dùng thuốc chống động kinh 
BÀN LUẬN 
Qua nghiên cứu chúng tôi ghi nhận tỉ lệ bất 
thường dạng động kinh là 21,1%. Kết quả này 
tương tự của các tác giả Lê Văn Tuấn (23,3%)(12), 
Krumholz A và cs tổng kết trên 1766 bệnh nhân 
trưởng thành có cơn động kinh lần đầu là 23%(11), 
Jallon P cũng trên bệnh nhân có cơn động kinh 
lần đầu là 24,4%(9). 
Nhưng kết quả của chúng tôi thấp hơn so 
với một số tác giả khác. Đinh Huỳnh Tố 
Hương trên 91 bệnh nhân trưởng thành có cơn 
co giật lần đầu ghi nhận tỉ lệ bất thường dạng 
động kinh là 28,6% với điện não đo ở thời 
điểm bất kỳ(5), Byung IL với 249 bệnh nhân 
động kinh thùy ghi nhận 50% có bất thường 
dạng động kinh trên điện não đồ thường 
qui(13), Ammar EMA nghiên cứu trên 596 bệnh 
nhân gồm cả trẻ em ghi nhận bất thường dạng 
động kinh 53-65% trên điện não ghi trong 48 
giờ sau cơn(2). Nghiên cứu của Ajmone MC và 
cs năm 1970 thực hiện trên 308 bệnh nhân 
động kinh ở mọi lứa tuổi (173 nam, 135 nữ) 
với 41% (126 bệnh nhân) là dưới 20 tuổi ghi 
nhận 55,5% bất thường dạng động kinh ở lần 
ghi điện não đầu tiên(1). Kết quả nghiên cứu 
của King M.A năm 1998 trên 300 bệnh nhân 
gồm trẻ em có cơn động kinh lần đầu ghi nhận 
bất thường dạng động kinh 51% trong những 
trường hợp ghi điện não trong 24 giờ sau 
cơn(10). Falip M ghi nhận nếu đo điện não 
trong 24 giờ sau cơn sẽ có 40% bệnh nhân có 
bất thường dạng động kinh, tỉ lệ này giảm còn 
21-35% nếu đo điện não trong 48 giờ sau cơn(6). 
Salinsky M nghiên cứu trên 429 bệnh nhân 
động kinh người lớn ghi nhận có 50% bệnh 
nhân có bất thường dạng động kinh trên điện 
não ngoài cơn bất kỳ(18). 
Bảng 1. So sánh kết quả EEG của chúng tôi với các 
tác giả khác. 
Tác giả Bất thường dạng động kinh 
Chúng tôi 21,1% 
Nguyễn Tuấn Anh 11% 
Lê Văn Tuấn 23,3% 
Jallon P 24,4% 
Krumholz A 23% 
Đinh Huỳnh Tố Hương 28,6% 
Salinsky M 50% 
Byung IL 50% 
Ajmone MC 55,5% 
Ammar EMA 53-65% 
Sự khác biệt này là do đối tượng nghiên cứu 
của chúng tôi và các tác giả khác là không tương 
đồng. Các tác giả ghi nhận tỉ lệ bất thường dạng 
động kinh cao thì hầu hết đối tượng nghiên cứu 
bao gồm cả trẻ em(13,2,10), cơn co giật triệu chứng 
cấp(5,10). Trong nghiên cứu của Salinsky M đối 
tượng nghiên cứu là người lớn với tuổi trung 
bình là 45 khá tương đồng với nghiên cứu của 
chúng tôi, nhưng tỉ lệ bệnh nhân cơn động kinh 
cục bộ (95%) cao hơn nhiều so với chúng tôi 
(76,9%) và có 67% bệnh nhân đo điện não giấc 
ngủ(18), một phương pháp hoạt hóa làm tăng khả 
năng phát hiện bất thường dạng động kinh. 
Tỉ lệ bệnh nhân bất thường dạng động kinh 
của chúng tôi cao hơn trong nghiên cứu dịch tễ 
của tác giả Nguyễn Anh Tuấn và cs. Nghiên cứu 
này ghi nhận tỉ lệ bất thường dạng động kinh là 
11%(18). Tỉ lệ này thấp có thể là do đối tượng 
nghiên cứu của tác giả có đến 21% bệnh nhân 
không có cơn trong một năm trước đó. Mặc dù 
51.3
23.125.6
62.7
2017.3
0
10
20
30
40
50
60
70
Ñang duøng
thuoác
Khoâng duøng
thuoác
Bình thường
Sóng dạng ĐK
Loạn nhịpT
æ 
le
ä %
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 176
bằng chứng còn hạn chế, một số tác giả ghi nhận 
tần số cơn càng cao (trên 01 cơn/tháng) thì khả 
năng phát hiện bất thường dạng động kinh trên 
điện não ngoài cơn càng cao, và khả năng phát 
hiện bất thường dạng động kinh ngoài cơn là rất 
thấp khi tần số cơn thấp như 01 cơn/năm(1, 11). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm tuổi 
có tỉ lệ bất thường dạng động kinh cao nhất là 
20-29 (21,3%), và tuổi càng thấp thì khả năng 
phát hiện bất thường dạng động kinh càng cao. 
Kết quả này tương tự như nghiên cứu của 
Ajmone MC và cs(1). 
Tỉ lệ bất thường dạng động kinh ở nam là 
25% cao hơn so với nữ là 15,2%, tuy nhiên sự 
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p = 
0,41). Như vậy sự phân bố kết quả điện não 
ngoài cơn không phụ thuộc vào giới tính. Điều 
này cũng đã được ghi nhận trong nghiên cứu 
của tác giả Ajmone MC và cs(1). 
Trong 24 (21,1%) bệnh nhân bất thường dạng 
động kinh, có 15 bệnh nhân cơn động kinh cục 
bộ toàn thể hóa thứ phát chiếm tỉ lệ 62,5%. Tuy 
nhiên khi thực hiện kiểm định chi bình phương 
cho kết quả sự khác biệt phân bố kết quả điện 
não theo các loại cơn động kinh là không có ý 
nghĩa thống kê (p = 0.10). Như vậy trong nghiên 
cứu của chúng tôi loại cơn động kinh không ảnh 
hưởng đến khả năng phát hiện bất thường điện 
não ngoài cơn. Kết quả này phù hợp với tác giả 
Ammar EMA(2), và Ajmone MC(1). 
Nhóm bệnh nhân có cơn động kinh cục bộ 
thì có 41% bệnh nhân có điện não bất thường, 
tương tự như kết quả trong nghiên cứu của 
Salinsky M và cs (39%)(18). Tuy nhiên tỉ lệ này 
thấp hơn so với tác giả Hussien A nghiên cứu 
trên 50 bệnh nhân động kinh cục bộ 16-70 tuổi 
ghi nhận 56% bất thường điện não đồ(8), Byung 
IL với 249 bệnh nhân là 47%(13). Có thể là do độ 
tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn 
trong nghiên cứu của hai tác giả này (tuổi trung 
bình của Hussien A 35,96, nghiên cứu của Byung 
IL gồm cả trẻ em). Khi phân tích kết quả điện 
não trong nhóm động kinh toàn thể, bệnh nhân 
cơn co cứng co giật có tỉ lệ bất thường dạng động 
kinh là 80% (4/5 bệnh nhân). Kết quả này phù 
hợp với nghiên cứu của Ajimone MC là 83%(1). 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về 
phân bố kết quả điện não theo các nhóm có 
nguyên nhân và căn nguyên ẩn (p = 0,14), tương 
tự tác giả Lê Văn Tuấn (p = 0,28)(12). Ajmone MC 
và cs cũng ghi nhận nguyên nhân động kinh 
không ảnh hưởng đến khả năng phát hiện bất 
thường trên điện não ngoài cơn(1). 
Về yếu tố nguyên nhân động kinh thì nhóm 
nguyên nhân có tỉ lệ phát hiện bất thường điện 
não ngoài cơn (dạng động kinh và rối loạn nhịp 
cơ bản) cao nhất là di chứng chấn thương đầu 
với tỉ lệ điện não bất thường là 61,5%. Kết quả 
này thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn 
Hồng Thanh và cs trên 35 bệnh nhân động kinh 
do di chứng chấn thương đầu có tuổi trung bình 
là 49 ghi nhận tỉ lệ này là 68,6%(16). 
Khác biệt về phân bố kết quả điện não theo 
nhóm có và không dùng thuốc chống động kinh 
là không có ý nghĩa thống kê (p = 0,46), hay tình 
trạng dùng thuốc chống động kinh không ảnh 
hưởng đến khả năng phát hiện bất thường dạng 
động kinh trên điện não ngoài cơn, phù hợp với 
kết quả nghiên cứu của Ajmone MC(1). 
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận biện 
pháp ghi điện não ngoài cơn trong 12 giờ sau 
cơn động kinh không làm tăng khả năng phát 
hiện các bất thường trên điện não, và không có 
sự khác biệt có ý nghĩa về bất thường điện não 
phân bố theo các đặc điểm lâm sàng. Một số tác 
giả đề nghị các phương pháp nhằm tăng khả 
năng phát hiện bất thường trên điện não ngoài 
cơn như đo điện não nhiều lần, điện não gây mất 
ngủ, điện não giấc ngủ, điện não Holter 24 giờ. 
Theo Smith SJM ghi điện não Holter 24 giờ ngoại 
trú có thể tăng thêm đến 20% khả năng phát hiện 
bất thường dạng động kinh(19). 
KẾT LUẬN 
Chẩn đoán động kinh là một chẩn đoán lâm 
sàng. Điện não đồ bình thường không được 
phép loại trừ động kinh. Điện não đồ có độ nhạy 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 177
tương đối thấp trong động kinh, giới hạn từ 25-
56%. Nếu giải thích không đúng bản ghi điện 
não sẽ dẫn đến những sai sót trong chẩn đoán và 
điều trị. Có nhiều phương pháp làm tăng khả 
năng phát hiện bất thường dạng động kinh trên 
điện não thường qui sau cơn. Kết quả điện não 
đồ ghi trong 12 giờ sau cơn trong nghiên cứu của 
chúng tôi có tỉ lệ bất thường dạng động kinh 
không tốt hơn so với các nghiên cứu ghi điện 
não ở thời điểm bất kỳ sau cơn, và không có sự 
khác biệt có ý nghĩa về bất thường điện não 
phân bố theo các đặc điểm lâm sàng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ajmone MC, et al (1970). Factors related to the occurrence of 
typical paroxysmal abnormalities in the EEG records of 
epileptic patients. Epilepsia, 11, pp.361-381. 
2. Ammar EMA (2008). The Electroencephalogram (EEG) in the 
diagnosis of Epileptiform disorders in Sudanese patients. 
Khartoum Medical Journal, Vol. 1, No. 1, pp.12-14. 
3. Berg AT, Shinnar S (1991). The risk of seizure recurrence 
following a first unprovoked seizure: a quantitative review. 
Neurology; 41, pp.965–72. 
4. Christine L, Anne TB (2011). Epidemiologic Aspects of Epilepsy. 
Wyllie's Treatment of Epilepsy: Principles and Practice, 5th 
Edition. Lippincott Williams & Wilkins. 
5. Đinh Huỳnh Tố Hương (2008). Đặc điểm lâm sàng, cận lâm 
sàng và điều trị của cơn động kinh đầu tiên ở người trưởng 
thành. Luận văn Bác sĩ nội trú. Đại Học Y Dược TP Hồ Chí 
Minh. 
6. Falip M, Gil Nagel A (2007). Diagnotic Problems in the Initial 
Assessement of Epilepsy. The Neurologist, pp.3- 10. 
7. Hauser WA, Hesdorff er DC (1990). Epilepsy: frequency, causes 
and consequences. New York. Demos Publications. 
8. Hussien A, et al (2008). Clinical pattern of partial epilepsy in 
Sudanese patients. Sudanese Journal of Public Health, Vol.3 (1), 
pp.26-31. 
9. Jallon P, Goumaz M, et al (1997). Incidence of first epileptic 
seizures in the canton of Geneva, Switzerland. Epilepsia, 38, 
pp.547-552. 
10. King MA, Newton MR, Jackson GD (1998). Epileptology of the 
first-seizure presentation: a clinical, EEG and MRI study of 300 
consecutive patients. Lancet, 352, pp.1007–11. 
11. Krumholz A (2007). Practice Parameter: Evaluating an 
apparent unprovoked first seizure in adult (an evidence- 
based review). Neurology, 69, pp.1996-2007. 
12. Lê Văn Tuấn (2003). Đặc điểm lâm sàng, nguyên nhân và điều trị 
bệnh nhân động kinh tại khoa thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy. Tạp chí 
Y Học TP HCM, tập 7, phụ bản của số 1, tr.75-80. 
13. Lee BI (2002). Syndromic diagnosis at the Epilepsy Clinic: Role 
of MRI in Lobar Epilepsies. Epilepsia, 43(5), pp.496-504. 
14. Mac TL, Tran DS, et al (2007). Epidemiology, aetiology, and 
clinical management of epilepsy in Asia: a systemic review. Lancet 
Neurol, 6, pp.533-43. 
15. Nguyễn Anh Tuấn và cs (2011). Đặc điểm dịch tễ học động 
kinh tại Ba Vì, Hà Nội. Kỷ yếu 55 năm ngày thành lập chuyên 
ngành thần kinh học Việt Nam [1956-2011], Bệnh viện Bạch 
Mai, Hà Nội, tr.188-193. 
16. Nguyễn Hồng Thanh (2011). Nghiên cứu đặc điểm điện não 
đồ sau đêm trắng ở bệnh nhân động kinh do chấn thương 
đầu, vết thương sọ não. Kỷ yếu 55 năm ngày thành lập 
chuyên ngành thần kinh học Việt Nam [1956-2011], Bệnh viện 
Bạch Mai, Hà Nội, tr.237-143. 
17. Saha SP, et al (2008). A prospective incidence study of epilepsy 
in a rural community of West-Bengal, India. Neurology Asia, 13, 
pp.41 – 48. 
18. Salinsky M, Roy K, Richard MD (1987). Effectiveness of 
Multiple EEGs in Supporting the Diagnosis of Epilepsy: An 
Operational Curve. Epilepsia, 28(4), pp.331-334. 
19. Smith SJM (2005). EEG in the diagnosis, classification, and 
management of patients with epilepsy. J Neurol Neurosurg 
Psychiatry, 76, ii2-ii7. 
20. Vũ Anh Nhị (2001). Động kinh. Thần kinh học: lâm sàng và điều 
trị. NXB Mũi Cà Mau, tr.151-221. 
Ngày nhận bài báo: 18/11/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/12/2016 
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017