Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Tiết Niệu Học 11
ĐA HỒNG CẦU TRÊN BỆNH NHÂN SAU GHÉP THẬN 
TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY 
Hoàng Khắc Chuẩn*, Thái Minh Sâm* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Đa hồng cầu là biến chứng thường gặp trên bệnh nhân sau ghép thận, có thể có liên quan đến tình 
trạng tăng huyết áp và thuyên tắc, được xác định khi hematocrit ≥ 51% hoặc Hemoglobin ≥ 160 g/L hoặc cả hai. 
Mục tiêu: xác định tỉ lệ mắc đa hồng cầu và hiệu quả của thuốc ức chế men chuyển (ACEI) và ức chế thụ thể 
AT1 trên bệnh nhân sau ghép thận tại bệnh viện Chợ Rẫy. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang, mô tả, được tiến hành trên 550 bệnh nhân 
từ 01/01/2004 đến 31/01/2015 tại phòng khám Ghép thận, bệnh viện Chợ Rẫy. 
Kết quả: tỉ lệ mắc đa hồng cầu trên bệnh nhân sau ghép thận tại bệnh viện Chợ Rẫy 9,63% (53/550) (5 nữ 
(9%), 48 nam (91%)) với thời gian khởi phát trung bình sau ghép: 16,3 tháng (2,8 đến 67,4 tháng). Bệnh nhân 
được điều trị với ACEI và ức chế thụ thể AT1 có các giá trị trung bình của hồng cầu (HC), hemoglobin (Hb) và 
hematocrit (Hct) trước can thiệp lần lượt là: 6,08.106/mm3, 172,8 g/L, 54,5%; sau can thiệp, các giá trị trên lần 
lượt là: 5,4.106/mm3, 149,8 g/L, 47,4% với thời gian điều trị 9,35 tuần (có hiệu quả sớm nhất sau 1,3 tuần (9 
ngày) và chậm nhất 23,6 tuần). 
Kết luận: Đa hồng cầu sau ghép thận là một hiện tượng lành tính, xuất hiện ở nam nhiều hơn nữ, thường 
xảy ra sớm trong vòng 1 – 2 năm đầu sau ghép, có thể điều trị hiệu quả với thuốc ACEI và ức chế AT1. 
Từ khóa: đa hồng cầu, ghép thận, thuốc ức chế men chuyển, thuốc ức chế thụ thể. 
ABSTRACT 
ERYTHROCYTOSIS AFTER RENAL TRANSPLANTATION AT CHO RAY HOSPITAL. 
Hoang Khac Chuan, Thai Minh Sam * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - No 1 - 2016: 11 - 16 
Introduction: Erythrocytosis, a common complication after kidney transplantation associated with 
hypertention and thrombosis, is considered when hematocrit level equal to or greater than 51%, or a hemoglobin 
level equal to or greater than 16o g/L, or both, without other causes. 
Objective: to sudy the prevalence of erythrocytosis after kidney transplantationat Cho Ray hospital as well 
as the efficacy of treatment with angiotensin converting enzyme inhibitors (ACEI) and angiotensin (AT) receptor 
antagonists. 
Methods: a cross-sectional descriptive study on 550 patients after kidney transplantation evaluated from 
January 2004 to January 2015 at Cho Ray hospital. 
Results: The prevalence of post-transplant erythrocytosis (PTE) at Cho Ray hospital was 9.63% (5 female (9%), 
48 male (91%)), appeared at an average of 16.3 months (range, 2.8-67.4 months) after transplant. Before treatment, 
mean red blood cell count (RBC), hemoglobin (Hb) and hematocrit (Hct) were: 6.08.106/mm3, 172.8 g/L, 54.5%, 
respectively. These patients underwent ACEI and AT receptor antagonists therapy in the average time of 9.35 
weeks to decrease these erythrocyte indices to normal values (Hct<51%, Hb<160 g/L). At the time of last follow 
up, the mean RBC, Hb and Hct were 5.4.106/mm3, 149.8 g/L, 47.4%, respectively. 
Conclusion: Erythrocytosis, a benign phenomenon occurring mostly in male patients, is usually 
* Khoa Ngoại Niệu, BV Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: Hoàng Khắc Chuẩn ĐT: 0913846817 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Ngoại Khoa 12
encountered within 1-2 years of post-renal transplant period and can be treated effectively and safely with ACEI 
and AT receptor antagonists. 
Keywords: Erythrocytosis, renal transplant, angiotensin converting enzyme inhibitors and angiotensin 
receptor antagonists, post-transplant erythrocytosis. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đa hồng cầu sau ghép thận là một trong các 
biến chứng thường gặp sau với tỉ lệ dao động từ 
8-15%, cá biệt có nghiên cứu cho thấy tỉ lệ này 
lên đến 22,2% thường xuất hiện trong 8-24 tháng 
đầu tiên sau ghép(5,12,20). Biến chứng này có thể tự 
hồi phục khoảng 25% trong tổng số các trường 
hợp, các bệnh nhân còn lại sẽ có tình trạng tăng 
Hct kéo dài hoặc tăng cho đến khi thải ghép. Sự 
tăng tạo hồng cầu có thể làm tăng độ nhớt của 
máu và gây ra nguy cơ thuyên tắc. Một nghiên 
cứu của Wickre và cộng sự cho thấy PTE làm 
tăng nguy cơ thuyên tắc lên 18,9% so với bệnh 
nhân không có PTE, tuy vậy những nghiên cứu 
khác lại không tìm thấy mối liên quan này(8,21). 
Mặc dù cơ chế bệnh sinh của đa hồng cầu sau 
ghép chưa rõ, nhưng các nhà nghiên cứu cho 
rằng có một số yếu tố nguy cơ liên quan đến đa 
hồng cầu sau ghép thận như: hẹp động mạch 
thận ghép, giai đoạn thải ghép cấp, tổng hợp 
erythropoietin (EPO) của thận gốc, viêm thận, 
tổng hợp EPO từ gan, độc thận ghép từ CsA, 
bệnh nhân giới tính nam...(6,21). Cơ chế gây đa 
hồng cầu trên nhóm bệnh nhân có nồng độ EPO 
bình thường được cho là do đáp ứng quá mức 
của các yếu tố tiền thân kích thích tủy xương tạo 
hồng cầu (medullar erythroid precursors). Trong 
khi đó, hematocrit lại giảm trong suốt quá trình 
điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển mà 
không cần xác định nồng độ EPO, có thể do 
nhóm thuốc này gây ức chế tủy hoặc thúc đẩy 
quá trình rút ngắn đời sống hồng cầu. Việc chẩn 
đoán sớm và điều trị đa hồng cầu sau ghép là 
cần thiết nhằm hạn chế các biến chứng có thể 
dẫn đến tử vong. Cho đến nay, tại Việt Nam các 
nghiên cứu bàn về tình hình đa hồng cầu và các 
biện pháp điều trị còn hạn chế, chính vì thế, 
chúng tôi thực hiện nghiên cứu Đa hồng cầu trên 
bệnh nhân sau ghép thận tại bệnh viện Chợ Rẫy. 
Mục tiêu 
Xác định tỉ lệ mắc đa hồng cầu trên bệnh 
nhân sau ghép thận tại bệnh viện Chợ Rẫy. 
Đánh giá hiệu quả của thuốc ức chế men 
chuyển (ACEI) và ức chế thụ thể AT1 điều trị đa 
hồng cầu trên bệnh nhân sau ghép thận tại bệnh 
viện Chợ Rẫy. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu được tiến hành trên 550 bệnh 
nhân sau ghép thận đang được theo dõi, điều trị 
ngoại trú tại phòng khám ghép thận, khoa Ngoại 
Tiết niệu, bệnh viện Chợ Rẫy, từ 1/1/2004 đến 
31/1/2015. 
Đối tượng nghiên cứu 
 Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Bệnh nhân được ghép thận tối thiểu là 3 
tháng tại bệnh viện Chợ Rẫy và các trung tâm 
ghép thận trong và ngoài nước, đang được theo 
dõi, điều trị ngoại trú tại phòng khám ghép thận, 
khoa Ngoại Tiết niệu, bệnh viện Chợ Rẫy, đồng 
ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn chẩn đoán đa hồng cầu sau ghép: 
Bệnh nhân có hematocrit ≥ 51% hoặc 
Hemoglobin ≥ 160g/L hoặc cả hai. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Những trường hợp có tiền sử đa hồng cầu 
trước ghép (Hct >51%), bệnh phổi tắc nghẽn, 
suy tim. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang, mô tả. 
Các bước tiến hành 
Các đối tượng nghiên cứu được khám sức 
khỏe tổng quát bao gồm : đo huyết áp, siêu âm 
bụng tổng quát, X-quang tim phổi, siêu âm 
doppler thận ghép, ghi điện tim. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Tiết Niệu Học 13
Các yếu tố nguy cơ được đánh giá trong 
nghiên cứu bao gồm: tuổi, giới tính, thuốc ức chế 
miễn dịch, thói quen hút thuốc, tăng huyết áp, 
đái tháo đường, hẹp động mạch thận ghép, cắt 
thận gốc. 
Các thông số huyết học được đánh giá bằng 
máy huyết học Siemens Advia 2120i 
(Hematology system 33 thông số) bao gồm: số 
lượng hồng cầu, Hematocrit, Hemoglobin (Hb), 
Kỹ thuật định lượng creatinine: phương 
pháp động học Jaffe với máy phân tích tự động 
HITACHI 917, sử dụng bộ thuốc thử có chứng 
nhận IVD. 
Xử lý số liệu 
Số liệu nghiên cứu được xử lý thống kê bằng 
phần mềm SPSS 16.0. 
KẾT QUẢ 
Tỉ lệ đa hồng cầu sau ghép 
Nghiên cứu được thực hiện trên 550 bệnh 
nhân đang theo dõi và điều trị tại bệnh viện 
Chợ Rẫy, trong đó 53/550 bệnh nhân, chiếm tỉ 
lệ 9,63% bệnh nhân có biến chứng đa hồng cầu 
sau ghép. 
Trong 53 bệnh nhân đa hồng cầu sau ghép 
thận có 5 nữ (9%), 48 nam (91%). 
Bảng 1. Các đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân đa 
hồng cầu sau ghép thận 
Chỉ số Nhóm BN Đa hồng cầu sau ghép 
Tuổi (năm) 37 tuổi 
Thời gian khởi phát 
(tháng) 
16,3 tháng (2,8-67,4 tháng) 
HATT (mmHg) 132mmHg 
HATTr (mmHg) 82mmHg 
Creatinin (mg%) 1,23mg% 
Bảng 2. Nhóm công thức ức chế miễn dịch sử dụng 
trên nhóm bệnh nhân đa hồng cầu sau ghép 
Công thức thuốc ức chế miễn dịch* Tỉ lệ 
FK + MMF + Prednisone 28/53 (52,8%) 
CsA + MMF + Prednisone 22/53 (41,5%) 
FK + MMF 2/53 (3,8%) 
FK + Imuran + Prednison 1/53 (1,9%) 
Nhận xét: Hai công thức ức chế miễn dịch 
được sử dụng nhiều nhất là FK + MMF + 
Prednisone và CsA + MMF + Prednisone 
Sự thay đổi các chỉ số huyết học sau khi 
sử dụng nhóm thuốc ức chế men chuyển 
Bảng 3. Đặc điểm các chỉ số huyết học trên bênh nhân 
đa hồng cầu sau ghép thận 
 Chung (N=53) Nam (n=48) Nữ (n=5) 
Hồng cầu (10
6
/mm
3
) 6,08 6,11 5,792 * 
Hct (%) 54,5 54,35 55,9 
Hb (g/L) 172,8 173,3 168 ** 
*p<0,05 **p<0,01 
Nhận xét: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
về số lượng hồng cầu và Hb giữa nhóm nam và 
nhóm nữ đa hồng cầu sau ghép thận. 
Bảng 4. Sự thay đổi các chỉ số huyết học sau khi sử dụng nhóm thuốc ức chế men chuyển 
Trước sử dụng 
nhóm ACEI 
Sau khi sử dụng nhóm ACEI 
Thời gian (T) T0 (N=53) 
T1 1 tuần 
(n= 8) 
T2 1 tháng 
(n=53) 
T3 2 tháng 
(n=53) 
T4 3 tháng 
(n=53) 
T5 Thời điểm các chỉ số 
huyết học về bình thường 
Hồng cầu (10
6
/mm
3
) 6,08 5,71 5,692* 5, 45* 5,25 5,4 
Hct (%) 54,5 52,9 53.54 47,9** 46,2 47, 4 
Hb (g/L) 172,8 168,7 168* 149,9* 147,4 149,8 
Creatinine (mg%) 1,23 1,21 
*P < 0.05 ** P<0.01 
Nhận xét: Thời gian điều trị trung bình 9,35 
tuần để các chỉ số huyết học về bình thường 
(có hiệu quả sớm nhất sau 1,3 tuần (9 ngày) và 
chậm nhất 23,6 tuần). Có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê về số lượng hồng cầu sau khi 
sử dụng nhóm ACEI T2 so với T0, T3 so với 
T2. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về 
Hematocrit giữa T3 so với T2. Sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê về Hb ở T2 so với T0 và T3 so 
với T2. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Ngoại Khoa 14
BÀN LUẬN 
Tỉ lệ đa hồng cầu sau ghép và các yếu tố 
liên quan 
Trong số 550 bệnh nhân sau ghép thận được 
theo dõi tại bệnh viện Chợ Rẫy, 53 bệnh nhân có 
biến chứng đa hồng cầu sau ghép, chiếm tỉ lệ 
9,63%, với thời gian khởi phát biến chứng trung 
bình 16,3 tháng sau ghép, trong đó nam giới 
chiếm 91%. Chúng tôi ghi nhận trong suốt quá 
trình phát hiện và điều trị biến chứng đa hồng 
cầu, chức năng thận vẫn ổn định, sau 3 tháng sử 
dụng nhóm thuốc ACEI, creatinine huyết thanh 
1,2mg%, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê so với khi mới bắt bầu khởi phát biến chứng 
đa hồng cầu. Ngoài ra, chúng tôi không phát 
hiện biến chứng thuyên tắc mạch do đa hồng 
cầu. Kết quả này gần tương đồng với các nghiên 
cứu của Kiberd với tỉ lệ đa hồng cầu sau ghép 
thận từ 1997-2006 là 8,1 % so với 18,7% trong giai 
đoạn từ 1993-1996, trong đó bệnh nhân nam giới 
làm tăng nguy cơ biến chứng lên 3,72 (95% CI 
1,54-9,0; p = 0,003)(12). Einollahi nghiên cứu trên 
500 bệnh nhân sau ghép thận cho thấy tỉ lệ đa 
hồng cầu sau ghép là (20,2%) xuất hiện đa số ở 
nam (82,2%), xuất hiện chủ yếu từ 2 đến 50 tháng 
sau ghép (trung bình 11,2 +/- 8,9 tháng), trong đó 
nhiều nhất 24 tháng đầu tiên (86%) với tỉ lệ bệnh 
nhân có chức năng thận bình thường 82,2% (<1,5 
mg/dL)(4). Một nghiên cứu của Saima Ahmed 
trên 200 bệnh nhân sau ghép thận cho thấy tỉ lệ 
đa hồng cầu là 20%, khởi phát sau 9,5 ± 2,5 tháng 
sau ghép với chức năng thận ghép 1,06 ± 0,29, 
xuất hiện chủ yếu ở nam với tỉ lệ 95%(18). Trong 
một nghiên cứu của Basri trên 1655 bệnh nhân 
sau ghép thận nhận xét tỉ lệ đa hồng cầu 9,6%, 
với tỉ lệ nam giới chiếm 96,9%(2). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 9,63% bệnh 
nhân có biến chứng đa hồng cầu, trong đó 94,3% 
được áp dụng công thức thuốc ức chế miễn dịch 
FK506/CsA + MMF + Prednisone. Trong nghiên 
cứu của Saima Ahmed, công thức thuốc ức chế 
miễn dịch áp dụng chủ yếu là CsA + 
Azathioprine + Prednisone cho thấy tỉ lệ đa hồng 
cầu là 20%(18). Phải chăng khác nhau về công thức 
ức chế miễn dịch sẽ làm thay đổi tỉ lệ biến chứng 
hồng cầu sau ghép? Perazella và cộng sự cho 
rằng nhóm sử dụng cyclosporine A có tỉ lệ đa 
hồng cầu cao hơn nhóm sử dụng azathioprine(17), 
tuy nhiên, trong nghiên cứu của Koziak lại 
không chứng minh được có sự khác nhau về Hct 
và Hb giữa các nhóm bệnh nhân sử dụng AZA + 
Pred, CsA + Pred và CsA + AZA + Pred(13). Một 
nghiên cứu của Augustine và cộng sự lại cho 
thấy rằng nồng độ Hb cũng như tỉ lệ đa hồng 
cầu ở nhóm sử dụng nhóm Sirolimus 
(Rapamune) cao hơn so với MMF(1). Tương tự, 
Kiberd cho thấy rằng nhóm MMF làm giảm 
nguy cơ biến chứng đa hồng cầu xuống còn 0,49, 
95% (CI 0,237-0,99, p = 0,049)(12). 
Hiệu quả của nhóm thuốc ức chế men 
chuyển trên biến chứng đa hồng cầu 
Khi Hct > 55% sẽ làm tăng nguy cơ biến 
chứng của đa hồng cầu, do đó các phương pháp 
điều trị được đề nghị để nhằm hạn chế các nguy 
cơ trên nhất là vấn đề tắc mạch(9) (Kazory A). 
Trong đó, nhóm thuốc ức chế men chuyển và 
nhóm thuốc ức chế thụ thể được xem là có hiệu 
quả tốt trong điều trị biến chứng đa hồng cầu 
sau ghép thận, tuy nhiên vấn đề vẫn còn ít nhiều 
tranh cãi. Ức chế men chuyển là nhóm thuốc làm 
giảm kháng lực mạch ở tiểu động mạch ra, tăng 
cường sự oxy hóa vùng quanh ống thận và do 
đó làm giảm tín hiệu trong cơ chế của 
erythropoietin. Ac-SDKP là một protein gồm 4 
chuỗi peptide, bình thường có vai trò ức chế sự 
đi vào của các tế bào gốc trong pha S, bị chuyển 
hóa bởi men chuyển (ACE). Với sự có mặt của 
thuốc ức chế men chuyển, Ac-SDKP bị tích tụ lại, 
do đó sẽ làm giảm sự tạo hồng cầu(19). Ức chế thụ 
thể có thể làm giảm sản xuất erythropoietin 
trong thận ghép hoặc làm giảm sự nhạy cảm của 
các tế bào gốc dòng hồng cầu với erythropoietin. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian để các 
chỉ số hồng cầu trở về bình thường sau sử dụng 
nhóm thuốc ức chế men chuyển là 9,35 tuần, 
trong đó có 8 bệnh nhân được xét nghiệm lại sau 
1 tuần đầu tiên đã cho thấy có sự giảm các chỉ số 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Tiết Niệu Học 15
hồng cầu, và các chỉ số này giảm rõ có ý nghĩa 
thống kê sau 1 và 2 tháng. Trong nghiên cứu của 
Kiberd cho thấy nhóm ACEI và nhóm ARBS có 
khả năng làm giảm biến chứng đa hồng cầu 
xuống chỉ còn 0,176, (95% CI 0,040-0,71, p = 
0,016)(12). Trong khi đó Basri cho rằng biến chứng 
đa hồng cầu có thể điều trị tốt bằng phương 
pháp trích máu hay dùng nhóm thuốc ACEI và 
nhóm ARBS(2). Một nghiên cứu của Montanaro 
và cộng sự cho thấy chỉ số Hb giảm rõ sau 12 
tháng và Hct giảm rõ sau 6 tháng sử dụng ACEI, 
trong khi nồng độ erythropoietin giảm có ý 
nghĩa sau tháng đầu tiên(14). Mustabic lại cho 
rằng nhóm thuốc ACEI và nhóm ARBS làm giảm 
Hct ở 90% bệnh nhân đa hồng cầu trong vòng từ 
2 đến 6 tuần(16). 
Biểu đồ sự thay đổi nồng độ Hemoglobin theo thời gian
130.0
135.0
140.0
145.0
150.0
155.0
160.0
165.0
170.0
175.0
T0 T2 T3 T4
Thời gian
N
ồ
n
g
 đ
ộ
 H
e
m
o
g
lo
b
in
 (
g
/L
)
Hb
Sự thay đổi Hematocrit theo thời gian
42.0
44.0
46.0
48.0
50.0
52.0
54.0
56.0
T0 T2 T3 T4
Thời gian
G
iá
 t
rị
 H
e
m
a
to
c
ri
t 
(%
)
Hct
 Cơ chế bệnh sinh của PTE bao gồm nhiều 
yếu tố. Trong nhiều trường hợp, sự tạo thành 
hồng cầu do sự kích thích quá mức của (EPO) 
từ thận cũ(7,10). Trong nghiên cứu này, chúng 
tôi không xét nghiệm nồng độ erythropoietin 
do các vấn đề không thuận tiện. Tuy nhiên, 
trong một nghiên cứu của Brox và cộng sự cho 
thấy nồng độ EPO trong huyết tương dường 
như không phải là một xét nghiệm đáng tin 
cậy để nói rằng EPO tăng cao gây ra PTE khi 
mà nồng độ EPO giống nhau giữa nhóm bệnh 
nhân có và nhóm không có đa hồng cầu(3). Một 
nghiên cứu của Mossuz P cho thấy nồng độ 
erythropoietin bình thường hoặc tăng trên 
nhóm bệnh nhân có đa hồng cầu(15). Những 
yếu tố không liên quan đến EPO gây PTE (khi 
nồng độ EPO bình thường hoặc thấp) có thể là 
do làm tăng tính nhạy cảm với EPO hoặc kích 
thích trực tiếp lên sự tạo hồng cầu(11). 
KẾT LUẬN 
Đa hồng cầu sau ghép thận là một hiện 
tượng lành tính, tỉ lệ mắc bệnh trong nghiên 
cứu của chúng tôi tương tự các nghiên cứu 
khác trên các đối tượng có chức năng thận ổn 
định, xuất hiện ở nam nhiều hơn nữ, thường 
xảy ra sớm trong vòng 1 – 2 năm đầu sau ghép 
và có thể điều trị hiệu quả với thuốc ACEI 
hoặc ức chế AT1. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Augustine JJ, et al (2004), Comparative Effects of Sirolimus 
and Mycophenolate Mofetil on Erythropoiesis in Kidney 
Transplant, American Journal of Transplantation; 4: 2001–2006 
2. Basri N, et al (2007), Posttransplant erythrocytosis in renal 
transplant recipients at Jeddah Kidney Center, Kingdom of 
Saudi Arabia, Exp Clin Transplant, 5(1):607-9. 
3. Brox AG, et al (1998), Erythrocytosis after renal 
transplantation represents an abnormality of insulin like 
growth factor- I and its binding proteins. Transplantation, 66: p. 
1053. 
4. Einollahi B, Lessan-Pezeshki M, Nafar M, et al (2005), 
Erythrocytosis after renal transplantation: review of 101 cases, 
Transplant Proc, 37(7):3101-2. 
5. Friman S, Nyberg G, and Blohme I (1990), Erythrocytosis after 
renal transplantation, treatment by removal of the native 
kidneys. Nephrol Dial Transplant, 5: p. 969. 
6. Gaston RS, Julian BA, Curtis JJ (1994), Posttransplant 
Erythrocytosis: an enigma revisited, Am J Kidney Dis, 24, pp 1-
11. 
7. Ilan Y, et al (1994), Erythrocytosis after renal transplantation. 
The response to theophilline treatment. Transplantation, 57: p. 
661. 
8. Kasiske BL (2000), Cardiovascular disease after renal 
transplantation. Sem Nephrol, 2: p. 176. 
9. Kazory A, (2004), Post-transplant erythrocytosis and the 
thromboembolic events: an eror. Nephrol Dial Transplant, 19, 
pp 260. 
10. Kedzierska K, et al (2008), Influence of angiotensin I-
converting enzyme polymorphism on development of post-
transplant erythrocytosis in renal graft recipients. Clin 
Transplant, 22: p. 156. 
11. Kessler M, et al (1996), Factors predisposing to post-renal 
transplant erythrocytosis. A prospective matched - pair 
control study. Clin Nephrol, 45: p. 83. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Ngoại Khoa 16
12. Kiberd BA (2009), Post-transplant erythrocytosis: a 
disappearing phenomenon. Clin Transplant, 23: p. 800. 
13. Koziak K, et al (1995), Does erythropoietin production after 
kidney transplantation depend on the type of 
immunosuppression, Nephron, 71, pp. 236-237. 
14. Montanaro D, Groupuzzo M, Boscutti G, Risaliti A, Bresadola 
F, Mioni G (2000), Long-term therapy for postrenal transplant 
erythrocytosis with ACE inhibitors: efficacy, safety and action 
mechanisms, Clin Nephrol, 53(4):suppl 47-51. 
15. Mossuz P, et al (2004), Diagnostic value of serum 
erythropoietin level in patients with absolute erythrocytosis, 
Haematologica, 89, 1194-1198. 
16. Mustapić Z, Basić-Jukić N, Lovcić V, Kes P (2011), Post-
transplant erythrocytosis, Acta Med Croatica, 65(4):331-6. 
17. Perazella M, et al (1995), Enalapril treatment of post transplant 
erythrocytosis: Efficacy independent of circulating 
erythropoietin levels, Am J of Kidney Dis, 26, pp. 495-500. 
18. Saima Ahmed, et al (2012), Evaluation of contributing factors 
of post transplant erythrocytosis in renal transplant patients, J 
Pak Med Assoc, Vol 62 No 12, pp 1326- 1329. 
19. Stigant CE, et al (2000), ACE inhibitors and angiotensin II 
antagonists in renal transplantation: an analysis of safety and 
efficacy. Am J Kidney Dis, 35: p. 58. 
20. Vlahakos DV, et al (2003), Post-transplant erythrocytosis. 
Kidney Int, 63: p. 1187. 
21. Wickre CG, Bennison A, Berry JM, Bennet WM (1983), 
Postrenal transplant erythrocytosis: a review of 53 patients, 
Kidney Int, 23: p. 731. 
Ngày nhận bài báo: 24/11/2015 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2015 
Ngày bài báo được đăng: 15/02/2015