Chuyên đề Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và với các chỉ số kinh tế vĩ mô ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Tài liệu Chuyên đề Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và với các chỉ số kinh tế vĩ mô ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp: Báo cáo Chuyên đề nghiên cứu Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và với các chỉ số kinh tế vĩ mô ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp Hà Nội, tháng 10 năm 2011 Báo cáo Chuyên đề nghiên cứu Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và với các chỉ số kinh tế vĩ mô ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp ----------- Mục lục Giới thiệu Phần 1 Tổng quan về thâm hụt ngân sách và mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với một số biến số kinh tế vĩ mô .......................................................... 12 1. Một số vấn đề về thâm hụt ngân sách ...................................................... 12 1.1. Khái niệm thâm hụt ngân sách .............................................................. 12 1.2. Những yếu tố tác động đến thâm hụt ngân sách ................................... 14 1.3. Một số định nghĩa và cách tính thâm hụt ngân sách ............................. 16 1.4. Các phương thức xử lý thâm hụt ngân sách nhà nước......................... 20 2. Thâm hụt ngân sách và mối ...

doc119 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1140 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và với các chỉ số kinh tế vĩ mô ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo Chuyên đề nghiên cứu Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và với các chỉ số kinh tế vĩ mô ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp Hà Nội, tháng 10 năm 2011 Báo cáo Chuyên đề nghiên cứu Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và với các chỉ số kinh tế vĩ mô ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp ----------- Mục lục Giới thiệu Phần 1 Tổng quan về thâm hụt ngân sách và mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với một số biến số kinh tế vĩ mô .......................................................... 12 1. Một số vấn đề về thâm hụt ngân sách ...................................................... 12 1.1. Khái niệm thâm hụt ngân sách .............................................................. 12 1.2. Những yếu tố tác động đến thâm hụt ngân sách ................................... 14 1.3. Một số định nghĩa và cách tính thâm hụt ngân sách ............................. 16 1.4. Các phương thức xử lý thâm hụt ngân sách nhà nước......................... 20 2. Thâm hụt ngân sách và mối quan hệ với các biến số kinh tế vĩ mô ......... 22 2.1. Tổng quan ............................................................................................. 22 2.2. Mối quan hệ vĩ mô và các biến số kinh tế vĩ mô: Một số vấn đề về lý thuyết và kiểm định thực tiễn........................................................................ 23 Phần 2 Thâm hụt ngân sách nhà nước và mối quan hệ với các biến số kinh tế vĩ mô ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010.............................................................. 38 1. Thâm hụt ngân sách của Việt Nam 2001-2010 ........................................ 38 1.1. Quan niệm về thâm hụt ngân sách ở Việt Nam ..................................... 38 1.2. Thực trạng thâm hụt ngân sách ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010 ........ 40 2. Thâm hụt ngân sách và những vấn đề đặt ra đối với sự bền vững của ngân sách nhà nước ở Việt Nam.................................................................. 52 3. Thâm hụt ngân sách và sự biến động của các biến số kinh tế vĩ mô ở Việt Nam .............................................................................................................. 59 3.1. Quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với tăng trưởng kinh tế ................... 62 3.2. Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với lạm phát.............................. 66 3.3. Quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại ở Việt Nam72 3.4. Quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với lãi suất ...................................... 75 3.5. Quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và nợ công ở Việt Nam .................. 76 4. Sử dụng mô hình kinh tế lượng để kiểm định mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô ....................................................... 80 4.1. Thiết kế kịch bản ................................................................................... 80 4.2. Tác động của thâm hụt ngân sách đối với các biến số kinh tế vĩ mô..... 81 Phần 3 Một số khuyến nghị và đề xuất...................................................................... 87 1. Kinh nghiệm xử lý thâm hụt ngân sách nhà nước .................................... 87 1.1. Thâm hụt tài khóa thời kỳ hậu khủng hoảng.......................................... 88 1.2. Giải pháp xử lý thâm hụt ngân sách ở các nước................................... 90 2. Một số khuyến nghị và đề xuất ................................................................. 96 Kết luận.......................................................................................................... 106 Phụ lục MÔ HÌNH DỰ BÁO TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH TỚI CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ ..................................................................................... 109 Tài liệu tham khảo......................................................................................... 116 Danh mục bảng Bảng 1. Thâm hụt NSNN năm 2009 theo cách tính của Việt Nam và theo cách tính của thông lệ quốc tế .................................................................49 Bảng 2. Một số chỉ số thống kê miêu tả về tỷ lệ thâm hụt ngân sách của Việt Nam giai đoạn 2001-2010.................................................................50 Bảng 3. Xếp hạng cạnh tranh và cơ sở hạ tầng 2010-2011 ....................56 Bảng 4. Một số chỉ tiêu thống kê miêu tả của chuỗi số liệu về thâm hụt ngân sách, tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thâm hụt thương mại .............60 Bảng 5. Hệ số tương quan giữa thâm hụt ngân sách, tăng trưởng, lạm phát và thâm hụt thương mại ..................................................................62 Bảng 6. Tốc độ tăng trưởng GDP và thâm hụt ngân sách 1991-2010 ....63 Bảng 7. Hệ số tương quan giữa thâm hụt ngân sách với tăng trưởng... 65 Bảng 8. Hệ số tương quan giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát .........70 Bảng 9. Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam 2006-2010.......73 Bảng 10. Thâm hụt tài khóa toàn cầu giai đoạn 2008-2012 ....................88 Bảng 11. Dự báo về mức thâm hụt tài khóa OECD ở một số nước ........91 Bảng 12. Các biện pháp củng cố tài khóa ở một số quốc gia .................92 Danh mục hình vẽ Hình 1. Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ .............36 Hình 2. Quy mô tổng thu và chi ngân sách nhà nước và thâm hụt ngân sách ở Việt Nam 2001-2010 (% GDP danh nghĩa) ..................................41 Hình 3. Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam 1991-2010 ..............................44 Hình 4. Cán cân ngân sách thường xuyên 2001-2010 (% GDP).............46 Hình 5. Thâm hụt NSNN theo các cách tính khác nhau 2001-2010 (% GDP danh nghĩa) .....................................................................................51 Hình 6. Thu NSNN từ thuế TNDN và thuế GTGT của Việt Nam so với một số nước....................................................................................................54 Hình 7. So sánh về chỉ số công khai ngân sách của Việt Nam so một số quốc gia (tối đa 100 điểm)........................................................................57 Hình 8. Thâm hụt ngân sách, tăng trưởng GDP, thâm hụt thương mại và lạm phát 2001-2010 .................................................................................60 Hình 9. Tốc độ tăng trưởng GDP và thâm hụt NSNN ..............................63 Hình 10. Tương quan giữa tăng trưởng GDP và thâm hụt ngân sách ....65 Hình 11. So sánh tỷ lệ lạm phát của Việt Nam và một số nước (% thay đổi so với cùng kỳ năm trước) .......................................................................66 Hình 12. Tỷ lệ cung tiền (M2) so GDP của Việt Nam và một số nước trong khu vực Châu Á .......................................................................................68 Hình 13. Thâm hụt ngân sách và lạm phát ở Việt Nam 2001-2010 .........69 Hình 14. Diễn biến giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại ở Việt Nam .................................................................................................74 Hình 15. Thâm hụt ngân sách và lãi suất ở Việt Nam 2001-2010 ...........76 Hình 16. Mức dư nợ chính phủ và tỷ lệ nợ chính phủ so GDP của Việt Nam (nợ ròng)..........................................................................................77 Hình 17. Mức dư nợ chính phủ một số nước (% GDP danh nghĩa) ........78 Hình 18. Tác động của thâm hụt ngân sách đối với GDP (% so với kịch bản gốc) ...................................................................................................81 Hình 19. Tác động của thâm hụt ngân sách đối với lạm phát (% so với kịch bản gốc)............................................................................................82 Hình 20. Tác động của thâm hụt ngân sách đối với đầu tư (% so với kịch bản gốc) ...................................................................................................83 Hình 21. Tác động của thâm hụt ngân sách đối với xuất khẩu (% so với kịch bản gốc)............................................................................................84 Hình 22. Tác động của thâm hụt ngân sách đối với nhập khẩu (% so với kịch bản gốc)............................................................................................84 Hình 23. Tác động của thâm hụt ngân sách đối với thu ngân sách (% so với kịch bản gốc)......................................................................................85 Hình 24. Tác động của thâm hụt ngân sách đối với nợ chính phủ (% so với kịch bản gốc)......................................................................................86 Hình 25. Nợ công một số quốc gia năm 2010 .........................................90 Hình 26. Mức thuế suất thuế GTGT bình quân các quốc gia EU-27 .......93 Dự thảo xin ý kiến (tháng 10/2011) Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và với các chỉ số kinh tế vĩ mô ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp Giới thiệu Nghiên cứu về thâm hụt ngân sách cũng như mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và các chỉ số kinh tế vĩ mô đã thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà kinh tế cũng trong và ngoài nước. Thâm hụt ngân sách tác động đến kinh tế vĩ mô trên nhiều phương diện khác nhau, kể cả trực tiếp và gián tiếp. Về cơ bản, tác động của thâm hụt ngân sách đối với các chỉ số kinh tế vĩ mô được phản ánh thông qua hai kênh chính. Kênh thứ nhất là thông qua cách thức sử dụng nguồn thâm hụt và kênh thứ hai là thông qua hình thức bù đắp cho thâm hụt ngân sách. Theo kênh thứ nhất, thâm hụt ngân sách có thể tác động đến các biến số như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát, lãi suất, tỷ giá và thâm hụt thương mại. Theo kênh thứ hai, thâm hụt ngân sách sẽ tác động đến các vấn đề như lãi suất trên thị trường và tỷ giá, nợ công, trong đó có việc thâm hụt ngân sách kéo dài sẽ dẫn đến sự gia tăng về nợ công. Tuy nhiên, việc phân định theo hai kênh này cũng chỉ có ý nghĩa tương đối do các biến số kinh tế vĩ mô thường có quan hệ đan xen và tác động qua lại lẫn nhau, ví dụ trong một số trường hợp thâm hụt ngân sách có thể tác động đến lạm phát, lãi suất và tỷ giá trên trên thị trường thông qua cả hai kênh. Khảo sát sơ bộ các nghiên cứu nước ngoài cho thấy đã có nhiều bài báo, công trình khoa học đã thực hiện kiểm định, phân tích mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và các chỉ số kinh tế vĩ mô. Trong số đó, có rất nhiều các công trình nghiên cứu định lượng sử dụng dữ liệu của nhiều quốc gia khác nhau, bao gồm các nước phát triển và đang phát triển. Kết quả và các kết luận thu được từ các nghiên cứu này là khá đa dạng và không đồng nhất với nhau. Trong khi có những nghiên cứu đưa ra bằng chứng ủng hộ cho luận điểm thâm hụt ngân sách dẫn đến lạm phát và thâm hụt thương mại, song cũng có những nghiên cứu đưa ra bằng chứng cho sự hiện diện của các mối quan hệ ngược lại. Trên một phương diễn khác cũng có những nghiên cứu cho rằng giữa thâm hụt ngân sách và các biến số kinh tế vĩ mô khác không có mối quan hệ với nhau. Phân tích về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với các chỉ số kinh tế vĩ mô cũng đã được đề cập đến trong một số nghiên cứu trong nước. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu này chỉ mới dừng lại ở việc phân tích các vấn đề đơn lẻ, ví dụ như giữa thâm hụt ngân sách với tăng truởng, giữa thâm hụt ngân sách với lạm phát. Mặt khác phương pháp tiếp cận của các này chủ yếu là định tính, chưa có nhiều nghiên cứu sử dụng đồng thời cả phân tích định tính và định lượng. Xuất phát từ tình hình trên, việc thực hiện nghiên cứu này kỳ vọng sẽ làm rõ thêm những vấn đề liên quan đến thực trạng thâm hụt ngân sách cũng như mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với các chỉ số kinh tế vĩ mô trong trường hợp của Việt Nam. Theo đó, các mục tiêu của nghiên cứu này được xác định là: (1) Cung cấp một bức tranh phân tích cụ thể về những vấn đề liên quan đến thâm hụt ngân sách ở Việt Nam hiện nay (như mức độ thâm hụt, cách tính thâm hụt của Việt Nam so với thông lệ quốc tế, bù đắp cho thâm hụt ngân sách...); (2) Bổ sung thêm vào thực tiễn nghiên cứu các phân tích về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với một số chỉ số kinh tế vĩ mô trên các giác độ lý thuyết và thực tiễn; (3) Thực hiện đánh giá mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với các biến số kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, đồng thời mô phỏng tác động của thâm hụt ngân sách tới một số chỉ số kinh tế vĩ mô thông qua mô hình kinh tế lượng; (4) Đưa ra một số khuyến nghị chính sách, nhất là trong vấn đề đảm bảo sự bền vững tài khóa và ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong thời gian tới. Để đạt được các mục tiêu nói trên, nghiên cứu được kết cấu gồm 3 phần. Cụ thể như sau: Phần thứ nhất sẽ khái quát tổng quan về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với các chỉ số kinh tế vĩ mô, trong đó bao gồm: những vấn đề chung về thâm hụt ngân sách; khái quát các nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với các chỉ số kinh tế vĩ mô dưới cả giác độ mô hình lý thuyết cũng như kiểm định thực tiễn. Để tránh trùng lặp với các nghiên cứu gần đây về thâm hụt ngân sách, các vấn đề như khái niệm, phương pháp và quan điểm về thâm hụt ngân sách trong phạm vi của nghiên cứu này được trình bày một cách khái quát nhất1. Phần thứ hai sẽ phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra từ thực tế thâm hụt ngân sách ở Việt Nam thời gian qua và mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với các biến số kinh tế vĩ mô. Phần thứ ba sẽ đưa ra một số khuyến nghị cũng như kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc xử lý vấn đề thâm hụt ngân sách với mục tiêu chung nhất là hướng tới việc đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao tính “bền vững tài khóa” trong trung và dài hạn ở Việt Nam. Tuy nhiên, phân tích về thâm hụt ngân sách cũng như tác động của thâm hụt ngân sách là vấn đề phức tạp. Thâm hụt ngân sách có mối quan hệ đan xen với nhiều biến số kinh tế vĩ mô khác nhau. Bên cạnh đó, do thực hiện trong bối cảnh của Việt Nam, việc tiếp cận các nguồn thông tin, dữ liệu cần thiết cũng đã gặp phải một số khó khăn nhất định. Theo đó, chuyên đề nghiên cứu này chắc chắn vẫn còn một số hạn chế. Tập thể các tác giả mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các nhà quản lý, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện nội dung của chương trình nghiên cứu. Nhân đây, Nhóm nghiên cứu xin cảm ơn Ban giám đốc Dự án quốc gia về "Tăng cường năng lực quyết định và giám sát ngân sách nhà nước của các cơ quan dân cử Việt Nam" của UNDP và các chuyên gia đã tham gia nhiều ý kiến quý báu trong quá trình nghiên cứu và xây dựng báo cáo tổng hợp chuyên đề này. 1 Về những nội dung này xin tham khảo nghiên cứu “Thâm hụt ngân sách nhà nước: Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam” năm 2010 trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường năng lực quyết định và giám sát ngân sách của các cơ quan dân cử ở Việt Nam” do UNDP tài trợ. Phần 1 Tổng quan về thâm hụt ngân sách và mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với một số biến số kinh tế vĩ mô 1. Một số vấn đề về thâm hụt ngân sách 1.1. Khái niệm thâm hụt ngân sách Xuất phát từ quan điểm về quản lý ngân sách giữa các quốc gia và các tổ chức, có nhiều quan niệm khác nhau về thâm hụt ngân sách. Hiểu một cách cơ bản nhất, thâm hụt ngân sách là tình trạng tổng chi ngân sách nhà nước mà chính phủ phải thực hiện lớn hơn các khoản thu mà chính phủ thu được tính trong một năm tài chính. Ở phạm vi rộng hơn, thâm hụt ngân sách là hiện tượng ngân sách nhà nước không cân đối được (thể hiện ở chênh lệch giữa cung và cầu về nguồn lực tài chính của Nhà nước). Việc tính toán mức thâm hụt ngân sách ở mỗi quốc gia thường có sự khác biệt do cách thức xác định phạm vi thu, chi ngân sách có sự không đồng nhất. Theo Cẩm nang Thống kê tài chính chính phủ (GFS) do Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) ban hành2, khái niệm thu và chi ngân sách có thể được khái quát như sau: 2 Cẩm nang Thống kê tài chính chính phủ (GFS) của IMF đã được khá nhiều nước trên thế giới áp dụng. - Thu ngân sách là các khoản thu vào quỹ ngân sách mà không kèm theo, không làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả trực tiếp cho các đối tượng có nghĩa vụ phải nộp ngân sách. Thu ngân sách nhà nước bao gồm: các khoản thu thuế, phí và các khoản thu khác (kể cả viện trợ không hoàn lại), không bao gồm các khoản vay trong và ngoài nước. Trên phương diện khác, thu ngân sách nhà nước là những khoản thu mang tính chất cưỡng bức hay là trách nhiệm của mọi người hoặc của của thành phần kinh tế đối với nhà nước. - Chi ngân sách là các khoản chi ra từ ngân sách không làm phát sinh nghĩa vụ phải bồi hoàn trực tiếp đối với các đối tượng được thụ hưởng ngân sách, đó chính là toàn bộ khoản thực chi ngân sách theo luật định trong 1 năm tài khóa (tài chính). Chi ngân sách nhà nước bao gồm chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, các khoản chi khác, chi trả lãi vay nhưng không bao gồm chi trả nợ gốc tiền vay. Lý do chi trả nợ gốc không nên đưa vào trong chi ngân sách được phân tích trong phần dưới đây khi đề cập đến thực trạng thâm hụt ngân sách ở Việt Nam. Cũng theo Cẩm nang Thống kê tài chính của chính phủ, thâm hụt ngân sách (hay bội chi ngân sách) được xác định bằng chênh lệch giữa chi ngân sách và thu ngân sách. Ở đây sự khác biệt giữa các quốc gia chính là phạm vi các khoản thu và chi ngân sách được đưa vào trong cân đối ngân sách. Việc xác định phạm vi các khoản thu, chi ngân sách khác nhau sẽ đem đến các kết quả khác nhau về mức thâm hụt ngân sách. Khái niệm và các cách tính thâm hụt ngân sách theo các tiêu chí khác nhau được trình bày cụ thể trong phần sau. Lý thuyết kinh tế vĩ mô cũng như nhiều công trình nghiên cứu kiểm định thực chứng đã cho thấy thâm hụt ngân sách có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến các biến số kinh tế vĩ mô theo các cách thức khác nhau. Mức độ và cách thức tác động lại chịu sự chi phối của tỷ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt cũng như phương thức tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Trong đó, vấn đề thường nhận được sự đồng thuận chung là thâm hụt ngân sách cao và kéo dài sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, có nguy cơ gây bất ổn kinh tế vĩ mô, nhất là đối với các nước đang phát triển. Hiện nay, để đảm bảo được sự ổn định về kinh tế vĩ mô nhiều nước đã đưa ra các giới hạn trần về thâm hụt ngân sách và xem đây như là một yêu cầu cần thiết để đảm bảo kỷ luật tài khóa tổng thể trong trung và dài hạn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp mức độ thâm hụt ngân sách không phải là vấn đề quan trọng mà thay vào đó là hiệu quả của việc phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính có được từ việc chấp nhận thâm hụt ngân sách mới là vấn đề cần lưu tâm nhất. 1.2. Những yếu tố tác động đến thâm hụt ngân sách Tình trạng thâm hụt ngân sách của mỗi quốc gia chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó những yếu tố cơ bản là: Thứ nhất, do tác động của chu kỳ kinh doanh, trong thời kỳ khủng hoảng hay suy giảm kinh tế sẽ làm cho thu nhập của quốc gia bị thu hẹp lại, đồng thời nhu cầu chi tiêu tăng lên để đáp ứng những khó khăn về kinh tế xã hội, từ đó dẫn đến thâm hụt ngân sách tăng. Ngược lại, ở giai đoạn nền kinh tế tăng trưởng nhanh, thu ngân sách tăng cao trong khi đó các khoản chi liên quan đến an sinh xã hội như bảo hiểm thất nghiệp và hỗ trợ cho người nghèo có xu hướng giảm xuống nên cán cân tài khóa của chính phủ được cải thiện, hay nói cách khác thâm hụt ngân sách sẽ giảm xuống. Thứ hai, thâm hụt ngân sách chịu tác động của hệ thống chính sách cũng như các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ. Chi ngân sách (và thâm hụt ngân sách) là một trong những công cụ chính sách quan trọng của nhà nước nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế- xã hội trong từng giai đoạn phát triển khác nhau. Ví dụ, khi sản lượng của nền kinh tế ở mức thấp dưới mức sản lượng tiềm năng, chính phủ có thể tăng mức chi ngân sách, chấp nhận có thâm hụt ngân sách để tăng tổng cầu, qua đó thúc đẩy sự mở rộng của nền kinh tế. Thâm hụt ngân sách thường xảy ra với các nước đang phát triển do nhu cầu đầu tư xã hội là rất lớn, nhất là đầu tư về phát triển hạ tầng kinh tế xã hôi. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Ở Việt Nam, trong một số năm kinh tế tăng trưởng nhanh, thu ngân sách tăng cao song Chính phủ vẫn chấp nhận thâm hụt ngân sách để có thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hôi. Đối với các nước phát triển, chi ngân sách được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô, khi kinh tế suy thoái và tổng cầu giảm thì chính phủ thường tăng chi tiêu để kích cầu tiêu dùng, đầu tư và ngược lại khi kinh tế phát triển nóng, chính phủ có thể cắt giảm chi tiêu, giảm thâm hụt để đưa nền kinh tế trở về mức sản lượng tiềm năng. Đây cũng là lý do làm cho thâm hụt ngân sách không chỉ phổ biến ở các nước đang phát triển mà còn ở các nước phát triển. Thứ ba, những vấn đề về thiên tai, dịch bệnh, tình hình chính trị bất ổn cũng có thể tác động làm tăng chi ngân sách, qua đó gây ra thâm hụt ngân sách nhà nước. Việc quản lý và điều hành ngân sách không hiệu quả, chi tiêu ngân sách lãng phí cũng là tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến mức thâm hụt ngân sách. Thứ tư, các nhân tố tác động đến mức thâm hụt ngân sách cũng cần phải kể đến đó là các nhân tố kỹ thuật chuyên môn (phân loại, mục lục, phương pháp cân đối, thời điểm ghi nhận thu chi ngân sách, phương pháp kế toán…). Theo đó, có nhiều trường hợp thâm hụt thấp hay giảm không phải xuất phát từ sự cải thiện về tình hình kinh tế vĩ mô và tài khóa của chính phủ mà do sự phản ánh sai lệch về quy mô thu và chi ngân sách của chính phủ hay là do chi ngân sách thiếu minh bạch hay là áp dụng phương pháp tính thâm hụt không phù hợp. Trường hợp Hy Lạp là một ví dụ điển hình về “che giấu” thông tin chi ngân sách để có mức thâm hụt ngân sách thấp khi nước này muốn đáp ứng các yêu cầu nhằm gia nhập EU3. 1.3. Một số định nghĩa và cách tính thâm hụt ngân sách Thâm hụt ngân sách có thể được tiếp cận và định nghĩa dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau. Việc sử dụng thước đo “thâm hụt” nào để phản ánh được tình hình tài khóa của chính phủ phụ thuộc vào mục tiêu của việc phân tích và điều hành chính sách tài khóa, ngân sách của mỗi nước trong từng giai đoạn. Thông thường để phán ánh được chính xác thực trạng bức tranh tài khóa của chính phủ đòi hỏi cần phải sử dụng đồng thời nhiều thước đo thâm hụt ngân sách khác nhau. Mỗi thước đo sẽ phản ánh một số khía cạnh nhất định về thực trạng bức tranh tài khóa của chính phủ. Phần dưới đây chỉ khái quát một số thước đo (chỉ số) thâm hụt ngân sách được sử dụng rộng rãi trên thực tế cho mục tiêu phân tích, đánh giá và điều hành chính sách tài khóa. Đó là: a) Thâm hụt ngân sách tổng thể Trong các thước đo về thâm hụt, thâm hụt tổng thể (thặng dư tổng thể) vẫn là thước đo được sử dụng nhiều nhất. Đây cũng là thước đo mà IMF khuyến nghị các quốc gia sử dụng để xác định tình trạng mất cân đối tài 3 Để đáp ứng được yêu cầu khi gia nhập EU năm 2001 là thâm hụt ngân sách không được quá 3% GDP, dư nợ công không vượt quá 60% GDP, Hy Lạp đã từng thực hiện nhiều thủ thuật che giấu thực trạng tài chính. Ví dụ, năm 2000, Hy Lạp báo cáo chi 828 triệu Euro cho quân sự, nhưng trên thực tế số tiền chi cho quốc phòng là 3,17 tỷ Euro, cao hơn gần 4 lần (Nguồn: Báo Nhân dân ngày 24/3/2010 trong bài “EU nỗ lực trợ giúp Hy Lạp”. khóa. Theo chuẩn mực do IMF đưa ra trong Cẩm nang Thống kê tài chính của chính phủ (GFS), thâm hụt ngân sách được xác định bằng chênh lệch giữa chi ngân sách và thu ngân sách của một thời kỳ nhất định, thông thường là một năm ngân sách. Thâm hụt ngân sách tổng thể xảy ra khi trường hợp thu ngân sách nhỏ hơn chi ngân sách và trong trường hợp ngược lại là thặng dư ngân sách: Thâm hụt (thăng dư) ngân sách = Tổng thu ngân sách – Tổng chi ngân sách Theo định nghĩa về thu ngân sách trình của GFS, thu ngân sách bao gồm các khoản thu vào quỹ ngân sách mà khoản thu đó không phát sinh, không tạo ra và không kèm theo nghĩa vụ hoàn trả trực tiếp, vì thế thu từ nguồn vay nợ không được xếp là một nguồn thu ngân sách. Cũng theo GFS chi ngân sách không bao gồm khoản chi trả nợ gốc mà chỉ bao gồm khoản lãi vay phải trả từ số tiền mà chính phủ vay. Chi trả lãi tiền vay được xếp vào chi ngân sách nhà nước vì đây là hệ quả của việc điều hành chính sách ngân sách có thâm hụt. Việc không đưa khoản vay nằm trong thu ngân sách và chi trả nợ gốc nằm trong chi ngân sách phản ánh đúng bản chất của thu, chi ngân sách của nhà nước như phân tích ở trên. Các thức tính thâm hụt ngân sách mà Việt Nam đang áp dụng hiện nay có thể được xem là một hình thái của “thâm hụt ngân sách tổng thể”. Tuy nhiên, có điểm khác biệt là Việt Nam đang tính chi trả nợ gốc vào chi ngân sách, nhưng lại có một số khoản chi lại được để ngoài không đưa vào cân đối ngân sách chung (ví dụ, chi từ nguồn trái phiếu chính phủ, các khoản vay về cho vay lại). Phân tích chi tiết về cách tính và thực trạng thâm hụt ngân sách ở Việt Nam hiện nay được trình bày trong Phần 2 dưới đây của nghiên cứu này. b) Thâm hụt ngân sách thường xuyên (Current deficit) Thâm hụt ngân sách thường xuyên là chênh lệch giữa thu thường xuyên và chi thường xuyên của NSNN và xảy ra khi chi thường xuyên lớn hơn chi thường xuyên. Trường hợp thu thường xuyên lớn hơn chi thường xuyên thì sẽ có thặng dư ngân sách thường xuyên và ngược lại. “Cán cân thường xuyên” là thước đo phản ánh sự tích lũy của chính phủ cho nhu cầu đầu tư phát triển đất nước. Nếu một quốc gia có thặng dư ngân sách thường xuyên thì có nghĩa là quốc gia đó đang có tiết kiệm để sử dụng cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, trong xác định cán cân ngân sách thường xuyên thì vấn đề quan trọng nhất là xác định được khoản thu nào được hiểu và nên được xem là thu “thường xuyên”. Theo thông lệ quốc tế, thu thường xuyên là các khoản thu ngân sách từ thuế, phí, lệ phí không mang tính chất “một lần” và “không tái tạo”. Theo đó, các khoản thu như thu từ bán tài sản sẽ không được tính vào các khoản thu thường xuyên. Một số quốc gia còn xem các khoản thu từ bán tài nguyên cũng là các khoản thu không thường xuyên. Chi thường xuyên thường bao gồm tất cả các khoản chi của NSNN (bao gồm cả chi trả lãi tiền vay) trừ chi đầu tư phát triển và chi viện trợ. Việc sử dụng khái niệm thâm hụt (thặng dư) ngân sách thường xuyên sẽ rất có ý nghĩa trong việc phân tích tính bền vững của tình hình tài khóa. Một quốc gia có thâm hụt ngân sách thường xuyên sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ bất ổn về tài khóa. Việc cắt giảm các khoản chi thường xuyên để giảm thâm hụt ngân sách bao giờ cũng là vấn đề rất nhạy cảm và dễ gây ra những phản ứng tiêu cực từ người dân. Thông thường khi đối mặt với thâm hụt ngân sách kéo dài, giải pháp giảm chi thường xuyên thường là giải pháp được chính phủ sử dụng sau cùng khi không gian sử dụng các giải pháp không còn, ví dụ như không thể tăng thuế lên mức cao hơn. c) Thâm hụt ngân sách cơ sở (Primary fiscal deficit)4 Thâm hụt ngân sách cơ sở được xác định bởi thâm hụt ngân sách tổng thể trừ đi phần chi trả lãi tiền vay. Việc sử dụng thước đo này sẽ cung cấp được các thông tin sát hơn về tác động của việc điều hành chính sách trong năm của Chính phủ. Việc trả lãi tiền vay là việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính cho các quyết định vay nợ được thực hiện trong quá khứ, nhìn chung không gắn với chính sách mà chính phủ thực hiện trong năm tài khóa (trừ khi thực hiện đối với các khoản vay trong năm). Đối với những quốc gia có tỷ trọng chi trả lãi tiền vay lớn (thường là những quốc gia có mức dự nợ chính phủ cao) thì việc phân định giữa thâm hụt ngân sách tổng thể và thâm hụt ngân sách cơ sở là rất quan trọng, tách bạch được những biến động bất thường trong việc tăng nghĩa vụ trả nợ (do biến động tỷ giá đối với vay nợ nước ngoài hoặc lãi suất đối với trường hợp theo lãi suất thả nổi). Cùng với các khái niệm về thâm hụt ngân sách nói trên, việc sử dụng khái niệm ngân sách cơ sở sẽ cho các nhà hoạch định chính xác bức tranh đầy đủ hơn về tác động của chính sách tài khóa trong năm5. Thực tế có thể có trường hợp khi mà cán cân ngân sách tổng thể thâm hụt cao song cũng không đồng nghĩa với việc chính phủ đã thực hiện chính sách tài khóa mở rộng nếu như trong năm xuất hiện sự gia tăng đáng kể về nghĩa vụ trả lãi tiền vay xuất phát từ các biến động kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đến nghĩa vụ nợ như phân tích ở trên (ví dụ do tỷ giá tăng, lãi suất vay nợ tăng). Trong ba tiêu thức xác định cán cân tài khóa nói trên thì hiện nay ở Việt Nam mới chỉ sử dụng thước đo thâm hụt ngân sách tổng thể. Song như phân tích trong phần dưới đây, tiêu thức và cách thức tính thâm hụt ngân 4 Một số tài liệu sử dụng khái niệm thâm hụt ngân sách cơ bản. 5 Tương tự như trong điều hành chính sách tiền tệ, kinh nghiệm của các nước cũng cho thấy bên cạnh chỉ số lạm phát theo giá tiêu dùng, ngân hàng Trung ương cũng cần phải theo dõi lạm phát cơ bản (loại trừ những yếu tố có biến động bất thường...). sách ở Việt Nam cũng còn có những điểm chưa phù hợp với thông lệ và thực hành quốc tế chung. 1.4. Các phương thức xử lý thâm hụt ngân sách nhà nước Khi có thâm hụt ngân sách, chính phủ có thể sử dụng một hay kết hợp đồng thời nhiều phương thức để huy động nguồn lực để bù đắp. Phương thức thứ nhất là phát hành tiền nhằm bù đắp. Để bù đắp thiếu hụt ngân sách, một số quốc gia đã lựa chọn giải pháp phát hành thêm tiền vào lưu thông. Đây là biện pháp giúp chính phủ có thể huy động kịp thời nguồn vốn để cân đối ngân sách mà không làm gia tăng nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, bằng việc in tiền, nhà nước đã làm giảm giá trị (sức mua) của lượng tiền đang lưu thông. Trên phương diện nay có thể thấy một cách gián tiếp nhà nước đã đánh thuế lên những người nắm giữ tiền mặt hay còn gọi là “thuế lạm phát”. Nếu nhà nước phát hành tiền để bù đắp thâm hụt có thể gây lạm phát và gây tác động xấu đến nền kinh tế. Trường hợp của Ác-hen-tina, Bô-lô-via và Brazil trong việc xử lý thâm hụt ngân sách những năm cuối thập niên 1980 là ví dụ điển hình cho trường hợp này. Do vậy, ngày nay hầu hết các nước trên thế giới rất ít sử dụng biện pháp phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách do nguy cơ dẫn đến lạm phát cao và những tác động xấu của nó đến nền kinh tế. Ở Việt Nam, theo Luật Ngân sách nhà nước hiện hành, thâm hụt NSNN được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và vay ngoài nước. Như vậy, có thể thấy kể từ khi có Luật Ngân sách nhà nước, việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách như trong một số năm đầu của thập niên 1990 đã chấm dứt. Phương thức thứ hai là chính phủ đi vay nợ để bù đắp cho thâm hụt ngân sách. Đây là giải pháp thường được các quốc gia trên thế giới sử dụng. Có hai hình thức vay nợ được sử dụng là vay nợ trong nước và vay nợ nước ngoài. Vay nợ trong nước là hình thức nhà nước huy động nguồn vốn rong dân thông qua phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường tài chính trong nước. So với vay nước ngoài, vay nợ trong nước là biện pháp dễ triển khai hơn và tránh được tình trạng lệ thuộc vào bên ngoài. Tuy nhiên, nguồn lực để cho chính phủ vay nợ trong nước bị giới hạn bởi nguồn lực tiết kiệm của khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, việc vay nợ trong nước quá nhiều sẽ làm tăng lãi suất của thị trường trong nước do nhu cầu huy động vốn trên thị trưởng tăng. Lãi suất tăng sẽ có xu hướng “lấn át” và làm giảm đầu tư của khu vực tư nhân, hay nói cách khác sẽ dẫn đến “hiệu ứng thoái lùi đầu tư” (crowing- out effect) của khu vực kinh tế tư nhân. Việc huy động vốn bằng ngoại tệ trong nước để tài trợ cho các khoản chi bằng ngoại tệ còn gây áp lực lên tỷ giá và khả năng cân đối ngoại tệ của ngân hàng trung ương. Vay nợ nước ngoài có thể được thực hiện thông qua vay hỗ trợ phát triển chính thức hay phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường tài chính nước ngoài. Việc sử dụng một phần vốn vay nước ngoài để tài trợ thâm hụt ngân sách có thể làm giảm bớt căng thẳng trên thị trường tín dụng trong nước, qua đó hạn chế được tình trạng “lấn át” hay “chèn lấn” đầu tư đối với khu vực tư nhân. Tuy nhiên, việc vay nợ nước ngoài quá nhiều sẽ phải chịu nhiều ràng buộc cũng như áp đặt về điều kiện của các chủ thể cho vay, đặc biệt là vấn đề về rủi ro tỷ giá nếu như những rủi ro này không được “phòng ngừa” kịp thời. Một ví dụ điển hình cho trường hợp nói trên là Hy Lạp trong thời gian gần đây. Việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn tài trợ nước ngoài đã làm cho nền kinh tế nước này trở nên dễ bị tổn thương trước những thay đổi trong niềm tin của nhà đầu tư khi có sự hoài nghi về sự ổn định kinh tế vĩ mô. Hiện nay, không chỉ Hy Lạp rơi vào tình trạng trên mà một số quốc gia châu Âu khác như Tây Ban nha, Bồ Đào Nha, Ireland… cũng lâm vào tình cảnh tương tự. Do đó, có thể nói bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước bằng hình thức vay nợ trong nước hay ngoài nước đều có thể gây ra những tác động bất lợi đối với tình kình kinh tế vĩ mô. Một phương thức bù đắp thâm hụt khác là thông qua vay từ nguồn dự trữ ngoại tệ. Tuy nhiên, việc sử dụng phương thức này cũng rất hạn chế và có nhiều nhược điểm, đó là ảnh hưởng đến khả năng can thiệp của ngân hàng nhà nước khi có rủi ro về tỷ giá, nhất là đối với nước có mức dự trữ thấp (trong một số trường hợp chính phủ có thể vay nước ngoài để bù đắp thiếu hụt tạm thời về dự trữ ngoại hối). 2. Thâm hụt ngân sách và mối quan hệ với các biến số kinh tế vĩ mô 2.1. Tổng quan Tác động của thâm hụt ngân sách lên các biến số kinh tế vĩ mô luôn là một chủ đề gây tranh luận trong nhiều thập kỷ qua và chiếm một vị trí nổi bật trong các nghiên cứu của các học giả trên thế giới. Như phân tích ở trên, tác động của thâm hụt ngân sách đối với các chỉ số kinh tế vĩ mô được phản ánh thông qua: việc sử dụng nguồn thâm hụt và việc tài trợ cho thâm hụt. Một câu hỏi luôn được đặt ra trong các nghiên cứu là thâm hụt ngân sách có thực sự gây bất lợi cho nền kinh tế hay không. Khảo sát sơ bộ các nghiên cứu nước ngoài cho thấy đã có nhiều bài báo, công trình khoa học đã thực hiện phân tích mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và các chỉ số kinh tế vĩ mô, trong đó có rất nhiều các công trình nghiên cứu định lượng sử dụng dữ liệu của nhiều quốc gia khác nhau, bao gồm các nước phát triển và đang phát triển (ví dụ như nghiên cứu của Catão & Terrones, 2001; Solomon và Wet, 2004; Keho, 2010; Rosa, 2011). Các phương pháp tiếp cận của những nghiên cứu này cũng là rất khác nhau (ví dụ, có nghiên cứu sử dụng mô hình chuỗi thời gian hay kiểm định nhân quả Granger hay là những nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy đa biến với dữ liệu chéo của nhiều quốc gia...). Kết quả và các kết luận từ các nghiên cứu này về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với các chỉ số kinh tế vĩ mô là khá đa dạng và các kết luận đúc rút được từ các nghiên cứu này cũng rất khác nhau (Saleh, 2003). Ví dụ, trong khi có những nghiên cứu đưa ra bằng chứng ủng hộ cho quan điểm lý thuyết như thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến lạm phát và thâm hụt thương mại, song cũng có nghiên cứu đưa ra bằng chứng cho sự hiện diện của các mối quan hệ theo chiều ngược lại. Đồng thời, cũng có nghiên cứu cho rằng giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế không có mối quan hệ với nhau. Phần dưới đây sẽ khái quát một số vấn đề liên quan đến tác động của thâm hụt ngân sách tới một số biến số kinh tế vĩ mô. Cụ thể là mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thâm hụt thương mại, lãi suất và nợ công6. 2.2. Mối quan hệ vĩ mô và các biến số kinh tế vĩ mô: Một số vấn đề về lý thuyết và kiểm định thực tiễn 2.2.1. Thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế là một vấn đề được nghiên cứu khá rộng rãi trên cả phương diện lý thuyết và kiểm định thực nghiệm. Liên quan đến mối quan hệ này, các quan điểm của các trường phái kinh tế khác nhau cũng rất khác nhau. Trường phái tân cổ điển cho rằng tăng thâm hụt hiện tại sẽ kéo theo sự gia tăng về gánh nặng thuế trong tương lai. Theo đó, người tiêu dùng sẽ có xu hướng tăng tiêu dùng tại thời điểm hiện tại. Do đó, trong trường hợp 6 Nghiên cứu này không đề cập đến mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách đối với tỷ giá. này, tiết kiệm quốc gia sẽ giảm xuống. Khi tiết kiệm quốc gia giảm, lãi suất trên thị trường sẽ tăng và lãi suất tăng sẽ làm giảm đầu tư, qua đó tạo ra hiện tượng thoái lui đầu tư (crowding out). Vì thế, trường phái này cho rằng tăng thâm hụt ngân sách sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Trường phái này còn cho rằng nếu như việc tài trợ thâm hụt ngân sách thông vay nợ trong nước sẽ gây áp lực làm tăng lãi suất trong nền kinh tế, do vậy sẽ làm giảm đầu tư của khu vực tư nhân. Theo đó, tăng thâm hụt ngân sách có thể dẫn đến tăng giá và giảm sản lượng sản xuất trong nền kinh tế. Một giải thích khác là khi chính phủ vay nợ trên thị trường trong nước, lãi suất sẽ bị đẩy lên và khi mặt bằng lãi suất bị đẩy lên, khu vực tư nhân sẽ giảm nhu cầu huy động vốn của mình, theo đó sẽ hạn chế đến sự mở rộng sản xuất của khu vực tư nhân. Hay nói cách khác, sự gia tăng về cầu của chính phủ thông qua tăng chi tiêu (tăng thâm hụt ngân sách) đã “chèn lấn” cầu khu vục tư nhân (Saleh, 2003). Trong khi đó, trường phái Keynes lại cho rằng tăng thâm hụt ngân sách sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Khi chính phủ tăng chi ngân sách từ nguồn thâm hụt thì tổng cầu của nền kinh tế sẽ tăng lên, làm cho các nhà đầu tư tư nhân trở nên lạc quan hơn về triển vọng kinh tế và sẽ quan tâm hơn đến việc tăng đầu tư. Trong trường hợp khác, nếu chính phủ chấp nhận thâm hụt thông qua việc giảm thuế thì thu nhập khả dụng của khu vực hộ gia đình cũng tăng lên. Theo đó, người dân sẽ tăng chi tiêu. Tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng lên. Trường phái Keynes lập luận rằng mặc dù tăng thâm hụt ngân sách có thể tăng lãi suất song vẫn có thể tăng được mức tiết kiệm và đầu tư, qua đó tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các nhà kinh tế theo trường phái này cũng cho rằng tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế chỉ có ý nghĩa trong ngắn hạn. Hơn nữa, việc sử dụng thâm hụt ngân sách để kích thích tăng trưởng chỉ có thể mang lại hiệu quả trong bối cảnh tổng cầu sụt giảm (ví dụ như trường hợp xảy ra suy thoái). Khi mà nền kinh tế đang hoạt động ở mức toàn dụng nhân công (không có dư thừa về các yếu tố sản xuất), việc tăng thâm hụt ngân sách không những không có tác động đến tổng cầu mà còn có nguy cơ đưa nền kinh tế trước những rủi ro mới, trong đó đáng kể nhất sẽ là sự gia tăng về sức ép lạm phát. Khác với hai trường phái nói trên, quan điểm của trường phái Ricardo cho rằng, thâm hụt ngân sách không tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô cả trong ngắn hạn và dài hạn. Theo trường phái này ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách và thuế đối với tiêu dùng là tương đương nhau. Việc tăng thâm hụt ngân sách do giảm thuế ở thời điểm hiện tại sẽ phải trả giá bằng việc tăng thuế trong tương lai, bao gồm cả trả lãi cho khoản vay. Do vậy thâm hụt ngân sách dẫn đến vay nợ trong hiện tại sẽ đồng nghĩa với việc tăng thuế trong tương lai. Với hàm ý này, người tiêu dùng trong thời điểm hiện tại sẽ tiết kiệm một khoản cần thiết để trả cho tương lai. Nói cách khác, người tiêu dùng thường dự đoán tương lai, quyết định tiêu dùng của họ không chỉ dựa vào thu nhập hiện tại mà còn dựa vào thu nhập kỳ vọng trong tương lai. Theo trường phái Ricardo, thâm hụt ngân sách sẽ không có tác động đến tiết kiệm và đầu tư. Theo họ khi thâm hụt ngân sách tăng do giảm thuế thì thu nhập khả dụng của người dân tăng lên, hơn nữa người dân ý thức được cắt giảm thuế trong hiện tại sẽ dẫn đến tăng thuế trong tương lai, do vậy họ sẽ tiết kiệm nhiều hơn. Trong khi đó, thâm hụt ngân sách làm cho tiết kiệm của khu vực nhà nước giảm xuống. Theo đó, tiết kiệm quốc gia được hiểu là tổng của tiết kiệm tư nhân và tiết kiệm của nhà nước sẽ không đổi. Do vậy, thâm hụt ngân sách sẽ không tác động đến tiết kiệm, đầu tư, tăng trưởng (và cả lạm phát) như lập luận của các trường phái nói trên (Saleh, 2003). Tương tự như các trường phái lý thuyết nói trên, các nghiên cứu kiểm chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng cũng đưa ra nhiều kết quả không đồng nhất. Ví dụ, Keho (2010) sử dụng mô hình VAR trong nghiên cứu mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế đối với 7 nước trong Liên minh Kinh tế tiền tệ Tây Phi8 trên chuỗi số liệu trong giai đoạn 1980-2005 đã cho các kết quả trái ngược nhau. Cụ thể, trong 7 nước nghiên cứu có 3 nước gồm Côte d‟Ivoire, Senegal và Tôgô không tìm thấy bất kì mối liên hệ nào giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng. Trong khi đó, trong trường hợp Niger có tồn tại mối quan hệ tác động một chiều từ thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng và đối với ba nước còn lại thì giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng có mối quan hệ hai chiều, tác động qua lại. Tác giả Đỗ Ngọc Huỳnh (2007) sau khi phân tích dự liệu của các nước đang phát triển Châu Á9 trong giai đoạn 1990-2006 đã đưa ra lập luận cho rằng thâm hụt ngân sách càng thấp thì tỷ lệ tăng trưởng càng cao. Trong nước, ứng dụng mô hình chuỗi thời gian (mô hình VAR) để phân tích về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2010, tác giả Nguyễn Thị Thanh Thảo (2010) cho rằng quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế là cùng chiều trong các năm từ 2001-2007 và có quan hệ ngược chiều trong các năm 2008-2010. 2.2.2. Thâm hụt ngân sách và lạm phát Lạm phát là hiện tượng tăng mức giá chung. Việc tăng giá một số mặt hàng không ảnh hưởng đáng kể đến mức giá chung thì không được xem là hiện tượng lạm phát. Lạm phát thường có có tác động tiêu cực đến nền kinh tế nên tốc độ lạm phát được cho là càng thấp càng tốt. Xét về nguyên nhân, lạm phát có thể xuất phát từ các nguyên nhân sau: 8 Bảy quốc gia trong Liên minh kinh tế tiền tệ Tây Phi bao gồm: Benin, Burkina Faso, Côte d‟Ivoire, Mali, Niger, Senegal và Togo. 9 Trung Quốc, In-đô-nê-xia, Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Phi-líp-pin, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Việt Nam. Thứ nhất, lạm phát do cầu kéo hay là do sự mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu hàng hoá và dịch vụ. Đây là những nguyên nhân gắn liền với sự gia tăng của tổng cầu trong nền kinh tế, qua đó gây áp lực đối với lạm phát. Nguyên nhân cầu kéo có thể xuất phát từ: các vấn đề tiền tệ; do việc thực hiện chính sách tài khóa (thâm hụt ngân sách cao); các yếu tố liên quan đến tình trạng đầu cơ tài sản (bao gồm tài sản tài chính, bất động sản…). Thứ hai, lạm phát xuất phát từ nhóm nguyên nhân do chi phí đẩy. Loại lạm phát này xảy ra khi có tác động của các yếu tố bên ngoài tác động vào không gắn với tình hình tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Loại lạm phát này thường xảy ra khi có các cú sốc về giá đối với các mặt hàng chủ đạo, ví dụ như giá xăng dầu. Ở một số quốc gia, nguyên nhận lạm phát do chi phí đẩy còn có thể xuất phát từ các yếu tố có tính chất cơ cấu (ví dụ chi phí sản xuất của nền kinh tế cao, hiệu quả đầu tư thấp…). Thứ ba, lạm phát là do tiền tệ, giá tăng lên ít nhiều là do tăng cung tiền tệ quá mức cầu của nền kinh tế. Với quan điểm này thì lạm phát xuất hiện khi có một khối lượng tiền được đưa vào lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông của thị trường. Thực chất nguyên nhân lạm phát do tiền tệ nhiều khi cũng được tính vào nhóm lạm phát do cầu kéo như đã nêu ở trên. Như vậy, mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát là thông qua kênh tiền tệ và trong một số trường hợp có thể là thông qua kênh cầu kéo. Ngoài ra, khi nhu cầu vốn tăng lên do tổng cầu tăng lại được tài trợ bằng vay tín dụng ngân hàng có thể sẽ làm cho lãi suất trong nền kinh tế tăng lên và do vậy rất có thể quay trở lại làm tăng giá trong nền kinh tế trong khi chi phí tài chính có ảnh hưởng lớn tới các quyết định về giá. Như vậy, trong trường hợp này, tăng thâm hụt ngân sách có thể dẫn đến tăng giá. Theo kênh tiền tệ, trường phái tân cổ điển (trường phái trọng tiền) cho rằng trong dài hạn ngân hàng trung ương có thể kiểm soát được lạm phát nếu kiểm soát được cung tiền. Nhà kinh tế học Milton Friedman10 (được giải Nobel về kinh tế 1976) cho rằng “Lạm phát ở đâu và khi nào cũng xuất phát từ những nguyên nhân tiền tệ” (trích dẫn từ Solomon và Wet, 2004, trang 104). Thâm hụt ngân sách chỉ dẫn đến lạm phát nếu như việc tài trợ cho thâm hụt được thực hiện thông qua phát hành tiền. Trong nền kinh tế, cung cầu tiền tệ được phản ánh bởi cân bằng Fisher: MV = PY, với các biến số M là lượng cung về tiền; P là mức giá chung của nền kinh tế; Y là thu nhập (GDP) của toàn bộ nền kinh tế; V tốc độ quay vòng của tiền. Tốc độ quay vòng của tiền tệ thường ổn định, nhất là trong ngắn hạn. Có thể thấy là khi Y và V không đổi, cung tiền tăng sẽ kéo theo sự gia tăng của mức giá chung (tỷ lệ lạm phát). Như vậy, theo quan điểm này chính sách tài khoá tác động đến lạm phát khi chính phủ buộc phải in tiền để tài trợ cho thâm hụt ngân sách, do vậy làm tăng cung tiền quá mức nhu cầu của nền kinh tế và gây ra sự tăng giá. Lạm phát tăng cao ở một số quốc gia Nam Mỹ (Ác-hen-ti-na, Bô-lô-via và Brazil) trong những năm của thập niên 1980 được xem là nguyên nhân của chính phủ của các nước này đã phát hành tiền trang trải cho các nhu cầu chi tiêu của chính phủ (bù đắp thâm hụt ngân sách). Trong trường hợp bù đắp thâm hụt bằng vay nợ thì tác động của thâm hụt ngân sách đến lạm phát như thế nào còn phụ thuộc vào quan điểm điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Nếu như ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu ổn định lãi suất thì việc huy động trái phiếu để bù đắp thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến lạm phát vì để đạt 10 Friedman nhận Giải Nobel Kinh tế năm 1976 vì những đóng góp vào lĩnh vực phân tích tiêu dùng, lịch sử và lý thuyết tiền tệ cũng như vì công lao của ông trong việc chứng minh tính phức tạp của chính sách ổn định kinh tế vĩ mô. được mục tiêu ổn định lãi suất thì cung tiền phải tăng lên và kéo theo đó là sự gia tăng của lạm phát. Bên cạnh đó, nếu tỷ giá là neo hoặc cố định thì tài trợ thâm hụt bằng trái phiếu sẽ dẫn đến lạm phát bởi vì điều này dẫn đến mở rộng cung tiền do để ổn định được tỷ giá trước sự gia tăng của dòng vốn từ bên ngoài do lãi suất trong nước tăng, ngân hàng trung ương sẽ phải thực hiện việc mua vào ngoại tệ. Tuy nhiên, có quan điểm lập luận rằng thâm hụt ngân sách sẽ kéo theo lạm phát, bất luận hình thức bù đắp cho thâm hụt là như thế nào vì thâm hụt ngân sách tác động đến lạm phát theo nhiều kênh khác nhau. Thậm chí, cũng có lập luận cho rằng ngay cả khi ngân hàng trung ương không phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, sự gia tăng về thâm hụt ngân sách cũng kéo theo sự gia tăng áp lực lạm phát thông qua tác động “chèn lấn” đầu tư tư nhân như phân tích ở trên. Đó là, khi thâm hụt ngân sách được bù đắp thông qua phát hành trái phiếu, lãi suất trên thị trường sẽ tăng và khi lãi suất tăng sẽ làm thoái lui đầu tư của khu vực tư nhân, và vì thế tổng cung của nền kinh tế giảm và kết quả là sự gia tăng về mức giá trong nền kinh tế (Saleh, 2003). Bên cạnh đó, nghiên cứu của Sagent và Wallace (1981) còn đưa ra quan điểm cho rằng chính phủ của những quốc gia có thâm hụt ngân sách kéo dài sớm hay muộn cũng phải bù đắp cho sự thâm hụt này thông qua việc tạo tiền và theo đó sẽ gây nên lạm phát11. Nghiên cứu mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát cũng là vấn đề dành sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu thực nghiệm vấn đề này tại rất nhiều quốc gia trên thế giới. Các công trình nghiên cứu thực nghiệm trên đã đưa đến những kết luận có phần trái ngược nhau. Nhìn chung, các nghiên cứu về kinh tế lượng đến nay đã không mấy thành công trong việc đưa ra được một mối 11 Xem Catão & Terrones (2001) quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát (Catão & Terrones, 2001). Mặc dù có nhiều lập luận cho rằng thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến lạm phát song các kết luận có được từ các nghiên cứu kiểm chứng thực nghiệm về mối quan hệ nhân quả này dường như chưa có lời đáp thỏa đáng cho vấn đề này (Catão & Terrones, 2001). Tuy có một số nghiên cứu chỉ ra bằng chứng hỗ trợ cho quan điểm cho rằng thâm hụt ngân sách có góp phần gây nên lạm phát, song cũng có nhiều nghiên cứu cho rằng không có bằng chứng đáng kể về mối quan hệ này, như trường hợp nghiên cứu của Rosa (2011) dựa trên dữ liệu ngân sách của Bồ Đào Nha giai đoạn 1974-1995. Nghiên cứu của King & Plosser (1985) về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và các nhân tố tác động đến lạm phát trong mô hình tân cổ điển dựa trên dữ liệu của 12 nước phát triển và đang phát triển cũng đã đưa ra những bằng chứng ủng hộ cho luận điểm là thâm hụt ngân sách tác động không đáng kể đến lạm phát. Sử dụng mô hình kinh tế lượng để phân tích các nhân tố tác động đến lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010, hai tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng & Nguyễn Đức Thành (2011, trang 177) đã đưa ra kết luận: “.. nghiên cứu không cho thấy tác động rõ ràng của thâm hụt ngân sách đối với lạm phát trong giai đoạn nghiên cứu”. Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Tú (2010), tuy không trực tiếp khẳng định là thâm hụt ngân sách đã ảnh hưởng đến lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 10 năm qua song đã đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy yếu lạm phát ở Việt Nam có một phần đáng kể do yếu tố tiền tệ. Ngược lại, nghiên cứu của Darrat (2000) về trường hợp của Hy Lạp hay nghiên cứu của Metin (1998) về trường hợp của Thổ Nhĩ Kỳ lại cho thấy thâm hụt ngân sách có tác động đáng kể đến lạm phát ở các quốc gia này. Tương tự, hết quả nghiên cứu của Catão & Terrones (2001) dựa trên số liệu của 23 nước trong thời gian từ 1970 đến 2000 cho thấy tồn tại mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát. Cụ thể, nếu thâm hụt ngân sách (tính theo phần trăm GDP) tăng thêm 1 điểm phần trăm thì sẽ làm lạm phát tăng 1 đến 6 điểm phần trăm trong dài hạn. Tuy nhiên, Catão & Terrones (2001) lập luận rằng thâm hụt ngân sách có xu hướng làm tăng tỷ lệ lạm phát nhiều hơn ở những nước có mức độ tiền tệ hóa của nền kinh tế thấp (tỷ lệ giữa M2 so với GDP thấp). 2.2.3. Quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với thâm hụt thương mại Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại có thể được minh họa thông qua việc sử dụng mô hình Keneys đối với một nền kinh tế mở giản đơn. Theo mô hình Keynes thì trong một nền kinh tế mở, tổng sản phẩm quốc nội (Y) được xác định bởi công thức sau: Y = Tiêu dùng tư nhân + Chi tiêu chính phủ + Đầu tư + (Xuất khẩu – Nhập khẩu) hay là: Y = C + G + I + (X – M) (1) Phương trình (1) có thể được biết lại thành (X - M) = Y – C – G – I (2) Nếu gọi S là tiết kiệm của nền kinh tế thì S được xác định bằng thu nhập trừ tiêu dùng tư nhân và tiêu dùng của chính phủ, theo đó: S = Y – C – G (3) Từ (2) và (3) suy ra X – M = S – I (4) Trong đó, S là tiết kiệm của nền kinh tế sẽ bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân (St) và tiết kiệm của khu vực chính phủ (Sg). Khi đó, đẳng thức (4) có thể viết lại thành: X - M = St + Sg – I (5) Nếu gọi T là phần thuế phải nộp cho chính phủ thì tiết kiệm của tư nhân St = (Y – T – C) và tiết kiệm của chính phủ Sg = T - G (chính phủ tiết kiệm khi có thặng dư ngân sách). Khi đó, phương trình trên có thể viết lại thành: X - M = St – I + (T - G) (6) Phương trình (6) cho thấy thâm hụt cán cân thương mại sẽ bằng tiết kiệm tư nhân (St - I) cộng với tiết kiệm của chính phủ (T - G). Hay nói cách khác nếu như giả định ngân sách chính phủ ở trạng thái cân bằng (T - G = 0) và cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng (X - M = 0) thì khi đó đầu tư của tư nhân sẽ bằng với tiết kiệm tư nhân. Tuy nhiên, trong nền kinh tế mở thì cân bằng này rất ít khi đạt được. Giả sử nếu như đầu tư của khu vực tư nhân và tiết kiệm của khu vực tư nhân ổn định, phương trình 6 cho thấy mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại. Đây cũng là lý do mà một số nghiên cứu lập luận rằng sự gia tăng về thâm hụt ngân sách của chính phủ sẽ kéo theo sự gia tăng về thâm hụt thương mại, hay nói cách khác ở đây có sự tồn tại của “thâm hụt kép”. Cơ sở lý giải cho mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt kép nói trên có thể được lý giải thông qua việc sử dụng mô hình Mundell - Fleming cho nền kinh tế mở (Saleh, 2003). Theo mô hình này thì sự gia tăng về thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến thâm hụt thương mại tăng theo do tiêu dùng tăng. Do tiêu dùng khả dụng tăng, thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến nhu cầu nhập khẩu tăng. Tuy nhiên, trên một phương diện nào đó thì sự gia tăng về nhu cầu nhập khẩu có thể làm cho đồng nội tệ mất giá, theo đó phần nào bù trừ lại tác động đối với xuất khẩu ròng. Ở một khía cạnh khác, khi thâm hụt ngân sách tăng lên thì chính phủ sẽ phải phát hành thêm trái phiếu chính phủ, dẫn đến trái phiếu chính phủ giảm giá, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh tế cũng tăng và có thể làm cho lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước ngoài đổ vào trong nước khiến cho đồng nội tệ tăng giá, do vậy làm giảm xuất khẩu ròng. Tuy nhiên, cũng có một số lý thuyết không ủng hộ quan điểm “thâm hụt kép” nói trên. Trường phái Ricardo cho rằng sự thay đổi giữa thuế và các khoản thâm hụt ngân sách không ảnh hưởng đến lãi suất thực, đầu tư hoặc thâm hụt thương mại. Hay nói cách khác, lý thuyết Ricardo đã phủ nhận quan điểm cho rằng thâm hụt ngân sách có tác động đến thâm hụt thương mại. Ngoài ra, còn có quan điểm cho rằng giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại có mối quan hệ ngược chiều. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại cũng đưa ra nhiều kết luận trái ngược nhau. Lý thuyết tiếp cận của Keynes cho rằng sự gia tăng thâm hụt ngân sách có thể dẫn đến mở rộng đầu tư và tiêu dùng nội địa, qua đó kéo theo sự gia tăng về nhu cầu nhập khẩu, gây thâm hụt thương mại. Piersanti (2000) khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại ở các nước thuộc OECD đã đưa ra kết luận cho rằng thâm hụt thương mại cao có liên quan đến thâm hụt ngân sách cao ở phần lớn các nước công nghiệp phát triển. Tuy nhiên, cũng có nghiên cứu đưa ra các kết luận khác. Ví dụ, Islam (1998) khi nghiên cứu mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại ở Brazil giai đoạn 1973-1991 thông qua việc áp dụng kiểm định nhân quả Granger đã kết luận là có mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại. Nghiên cứu của Pahlavani & Saleh (2009) dựa trên số liệu thực tế của Phi-líp-pin giai đoạn 1970-2005 cũng ủng hộ quan điểm cho rằng có mối quan hệ hai chiều, liên hệ chặt chẽ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai. 2.2.4. Quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với lãi suất Xét dưới góc độ lý thuyết cũng có hai trường phái về tác động của thâm hụt ngân sách đối với lãi suất. Trường phái Keynes và trường phái tân cổ điển cho rằng thâm hụt ngân sách tăng sẽ làm tăng lãi suất do cầu về tiền tăng. Trong khi đó, trường phái Ricardo lại cho rằng thâm hụt ngân sách không tác động đến lãi suất (vì các lý do như phân tích trong phần trên). Theo trường phái thứ nhất thì quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lãi suất thường là quan hệ thuận chiều, điều ngày có nghĩa là khi thâm hụt ngân sách tăng thì lãi suất cũng tăng. Thâm hụt tăng cũng đồng nghĩa với nhu cầu huy động vốn của chính phủ tăng. Nếu như một phần của số vốn cần huy động để bù đắp cho thâm hụt được thực hiện thông qua thị trường nợ trong nước thì cầu về vốn trong nước sẽ tăng, qua đó sẽ làm gia tăng sức ép đối với mặt bằng lãi suất trong nước. Trong trường hợp này, ngân hàng trung ương có thể bắt buộc phải giảm sức ép gia tăng về lãi suất thông qua chính sách tiền tệ mở rộng. Trường hợp ngân hàng trung ương không can thiệp thì áp lực đối với lãi suất là không thể tránh khỏi. Tương tự như các biến số nói trên, mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với lãi suất cũng đã được bàn luận khá nhiều trong các nghiên cứu kiểm định thực tiễn. Kết quả là cũng các nghiên cứu khác nhau cũng đưa ra các kết luận khác nhau về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lãi suất. Trong khi có nhiều nghiên cứu đưa ra bằng chứng chứng minh thâm hụt ngân sách tăng sẽ tác động đến lãi suất, ví dụ như nghiên cứu của Al-Saji (1993) về trường hợp của Anh, song cũng có nghiên cứu đưa ra các bằng chứng cho thấy thâm hụt ngân sách không tác động đến lãi suất, ví dụ nghiên cứu của Evan (1985)12. 2.2.5. Quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và nợ công Theo Cẩm nang thông kê tài chính Chính phủ GFS, thâm hụt ngân sách được xác định bằng mức chênh lệch giữa tổng số vay mới và số chi trả nợ gốc của NSNN trong năm. Trên giác độ này có thể thấy quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ là rõ nét nhất. Thâm hụt ngân sách tăng 12 Trích dẫn từ Saleh (2003). cũng đồng nghĩa với việc sẽ kéo theo sự gia tăng về gánh nặng nợ công, trừ trường hợp chính phủ in thêm tiền. Như phân tích ở trên, khi có thâm hụt ngân sách tổng thể, Chính phủ có thể bù đắp cho khoản thâm hụt thông qua vay nợ trong nước hay nước ngoài hoặc thông qua in tiền13. Giả sử dư nợ chính phủ năm trước là và năm nay mức thâm hụt ngân sách là Xt (thâm hụt không bao gồm trả nợ gốc theo GFS), khi đó tổng dư nợ của Chính phủ tại thời điểm năm t sẽ bằng dư nợ năm trước cộng với thêm thâm hụt ngân sách năm nay và trừ tổng tiền phát hành bù đắp thâm hụt (nếu có). Hay nói cách khác: (7) Trong đó: o D(t) là dư nợ chính phủ cuối năm t o Xt là thâm hụt ngân sách năm t o là số tiền phát hành bù đắp thâm hụt ngân sách Theo đó, nếu như chính phủ không phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ( thì thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến sự gia tăng về nợ chính phủ trong năm đúng bằng số thâm hụt ngân sách. So với các mối quan hệ khác, mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ và nợ công là khá rõ nét, thâm hụt ngân sách kéo dài sẽ dẫn đến việc gia tăng về nợ chính phủ (nợ công). Trừ khi thực hiện phát hành tiền hay bán tài sản, khi ngân sách bị thâm hụt chính phủ phải thực hiện vay nợ trong nước và vay nước ngoài để bù đắp nên sự gia tăng về nghĩa vụ nợ là không thể tránh khỏi. Bên cạnh kênh tác động trực tiếp này, thâm hụt ngân sách còn tác động đến nợ chính phủ thông qua kênh gián tiếp. Đó là khi huy động nguồn 13 Trong một số trường hợp việc bù đắp cho thâm hụt ngân sách có thể thực hiện thông qua việc bán tài sản của chính phủ vốn để bù đắp cho thâm hụt, nợ công sẽ ngày càng tăng. Nợ công tăng lên sẽ kéo theo lãi phải trả tăng. Khi lãi phải trả tăng sẽ làm cho thâm hụt ngân sách tăng. Vòng luẩn quẩn này sẽ trầm trọng hơn trong bối cảnh lãi suất cao, tăng trưởng thấp, hiệu quả sử dụng NSNN (Hình 1). Ngoài ra, còn có yếu tố là khi nợ công tăng thì chi phí vay nợ (lãi suất) cũng sẽ tăng theo. Trường hợp của Hy Lạp năm 2010 -2011 là ví dụ điển hình cho trường hợp này. Hình 1. Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ Vay bù đắp thâm hụt ngân sách tăng Thâm hụt ngân sách tăng  Nợ chính phủ tăng Lãi phải trả tăng Tóm lại, có nhiều luồng quan điểm khác nhau về tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng, lạm phát, thâm hụt thương mại cũng như các biến vĩ mô khác. Do những quan điểm trái ngược về ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách đến các biến số vĩ mô, nhiều nghiên cứu định lượng đã được các nhà kinh tế tiến hành để tìm hiểu mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với các biến vĩ mô khác. Kết quả của những nghiên cứu này cũng rất đa dạng. Một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra là một kết luận đúng với một quốc gia nào đó không đồng nghĩa với việc kết luận đó cũng đúng với trường hợp của quốc gia khác. Mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô nói chung thường là những vấn đề mang tính đặc thù quốc gia, chịu sự ảnh hưởng của đặc điểm, trình độ phát triển và bối cảnh kinh tế xã hội của từng nước. Tuy vậy, kết luận chung có thể đúc rút được là mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với các biến số vĩ mô thuận hay nghịch phụ thuộc khá nhiều vào mức độ thâm hụt ngân sách và quy mô chi tiêu của chính phủ, các phương thức mà chính phủ sử dụng để bù đắp thâm hụt và hiệu quả sử dụng nguồn vốn có được từ việc chấp nhận thâm hụt ngân sách. Bên cạnh đó, giữa thâm hụt ngân sách với các biến số kinh tế vĩ mô khác thường có quan hệ đa chiều nên việc tham khảo các kết quả có được từ các nghiên cứu kiểm định thực tiễn cần phải được thực hiện một cách thận trọng. Phần 2 Thâm hụt ngân sách nhà nước và mối quan hệ với các biến số kinh tế vĩ mô ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010 1. Thâm hụt ngân sách của Việt Nam 2001-2010 1.1. Quan niệm về thâm hụt ngân sách ở Việt Nam Theo Luật Ngân sách nhà nước (2002), ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Thâm hụt ngân sách nhà nước là thâm hụt ngân sách trung ương và được xác định bằng chênh lệch thiếu giữa tổng số chi ngân sách trung ương và tổng số thu ngân sách trung ương trong năm ngân sách. Các khoản thu, chi khi cân đối ngân sách theo Luật Ngân sách nhà nước (2002) được xác định như sau: Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; thu chuyển nguồn từ năm trước, các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi đầu tư phát triển, chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ, chi chuyển nguồn ngân sách từ năm trước sang năm sau và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. Ở Việt Nam, ngân sách nhà nước (NSNN) được cân đối trên nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn thâm hụt thì số thâm hụt phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển. Như vậy, nếu như xem tất cả các khoản thu từ thuế và phí, lệ phí của Việt Nam là các khoản thu thường xuyên thì có thể thấy theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước (2002), cán cân ngân sách thường xuyên của Việt Nam luôn phải thặng dư. Tuy nhiên, khoản thu nào được xem là thuế, phí hay lệ phí không phải lúc nào cũng dễ phân biệt. Hiện nay, trong phân loại thu ngân sách của Việt Nam vẫn có khoản thu có tính chất “không tái tạo” như thu từ dầu thô vẫn được xếp vào thu từ thuế như là một khoản thu thường xuyên. Ở một số quốc gia thu từ dầu thô được hạch toán riêng, không gộp chung vào các khoản thu từ thuế, phí hay lệ phí. Về bản chất, đây là các khoản thu có tính chất tương tự như thu từ bán tài sản và sẽ giảm dần theo thời gian do nguồn cung bao giờ cũng là hữu hạn nên việc tách riêng không đưa vào thu thường xuyên là cũng có cơ sở. Luật Ngân sách nhà nước (2002) quy định nguyên tắc thâm hụt ngân sách chỉ dùng cho chi đầu tư phát triển, không được sử dụng cho chi thường xuyên. Thực chất nguyên tắc này có thể được xem là hệ quả của nguyên tắc phải đảm bảo cán cân ngân sách thường xuyên thặng dư phân tích nói trên. Về cân đối ngân sách địa phương, Luật Ngân sách nhà nước (2002) quy định ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh (Điều 3, khoản 3, Luật Ngân sách nhà nước 2002). Về thước đo thâm hụt ngân sách, ở Việt Nam, thâm hụt ngân sách (thặng dư ngân sách) cũng được xác định dựa trên chênh lệch giữa tổng thu ngân sách so với tổng chi ngân sách. Tuy nhiên, việc xác định phạm khoản thu, chi cân đối NSNN của Việt Nam có sự khác biệt khá lớn so với thông lệ quốc tế. Sự khác biệt về phương pháp tính thâm hụt ngân sách của Việt Nam so với thông lệ quốc tế sẽ được phân tích cụ thể trong phần dưới đây. 1.2. Thực trạng thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010 1.2.1. Mức độ thâm hụt và bù đắp thâm hụt ngân sách Một trong những thành công đáng ghi nhận trong cải cách tài chính công ở Việt Nam trong 10 năm qua đó là quy mô thu NSNN liên tục duy trì được tốc độ tăng nhanh. Quy mô thu NSNN liên tục được mở rộng qua các năm và đến nay Việt Nam đã trở thành một quốc gia có mức động viên ngân sách khá cao khi so với các nước đang phát triển của mức thu nhập tương đồng. Tỷ trọng tổng thu NSNN so với GDP đã tăng từ 21,6% GDP năm 2001 lên khoảng 28,2% năm 2010. Bình quân giai đoạn 2001-2010, tổng thu NSNN đạt 26,5% GDP. Đây có thể xem là một thành công đáng khích lệ của Việt Nam trong việc cải cách hệ thống chính sách thu ngân sách của Việt Nam thời gian qua, nhất là trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới diễn biến nhiều bất lợi và mức thuế suất của nhiều sắc thuế trong hệ thống chính sách thuế của Việt Nam được điều chỉnh giảm dần để khuyến khích đầu tư, sản xuất trong nước và mặt bằng thuế quan được cắt giảm để thực hiện cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là các cam kết khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cũng như trong khuôn khổ thực hiện các hiệp định để thành lập các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương. Hình 2. Quy mô tổng thu và chi ngân sách nhà nước và thâm hụt ngân sách ở Việt Nam 2001-2010 (% GDP danh nghĩa) 40,0 35,0 30,0 25,0 20,0 15,0 10,0 5,0 0,0 -5,0 -10,0  2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Thâm hụt NSNN Tổng thu NSNN Tổng chi NSNN Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính (2011). Thâm hụt ngân sách được sử dụng theo cách tính của Việt Nam. Quy mô thu NSNN tăng cao đã tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quy mô chi NSNN. Tổng chi NSNN giai đoạn 2001-2010 đạt mức bình quân trên 30% GDP, trong đó năm 2010 lên đến 33,8% GDP14. Việt Nam cũng đã thực hiện cơ cấu lại NSNN để tăng chi cho một số lĩnh vực sự nghiệp, cho đầu tư phát triển con người như chi cho giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế.... Tổng chi cho giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường đã đáp ứng được các mục tiêu đề ra theo nghị quyết của Đảng và Quốc hội. 14 Số liệu công khai ngân sách của Bộ Tài chính từ trang www.mof.gov.vn Tuy đạt được các kết quả nói trên, song việc việc quản lý nguồn lực ngân sách trong giai đoạn 10 năm qua cũng đã bộc lộ một số vấn đề đáng phải lưu ý, trong đó các vấn đề như hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực ngân sách, về tính bền vững trong việc huy động nguồn lực ngân sách, về phương thức quản lý và điều hành và về các vấn đề liên quan đến tính “kỷ luật tài khóa”. Trong số đó, một trong những vấn đề được xem là nổi cộm nhất hiện này là tính trạng thâm hụt ngân sách cao và kéo dài. Phân tích về thực hiện điều hành chính sách ngân sách của Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy mặc dù thu NSNN liên tục tăng nhanh song thâm hụt NSNN đã trở thành một hiện tượng phổ biến, ngay cả trong những năm mà thu NSNN thực tế thực hiện vượt cao so với dự toán. Năm 2007 thu NSNN vượt 29,9% so với dự toán, song thâm hụt NSNN (theo cách tính của Việt Nam) vẫn lên đến 5,65% GDP. Thâm hụt NSNN liên tục và kéo dài đã tạo ra một số áp lực nhất định cho việc duy trì sự bền vững của nợ chính phủ trong thời gian tới. Trong giai đoạn 2001-2010, tỷ lệ nợ chính phủ so với GDP đã tăng mạnh và đến năm 2010 tương đương khoảng 45,7% GDP (tổng mức dư nợ công bằng 57,3% GDP)15. Sự gia tăng về tỷ lệ dự nợ công và dư nợ chính phủ so GDP trong những năm qua là hệ quả của việc tốc độ tăng trưởng của nợ công và nợ chính phủ luôn ở mức cao hơn so với tốc độ tăng trưởng GDP (danh nghĩa). Để hạn chế sự gia tăng của nợ công, kể từ năm 2010, vấn đề giảm thâm hụt ngân sách đã bắt đầu được quan tâm xử lý, trong đó lần đầu tiên trong nhiều năm khi mà mức thâm hụt thực tế thực hiện được giữ ở mức thấp hơn so với mức mà Quốc hội cho phép khi xây dựng dự toán. Cụ thể theo dự toán từ đâu năm, mức thâm hụt ngân sách dự kiến là 6,2% GDP, song kết quả thực hiện ước vào khoảng 5,8% GDP, trong đó có một số 15 Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo “Quản lý Nợ công và nợ nước ngoài quốc gia”, do Bộ Tài chính phối hợp với UNCTAD và Ngân hàng Thế giới tổ chức tại Hà Nội, ngày 17-18 tháng 10 năm 2011. khoản tăng thu đã được ưu tiên sử dụng giảm thâm hụt ngân sách. Từ năm 2011, nguyên tắc sử dụng số tăng thu ngân sách hàng năm để xử lý thâm hụt cung đã được đưa vào trong Nghị quyết của Quốc hội. Mức thâm hụt ngân sách năm 2011 ước dưới 5% GDP, trong khi đó mức Quốc hội cho phép là 5,3% GDP. Đây có thể xem là bước khởi đầu tích cực trong việc từng bước giảm dần mức thâm hụt ngân sách hiện nay. Về bù đắp cho thâm hụt ngân sách ở Việt Nam hiện nay, hiện tại ở Việt Nam, nguồn bù đắp cho thâm hụt ngân sách là từ 2 nguồn vay trong nước và vay quốc tế. Nguồn vay bù đắp thâm hụt có sự biến động cùng với sự biến động của mức thâm hụt ngân sách nhà nước. Bình quân cả giai đoạn 2001-2010, vay trong nước chiếm khoảng xung quanh 75% tổng nguồn bù đắp. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là tỷ lệ vay nước ngoài để bù đắp bội chi ngân sách có xu hướng tăng trong 3 năm trở lại đây. Đây cũng là giai đoạn mà việc huy động nguồn vốn trong nước gặp phải một số khó khăn do tác động của lạm phát. 1.2.2. Một số đánh giá về mức độ thâm hụt ngân sách ở Việt Nam Như đã trình này ở trên thâm hụt ngân sách đã trở thành một hiện tượng phổ biến ở Việt Nam trong nhiều năm qua. Với đặc điểm là một quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi, nhu cầu sử dụng nguồn vốn hàng năm cho đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế và xã hội là tương đối cao nên việc thâm hụt ngân sách ở Việt Nam là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy thâm hụt ngân sách cao và kéo dài sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Phân tích về diễn biến tình hình thâm hụt NSNN của Việt Nam giai đoạn 10 năm qua (2001-2010) có thể rút ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất, mức độ thâm hụt NSNN của Việt Nam liên tục ở mức cao trong 10 năm qua. Thâm hụt ngân sách (theo cách tính của Việt Nam) đã tăng từ mức trung bình là 4,0% GDP giai đoạn 1996-2000 lên 4,9% GDP giai đoạn 2001-2005 và 5,5% GDP giai đoạn 2006-2010. Bình quân giai đoạn 2001-2010 là 5,2% GDP. Đường xu thế trong Hình 3 cho thấy tỷ lệ thâm hụt ngân sách so GDP trong 10 năm qua đang ở trong xu thế đi lên. Nguyên nhân thâm hụt ngân sách tăng cao những năm gần đây có một phần xuất phát từ chính sách tăng chi ngân sách để thực hiện các gói kích thích tài khóa trong giai đoạn 2009-2010 trước các tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu. Một nguyên nhân khác là yêu cầu đảm bảo nguồn lực nhằm thực hiện các chủ trương của nhà nước trong việc tăng chi cho công tác an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo những năm gần đây. Hình 3. Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam 1991-2010 (theo cách tính Việt Nam) 140 8,0 120 7,0 100 80 60 40 20 6,0 5,0 4,0 3,0 2,0 1,0 0 0,0 Bội chi (nghìn tỷ đồng) Bội chi (% GDP) Linear (Bội chi (% GDP)) Nguồn: Bộ Tài chính (2011). Ghi chú: Trục phải: Thâm hụt so với GDP (%): Trục trái: Mức thâm hụt (nghìn tỷ đồng). Năm 2010 là số ước. Sự gia tăng của thâm hụt trong những năm gần đây có nguyên nhân xuất phát từ các tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008. Đặc biệt năm 2009, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã lên đến 6,9% GDP khi Việt Nam đã phải thực hiện các gói kích thích kinh tế khác nhau (bao gồm cả việc tăng chi ngân sách và giảm thuế) để kích cầu đầu tư và tiêu dùng trong nước trước các biến động bất lợi từ bên ngoài. Việc chấp nhận thâm hụt ngân sách ở cao trong giai đoạn này là giải pháp được khá nhiều nước trên thế giới áp dụng trong khi tổng cầu của khu vực tư nhân sụt giảm do tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Thứ hai, dựa trên tiêu chí phân loại thu và chi ngân sách của Việt Nam, mức độ thặng dư ngân sách thường xuyên đang có xu hướng giảm, nhất là trong những năm gần đây. Ở đây khái niệm cán cân ngân sách thường xuyên được hiểu là bằng thu ngân sách từ thuế, phí và lệ phí (theo phân loại của Việt Nam) trừ tổng chi thường xuyên16. Nếu như năm 2006, Việt Nam có được tỷ lệ thặng dư ngân sách thường xuyên (không bao gồm chi trả lãi tiền vay) ở mức 9,48% GDP thì đến năm 2010, tỷ lệ này giảm xuống còn 5,16% GDP17. Nếu tính cả chi trả lãi tiền vay vào chi thường xuyên và loại trừ thu từ dầu thô ra khỏi khoản thu từ thuế, phí và lệ phí thì tỷ lệ thặng dư ngân sách thường xuyên của Việt Nam những năm gần đây là khá thấp. Việc giảm dần về tỷ lệ thăng dư ngân sách thường xuyên là điều rất đáng lưu ý trước yêu cầu đảm bảo sự bền vững của ngân sách trong trung và dài hạn. Một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho thặng dư ngân sách thường xuyên của Việt Nam giảm là do chi thường xuyên trong những năm qua liên tục tăng mạnh, từ mức 14,9% GDP năm 2001 lên năm 2006 là 16,6% GDP và đến năm 2010 ước vào khoảng 20,6%. Chi trả nợ (bao gồm cả trả nợ gốc và tiền lãi) cũng có xu hướng tăng trong những năm gần đây, 16 Hiện hành ở Việt Nam các khoản thu từ dầu thô được gộp chung vào các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí. Tuy vậy, trên thực tế khoản thu này có tính chất thu từ vốn nhiều hơn (thu từ bán tài sản). 17 Trong nghiên cứu này, khái niệm cân đối ngân sách thường xuyên được xác định bằng tổng số thu từ thuế, phí trừ tổng chi thường xuyên. từ mức 3,1% GDP lên 4,1% GDP trong cùng thời kỳ. Việc có được thặng dư ngân sách thường xuyên được xem là điều kiện cần để bảo đảm duy trì sự bền vững của NSNN. Về nguyên tắc, ngân sách phải có thặng dư thường xuyên thì mới có điều kiện để thực thi các chính sách đầu tư hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Hình 4. Cán cân ngân sách thường xuyên 2001-2010 (% GDP) 30 25 20 15 10 05 00 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Cán cân ngân sách thường xuyên (không tính chi trả lãi tiền vay) Thu ngân sách từ thuế, phí và lệ phí Chi thường xuyên (không gồm chi trả lãi) Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính. Năm 2010 là số ước thực hiện Thứ ba, khái niệm và cách tính thâm hụt NSNN ở Việt Nam còn nhiều điểm khác biệt so với thông lệ quốc tế. Điều này xuất phát từ cách phân loại, phương pháp hạch toán ngân sách của Việt Nam trong một số nội dung còn chưa theo chuẩn mực chung được nhiều nước áp dụng, như Cẩm nang Thống kê tài chính chính phủ (GFS). Những sự khác biệt đáng chú ý là: Trong tổng chi NSNN của Việt Nam có tính cả các khoản trả nợ gốc, trong khi đó theo thông lệ quốc tế, chi NSNN để xác định thâm hụt chỉ bao gồm trả nợ lãi không bao gồm trả nợ gốc. Đây chính là điểm mấu chốt làm cho số liệu về thâm hụt NSNN của Việt Nam được tính toán và công bố có sự khác biệt với cách tính thâm hụt NSNN theo thông lệ quốc tế. Có thể thấy theo quy định hiện hành của Việt Nam chi ngân sách đối với các khoản vay gốc được thực hiện 2 lần. Lần thứ nhất sử dụng nguồn vốn vay này để chi cho các mục tiêu, nhiệm vụ chi NSNN và lần thứ hai là khi thực hiện việc chi trả nợ (gốc và lãi) khi các khoản vay đến hạn. Về bản chất, nợ gốc hoàn trả trong năm ngân sách phát sinh từ nhiều năm trước. Do đó, số tiền gốc phải trả trong năm ngân sách hiện hành nhiều hay ít không phụ thuộc vào tình hình kinh tế, không phụ thuộc chất lượng quản lý ngân sách mà phụ thuộc vào các điều khoản vay nợ. Phương thức hạch toán này này vì thế phản ánh không sát thực diễn biến điều hành chính sách tài khóa trong năm, như trường hợp thâm hụt NSNN trong một năm tăng cao có thể không xuất phát từ việc thực hiện chính sách tài khóa mở rộng của Chính phủ mà nguyên nhân là do nghĩa vụ trả nợ tăng. Thực tế này cũng đã xảy ra đối với trường hợp của Việt Nam trong năm 2010 khi mà chi trả nợ và viện trợ tăng so với dự toán song nguyên nhân là do việc thực hiện trả một số khoản nợ trước hạn. Mặt khác, đối với khoản nợ gốc phải trả hàng năm nếu hạch toán vào chi NSNN thì phần vay phát sinh trong năm cũng phải được hạch toán tăng thu NSNN. Điều này đặt ra đòi hỏi Việt Nam cần phải thay đổi cách tính thâm hụt ngân sách của mình để phản ánh chính xác hơn thực trạng cán cân tài khóa của Chính phủ. Ngoài ra, vẫn còn có một số khoản chi vẫn bị để ngoài chưa đưa vào cân đối ngân sách. Kể từ năm 2003, Việt Nam đầu tư rất nhiều cho công trình giao thông, thủy lợi, kiến cố hóa trường học thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ và công trái giáo dục. Tuy nhiên, những khoản đi vay này vẫn được hạch toán riêng, chưa được tính trong cân đối NSNN chung. Khoản vay về cho vay lại hiện cũng không được tính trong cân đối ngân sách. Phân tích nói trên đã cho thấy mức thâm hụt ngân sách thực tế của Việt Nam nếu bao gồm cả những khoản này sẽ lớn hơn. Nếu tính thêm cả số vay từ nguồn trái phiếu chính phủ, vay về cho vay lại thì mức thâm hụt NSNN của Việt Nam trong 5 năm trở lại đây đã có sự gia tăng đột biến18. Đây là những khoản chi có làm phát sinh nghĩa vụ nợ của Chính phủ nhưng lại chưa được đưa vào cân đối nên phần nào phản ánh chưa sát con số thâm hụt ngân sách thực tế. Điều này có thể dẫn đến những nhận định không thực sự sát thực trong điều hành kinh tế vĩ mô. Ví dụ, theo cách tính và công bố của Bộ Tài chính về số liệu quyết toán ngân sách nhà nước thì tỷ lệ thâm hụt ngân sách của Việt Nam năm 2009 là 6,9% GDP và nếu loại trả nợ gốc thì thâm hụt là 3,69% GDP. Tuy nhiên, nếu tính cả nguồn trái phiếu chính phủ và vay về cho vay lại thì tỷ lệ thâm hụt tương ứng là 11,69% GDP là 8,48% GDP (Bảng 1). Theo thông lệ chung, những khoản vay phát sinh khi được xem là nghĩa vụ nợ của chính phủ phải thì được tính vào cân đối ngân sách. Trong khi đó, ở Việt Nam trong vấn đề này đã có sự không thống nhất, đó là tuy nguồn trái phiếu của chính phủ và vay về cho vay lại đã được tính vào trong số dư nợ công, song lại chưa đưa vào cân đối ngân sách hàng năm khi xác định mức thâm hụt. 18 Số thâm hụt này tính theo cách tính quy định trong Luật Ngân sách nhà nước, có bao gồm cả phần chi trả nợ gốc. Bảng 1. Thâm hụt NSNN năm 2009 theo cách tính của Việt Nam và theo cách tính của thông lệ quốc tế (Tỷ đồng, trừ khi có chú thích khác) Chỉ tiêu 2009 A Tổng thu và viện trợ 466.286 1 Thu từ thuế và phí 418.790 2 Thu về vốn 39.588 3 Thu viện trợ không hoàn lại 7.908 B Thu kết chuyển 162.901 C Tổng chi ngân sách (không bao gồm chi trả nợ gốc) 661.972 1 Chi đầu tư phát triển 181.363 2 Chi thường xuyên 326.666 3 Chi chuyển nguồn 153.943 4 Dự phòng D Chi trả nợ gốc 53.244 E Chênh lệch thu chi ngân sách địa phương 28.413 F Trái phiếu chính phủ 55.691 H Vay về cho vay lại 23.675 1 Thâm hụt Ngân sách theo cách tính của Việt Nam Không bao gồm trái phiếu, vay về cho vay lại -114.442 So với GDP (%) -6,90% Gồm cả trái phiếu, vay về cho vay lại So với GDP (%) 11,69 2 Thâm hụt Ngân sách theo cách tính GFS - 140.564 So với GDP (%) -8,48% a. Nguồn: Tính toán từ số liệu công khai ngân sách năm 200921 Bên cạnh đó, về thu ngân sách, có một số khoản thu vẫn còn để ngoài cân đối ngân sách chung dưới hình thức là các khoản thu-chi quản lý qua ngân sách như thu từ nguồn học phí, viện phí, thu từ 21Nguồn: Số liệu công khai ngân sách năm nguồn xổ xố kiến thiết. Thực tế quy mô của các khoản thu này không phải là thấp. Ví dụ, theo số liệu Quyết toán ngân sách năm 2009 được Quốc hội phê chuẩn, các khoản phí, lệ phí và các khoản đóng góp quản lý qua NSNN năm 2009 tương đương khoảng 1,96% GDP, cao hơn khá nhiều so với một số khoản thuế như thuế môn bài, thuế nhà, đất hay thuế TNCN. Việc để các khoản này ngoài cân đối ngân sách tuy không ảnh hưởng đến con số thâm hụt ngân sách, song có thể ảnh hưởng đến việc đưa ra các nhận diện đầy đủ và chính xác bức tranh thực tế của NSNN, ví dụ như cơ cấu chi ngân sách cho từng ngành, lĩnh vực. Bảng 2. Một số chỉ số thống kê miêu tả về tỷ lệ thâm hụt ngân sách của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 (% GDP danh nghĩa) Theo Thông lệ quốc tế Theo cách tính Việt Nam Không bao gồm TPCP, vay về cho vay lại)22 Bao gồm TPCP và vay về cho vay lại Thấp nhất (Min) 2,78% (2006) 4,56% (2008) 5,65% (2002) Cao nhất (Max) 8,48% (2009) 6,90% (2009) 11,68% (2009) Trung bình (Mean) 5,01% 5,20% 8,14% Độ lệch chuẩn (Std. Dev) 2,03% 0,69% 1,88% Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính (2011). Thứ tư, theo cách tính thâm hụt ngân sách quy định trong Luật Ngân sách nhà nước, miền biến động của mức độ thâm hụt ngân sách trong 10 năm qua tính theo cách tính của Việt Nam thấp hơn so với miền biến động 22 Đây là phương pháp tính bội chi đang được sử dụng trong điều hành chính sách tài chính ngân sách hiện nay. nếu tính theo thông lệ quốc tế23. Nguyên nhân chủ yếu là do sự xuất hiện của một số khoản chi chưa được đưa vào cân đối như phân tích ở trên và mức độ của những khoản chi này có sự biến động mạnh qua các năm. Hình 5. Thâm hụt NSNN theo các cách tính khác nhau 2001-2010 (% GDP danh nghĩa) 14% 12% 10% 08% 06% 04% 02% 00%  2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Theo cách tính của Việt Nam Theo cách tính của Việt Nam (gồm TPCP, vay về cho vay lại) Theo thông lệ quốc tế Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính (2011) Theo cách tính của Việt Nam, tỷ lệ thâm hụt ngân sách trong 10 năm qua ở trong khoảng từ 4,56% GDP đến 6,9% GDP (năm có thâm hụt ngân sách thấp nhất là năm 2008 và năm thâm hụt ngân sách cao nhất là năm 2009). Trong khi đó theo thông lệ quốc tế thì miền biến động của thâm hụt ngân sách là từ 2,78% GDP đến 8,48% GDP (mức thâm hụt thấp nhất là năm 2006 và cao nhất là năm 2009). Điều này cho thấy theo các tiêu thức khác nhau con số thâm hụt ngân sách là rất khác nhau và việc sử dụng các kết quả sai lệch có thể dẫn đến việc đưa ra các chính sách không phù hợp. 23 Theo cách tính theo thông lệ quốc tế, thâm hụt không bao gồm chi trả nợ gốc nhưng bao gồm trái phiếu chính phủ và vay về cho vay lại. Tuy nhiên, độ chênh lệch giữa hai cách tính có xu hướng thu hẹp dần trong những năm gần đây và điều đáng lưu ý hơn là từ năm 2009 đến nay thâm hụt NSNN tính theo cách tính quy định của Luật Ngân sách nhà nước đều thấp hơn so với con số thâm hụt theo thông lệ quốc tế. Cụ thể, tỷ lệ thâm hụt ngân sách của Việt Nam năm 2009 khi tính theo thông lệ quốc tế đã lên đến 8,48% GDP, trong khi đó theo cách tính của Việt Nam là 6,9% GDP24. Nguyên nhân là do tổng nguồn vốn vốn trái phiếu chính phủ giải ngân tăng mạnh25. 2. Thâm hụt ngân sách và những vấn đề đặt ra đối với sự bền vững của ngân sách nhà nước của Việt Nam Phân tích về diễn biến tình hình, mức độ và phạm vi thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam thời gian qua đã cho thấy một số vấn đề đáng lưu ý trong điều hành quản lý NSNN ở Việt Nam thời gian tới, nhất là xét trên giác độ đảm bảo tính bền vững về tài khóa. Những vấn đề nổi lên là: Thứ nhất, đó là tình trạng thâm hụt ngân sách cao và kéo dài trong nhiều năm. Mặc dù, trong những năm gần đây, Việt Nam vẫn đảm bảo bố trí trả nợ đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn, không làm phát sinh tình trạng nợ xấu, đảm bảo được an ninh tài chính quốc gia đồng thời có nguồn lực để đầu từ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Việt Nam có thể tiếp tục kéo dài mức độ thâm hụt như những năm vừa qua, nhất là khi xem xét mức thâm hụt ngân sách trên cơ sở các thước đo của thông lệ quốc tế. 24 Nếu bao gồm cả nguồn trái phiếu chính phủ và vay về cho vay lại thì thâm hụt ngân sách năm 2009 theo cách tính của Việt Nam lên đến 11,69% GDP. 25 Nguồn: Số liệu Quyết toán ngân sách nhà nước 2009 từ trang web: www.mof.gov.vn. Thực tế, nếu mức thâm hụt ngân sách nằm trong phạm vi kiểm soát được và chi tiêu công có hiệu quả thì thâm hụt sẽ có hiệu ứng tích cực kích thích tăng trưởng kinh tế. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước (2002), nguồn thâm hụt ngân sách thực tế là để chi cho đầu tư phát triển theo đó nếu đầu tư hiệu quả thì việc dịch chuyển dòng vốn từ khu vực tư nhân sang khu vực công sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từ đó sẽ dẫn đến những hiệu ứng tích cực cho nền kinh tế, có thể làm tăng thu NSNN. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam những năm vừa qua đã chỉ ra một số bằng chứng đi ngược lại với lợi ích này. Đó là hiệu quả đầu tư công ngày càng giảm và một trong những biểu hiện đó là hệ số ICOR ngày càng tăng. Hệ số ICOR của Việt Nam hiện nay là khá cao khi so với các quốc gia trong khu vực ở giai đoạn có mức độ phát triển tương đương. Tình trạng đầu tư dàn trải nguồn lực NSNN đã trở thành một hiện tượng trong nhiều năm qua. Đầu tư của NSNN còn được thực hiện ở những dự án, những lĩnh vực mà khu vực tư nhân sẵn sàng tham gia. Thứ hai, cơ cấu thu NSNN còn dựa vào các khoản thu một lần, các khoản thu không thường xuyên và các khoản thu không “tái tạo”. Quy mô thu NSNN của Việt Nam liên tục tăng nhanh trong 10 năm qua, bình quân giai đoạn 2001-2010 tương đương 26,5% GDP. Việc gia tăng nhanh chóng của nguồn thu ngân sách đã tạo điều kiện cho việc thực hiện tăng chi NSNN cho các mục tiêu về phát triển kinh tế xã hội, đồng thời hạn chế được sự gia tăng quá mức của thâm hụt NSNN. Tổng chi NSNN so với GDP tăng từ 26,5% GDP năm 2001 lên khoảng 33,8% năm 2010. Theo đó, câu hỏi đặt ra là làm thế nào Việt Nam có thể tiếp tục huy động đầy đủ nguồn thu cho NSNN, đảm bảo duy trì được mức chi NSNN như thời gian qua. Thực tiễn ở nhiều quốc gia cho thấy việc giảm chi NSNN là một vấn đề hết sức nhạy cảm, phức tạp và có thể gây ra các tác động bất lợi đối với sự ổn định về kinh tế - xã hội. Một điều đáng lưu ý khác đó là cơ cấu thu ngân sách Việt Nam thời gian qua vẫn còn đang còn phụ thuộc đáng kể vào các khoản thu “không thường xuyên” như từ dầu thô, từ giao quyền sử dụng đất và từ việc bán các tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Thu từ các nguồn này bình quân giai đoạn 2001-2010 chiếm hơn 29% tổng thu NSNN28. Những nguồn thu này là những nguồn thu thường không ổn định, có thể là rất cao trong giai đoạn hiện tại nhưng lại có xu hướng giảm trong dài hạn. Thu từ giao quyền sử dụng đất sau một số năm tăng mạnh đã bắt đầu giảm trong những năm gần đây. Thu từ dầu thô cũng xuất hiện xu hướng giảm tương tự. Cụ thể, thu từ dầu thô đã giảm từ mức 8,6% GDP năm 2006 xuống còn khoảng 3,5% GDP năm 2010, thu tiền sử dụng đất và bán nhà thuộc sở hữu nhà nước sau một số năm tăng thì từ năm 2007 đến nay đã giảm từ mức 2,7% GDP xuống còn 2,2% GDP29. Trong những năm qua, sự giảm sút từ các nguồn thu nói trên đã được bù đắp thông qua việc tăng thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và thuế giá trị gia tăng (GTGT). Đến nay mức độ động viên từ thuế TNDN và thuế GTGT của Việt Nam cũng đã là khá cao so với nhiều nước (Hình 7), theo đó dự báo khả năng để có thể tiếp tục tăng tăng được nguồn thu từ thuế TNDN và thuế GTGT trong những năm tới cũng là hạn chế. Bên cạnh đó, thu từ thuế nhập khẩu cũng sẽ giảm xuống khi Việt Nam hoàn thành những cam kết cắt giảm thuế quan theo các cam kết quốc tế. Năm 2001, thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chiếm 15,5% tổng thu NSNN, song đến năm 2010, tỷ lệ này đã giảm xuống còn 11,2%30. Theo đó, yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam là phải có định hướng rõ ràng trong việc thực hiện cơ cấu lại hệ thống chính sách thu ngân sách, tăng 28 Nguồn: Vũ Nhữ Thăng (2011). “Cải cách hệ thống chính sách thuế ở Việt Nam: Kết quả và một số vấn đề đặt ra”. Tham luận tại Hội thảo: “Cải cách tài khóa ở những nền kinh tế chuyển đổi”, Hội An, tháng 9, 2011). 29 Nguồn: Tính toán từ số liệu công khai ngân sách của Bộ Tài chính. 30 Nguồn: Nguyễn Ngọc Hưng (2011). “Dự báo thuế xuất nhập khẩu”. Tham luận tại Hội thảo Phân tích và dự báo thu Ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 4/2011, cường vai trò của các nguồn thu khác, thực hiện điều chỉnh chính sách thu NSNN nên dựa trên nền tảng vững chắc từ khu vực kinh tế nội địa, từ đó đảm bảo duy trì được tính bền vững của mức động viên NSNN. Đây được xem là một trong những điều kiện cần có để từng bước hạ thấp mức thâm hụt NSNN trong thời gian tới cùng với việc thực hiện các giải pháp về cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả của việc phân bổ và sử dụng nguồn lực NSNN (chính sách chi ngân sách). Hình 6. Thu NSNN từ thuế TNDN và thuế GTGT của Việt Nam so với một số nước (% GDP danh nghĩa) Việt Nam Trung Quốc Nga Ấn Độ Mỹ Nhật Bản Hàn Quốc Đan Mạch Đức Canada Anh 0 2 4 6 8 10 12 14 16 TNDN GTGT Nguồn: IMF (2010). Ghi chú: Số liệu các nước là số năm 2007 và 2008. Số của Việt Nam là số ước thực hiện năm 2010. Số thu từ thuế TNDN của Việt Nam không bao gồm thu từ thuế TNDN dầu thô. Thứ ba, áp lực tăng chi ngân sách ngày càng gia tăng, nhất là chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chi cho đảm bảo an sinh xã hội và xóa đói giảm nghèo, trong khi đó hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn lực NSNN vẫn còn một số hạn chế. Riêng trong lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng nhu cầu đầu tư trong những năm tới cũng là rất lớn. Ngoài việc cần phải có các giải pháp để đa dạng hóa nguồn lực đầu tư, có cơ chế thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân trong phát triển hạ tầng, song dự báo nhu cầu đầu tư từ NSNN vẫn sẽ là khá lớn vì thức tế không phải tất cả các lĩnh vực về phát triển hạ tầng khu vực tư nhân đều có thể tham gia. Việt Nam vẫn đang là quốc gia có chất lượng cơ sở hạ tầng kém nhất so với các nước trong khu vực. Bảng 3. Xếp hạng cạnh tranh và cơ sở hạ tầng 2010-2011 Quốc gia Xếp hạng cạnh tranh Xếp hạng cơ sở hạ tầng Nhật Bản 6 11 Hàn Quốc 22 18 Malaysia 26 30 Trung Quốc 27 50 Thái Lan 38 35 Inđônêsia 60 82 Phi-líp-pin 99 104 Việt Nam 59 83 Nguồn: WEF (2010). Theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2010-2011, cơ sở hạ tầng của Việt Nam hiện đang được xếp hạng rất thấp (thứ 83 trên 139 nước)33. Một chỉ số khác thể hiện sự kém phát triển về cơ sở hạ tầng Việt Nam là chỉ số hoạt động hậu cần (Logistics Performance Index) được Ngân hàng thế giới công bố hàng năm. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới,34 về chất lượng cơ sở hạ tầng (như cảng biển, đường sắt, đường bộ, công nghệ thông tin) Việt Nam xếp thứ 66, thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực như Phi-líp-pin (64), Ấn Độ (47), Thái Lan (36), Ma-lai-xia (28) và Trung Quốc (27). Thực trạng nói trên cho thấy đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng của Việt Nam tiếp tục là một yêu cầu cấp bách. 33 Nguồn: WEF (2010). “The Global Competitiveness Report 2010-2011”. 34 Nguồn: Chỉ số hoạt động hậu cần (Logistics Performance Index), tháng 9/2011. Bên cạnh đó, các khoản chi thường xuyên thường là những khoản chi mà xu hướng tăng dần theo thời gian. Dự báo trong giai đoạn tới, nhu cầu tăng chi ngân sách để giải quyết các vấn đề liên quan đến thực hiện cải cách tiền lương, đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói - giảm nghèo sẽ ngày càng cao. Điều này chắc chắn sẽ tạo ra một số khó khăn nhất định trong việc thực hiện giảm dần mức độ thâm hụt ngân sách đã được đặt ra cho giai đoạn 5 năm tới. Hình 7. So sánh về chỉ số công khai ngân sách của Việt Nam so một số quốc gia (tối đa 100 điểm)36 Anh Pháp Inđônêxia Thái Lan Malaysia Cămpuchia Việt Nam Trung Quốc 0 20 40 60 80 100 Nguồn: Open Budget Survey 2010. Ngoài những vẫn đề phân tích trên, những yếu kém trong cơ chế quản lý cũng đang gây ra một số rào cản đối với việc cơ cấu lại chi NSNN, qua đó từng bước giảm dần thâm hụt. Cơ chế quản lý tài chính công hiện nay còn nhiều bất cập. Hiệu quả quản lý thu chi ngân sách còn hạn chế và chậm được cải thiện. Vấn đề công khai sử dụng và quản lý ngân sách tuy đã được đặt ra song thiếu các chế tài để đảm bảo việc tuân thủ thực hiện nên hiệu quả trên thực tế chưa cao. Theo điều tra của Dự án Đối tác ngân sách Quốc tế - IBP (International Budget Parnership), chỉ số công khai ngân sách (Open budget Index) của Việt Nam năm 2010 xếp thứ 77 trên 94 quốc gia được điều tra (thuộc vào 36 Nguồn: nhóm có mức độ công khai thấp nhất), thấp hơn đáng kể so với các nước trong khu vực như Malaysia, Inđônêxia và Thái Lan37. Thứ tư, tiêu chí xác định các khoản thu, chi ngân sách nhà nước còn một số bất cập, chưa thực hiện theo chuẩn mực quốc tế được thừa nhận chung. Hiện nay một số chỉ tiêu trong hệ thống báo cáo tài khóa ngân sách ở Việt Nam vẫn chưa được thực hiện theo các chuẩn mực quốc tế được thừa nhận chung, ví dụ, Cẩm nang về Thống kê tài chính chính phủ. Một số khoản thu, chi ngân sách vẫn chưa được phản ánh vào cân đối mà còn đề ngoài ngân sách nên trong một số trường hợp không phản ánh chính xác được thực trạng của quy mô thu, chi NSNN, ví dụ như một số khoản phí, lệ phí, thu từ nguồn xổ số kiến thiết, đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu chính phủ... Trong xác định nguồn thu, không có sự phân biệt giữa nguồn thu mang tính chất thuế (không hoàn trả trực tiếp...) với các nguồn thu ngoài thuế (từ tài sản...) để hình thành các phương thức sử dụng phù hợp. Ví dụ, nguồn thu từ dầu thô vẫn đang được gộp chung vào nhóm các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí dưới giác độ là các khoản thu “thường xuyên”. Trong cân đối ngân sách hàng năm có khoản thu kết chuyển và chi chuyển nguồn từ năm ngân sách này sang năm ngân sách sau. Hay nói cách khác, NSNN hàng năm vẫn có thâm hụt trong khi lại vẫn có nguồn chưa chi hết được chuyển sang năm sau. Phân tích trong phần trên cũng đã chỉ ra điểm khác biệt cơ bản trong cách tính thâm hụt NSNN của Việt Nam hiện nay so với thông lệ quốc tế. 37 Nguồn: Vũ Nhữ Thăng (2011). “Cải cách cơ chế quản lý tài chính với sư tham gia của nhân dân trong việc đảm bảo tính công khai, minh bạch tài khóa”. Tham luận tại Hội thảo: “Tăng cường trách nhiệm giải trình, tính công khai, minh bạch tài khóa với sự tham gia rộng rãi của người dân”. Đà Nẵng, tháng 9/2011). Thứ năm, chi phí huy động vốn để bù đắp thâm hụt ngân sách có đang xu hướng tăng những năm gần đây Đối với vay bù đắp thâm hụt từ nguồn nước ngoài của Viêt Nam chủ yếu hiện này là thuộc diện vay ưu đãi về lãi suất và thời hạn vay. Nhưng trong giai đoạn tới, khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thì xu hướng của những khoản vay ưu đãi từ các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài có thể giảm xuống mà thay vào đó là các khoản vay thương mại có xu hướng tăng lên. Vay từ ngước ngoài có thể đi kèm với những ưu thế về công nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến, hiện đại. Nhưng những thách thức, rủi ro cũng không nhỏ khi phải đáp ứng các điều kiện ràng buộc của bên đi vay, rủi ro về tỷ giá. Trong những năm gần đây, mặc dù Việt Nam đang rất nỗ lực để phát triển thị trường vốn trong nước, qua đó tạo ra kênh huy động vốn quan trọng cho Chính phủ cũng như cho khu vực sản xuất kinh doanh. Phân tích ở trên đã cho thấy trong vay bù đắp thâm hụt NSNN, Việt Nam đã thành công trong việc giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài. Tuy nhiên, một thực tế đáng lưu ý hiện nay là chi phí vay vốn trong nước trong những năm qua ở Việt Nam do tác động của lạm phát đã liên tục ở mức khá cao. Chi phí trả lãi các khoản vay của Chính phủ trong những năm qua liên tục tăng. Năm 2006 chi phí trả lãi tiền vay chỉ chiếm khoảng 2,6% tổng chi NSNN thì đến năm 2010 ước lên khoảng 3,8% tổng chi NSNN38. 3. Thâm hụt ngân sách và sự biến động của các biến số kinh tế vĩ mô ở Việt Nam Mối quan hệ giữ thâm hụt ngân sách và các biến số kinh tế vĩ mô khác đã trở thành một trong những vấn đề được bàn luận khả nhiều trong thời gian gần đây. Đặc biệt, có một số ý kiến cho rằng thâm hụt ngân sách cao, kéo dài là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng lạm phát liên tục 38 Tính toán từ số liệu công khai ngân sách của Bộ Tài chính (www.mof.gov.vn). tăng cao và thâm hụt thương mại (nhập siêu) ở mức cao trong những năm gần đây ở Việt Nam. Thực tế là trong những năm gần đây thâm hụt ngân sách ở Việt Nam liên tục ở mức cao. Tuy nhiên, liệu thâm hụt ngân sách có phải là những nguyên nhân chính cho các bất ổn kinh tế vĩ mô gần đây hay không cần phải được nhìn nhận và phân tích trên nhiều phương diện và thực tế để chỉ ra được chính xác vấn đề này cũng không phải là điều đơn giản. Hình 8. Thâm hụt ngân sách, tăng trưởng GDP, thâm hụt thương mại và lạm phát 2001-2010 35,0 30,0 25,0 20,0 15,0 10,0 5,0 0,0  2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Thâm hụt ngân sách (% GDP, theo cách tính của Việt Nam) Tăng trưởng GDP (%) Chỉ số giá CPI (%, tăng so với năm trước) Cán cân thương mại (% xuất khẩu) Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính. Hình 8 và Bảng 4 cho thấy sự biến động của các biến số kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thâm hụt thương mại với thâm hụt NSNN là rất khác nhau (thể hiện thông qua hệ số biến thiên). Hệ số biến thiên (Coefficient Variance) của thâm hụt ngân sách và của tăng trưởng kinh tế thấp hơn đáng kể so với hệ số biến thiên của lạm phát, thâm hụt thương mại. Những thông số này cho thấy xu hướng biến động của các chỉ số kinh tế vĩ mô như thâm hụt ngân sách, tăng trưởng kinh tế, lạm phát trong những năm vừa qua cũng không theo một quy luật cụ thể và rõ ràng nào như lý thuyết kinh tế vĩ mô chỉ ra. Bảng 4. Một số chỉ tiêu thống kê miêu tả của chuỗi số liệu về thâm hụt ngân sách, tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thâm hụt thương mại 1991- 2010 BCVN1 BCVN2 BCQT LP GDP TM Trung bình (Mean) 4,62 6,45 3,65 10,85 7,42 22,26 Trung vị (Median) 4,81 6,37 3,55 7,50 7,56 21,60 Cao nhất (Maximum) 6,9 11,68 8,47 67,6 9,54 53,58 Thấp nhất (Minimum) 2,37 2,37 1,09 -0,60 4,77 -0,15 Độ lệch chuẩn (Std) 1,117 2,26 1,91 14,5 1,34 14,59 Hệ số biến thiên (CV) 0,24 0,35 0,52 1,34 0,18 0,66 Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính. Ghi chú: BCVN1: Thâm hụt theo cách tính Việt Nam (số liệu công bố của Bộ Tài chính) BCVN2: Thâm hụt theo cách tính Việt Nam (bao gồm TPCP và vay về cho vay lại) BCQT: Thâm hụt tính theo theo thông lệ quốc tế LP: Tốc độ lạm phát (CPI) TM: Thâm hụt thương mại Bên cạnh đó, phân tích về mối quan hệ tương quan giữa thâm hụt ngân sách với các biến số kinh tế vĩ mô nói trên cho thấy hệ số tương quan (correlation efficient) giữa thâm hụt ngân sách và các biến số này có giá trị âm (Bảng 5). Điều này cho thấy giữa thâm hụt và các biến số như lạm phát, tăng trưởng kinh tế và thâm hụt thương mại thay đổi ngược chiều nhau, biến này tăng thì biến kia giảm và ngược lại. Tuy nhiên, điều cần lưu ý ở đây là sự tồn tại về mối quan hệ tương quan (chiều thuận hay chiều nghịch) không đồng nghĩa với việc là giữa hai biến số đó có mối quan hệ nhân quả (sự biến động của biến số này này gây ra sự biến động của biến kia). Bảng 5. Hệ số tương quan giữa thâm hụt ngân sách, tăng trưởng, lạm phát và thâm hụt thương mại 1991-2010 BCVN1 BCVN2 BCQT GDP LP TM BCVN1 1,00 BCVN2 0,82 1,00 BCQT 0,74 0,94 1,00 GDP -0,16 -0,28 -0,45 1,00 LP -0,50 -0,44 -0,30 -0,12 1,00 THTM -0,02 -0,08 -0,22 0,54 -0,06 1,00 Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính. Số năm 2010 là số ước Ghi chú: Các biến số được ký hiệu tương tự như trong Bảng 4. Phần dưới đây sẽ trình bày cụ thể về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với một số biến số kinh tế vĩ mô thời gian qua. 3.1. Quan hệ giữa thâm hụt ngân sách với tăng trưởng kinh tế Trong 10 năm qua, mặc dù tình hình kinh tế trong nước và quốc tế diễn biến phức tạp, song Việt Nam vẫn đạt được một số thành tựu về tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2001-2010 là 7,26%, trong đó giai đoạn 2001-2005 bình quân đạt 7,49%, giai đoạn 2006- 2010 đạt 7,02% (Tổng cục Thống kê, 2011). Tăng trưởng kinh tế nhanh đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam gia tăng mức sống của người dân, giảm dần tỷ lệ hộ nghèo. Tính bình quân cả nước, tỷ lệ hộ nghèo trong giai đoạn 2006-2010 đã giảm từ mức 16% xuống 9,45%39, đạt được mục tiêu đề ra trong Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010. Bảng 6. Tốc độ tăng trưởng GDP và thâm hụt ngân sách Giai đoạn Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân (%) Tỷ lệ thâm hụt NSNN bình quân (% GDP) 1991-1995 8,21 4,1 1996-2000 7,00 4,0 2001-2005 7,49 4,9 2006-2010 6,90 5,5 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Tài chính. Số năm 2010 là số ước thực hiện. Hình 9. Tốc độ tăng trưởng GDP và thâm hụt NSNN 2001-2010 (% GDP danh nghĩa) 14,0 12,0 10,0 8,0 6,0 4,0 2,0 0,0  2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Tốc độ tăng trưởng GDP Bội chi (theo cách tính của Việt Nam) Bội chi (theo cách tính của Việt Nam, có bao gồm TPCP, vay về cho vay lại) Bội chi theo thông lệ quốc tế Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Tài chính. Số năm 2010 là số ước thực hiện 39 Tính theo chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010. Nếu tính theo chuẩn nghèo 2011 thì tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam năm 2010 ước cao hơn đáng kể. Phân tích về diễn biến thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam cho thấy trong giai đoạn 2001-2007 có tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt ở mức khá cao so với tốc độ tăng trưởng kinh tế ba năm trở lại đây. Đây cũng là giai đoạn mà trong khi thâm hụt ngân sách tính theo cách tính của Việt Nam tương đối ổn định, chỉ xoay quanh mức xấp xỉ 5% GDP (ngoại trừ năm 2007

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1300_Vien_CLCSTC__Chuyen_de_boi_chi_NSNN.doc
Tài liệu liên quan