Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 170
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN NHIỄM KHUẨN SAU MỔ LẤY THAI 
TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ 
Trần Việt Tân *, Ngô Đức Toàn *, Nguyễn Thị Bạch Tuyết *, Nguyễn Đỗ Nguyên** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Các trường hợp sinh mổ khó đang ngày càng gia tăng ở các bệnh viện tuyến trên, luôn tiềm ẩn 
nguy cơ không an toàn cho sản phụ, trong đó có nhiễm khuẩn sau mổ. Trên thế giới, tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ 
được nghiên cứu ở mức từ 3% đến 15%. Tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ lấy thai tại bệnh viện phụ sản từ 3,3% đến 
5%. Đã có một số nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa các yếu tố tăng nguy cơ NKVM như bệnh lý kèm theo, 
có thủ thuật kèm theo trong mổ lấy thai, thời gian vỡ ối >12 giờ (p<0,05; số lần thăm khám âm đạo, thời gian vỡ ối 
trước mổ, mổ lấy thai cấp cứu và vết mổ cũ dính là có nguy cơ NKVM sau MLT. Mối liên quan giữa các yếu tố 
chuyên môn trong phẫu thuật thủ thuật như: các xử trí kèm theo trong mổ lấy thai, các bất thường trong cuộc 
mổ, các thủ thuật can thiệp xâm lấn trong thời gian hậu phẫu, với nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai chưa 
được nhiều nghiên cứu phân tích. 
Mục tiêu: Xác định các yếu tố tăng nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai. 
Phương pháp: Một nghiên cứu bệnh chứng được chọn từ một đoàn hệ ban đầu là những sản phụ có hộ 
khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh, được mổ lấy thai tại bệnh viện Từ Dũ nhưng chưa bị nhiễm khuẩn. Ca 
bệnh là những trường hợp mới mắc nhiễm khuẩn vết mổ được xác định trong thời gian sau mổ 30 ngày, qua 
các dấu hiệu nhiễm khuẩn được ghi nhận và kết luận nhiễm khuẩn vết mổ dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán 
nhiễm khuẩn vết mổ của CDC theo hướng dẫn của Bộ y tế số 3671 năm 2012. Nhóm chứng được chọn từ 
những người có thời điểm mổ gần nhất với ca nhiễm khuẩn vết mổ của nhóm bệnh. Số liệu nghiên cứu được 
thu thập từ hồ sơ bệnh án trong thời gian bệnh nhân nằm viện sau mổ đến lúc xuất viện và cập nhật đến 
ngày 30 sau mổ. Phân tích đa biến với hồi quy logistic được sử dụng để xác định mối liên quan giữa các yếu 
tố phơi nhiễm với nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai. 
Kết quả: Số mẫu thu thập được gồm 275 sản phụ đáp ứng tiêu chí chọn mẫu với tỷ lệ bệnh: chứng là 1: 4, 
trong đó nhóm bệnh (55), nhóm chứng (220) với các đặc điểm: tuổi trung bình đa số từ 25-dưới 35 tuổi (bệnh 
67% và chứng 70%), đa số làm nghề hành chính văn phòng (bệnh 58% và chứng 55%), tiền sản giật (bệnh 15% 
và chứng 11%), sinh lần 2 trở lên (bệnh 27% và chứng 31%), có bệnh mạn tính (bệnh 24% và chứng 20%). 
Phân bố tỷ lệ các đặc tính mẫu ở 2 nhóm bệnh chứng là tương đương nhau. Sau khi phân tích mối liên quan đơn 
biến giữa các biến số với nhiễm khuẩn vết mổ, bằng phép phân tích hồi qui logistic đa biến, các biến số có giá trị 
p<0,1 được chọn đưa vào mô hình và loại dần các biến số không liên quan. Những yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm 
khuẩn vết mổ: Thời gian phẫu thuật >60 phút với OR=2,7, KTC 95% (1-7,3), p5 
ngày, với OR=8,1, KTC 95% (3,5-18,4), p<0,001; mổ lấy thai khi thai dưới 38 tuần tuổi, với OR=1/0,5=2, KTC 95% 
(1,11-5). 
Kết luận: Cần theo dõi, quản lý chặt chẽ sản phụ mổ lấy thai trong hai tuần đầu sau mổ, đặc biệt từ 
ngày 2-3 sau mổ, và chú ý ở những trường hợp tuổi thai <38 tuần, hoặc thời gian phẫu thuật kéo dài, hoặc 
nằm viện dài ngày. 
Từ khóa: nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai, mối liên quan, yếu tố nguy cơ, bệnh viện Từ Dũ 
*Bệnh viện Từ Dũ 
**Khoa Y Tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: Ths Trần Việt Tân ĐT: 0918231516 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 171
ABSTRACT 
RISK FACTORS FOR SURGICAL SITE INFECTION FOLLOWING CAESAREAN SECTION IN TU DU 
HOSPITAL 
Tran Viet Tan, Ngo Duc Toan, Nguyen Thi Bach Tuyet, Nguyen Do Nguyen 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 170-176 
Background: The more caesarean delivery is complicated the more risk factors make surgical site 
infection following caesarean section in the last level hospital. Rate of surgical site infection following 
ceasarean in obstetric hospitals in Ho Chi Minh city is from 3.3% to 5. There were some studies found the 
relation between surgical site infection after ceasarean and increasing risk factors such as having attacked 
deseas, having additional handling in surgical process, membrane rupter >12h (p<0.05) number of vaginal 
examinations in labor, time of membrane rupter, emergency surgery and sticky old ceasarean scar. 
However, factors of the surgery such as types of additional handling, types of extraordinary in surgical 
process, types of medical invade techniques in post cesarean period have not researched to find out the 
relation with surgical site infection following caesarean section yet. 
Objective: To determine the relationship between rick factors with postcaesarean surgical site infection. 
Methods: A case control study was conducted following a previous cohort study on pregnant women 
living in Ho Chi Minh city who underwent caesarean section in Tu Du hospital form January to July in 
2018. These women did not have infection signs or acquired surgical site infection at the beginning of this 
study. The inclusion criteria enrollment on the study as a case were pregnant who underwent caesarean 
section and having a diagnosis of surgical site infection within 30 days of the obstetric procedure according 
SSI criteria of CDC. Control patients were determined after the caesarean section, four control procedures 
performed at the time nearest to the case’s procedure. Data of the study was collected from clinical records for 
duration of hospitalization and updated infected situation untill the thirtieth day after caesarean delivery. 
Multivariate logistic regression analysis was used to determine the relation between explored factors 
with postcaesarean surgical site infection. 
Resutls: Factors make inreasing surgical site infection following caesarean: duration of labor >60 mins 
(OR=2.7, CI 95% (1-7.3), p5days (OR=8.1, CI 95% (3.5-18.4), 
p<0.001); Gestational age <38 weeks (OR=1/0.5=2, CI 95% (1.11-5), p<0.05) 
Conclusion: Women who had caesarean sections need to be closely monitored and controled during the fisrt 
two weeks of postcaesarean, especially at the second or third day. Pay attention to gestational age <38 weeks cases 
or prolonged labor, or long time duration of hospitalization. 
Key words: postcaesarean surgical site infection, relation, rick factor, Tu Du hospital 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai là một 
trong những tai biến ngoại khoa, lĩnh vực ngoại 
sản. Việc nhiễm khuẩn vết mổ đối với sản phụ 
mổ bắt con sẽ làm suy giảm sức khỏe, tâm lý và 
thậm chí nguy hiểm đến tính mạng của họ. Khi 
người mẹ bị nhiễm khuẩn và phải dùng kháng 
sinh, việc chăm sóc các bé sẽ bị hạn chế và đặc 
biệt là bị hạn chế việc nuôi con bằng sữa mẹ. 
Bệnh viện Từ Dũ là bệnh viện tuyến cuối khu 
vực phía Nam chuyên khoa sản, có tỷ lệ mổ lấy 
thai trung bình khoảng hơn 40% trên tổng số 
sinh. Các yếu tố nguy cơ làm tăng nhiễm khuẩn 
vết mổ sau mổ lấy thai được chia thành 3 nhóm: 
- yếu tố liên quan đến thai phụ, - yếu tố liên 
quan thai kỳ, - yếu tố liên quan cuộc mổ(4). Đối 
với các trường hợp mổ có các bất thường trong 
cuộc mổ như chảy máu nhiều, dính nhiều, nhau 
tiền đạo, tiền sản giật, ối vỡ lâu, vỡ tử cung 
phải mất nhiều thời gian cho cuộc mổ làm tăng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 172
khả năng nhiễm khuẩn vết mổ(5), có thêm các xử 
trí phát sinh như thắt động mạch cầm máu, may 
cầm máu, may phục hồi tử cung, bóc tách gỡ 
dính, bóc nhau bằng tay, bóc u nang u xơ, tất 
cả các yếu tố này tiềm ẩn khả năng gây nhiễm 
khuẩn sau mổ lấy thai nên cần được khảo sát 
mối liên quan với nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai 
để tìm ra giải pháp sớm kiểm soát làm giảm tỷ lệ 
nhiễm khuẩn sau mổ. 
PHƯƠNG PHÁP 
Một nghiên cứu bệnh chứng được chọn từ 
một đoàn hệ ban đầu là những sản phụ có hộ 
khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh, được mổ lấy 
thai tại bệnh viện Từ Dũ từ tháng 01/03/2018 
đến 30/06/2018 nhưng chưa bị nhiễm khuẩn 
sau mổ lấy thai. Để có 80% cơ hội, ở mức ý 
nghĩa 5%, giả định rằng yếu tố liên quan làm 
tăng nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ lấy 
thai gấp 2,5 lần, với tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ 
lấy thai tại bệnh viện Từ Dũ là 5%(3), tỷ số 
bệnh:chứng là 1:4, tính được: 
Yếu tố quan 
tâm trong cuộc 
mổ lấy thai 
(P2) Tỉ lệ phơi 
nhiễm ở nhóm 
không NKVM 
Nhóm 
bệnh 
Nhóm 
chứng 
Mẫu bệnh 
chứng 
Cấp cứu (*) 61,40% 65 259 324 
Thời gian mổ 
>60 phút (*) 17,70% 55 218 273 
Chọn cỡ mẫu bệnh = 55 và chứng = 218. 
Nhóm bệnh là những trường hợp mới mắc 
nhiễm khuẩn vết mổ được xác định qua các 
dấu hiệu nhiễm khuẩn hoặc kết luận của bác sĩ 
điều trị được ghi nhận trong hồ sơ bệnh án và 
kết luận nhiễm khuẩn vết mổ dựa vào tiêu 
chuẩn chẩn đoán nhiễm khuẩn vết mổ của 
CDC trong Hướng dẫn của Bộ y tế tại Quyết 
định số 3671/QĐ-BYT ngày 27/9/2012. Nhóm 
chứng được chọn từ những người có thời điểm 
mổ gần nhất với ca nhiễm khuẩn vết mổ của 
nhóm bệnh dựa trên danh sách giờ mổ của sản 
phụ trong đoàn hệ được liệt kê theo ngày giờ 
mổ. Ghi nhận tình trạng nhiễm khuẩn sau mổ: 
được ghi nhận dựa vào kết luận của bác sĩ 
điều trị hoặc các triệu chứng được ghi nhận 
sau đó xác định nhiễm khuẩn dựa vào tiêu chí 
chẩn đoán theo định nghĩa biến số trong suốt 
quá trình sản phụ nằm viện đến lúc xuất viện. 
Tình trạng nhiễm khuẩn sau mổ của sản phụ 
được cập nhật nếu sau xuất viện trong vòng 30 
ngày có bất thường liên quan đến vết mổ và 
quay lại bệnh viện, khoa đã điều trị để được 
khám (thông tin được ghi vào sổ tái khám của 
khoa và được cộng sự phản hồi cho chủ nhiệm 
đề tài) hoặc sản phụ thông báo cho nghiên cứu 
viên qua số điện thoại đã được cung cấp ghi 
trên phiếu đồng thuận. Ghi nhận không nhiễm 
khuẩn: Sau mổ 30 ngày nếu sản phụ không có 
nhiễm khuẩn khi nằm viện, không có bất 
thường gì phải quay lại tái khám hoặc không 
thông báo tình trạng nhiễm khuẩn cho nghiên 
cứu viên qua điện thoại thì được ghi nhận là 
không nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai. 
Biến số phơi nhiễm chính gồm: - Biến số 
liên quan đến phẫu thuật: bất thường lúc mổ 
(bất thường ối, bất thường nhau, dính, 
rách/thủng thêm, khác), xử trí kèm theo mổ lấy 
thai (dẫn lưu, cắt tử cung, đoạn sản/cắt phần 
phụ, thắt động mạch cầm máu, gỡ dính, may 
diện nhau bám, bóc u nang nhân xơ, bóc nhau 
bằng tay, khác), can thiệp xâm lấn trước nhiễm 
khuẩn: (dẫn lưu thành bụng, dẫn lưu âm đạo, 
nạo hút lòng tử cung, khác), hình thức phẫu 
thuật (Cấp cứu, Không cấp cứu), thời gian 
phẫu thuật (< 60 phút; ≥ 60 phút), lượng máu 
mất (1000ml); - Biến 
số tiền sử bệnh và sản khoa: số lần mang thai, 
tuổi thai (<38 tuần, ≥38 tuần), tiền sản giật, tiền 
sử mổ lấy thai, thời gian vỡ ối (<12 giờ và ≥12 
giờ), bệnh mãn tính kèm theo (tim mạch; tiểu 
đường; HIV; bệnh lý máu, bệnh khác), biến số 
số ngày điều trị (=10 ngày). 
Dữ kiện được nhập bằng phần mềm Epidata 
3.1, và phân tích bằng phần mềm Stata 13.0. Mối 
liên quan đơn biến được xác định với phép kiểm 
chi bình phương, phép kiểm chính xác Fisher 
hoặc hồi quy logistic khi biến số phơi nhiễm trên 
2 giá trị. Xác định mối liên quan độc lập với 
nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai của các biến số 
phơi nhiễm bằng cách đưa vào mô hình hồi qui 
logistic đa biến những biến số có mối liên quan 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 173
đơn biến với mức ý nghĩa thống kê p≤0,1. Mức 
độ kết hợp được ước lượng với tỉ số số chênh 
(OR: odds ratio), và khoảng tin cậy (KTC) 95% 
của OR. 
Đề cương nghiên cứu được thông qua bởi 
Hội đồng Y đức của Đại học Y Dược thành phố 
Hồ Chí Minh số 28/ĐHYD-HĐ ngày 25/01/2018. 
KẾT QUẢ 
Kết quả phân tích mối liên quan đơn biến 
từ bảng 1 đến bảng 4 tìm được các yếu tố nguy 
cơ liên quan đến nhiễm khuẩn vết mổ với giá 
trị p<0,1. Bảng 1: tuổi thai, vết mổ cũ, tiền sử 
mổ lấy thai; Bảng 2: hình thức phẩu thuật, xử 
trí kèm theo, bất thường lúc mổ, thời gian 
phẫu thuật, mất máu; Bảng 3: can thiệp xâm 
lấn trước mổ, loại can thiệp xâm lấn; Bảng 4: 
thời gian nằm viện. 
Bảng 1. Mối liên quan giữa các yếu tố về tiền sử sản khoa, thời gian vỡ ối với nhiễm khuẩn vết mổ lấy thai, tần 
số và (%), (n=275) 
Đặc tính Bệnh (n=55) Chứng (n=220) P OR (KTC 95%) 
Tuổi thai 
<38 tuần 19 (35) 33 (15) 0,001 3 (1,4-6,1) 
Vết mổ cũ 
-Không 38 (69) 112 (51) 0,01 2 (1,1-4,3) 
Tiền sử mổ lấy thai 
-Không VM lấy thai 43 (78) 124 (56) <0,01 3 (1,3-6,1) 
Vỡ ối 
-Có 19 (35) 74 (34) 0,9 1,04 (0,5-2,0) 
Thời gian vỡ ối (*) 
Chưa vỡ 36 (65) 146 (66) 1 
Ối vỡ không rõ giờ 1 (12) 4 (2) 1 1,01 (0,1-9,3) 
≤12 giờ 10 (18) 43 (20) 0,9 0,9 (0,4-2,1) 
>12 giờ 8 (15) 27 (12) 0,7 1,2 (0,5-2,8) 
* Hồi quy logistic 
Bảng 2. Mối liên quan giữa các yếu tố của cuộc mổ lấy thai với nhiễm khuẩn mổ lấy thai, tần số và (%), (n=275) 
Đặc tính Bệnh (n=55) Chứng (n=220) p OR KTC 95% 
Hình thức phẫu thuật 
Cấp cứu 23 (42) 65 (30) 0,1 1,7 (0,9-3.3) 
Xử trí kèm theo mổ lấy thai 
-Có 17 (31) 58 (26) 0,5 1,2 (0,7-2,4) 
Xử trí kèm theo (*) 
Cầm máu 14 (25) 37 (17) 0,1 1,7 (0,8-3,6) 
 Xử trí khác (gỡ dính, dẫn lưu, cắt đốt cầm máu, khâu vết 
thủng cơ tử cung,..) 
10 (18) 31 (14) 0,4 1,4 (0,6-3,1) 
Bất thường lúc mổ 
-Không 38 (69) 148 (67) 0,8 1,1 (0,5-2,2) 
Loại bất thường lúc mổ (*) 
Bất thường ối 3 (5) 17 (8) 0,8 0,7 (0,1-2,6) 
Bất thường nhau 4 (7) 17 (8) 1 0,9 (0,2-3,0) 
Dính 3 (5) 30 (14) 0,1 0,4 (0,1-1,3) 
Rách, thủng nội tạng 1 (2) 2 (1) 0,5 2 (0,03-39) 
Khác (dịch ổ bụng, chảy máu nhiều, nhân xơ tử cung,..) 10 (18) 18 (8) 0,03 2,5 (1,0-6,0) 
Thời gian PT 
≥60 phút 10 (18) 18 (8) 0,03 2,5 (1,0-6,0) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 174
Đặc tính Bệnh (n=55) Chứng (n=220) p OR KTC 95% 
Mất máu 
500-1000ml 5 (9) 6 (3) 0,04 3,6 (1,0-12) 
Đường mổ (**) 
Dọc bụng 2 (4) 4 (2) 0,3 2 (0,18-14) 
* Hồi quy logistic, ** Phép kiểm chính xác Fisher. 
Bảng 3. Mối liên quan giữa các yếu tố can thiệp thủ 
thuật trước khi nhiễm khuẩn vết mổ lấy thai, tần số 
và (%), (n=275) 
Đặc tính Bệnh 
(n=55) 
Chứng 
(n=220) 
p OR KTC 95% 
Can thiệp xâm lấn trước nhiễm khuẩn 
-Có (**) 8 (15) 3 (1) 0,001 12 (2,8-73) 
Loại can thiệp xâm lấn 
Dẫn lưu (**) 3 (5) 2 (1) 0,056 6 (0,7-76) 
Hút nạo lòng 
tử cung (**) 
5 (9) 1 (0,5) 0,001 21 (2,3-1040) 
** Phép kiểm chính xác Fisher 
Bảng 4. Mối liên quan giữa thởi gian nằm viện với 
nhiễm khuẩn vết mổ lấy thai, tần số và (%), (n=275) 
Đặc tính Bệnh 
(n=55) 
Chứng 
(n=220) 
p OR (KTC 
95%) 
Thời gian nằm viện 
>5 ngày 47 (85) 75 (34) 0,001 11 (5-29) 
Bảng 5. Những yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn vết 
mổ sau mổ lấy thai, (n=275) 
Nhiễm khuẩn vết mổ lấy thai (#) Giá trị p OR KTC 95% 
Tuổi thai >38 tuần so với tuổi thai ≤ 
38 tuần 
0,042 0,5 0,2-0,9 
Tiền sử mổ lấy thai (có) 0,092 0,5 0,2-1,1 
Thời gian phẫu thuật >60 phút 0,049 2,7 1,0-7,3 
Thời gian nằm viện > 5ngày <0,001 8,1 3,5-18,4 
Có hút nạo lòng TC trước nhiễm 
khuẩn 
0,061 8,2 0,9-73,6 
(#): Hồi qui logistic đa biến 
Bằng phép phân tích hồi qui logistic đa 
biến, các biến số có giá trị p<0,1 được chọn đưa 
vào mô hình và loại dần các biến số không liên 
quan. Kết quả cho thấy mối liên quan có ý 
nghĩa thống kê giữa nhiễm khuẩn vết mổ với 
các yếu tố tuổi thai OR=0,5 (KTC95%:0,2-0,9) 
p=0,04; thời gian phẫu thuật OR=2,7 
(KTC95%:1,0-7,3) p=0,04; thời gian nằm viện 
OR=8,1 (KTC95%: 3,5-18,4) p<0,001. 
BÀN LUẬN 
Những yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn vết 
mổ sau mổ lấy thai sau khi phân tích đa biến 
Thời gian nằm viện kéo dài 
Kết quả phân tích đa biến cho thấy những 
sản phụ mổ lấy thai có thời gian nằm viện lâu 
hơn 5 ngày có nguy cơ bị nhiễm khuẩn vết mổ 
gấp 8,1 lần so với sản phụ mổ lấy thai nằm viện 
<5 ngày. Một trong những hậu quả của nhiễm 
khuẩn là tăng số ngày nằm viện điều trị. Nghiên 
cứu của Vũ Duy Minh(6) có thời gian điều trị 
trung bình sau mổ lấy thai là 6,7 ngày. Trong 
nghiên cứu của tác giả Farret TC tại Brazil(1) thời 
gian nằm viện trung bình của nhóm bệnh là 
5,5±5,0; nhóm chứng 3,5±1,9, với nguy cơ 
OR=1,23 (KTC95%:1,07-1,40) (p=0,002) là thấp 
hơn. Theo tác giả Hanan Hussein Jasim nghiên 
cứu tại Malaysia(2) thời gian nằm viện trên 4 
ngày ở nhóm bệnh là chiếm 42,7% và ở nhóm 
không bệnh chiếm 24,6% với nguy cơ OR=0,439 
(KTC 95%:0,26-0,74) (p=0,002), nằm viện dưới 4 
ngày sẽ giảm nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ 50%. 
Thời gian phẫu thuật kéo dài 
Kết quả phân tích đa biến cho thấy sản phụ 
trải qua cuộc mổ lấy thai ≥60 phút có nguy cơ 
nhiễm khuẩn vết mổ cao gấp 2,7 lần những 
người mổ trong <60 phút. Kết quả này tương tự 
nghiên cứu của Lê Thị Thu Hà tại bệnh viện Từ 
Dũ năm 2016(3) cho kết quả người có thời gian 
mổ lấy thai ≥60 phút có nguy cơ nhiễm khuẩn 
vết mổ cao gấp 3,7 lần những người mổ trong 
<60 phút với (OR=3,7; KTC95%: 3,2-11,4; p<0,05), 
cao hơn so với nghiên cứu của các tác giả Trần 
Thạch Sơn tại bệnh viện Hùng Vương với nguy 
cơ nhiễm khuẩn vết mổ gấp 2,4 lần(5), nghiên cứu 
của tác giả C Wloch tại Anh(7) cho kết quả không 
có sự khác biệt lớn giữa nhiễm khuẩn bệnh viện 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 175
với thời gian phẫu thuật, các mốc thời gian phẫu 
thuật được chia gồm 40-<50 phút (OR=1,2), 50-70 
phút (OR=1,34), >70 phút (OR=0,98), tuy nhiên 
giá trị p>0,05, không có ý nghĩa thống kê. 
Tại bệnh viện Từ Dũ, mặc dù có đội ngũ bác 
sĩ phẫu thuật viên giàu kinh nghiệm, tuy nhiên 
do là tuyến cuối chuyên ngành sản phụ khoa 
phía Nam nên tiếp nhận những ca bệnh khó, có 
những bất thường kèm theo nên phải xử trí cần 
thêm thời gian nên thời gian mổ đôi khi sẽ dài 
hơn so với ca mổ lấy thai đơn thuần. Ngoài ra, 
bệnh viện có chức năng giảng dạy, hướng dẫn 
cho các bác sĩ học chuyên ngành sản và các bác sĩ 
trẻ của bệnh viện, tay nghề, thao tác cẩn thận 
hơn nên thời gian kéo dài hơn. Mối liên quan 
này trong một số nghiên cứu khác cho kết quả 
không có ý nghĩa thống kê, có thể do mẫu nhỏ, 
như nghiên cứu của tác giả C Wloch tại Anh(7) 
phân chia nhiều khoảng cắt thời gian mổ nên tần 
số bị chia nhỏ, có thể vì vậy nên không có ý 
nghĩa thống kê. 
Tuổi thai dưới 38 tuần 
Trong nghiên cứu của tác giả C Wloch tại 
Anh(7) cho thấy không có sự khác biệt lớn về 
nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai ở tuần<37 
so với tuần 37-40 (OR=0,8), >40 tuần so với tuần 
37-40 (OR=1,13), tuy nhiên không có ý nghĩa 
thống kê với p>0,05. Nghiên cứu của Farret tại 
Brazil với điểm cắt tuổi thai là 38 tuần cho thấy 
không có sự khác biệt về nhiễm khuẩn vết mổ 
lấy thai (OR=0,99)(1). Theo kết quả phân tích đa 
biến (Bảng 5), sau khi kiểm soát các yếu tố “tiền 
sử mổ lấy thai”, “thời gian phẫu thuật >60 phút”, 
“thời gian nằm viện >5 ngày”, “có hút lòng TC 
trước nhiễm khuẩn” thì những sản phụ khi mổ 
lấy thai có tuổi thai từ 38 tuần trở lên giảm nguy 
cơ nhiễm khuẩn vết mổ 50% so với mổ lấy thai ở 
tuần tuổi < 38 tuần và sự khác biệt là có ý nghĩa 
thống kê. Những trường hợp mổ lấy thai khi 
thai còn non tháng có thể do bệnh lý của mẹ, và 
những tình trạng bệnh lý kèm theo của mẹ, thí 
dụ, đái tháo đường, và chính những bệnh lý 
kèm theo đó có thể là những yếu tố nguy cơ của 
nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai. 
Có hút nạo lòng tử cung trước nhiễm khuẩn 
Mối liên quan giữa nhiễm khuẩn vết mổ với 
biến số hút nạo lòng tử cung ít tìm thấy trong các 
nghiên cứu. Kỹ thuật can thiệp này thường để 
xử trí các trường hợp bị ứ dịch lòng tử cung hoặc 
sót nhau. Trong trường hợp nếu thực hiện thủ 
thuật không đảm bảo về nguyên tắc kiểm soát 
nhiễm khuẩn hoặc hút nạo không triệt để hoặc 
gây tổn thương lòng tử cung sẽ là cơ hội cho 
nhiễm khuẩn xảy ra. Kết quả phân tích đa biến 
(Bảng 5) cho thấy có hút nạo lòng tử cung trước 
khi xảy ra nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai 
có liên quan rất mạnh với nguy cơ nhiễm khuẩn 
vết mổ, với OR điều chỉnh=8,2. Với KTC 95% của 
OR điều chỉnh (0,9-73,6), và p=0,06, cho thấy sự 
khác biệt chưa đạt ý nghĩa thống kê là do mẫu 
nghiên cứu chưa đủ lớn để phân tích mối liên 
quan này. 
Hạn chế của nghiên cứu 
Sai lệch chọn lựa 
Bệnh và chứng cùng được chọn trong cùng 
một dân số hạn chế những biến số gây nhiễu 
tiềm ẩn, bảo đảm khả năng so sánh được giữa 
hai nhóm. Nghiên cứu đã khu trú chọn đối 
tượng là những người có hộ khẩu, và cư ngụ tại 
thành phố Hồ Chí Minh để giảm thiểu khả năng 
mất theo dõi, tuy nhiên, nghiên cứu đã không 
chủ động tiếp cận với đối tượng nghiên cứu sau 
khi họ xuất viện, do đó, có khả năng không phát 
hiện được một số ca nhiễm khuẩn nhẹ nên sản 
phụ đã không trở lại tái khám, có thể bị ước 
lượng non của tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ 
lấy thai. 
Sai lệch thông tin 
Biến số kết cuộc là nhiễm khuẩn vết mổ sau 
mổ lấy thai được ghi nhận khi có các ca quay lại 
tái khám, hoặc từ cuộc gọi điện thoại của sản 
phụ do có vấn đề sau hậu phẫu. Nội dung này 
được cộng tác viên là mạng lưới KSNK (hộ sinh 
trưởng các khoa) ghi nhận và báo cáo cho chủ đề 
tài hoặc cộng sự. Việc đánh giá tình trạng nhiểm 
khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai do bác sĩ của bệnh 
viện Từ Dũ căn cứ trên những tiêu chí lâm sàng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 176
và cận lâm sàng (xét nghiệm vi sinh). Ngoài ra 
trên phiếu thu thập số liệu, có yêu cầu ghi ngày 
và triệu chứng khi nhiểm khuẩn để kiểm soát 
tính đúng của ghi nhận nhiễm khuẩn vết mổ. 
Xếp lộn nhóm bệnh là ít có khả năng xảy ra. 
Với những biến số phơi nhiễm, những biến 
số kiểm soát, việc thu thập số liệu trong 
nghiên cứu phần lớn từ hồ sơ bệnh án nên có 
thể xảy ra sai lệch thông tin do giá trị của số 
liệu thứ cấp. Khả năng này, nếu có, là thấp, vì 
hầu hết những thông tin lâm sàng là do những 
bác sĩ có trình độ chuyên môn vững. Hậu quả 
của sai lệch thông tin là xếp lộn nhóm, và nếu 
có sai lệch thông tin do chất lượng của số liệu 
thứ cấp thì khả năng xếp lộn nhóm là như 
nhau giữa hai nhóm bệnh và chứng, đưa đến 
việc ước lượng non của OR. Tuy nhiên, kết quả 
phân tích đa biến cho thấy sức mạnh kết hợp 
giữa nhiểm khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai với 
các biến số phơi nhiễm là rất mạnh, do đó, nếu 
không có xếp lộn nhóm thì sức mạnh này còn 
lớn hơn, khẳng định được giá trị của kết quả 
nghiên cứu. 
Kiểm soát nhiễu 
Việc kiểm soát những biến số gây nhiễu 
được thực hiện với những phương pháp phân 
tích phù hợp, và với cỡ mẫu hạn chế của nhóm 
bệnh, 55 trường hợp nhiễm khuẩn vết mổ sau 
mổ lấy thai, số biến số kiểm soát được đưa vào 
trong phân tích đa biến là không quá 6. Những 
biến số được đưa vào kiểm soát, bước đầu 
phải dựa vào nguyên tắc toán học là có ý nghĩa 
thống kê trong phân tích đơn biến dưới 0,10, 
tuy nhiên, vẫn ưu tiên với những biến số có ý 
nghĩa lâm sàng, thí dụ, có hút nạo lòng tử 
cung. Kết quả phân tích đa biến có thể chưa 
phát hiện được hết những yếu tố nguy cơ của 
nhiễm khuẩn vết mổ sau mố lấy thai, nhưng 
với những biến số đã được xác định thì kết 
quả là tin cậy. 
Nghiên cứu chưa khảo sát được hết các yếu 
tố liên quan đến nhiễm khuẩn vết mổ như: sự 
tuân thủ các qui trình rửa âm hộ và sát khuẩn da 
bụng trước mổ, các yếu tố về dinh dưỡng của 
sản phụ sau mổ lấy thai, tình trạng tăng cân 
trong thai kỳ, chế độ dinh dưỡng trong thời gian 
hậu phẫu. Đây sẽ là định hướng cho những 
nghiên cứu tiếp theo. 
KẾT LUẬN 
Những yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn 
vết mổ sau mổ lấy thai tại bệnh viện Từ Dũ 
bao gồm: 
Thời gian phẫu thuật >60 phút với OR=2,7, 
KTC 95% (1-7,3), p<0,05. 
Thời gian nằm viện >5 ngày, với OR=8,1, 
KTC 95% (3,5-18,4), p<0,001 
Mổ lấy thai khi thai dưới 38 tuần tuổi, với 
OR=1/0,5=2, KTC 95% (1,11-5),p<0,05. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Farret TC (2012). Risk factors for surgical site infection 
following cesarean section on Brazilian women’s Hospital: a 
case-control study. 
2. Jasim HH (2017). Incidence and Risk Factors of Surgical Site 
Infection Among Patients Undergoing Cesarean Section - 
Clinical Medicine Insights: Therapeutics , 9: p. 1–7. 
3. Lê Thị Thu Hà (2016). Yếu tố nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ sau 
mổ lấy thai tại Bệnh viện Từ Dũ” - Tạp chí Y học Việt Nam, tập 
443 – tháng 6 – Số 2 -2016, trang 9-12. 
4. Rubin RH (2006). Surgical wound infection: epidemiology, 
pathogenesis, diagnosis and management. BMC Infect Dis; 
6:171. 
5. Tran Thach Son (2000). Risk factors for postcesarean surgical 
site infection. Obstet Gynecol. 2000;95(3):367–371. 
6. Vũ Duy Minh (2009). Tỷ lệ nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai và các 
yếu tố liên quan tại bệnh viện Từ Dũ năm 2009. Bệnh viện Từ 
Dũ, đề tài cấp cơ sở, trang 6 – 7. 
7. Wloch C (2012). Risk factor for surgical site infection following 
caesrean section in England: result from a multicentre cohort 
study. The Authors BJOG An International Journal of Obstetrics 
and Gynaecology 2012 RCOG, pages 1324 – 1332. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019