Bài giảng Điểm mạnh của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tài liệu Bài giảng Điểm mạnh của các ngân hàng thương mại Việt Nam: 3. Điểm mạnh của các NHTMVN  Thứ nhất, VN có chế độ chính trị ổn định và được đánh giá là điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư. Trong điều kiện thế giới hiện nay diễn ra các xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố,… thì sự ổn định về hệ thống chính trị là thế mạnh trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước.  Thứ hai, Đảng, Chính phủ luôn quan tâm đến việc lành mạnh hoá hệ thống tài chính và hiện đại hoá hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước với chức năng là cơ quan đại diện của Chính phủ VN đã phối hợp với các bộ ngành trong việc nghiên cứu ký kết và xúc tiến được nhiều chương trình  hỗ trợ tài chính từ các tổ chức quốc tế. Quan hệ song phương và đa phương giữa Ngân hàng Nhà nước VN với các cơ quan, tổ chức của nhiều nước và vùng lãnh thổ được phát triển tích cực. Ngân hàng Nhà nước đã tích cực tham gia các hoạt động nhằm đẩy mạnh sự hợp tác về tài chính – ngân hàng với các tổ chức tài chính đa phương như ASEAN, APEC và WTO.  Thứ ba, NHTMVN có số lượng khách hàng tuyền thống đa...

doc36 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng Điểm mạnh của các ngân hàng thương mại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3. Điểm mạnh của các NHTMVN  Thứ nhất, VN có chế độ chính trị ổn định và được đánh giá là điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư. Trong điều kiện thế giới hiện nay diễn ra các xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố,… thì sự ổn định về hệ thống chính trị là thế mạnh trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước.  Thứ hai, Đảng, Chính phủ luôn quan tâm đến việc lành mạnh hoá hệ thống tài chính và hiện đại hoá hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước với chức năng là cơ quan đại diện của Chính phủ VN đã phối hợp với các bộ ngành trong việc nghiên cứu ký kết và xúc tiến được nhiều chương trình  hỗ trợ tài chính từ các tổ chức quốc tế. Quan hệ song phương và đa phương giữa Ngân hàng Nhà nước VN với các cơ quan, tổ chức của nhiều nước và vùng lãnh thổ được phát triển tích cực. Ngân hàng Nhà nước đã tích cực tham gia các hoạt động nhằm đẩy mạnh sự hợp tác về tài chính – ngân hàng với các tổ chức tài chính đa phương như ASEAN, APEC và WTO.  Thứ ba, NHTMVN có số lượng khách hàng tuyền thống đa dạng, với số lượng nhiều và được phục vụ bởi hệ thống rộng khắp ở 64 tỉnh thành. Mạng lưới phục vụ được trải dài từ Bắc đến Nam, từ miền xuôi lên miền ngược đầy là lợi thế rất lớn đối với hệ thống NHTMVN khi cung ứng sản phẩm dịch vụ của mình cho khách hàng.  Thứ tư, người VN xưa nay có truyền thống hiếu học, cần cù, thông minh, chịu khó. Do đó, đây là yếu tố thuận lợi trong việc tiếp thu công nghệ mới của khu vực và thế giới. Ngoài ra, chi phí lao động ở VN rất thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.  4. Điểm yếu của các NHTMVN  Thứ nhất, hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ nhất quán,..và một trong những thách thức lớn trong tiến trình hội nhập. Hội nhập quốc tế làm tăng giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong khi đó cơ chế quản lý và hệ thống thông tin tỷ giá, giá cả của ngân hàng còn rất sơ khai, không phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa có hiệu quả và hiệu lực để đảm bảo việc tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật về ngân hàng và sự an toàn của hệ thống ngân hàng.  Thứ hai, quy mô về vốn của các ngân hàng thương mại VN còn nhỏ, quy mô về tín dụng chưa cao, trình độ công nghệ, trình độ quản lý của các NHTMVN còn thấp. Nhóm NHTM nhà nước tuy chiếm gần 70% tổng nguồn vốn huy động và gần 80% thị phần tín dụng nhưng chỉ có tổng số vốn tự có chưa tới 1 tỷ USD, từng NHTM trong nhóm các NHTM nhà nước đạt tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản chưa tới 5% (thông lệ tối thiểu của ngân hàng quốc tế đạt tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản là 8%). Khối NHTM cổ phần với 36 ngân hàng chỉ chiếm 11% tổng nguồn vốn huy động và 10% thị phần tín dụng. Nhóm chi nhánh các ngân hàng nước ngoài và liên doanh (30 ngân hàng) có tiềm lực khá mạnh với 30% vốn chủ sở hữu trong hệ thống NHTM đang hoạt động tại VN nhưng nhìn chung họ có ưu thế hơn các NHTMVN về công nghệ, loại hình dịch vụ, chiến lược khách hàng, hiệu quả hoạt động và chất lượng tài sản.   Thứ ba, dịch vụ ngân hàng của các NHTMVN, còn đơn điệu, nghèo nàn, tính tiện ích chưa cao, chưa tạo thuận lợi và bình đẳng cho khách hàng thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ khách hàng. Tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu tạo thu nhập cho các ngân hàng, các nghiệp vụ như môi giới, thanh toán dịch vụ qua ngân hàng, môi giới kinh doanh, tư vấn dự án chưa phát triển. Cho vay theo chỉ định của Nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tín dụng của NHTMVN. Việc mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có những chuyển biến tích cực nhưng còn nhiều vướng mắc. Hầu hết các chủ trang trại và các công ty tư nhân khó tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng và vẫn phải huy động vốn bằng các hình thức khác. Bên cạnh đó, một số loại hình nghiệp vụ mới chưa được thực hiện tại VN hoặc chưa có quy định điều chỉnh nhưng đã được cam kết tại hiệp định cho phép các ngân hàng nước ngoài được thực hiện, sẽ buộc NHNNVN phải khẩn trương nghiên cứu và sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các nghiệp vụ mới.  Thứ tư, đội ngũ lao động của các NHTMVN khá đông nhưng trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng các yêu cầu trong quá trình hội nhập. Không có hệ thống khuyến kích hợp lý để thu hút nhân tài và áp dụng công nghệ hiện đại. Cơ cấu tổ chức trong nội bộ nhiều NHTM còn lạc hậu, không phù hợp với chuẩn mực quản lý hiện đại đã được áp dụng phổ biến nhiều năm nay ở các nước.  Thứ năm, phần lớn các NHTM thiếu chiến lược kinh doanh hiệu quả và bền vững. Hoạt động kiểm tra kiểm toán nội bộ cón yếu, thiếu tính độc lập hệ thống thông tin báo cáo tài chính, kế toán và thông tin quản lý còn chưa đạt tới chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Đặc biệt là các NHTM Nhà nước là tình trạng nợ xấu khá phổ biến, mặc dù đã cố gắng khắc phục nhưng hiện nay tỷ nợ nợ xấu khoảng 4,1%. Ngoài ra, tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng mặc dù đã được nâng lên từ 3,5% lên 5% nhưng vẫn chưa đạt tới các tiêu chuẩn quốc tế.  5. Chiến lược cho các NHTMVN trong tiến trình hội nhập  Thông qua phân tích ma trận SWOT, theo chúng tôi các NHTMVN cần thực hiện các chiến lược sau:  Một là, trong quá trình hội nhập quốc tế, VN cần phải xây dựng một hệ thống ngân hàng có uy tín, có khả năng cạnh tranh, hoạt động có hiệu quả, an toàn, có khả năng huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư  đáp ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu lực, đảm bảo sự bình đẳng an toàn cho mọi tổ chức hoạt động dịch vụ ngân hàng tài chính trên lãnh thổ VN.  Hai là, xây dựng các qui chế quản lý và hoạt động phù hợp với chuẩn mực quốc tế như quản trị rủi ro, quản trị nguồn vốn, kiểm tra kiểm toán nội bộ, xây dựng quy trình tín dụng hiện đại và sổ tay tín dụng, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ chỉ số an toàn và hiệu quả kinh doanh ngân hàng phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn VN.  Ba là, mở cửa thị trường trong nước trên cơ sở xoá bỏ dần các giới hạn về số lượng, loại hình tổ chức, phạm vi hoạt động, tỷ lệ góp vốn của nước ngoài, đảm bảo quyền kinh doanh của các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết đa phương và song phương.  Bốn là, đổi mới mô hình tổ chức bộ máy của các NHTM, trước hết là NHTM quốc doanh. Một nội dung quan trọng trong đề án tái cơ cấu là đổi mới tổ chức bộ máy theo hướng NHTM hiện đại. Về phương diện quản lý, đối với NHTM quốc doanh cần theo hướng như doanh nghiệp hạng đặc biệt theo hướng mô hình tập đoàn. Từng bước đổi mới cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, chức năng của hệ thống NHNN nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả điều hành vĩ mô của NHNN, nhất là việc thiết lập, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia và trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các trung gian tài chính. Trước hết, thực hiện tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo các đề án đã được chính phủ phê duyệt và phù hợp với các cam kết với các tổ chức tài chính quốc tế, nhằm tạo ra các ngân hàng có quy mô lớn, hoạt động an toàn, hiệu quả và có đủ sức cạnh tranh. Đây được coi là nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách của công cuộc đổi mới hệ thống ngân hàng – tài chính VN trong giai đoạn hiện nay, bởi vì NHTM quốc doanh đóng vai trò chủ đạo và chủ lực trong hệ thống NHTM.  Năm là, Tăng quy mô về vốn cho các ngân hàng thông qua tích tụ và tập trung vốn theo hướng:   (1) Nghiên cứu và xem xét tiến hành sát nhập các NHTM quốc doanh để trở thành một ngân hàng có đủ tiềm lực về tài chính có thể cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay, các NHTM quốc doanh ở VN tuy có tên gọi khác nhau nhưng đều có các chức năng kinh doanh tiền tệ - tín dụng như nhau và đều có vốn sở hữu của nhà nước. Chính việc chia nhỏ nguồn vốn của nhà nước thành nhiều ngân hàng đã làm cho hoạt động không hiệu quả bởi chi phí cho công tác điều hành chi phí quản lý quá cao. Sáp nhập sẽ tạo nên quy mô về vốn lớn hơn đồng thời giảm được chi phí điều hành, quản lý và hơn hết là tạo nên phương thức quản lý mới là cơ hội để sử dụng vốn có hiệu quả.  (2) Tiến hành cổ phần hoá các NHTM nhằm tận dụng các nguồn lực tài chính trong dân chúng trong nước và nước ngoài. Trên cơ sở đó thay đổi mô hình quản lý từ đó tạo sắc thái mới trong hoạt động kinh doanh.  (3) Đẩy mạnh liên doanh liên kết trong hệ thống ngân hàng để tận dụng vốn và kỹ thuật cũng như trình độ quản lý từ các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.  Sáu là, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nhất là hệ thống thông tin quản lý cho toàn hệ thống ngân hàng phục vụ công tác điều hành hoạt động kinh doanh, kiểm soát hoạt động ngân hàng, quản lý vốn tài sản, quản lý rủi ro, quản lý công nợ và công tác kế toán, hệ thống thanh toán liên ngân hàng, hệ thống giao dịch điện tử và giám sát từ xa, vv.. nhằm nâng cao chất lượng phục vụ cho khách hàng.  Bảy là, đẩy mạnh phát triển các dịch vụ ngân hàng, thực hiện các dịch vụ ngân hàng điện tử nhằm phục vụ cho khách hàng 24/24, từ đó giảm được việc phát triển các chi nhánh tốn kém trong việc xây dựng trụ sở và lãng phí trong sử dụng lao động.  Tám là, đào tạo, nâng cao trình độ nhận thức và kỹ năng nghiệp vụ ngân hàng là yêu cầu thường xuyên. Các ngân hàng cần có trung tâm đào tạo được trang bị hiện đại. Chương trình đào tạo ở các NHTM phải thiết thực, cụ thể nhằm trau dồi, nâng cao  kỹ năng nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên, đào tạo và đào tạo lại cán bộ thực hiện tốt nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất là những cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng quốc tế, cán bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế, cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới.  Trong lộ trình từng bước hội nhập quốc tế, các NHTMVN gặp không ít khó khăn, thách thức, đồng thời cũng tạo nhiều thời cơ cho các NHTMVN đứng vững trong hội nhập quốc tế - xu hướng tất yếu của thời đại. Do đó, để tồn tại, phát triển trong cạnh tranh đòi hỏi các NHTMVN phải chủ động đầu tư đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý, hiện đại hoá hệ  thống thanh toán, nhanh chóng tiếp cận và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới nhằm nâng cao hiệu quả và đứng vững trong cạnh tranh. ĐIỂM MẠNH (Strengths)  Nội dung  Tỷ lệ (%)  1 Có hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp.  100  2 Am hiểu về thị trường trong nước.  100  3 Đội ngũ khách hàng của NHTM VN khá đông đảo.  100  4 Chiếm thị phần lớn về hoạt động tín dụng, huy động vốn và dịch vụ.  100  5 Đội ngũ nhân viên tận tụy, ham học hỏi và có khả năng tiếp cận nhanh các kiến thức, kỹ thuật hiện đại.  75  6 Có được sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt từ phía NH Trung ương.  80  7 Môi trường pháp lý thuận lợi.  60  8 Hầu hết đều đang thực hiện hiện đại hóa ngân hàng.  60  ĐIỂM YẾU (Weaknesses)  Nội dung  Tỷ lệ (%)  1 Năng lực quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế so với yêu cầu của NHTM hiện đại, bộ máy quản lý cồng kềnh, không hiệu quả.  90  2 Chính sách xây dựng thương hiệu còn kém.  90  3 Chất lượng nguồn nhân lực kém, chính sách tiền lương chưa thỏa đáng, dễ dẫn đến chảy máu chất xám.  90  4 Các tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ và khả năng sinh lời của phần lớn các NHTM VN đều thua kém các ngân hàng trong khu vực.  70  5 Sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng và chưa đáp ứng nhu cầu toàn diện của khách hàng.  80  6 Thiếu sự liên kết giữa các NHTM với nhau.  50  7 Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là tín dụng, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro.  80  8 Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ nhất quán.   80  9 Quy mô vốn hoạt động còn nhỏ nên chưa thực hiện được mục tiêu kinh doanh một cách hoàn chỉnh.  90  10 Việc thực hiện chương trình hiện đại hóa của các NHTM VN chưa đồng đều nên sự phối kết hợp trong việc phát triển các sản phẩm dịch vụ chưa thuận lợi, chưa tạo được nhiều tiện ích cho khách hàng như kết nối sử dụng thẻ giữa các ngân hàng.  80  Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các NHTM VN, trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:  ° Đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại hệ thống NHTM VN, cải cách ngân hàng theo hướng nâng cao năng lực quản trị điều hành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng lực cạnh tranh cho NHTM VN. Hình thành các tập đoàn tài chính-ngân hàng đủ lớn, mạnh dạn sắp xếp lại NHTMCP theo hướng thanh lý, giải thể những ngân hàng yếu kém, sáp nhập những ngân hàng nhỏ không đủ vốn pháp định vào những ngân hàng lớn (vốn pháp định NHTM đô thị cần điều chỉnh trên 200 tỷ đồng). Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa NHTMNN, như chúng ta đã cổ phần hóa các DNNN (REE, SACOM, VINAMILK…) và hiện nay những doanh nghiệp CPH đang phát triển tốt), thực hiện thí điểm CPH Ngân hàng ngoại thương, sau đó nhân rộng các ngân hàng khác. Trước khi CPH cần lành mạnh hóa tình hình tài chính, giải quyết triệt để các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng, có thể sử dụng nguồn vốn NSNN cấp bù các khoản này, sau đó thu hồi từ việc bán cổ phiếu của NHTMNN khi tiến hành CPH (giá cổ phiếu của ngân hàng hiện nay cao gấp 5-10 lần so với mệnh giá).  ° Thị trường chứng khoán đang phát triển rất thuận lợi cho các NHTMCP phát hành thêm cổ phiếu mới để tăng vốn tự có và năng cao năng lực tài chính của mình. Việc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng thương mại trong nước (tối đa 30%) cũng góp phần tăng nhanh vốn điều lệ của các NHTMCP VN. “Cái bánh ngon” (lợi nhuận hoạt động ngân hàng) đã được chia cho nhiều người, trong đó có người nước ngoài không có gì lo ngại, vấn đề là làm sao cho cái bánh đó ngon hơn, chất lượng hơn và to hơn. Sau NHTMCP Sài Gòn Thương Tín cần tạo điều kiện cho các NHTMCP khác niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán VN và tiến tới là niêm yết trong khu vực ASEAN. Vốn điều lệ tăng sẽ góp phần hiện đại hóa công nghệ, mở rộng mạng lưới, nâng cao năng lực tài chính... và thực hiện nhiều chiến lược khác.  ° Cần có một chiến lược kinh doanh trung hạn và dài hạn, đặc biệt là chiến lược nhân sự. Gắn chiến lược nhân sự với các trường đại học trọng điểm và hình thành các trung tâm đào tạo tại các ngân hàng thương mại. Nhân viên ngân hàng là những người làm việc trên lĩnh vực dịch vụ cao cấp nên phải đảm bảo tính chuyên nghiệp và lương cao. Vì vậy, cần có cơ chế tiền lương phù hợp với trình độ và năng lực của cán bộ, tránh chi trả lương theo cơ chế DNNN, hạn chế việc bình bầu thi đua khen thưởng. Nếu tiếp tục như vậy sẽ mất hết cán bộ giỏi hoặc cán bộ dễ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực…  ° Các ngân hàng thương mại cần củng cố và hoàn thiện mạng lưới chi nhánh (thế mạnh của NHTM VN), đi liền với chính sách chăm sóc khách hàng và tăng cường công tác tiếp thị. NTHM VN, cần tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng: trong huy động vốn, tín dụng sản xuất kinh doanh, tín dụng tiêu dùng, tài trợ xuất nhập khẩu, dịch vụ thanh toán, thẻ, thu hộ chi hộ, giữ hộ, ủy thác, ngân hàng điện tử... Cần chú ý phát triển các sản phẩm gắn với thị trường chứng khoán và hoạt động bảo hiểm.  ° Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và phải xem đây là mục tiêu chiến lược để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao hiệu quả kinh doanh và thu hút khách hàng trong nước. Đặc biệt là cơ chế thanh toán, phải nhanh chóng, an toàn, tiện lợi và có tính hệ thống, đồng bộ. Mạng lưới phủ khắp nơi, nhưng giữa các chi nhánh không liên lạc với nhau được thì vô nghĩa. Đầu tư vào công nghệ hiện đại có thể làm tăng chi phí ban đầu, nhưng sẽ giảm chi phí nghiệp vụ trong dài hạn, thu hút nhiều khách hàng, quản trị được rủi ro do thông tin nhanh chóng, công tác điều hành hiệu quả, đặc biệt là ngân hàng sẽ huy động nhiều tiền gởi thanh toán (lãi suất thấp) do thanh toán dễ dàng, tiện lợi và mở rộng kênh phân phối.  ° Tăng cường công tác thanh tra giám sát nhằm đảm bảo tính an toàn cho cả hệ thống ngân hàng và tạo niềm tin cho công chúng, nâng cao thương hiệu “hàng VN chất lượng cao và giá dịch vụ phải chăng”, tăng cường công tác kiểm toán-kiểm soát nội bộ nhằm giám sát và ngăn ngừa sai sót trong từng ngân hàng. Các quy định về thanh tra giám sát cần nghiên cứu và ban hành phù hợp với chuẩn mực quốc tế và các quy định trong Basel I (1988) và Basel II (dự kiến áp dụng cuối năm 2006).  ° Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng theo hướng hội nhập. Hai luật ngân hàng cần khẩn trương hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi hai Luật ngân hàng VN phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Trước mắt, NHNN cần phối hợp với các Bộ có liên quan như: Bộ tư pháp, Bộ tài nguyên và môi trường, Bộ tài Chính, Công an,…ban hành những Thông tư liên bộ có liên quan đến vấn đề xử lý tài sản thế chấp, đặc biệt là các tài sản của DNNN để NHTM thu hồi nợ nhanh chóng và góp phần lành mạnh hóa năng lực tài chính của các NHTM trước thềm hội nhập, cũng như trước khi tiến hành cổ phần hóa NHTM NN.   Nếu các giải pháp trên đây được thực hiện đồng bộ, chắc chắn sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại VN trong tiến trình hội nhập quốc tế. Vai trò của ngân hàng thương mại (NHTM) 1. Vai trò tập trung vốn của nền kinh tế     Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông) nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay. Thực hiện được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế; mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất chênh lệch có được nó sẽ duy trì họat động của mình. Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,… NHTM có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển giao mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua trái phiếu công ty… 2.Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán     Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khỏan. Khi các khách hàng gởi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với các khỏan thanh tóan có giá trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và không an toàn (ví dụ: chi phí lưu thông, vận chuyển, bảo quản…). Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và độc quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán..) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước phát triển phần lớn thanh toán được thực hiện qua sec và được thực hiện bằng việc bù trừ thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay. Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển tiền bằng đện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không sử dụng sec ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách nối mạng các máy vi tính của các ngân hàng thương mại  trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài khoản người này sang người khác một cách nhanh chóng. 3.Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp     Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng không còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của các ngân hàng. Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt. Quá trình tạo ra tiền của NHTM được thực hiện thông qua tín dụng và thanh tóan trong hệ thống ngân, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống ngân hàng trung ương mỗi nước. Vậy tiền “bút tệ” được NHTM tạo ra bằng cách nào? Bây giờ chúng ta giả sử rằng tất cả các NHTM đều không giữ lại tiền dự trữ quá mức quy định, các sec không chuyển thành tiền mặt và các yếu tố phức tạp khác bị bỏ qua thì quá trình tạo thành tiền như sau: Tên các ngân hàng Tiền gửi mới Thanh toán cho vay mới       Dự trữ bắt buộc Ngân hàng A 1.000.000   900.000  100.000       Ngân hàng B       900.000     810.000    90.000       Ngân hàng C       810.000      729.000      81.000 ... ... ... Tiền toàn hệ thống ngân hàng        10.000.000   9.000.000 1.000.000   Giả sử ngân hàng A có khoản tiền gửi mới là 1.000.000đ, dự trữ bắt buộc là 10% thì số tiền nó có thể cho vay là 900.000. Khoản tiền cho vay đó được đưa đến người vay, người vay tiền không bao giờ vay tiền về mà cất trong nhà vì như thế họ phải chịu lãi một cách vô ích, họ dùng tiền đó chi trả các khỏan. Và số tiền đó đến tay người được chi trả, người chi trả đem số tiền đó gửi vào ngân hàng B, ngân hàng B lúc này sẽ có một lượng tiền gửi mới là 900.000. Dự trữ bắt buộc là 10%, số tiền có thể cho vay là 810.000. Số tiền này được cho người cần vay vay, người cho vay chi trả các khỏan đến người được chi trả, người được chi trả đem số tiền được trả gửi vào ngân hàng C. Lúc này ngân hàng C sẽ có số tiền gửi mới là 810.000. Và cứ như thế tiếp tục… cho đến khi lượng tiền gửi mới bằng 0. Người ta tính được rằng lượng tiền gửi mới trong tòan hệ thống ngân hàng là 10.000.000, lượng tiền dự trữ bắt buộc là 1.000.000 và tiền cho vay là 9.000.000. Và do cách thức này mà tiền đã được tạo ra trong hệ thống ngân hàng 2 cấp.  Những điểm yếu của hệ thống ngân hàng ! Ngày 09 tháng 12 năm 2007 Rủi ro từ nội lực và môi trường kinh doanh Thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nằm ở nội lực của chính các ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ công nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực. Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân hàng thương mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại Nhà nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng. Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các ngân hàng thương mại Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá. Theo PGS.TS Lê Hoàng Nga, Học viện Ngân hàng, nếu trích lập đầy đủ những khoản nợ khoanh và nợ khó đòi thì vốn tự có của nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam, nhất là ngân hàng thương mại Nhà nước, ở tình trạng âm. Điểm hạn chế thứ hai của các ngân hàng trong nước là hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập. Trong tham luận gửi về hội thảo, TS. Lê Quốc Lý, Vụ trưởng Vụ Tài chính tiền tệ, Bộ Kế hoạch Đầu tư, có viết: “Do không thể đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng đã khiến các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách hàng. Tuy nhiên, công cụ này cũng chỉ có tác dụng ở mức giới hạn nhất định”. Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó đáng chú ý là các tổ chức tín dụng nhà nước. TS. Lý cũng cho biết thêm, một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ quá hạn gia tăng tại các ngân hàng thương mại quốc doanh là do: việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển và còn nhiều biến động phức tạp; tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng lên, tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến tình trạng mất vốn ngày càng lớn. Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. “Việc sử dụng vốn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống”, TS. Lê Quốc Lý nhận xét. Giải pháp đề xuất Thứ nhất là nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại bằng việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, điều chỉnh lãi suất tiền gửi trung và dài hạn hợp lý. Ngoài ra, các ngân hàng cần cơ cấu đầu tư vốn trong điều kiện mới theo hướng, giảm dần tỷ trọng cho vay ngắn hạn, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, phát triển cho vay tiêu dùng đối với các cá nhân trong nền kinh tế. Điểm thứ hai là tăng cường hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán. Theo TS. Đinh Xuân Hạng, Học viện Tài chính, các ngân hàng thương mại cần tăng mức vốn đầu tư để trang bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, các dự án đầu tư công nghệ cần tính toán kỹ lưỡng để sử dụng công suất phù hợp với chiến lược mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Điểm thứ ba được tất cả các diễn giả đồng ý là nhân lực chất lượng cao là động lực để bức phá. Nâng cao năng lực cán bộ thông qua nâng cao trình độ quản trị điều hành. Theo Th.S Trịnh Phong Lan, Vụ Tài chính ngân hàng, Bộ Tài chính, việc nâng cao năng lực quản trị của các ngân hàng thương mại Nhà nước sau khi cổ phần hóa sẽ được thực hiện nhanh nhất và hiệu quả nhất thông qua sự trợ giúp của các đối tác chiến lược nước ngoài. Và một phần quan trọng để khắc phục những rủi ro tín dụng của ngân hàng là thực hiện quản trị ngân hàng thương mại từ chiều rộng sang chiều sâu theo hướng nâng cao năng lực quản trị rủi ro thông qua việc hoàn thiện bộ máy tổ chức quản trị nội bộ, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra và chế độ báo cáo thường xuyên. Giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam Có thể nhận thấy rằng, để hội nhập thành công thì cải cách hệ thống ngân hàng là vấn đề then chốt. Chỉ có đổi mới toàn diện theo các chuẩn mực hoạt động của ngân hàng quốc tế mới đảm bảo hệ thống các ngân hàng Việt Nam cạnh tranh thành công với các ngân hàng nước ngoài. Việt Nam cần phải xây dựng một hệ thống ngân hàng có uy tín, khả năng cạnh tranh cao, hoạt động có hiệu quả và an toàn để huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội, mở rộng đầu tư, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu lực, đảm bảo sự bình đẳng, an toàn cho mọi tổ chức hoạt động dịch vụ ngân hàng và tài chính trên lãnh thổ Việt Nam; tạo sức ép phải đổi mới và tăng hiệu quả hoạt động lên các NHTM trong nước như: Nâng cao năng lực tài chính, chất lượng dịch vụ, giảm chi phí, có khả năng tự bảo vệ trước sự cạnh tranh quốc tế trong quá trình hội nhập. Hai là, mở cửa thị trường trong nước theo lộ trình trên cơ sở xoá bỏ dần các giới hạn về số lượng, loại hình tổ chức, phạm vi hoạt động, tỷ lệ góp vốn của các bên nước ngoài, các loại hình dịch vụ, bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và tổ chức tài chính theo các cam kết song phương và đa phương. Ba là, từng bước đổi mới cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, chức năng của hệ thống ngân hàng nhà nước nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả điều hành vĩ mô, nhất là trong việc thiết lập, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các định chế tài chính, ngân hàng và trung gian tài chính. Bốn là, thực hiện tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo các đề án đã được Chính phủ phê duyệt và phù hợp với các cam kết quốc tế nhằm tạo ra các ngân hàng có quy mô lớn, hoạt động an toàn, hiệu quả và đủ sức cạnh tranh. Về cơ cấu tổ chức, tách hoàn toàn các hoạt động cho vay theo chính sách ra khỏi hoạt động kinh doanh thương mại của các ngân hàng để các ngân hàng thực hiện tốt chức năng kinh doanh theo nguyên tắc thị trường. Cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ và xử lý dứt điểm nợ tồn đọng của các NHTM nhằm lành mạnh hoá tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh và chống rủi ro. Đối với các NHTM nhà nước, cần phải thực hiện lộ trình cổ phần hoá theo đúng kế hoạch đã được Chính phủ phê duyệt nhằm lành mạnh và minh bạch hoá tài chính. Đối với các NHTM cổ phần, cần tăng vốn điều lệ thông qua sáp nhập, hợp nhất hoặc phát hành bổ sung cổ phiếu. Các NHTM phải xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh mới, nhất là chú trọng việc mở rộng quy mô hoạt động, hiện đại hoá công nghệ thông tin của ngân hàng, chú trọng hoạt động maketting, đa dạng hoá và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ hiện đại dựa trên công nghệ tiên tiến; cải cách bộ máy quản lý và điều hành theo tư duy kinh doanh mới; chuẩn hoá toàn bộ các quy trình nghiệp vụ hoạt động chủ yếu của NHTM theo các chuẩn mực quốc tế. Năm là, xây dựng các quy chế quản lý và hoạt động phù hợp với chuẩn mực quốc tế như quản trị rủi ro, quản trị tài sản nợ/có, quản trị vốn, kiểm tra, kiểm toán nội bộ; xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả kinh doanh ngân hàng phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Sáu là, xây dựng chiến lược phát triển công nghệ ngân hàng, nhất là hệ thống thông tin dữ liệu quản lý cho toàn bộ hệ thống ngân hàng, phục vụ công tác điều hành kinh doanh, kiểm soát hoạt động ngân hàng, quản lý nguồn vốn, tài sản, quản trị rủi ro, quản lý công nợ và công tác kế toán; hoàn thiện hệ thống thanh toán liên ngân hàng, hệ thống điện tử và giám sát từ xa. Bảy là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng, đào tạo và đào tạo lại cán bộ, đảm bảo thực hiện tốt các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại; tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất là những cán bộ thanh tra giám sát, cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế, cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới. Tám là, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính quốc tế để đổi mới và nâng cao năng lực chất lượng hoạt động, năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. Thị trường tài chính Việt Nam: Thực trạng và định hướng phát triển những năm tới II) Về thực trạng phát triển thị trường tiền tệ Tham gia là thành viên của các dạng thị trường tiền tệ có 5 Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng chính sách xã hội, 36 Ngân hàng thương mại cổ phần, 4 Ngân hàng liên doanh, 27 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Qũy tín dụng TW, 900 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, một số công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm, Quỹ đầu tư... Tuy nhiên tham gia là thành viên của thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc nhà nước, thị trường mở... thì không phải tất cả các tổ chức trên, hầu như chỉ có các NHTM NN, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, một số công ty bảo hiểm... Về cơ chế tác động và can thiệp trên thị trường tiền tệ, được thể hiện tập trung ở các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương. Theo đó, dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế, từ tháng 6-2002, Ngân hàng Nhà nước chuyển sang thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trước đó. Hàng tháng Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản, vẫn quy định lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; cùng với lãi suất nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ Swap, lãi suất thị trường mở, lãi suất thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước tác động vào lãi suất thị trường, lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các Tổ chức tín dụng. Tác động vào lãi suất còn có công cụ dự trữ bắt buộc. Khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, có tác động làm tăng chi phí đầu vào của các TCTD. Do đó hoặc là các TCTD giữ nguyên lãi suất huy động vốn thì phải tăng lãi suất cho vay; hoặc là đồng thời vừa phải tăng lãi suất cho vay, vừa phải tăng lãi suất huy động vốn. Công cụ điều hành tỷ giá cũng có tác động vào lãi suất của các TCTD trên thị trường tiền tệ, nhưng không rõ nét. Với sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính, đặc biệt là các TCTD, với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương tiến dần tới phù hợp với thông lệ quốc tế, các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng được chủ động trong các hoạt động huy động vốn và cho vay của mình, tham gia tích cực, năng động và cạnh tranh mạnh mẽ với nhau trên thị trường tiền tệ, theo đó, nó cũng có điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển. III) Về thực trạng phát triển thị trường tiền gửi và huy động vốn: Đây là thị trường có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhất và sôi động nhất giữa các tổ chức trung gian tài chính trong việc thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư. Trong thời gian gần đây, các Tổ chức tín dụng đưa ra các hình thức sau: - Cạnh tranh khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân, tài khoản sử dụng thẻ... Tính đến nay trong cả nước đã mở được khoảng trên 1.300.000 tài khoản cá nhân, trong đó có khoảng trên 750.000 tài khoản của các chủ thể. - Cạnh tranh thu hút tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế - xã hội. Giữa các TCTD cạnh tranh thu hút tiền gửi của Kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo Việt, các công ty bảo hiểm nhân thọ, bưu chính viễn thông, điện lực... - Cạnh tranh thu hút tiền gửi tiết kiệm: đây là hình thức huy động vốn truyền thống giữa các TCTD và Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, nhất là các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Thời gian gần đây, để khuyến khích khách hàng, một số ngân hàng thương mại đưa ra dịch vụ: gửi một nơi lĩnh nhiều nơi, tiết kiệm tích lũy hay còn gọi là tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm gắn với bảo hiểm nhân thọ, tiết kiệm lũy tiến trả lãi theo số tiến gửi càng cao thì lãi suất càng cao, tiết kiệm linh hoạt tức là khách được chủ động rút tiền ra bất cứ lúc nào có nhu cầu và lãi suất tính theo số ngày thực tế gửi tương ứng với kỳ hạn gần nhất, tiết kiệm dự thưởng... - Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu... chủ yếu là huy động vốn có thời hạn từ 6 tháng trở lên, lãi suất hấp dẫn. Trong những năm gần đây, đã có sự cạnh tranh sôi động trên thị trường thu hút tiền gửi và thị trường huy động vốn, đặc biệt là các tổ chức trung gian tài chính thực hiện rất đa dạng và phong phú các sản phẩm và dịch vụ thu hút tiền gửi, huy động vốn. Tuy nhiên trong việc phát triển thị trường này, có thể thấy một tồn tại lớn là chưa thu hút được tối đa tiền gửi không kỳ hạn, tiền nhàn rỗi trong dân cư vào hệ thống ngân hàng, trên cơ sở đó lựa chọn các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng hay rút tiền mặt ra chi tiêu bất cứ lức nào có nhu cầu. Đây là nguồn vốn rất lớn và rất quan trọng, tạo đà cho phát triển thị trường tiền tệ, bởi vì nó gia tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn, gia tăng vốn khả dụng cho các TCTD. IV) Về quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán: Sau một thời gian xây dựng và phát triển, đến nay đã có trên  100 công ty niêm yết cổ phiếu và một số loại trái phiếu được niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Trong lĩnh vực này, hệ thống ngân hàng tiếp tục đóng vai trò tích cực trong phát triển thị trường chứng khoán, với hầu hết trong số gần 50 công ty kinh doanh chứng khoán đang hoạt động là trực thuộc các ngân hàng thương mại, với đa dạng các nghiệp vụ: môi giới, tư vấn đầu tư, lưu ký chứng khoán, cho vay thanh toán chứng khoán... Hầu hết các công ty này đều kinh doanh có hiệu quả. Một số công ty đã tổ chức đại lý đấu thầu cổ phiếu của một số NHTM cổ phần phát hành mới tăng thêm vốn điều lệ. NHNN cũng đã ban hành quy định tạm thời về việc niêm yết cổ phiếu của NHTM cổ phần trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Hiện nay nhiều NHTM cổ phần đã sẵn sàng niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Được biết hiện nay NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín đã có đơn và hồ sơ đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép vấn đề này. Tuy chưa chính thức niêm yết giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, nhưng thời gian qua, cổ phiếu của nhiều NHTM cổ phần đã giao dịch đơn lẻ, không chính thức trên thị trường phi tập trung OTC. Mệnh giá cổ phiếu  của nhiều NHTM cổ phần được giao dịch cao gấp 1,1 lần đến 2,5 lần so với mệnh giá ban đầu. Uy tín trong và ngoài nước của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần ngày càng tăng lên. Nhiều tổ chức tài chính quốc tế và ngân hàng nước ngoài đã và đang mua cổ phần, chuyển giao công nghệ ngân hàng hiện đại, hỗ trợ về tài chính cho các ngân hàng thương mại cổ phần. Thủ tướng Chính phủ đã chính thức có quyết định cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Theo kế hoạch, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đang triển khai bước đầu tiên cổ phần hóa. Tổng giá trị cổ phiếu phát hành trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán để tăng vốn điều lệ vào khoảng 1.000 tỷ đồng. Với khối lượng giá trị cổ phiếu lớn như vậy nếu được giao dịch và niêm yết trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán, thì chứng khoán giao dịch chủ yếu của hai Trung tâm này sẽ là cổ phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Tiếp theo đó sẽ là Ngân hàng phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long và Ngân hàng Đầu tư-phát triển Việt Nam cũng đề nghị được cổ phần hóa. Khi đó chắc chắn hoạt động của hai Trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ sôi động hẳn lên, tạo nền tảng mới cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. V) Một số đánh giá về thực trạng phát triển thị trường tài chính ở nước ta Về thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ. Nhìn chung thị trường này chưa phát triển và Ngân hàng Nhà nước NHTW, chưa thực sự đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của NHTW: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ nét đến thị trường. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ bắt buộc... thiếu linh hoạt. Các NHTM và Tổ chức tín dụng cạnh tranh với nhau tăng lãi suất huy động vốn một cách một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính các NHTM. Về thị trường chứng khoán. Có thể khẳng định rằng, trong tiến trình phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam, tiềm năng của việc tham gia của các NHTM là rất lớn. Việc các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, các NHTM NN cổ phần hóa thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu trên Trung tâm, cũng như tới đây sẽ có thêm một số Công ty kinh doanh chứng khoán của các NHTM đi vào hoạt động... sẽ tạo đà thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa. Song cho đến thời điểm này, mới chỉ có gần 100 công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là quá ít, tạo ra sự nghèo nàn hàng hóa trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu của các NHTM chưa được niêm yết và giao dịch cũng phần nào hạn chế tính sôi động của thị trường. Tính thanh khoản của thị trường chưa cao. Thông tin chưa thật sự minh bạch. VI) Nguyên nhân của tình trạng trên: Ngân hàng TW chưa thực sự mạnh, năng lực điều hành chính sách tiền tệ và vận hành nghiệp vụ NHTW còn hạn chế. Họat động dịch vụ của các NHTM và TCTD chưa phát triển. Tiến trình cơ cấu lại các NHTM chưa đạt được các kết quả như dự kiến, đặc biệt là xử lý nợ xấu đang có xu hướng gia tăng trở lại. Việc tăng vốn điều lệ để đảm bảo tỷ lệ an toàn theo thông lệ quốc tế. Tiến trình cổ phần hóa DNNN nói chung, cổ phần hóa NHTM Nhà nước nói riêng còn rất chậm, đây cũng là lực cản cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Bên cạnh đó, việc Hội đồng quản trị các NHTM cổ phần có tư tưởng chần chừ, chậm đưa cổ phiếu của các NHTM cổ phần của mình niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, cũng làm chậm tiến trình nói trên. VII) Giải pháp và kiến nghị cho phát triển thị trường tài chính ở nước ta trong thời gian tới: Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính, cũng như thị trường chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế, tức là phải phát triển đồng bộ, tất nhiên là phải có sự ưu tiên xây dựng các tiền đề, cơ sở hạ tầng nào đó. Chúng ta không thể nôn nóng, cũng như không thể ngồi chờ cho đủ điều kiện được. Như phần đầu bài viết đã đề cập, thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên, khi thị trường tiền tệ nóng lên, thì thị trường chứng khoán cũng sôi động. Phát triển thị trường tiền tệ, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế, nâng cao khả năng kinh doanh trên thị trường tiền tệ của các tổ chức trung gian tài chính, tạo điều kiện cho các tổ chức này sẵn sàng tham gia có hiệu quả trên thị trường chứng khoán. Theo đó một số đề xuất và kiến nghị như sau: - Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, trực tiếp là Ủy ban chứng khoán Nhà nước phối hợp chặt chẽ mạnh dạn đưa 2-4 NHTM cổ phần đầu tiên niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Phối hợp chặt chẽ, trên cơ sở tài trợ quốc tế, tổ chức các cuộc hội thảo, khóa đào tạo, tập huấn ngắn ngày về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và niêm yết cổ phiếu của NHTM trên thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính cũng nên cùng NHNN tập trung tháo gỡ vướng mắc trong việc định giá NHTM và một số giải pháp khác đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa hai NHTM NN đầu tiên theo kế hoạch. - Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm. Có thể tăng tần suất các phiên đấu thầu từ 1 phiên/1tuần hiện nay lên 2 phiên/tuần. Linh hoạt hơn nữa lãi suất đấu thầu qua các phiên theo sát diễn biến trên thị trường. Thời hạn tín phiếu cũng có thể đa dạng hơn, như kỳ hạn 60 ngày, 90 ngày... thay cho chỉ có loại 360 ngày như hiện nay. Cần có cơ chế để các NHTM cổ phần và Ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn có thể trúng thầu tín phiếu trên thị trường này. Đặc biệt là Bộ Tài chính cần có biện pháp đưa các Công ty bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu tín phiếu, không nên để tình trạng lãng phí vốn hay quan hệ tiền gửi không kỳ hạn trực tiếp với các TCTD như hiện nay. - Ngân hàng Nhà nước có biện pháp bảo đảm tính hệ thống của Quỹ tín dụng, có cơ chế điều hòa vốn linh hoạt hơn của hệ thống này. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thu hút Quỹ tín dụng tham gia thị trường liên ngân hàng và các dạng khác của thị trường tiền tệ so NHNN tổ chức, vận hành. - NHNN nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng, thể hiện rõ vai trò can thiệp cuối cùng của NHNN trên thị trường này. Tiến tới công bố được lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng ở Việt Nam do là lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. - Bản thân các Tổ chức trung gian tài chính cần phải nhanh chóng đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh của mình, nhất là nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường tiền tệ theo thông lệ quốc tế. Các NHTM mạnh dạn đầu tư hơn nữa cho các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và thu hút tiền gửi không kỳ hạn, dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Đây cũng chính là các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán trong thời gian tới, cũng như là khách hàng tiềm năng của nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà Ngân hàng thương mại cần nhằm tới thu hút./. LẠM PHÁT: NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Lạm phát cũng như các hiện tượng và phạm trù khác của quan hệ hàng hoá - tiền tệ có đặc trưng chung về bản chất trong các phương thức sản xuất khác nhau và do điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau trong từng phương thức sản xuất mà nó có đặc thù riêng. Bản chất kinh tế chung của lạm phát được biểu hiện cụ thể trong các hình thái kinh tế - xã hội, còn quan hệ hàng hoá - tiền tệ và thông qua mối quan hệ với hệ thống quan hệ sản xuất có những đặc trưng kinh tế - xã hội trong từng hình thái. Nhưng lạm phát tồn tại không nhất thiết là thành tố bắt buộc của quan hệ hàng hoá - tiền tệ, mà nó chỉ xuất hiện ở những nơi vi phạm các điều kiện bình thường của tái sản xuất, mất cân đối, khủng hoảng, thất nghiệp. Đương nhiên, lạm phát là một phạm trù kinh tế không hoàn toàn xấu. Nhiều nước, trong đó có nước ta, xem lạm phát như là một biện pháp phát triển kinh tế. Nhờ lạm phát mà tăng “cầu” để kích thích tăng “cung”. Nhưng lạm phát vượt giới hạn nhất định (vượt mức tăng thu nhập quốc dân) sẽ kiềm hãm phát triển kinh tế - xã hội. Hàng năm, ở nước ta, Quốc hội phê duyệt dự toán Ngân sách Nhà nước thường cho mức bội chi ngân sách nhà nước khoảng 5%, thấp hơn mức tăng trưởng kinh tế (GDP) Lạm phát trong những năm 70, 80 Lạm phát của nước ta trong những năm 70, 80 rất nghiêm trọng và nguy hiểm: Giá cả hàng hoá tăng với tốc độ phi mã. Chỉ số giá bán lẻ năm 1985 tăng 13,97 lần so với năm 1980; năm 1987 tăng 124,42 lần so với năm 1985 và năm 1988 tăng 181,48 lần so với năm 1985. Trên cơ sở việc nghiên cứu cho thấy, các đặc điểm liên quan đến các nguyên nhân của lạm phát như sau: Một là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà thành phần kinh tế nhà nước chiếm tỉ trọng rất lớn: vốn cố định trong những năm 80 chiếm 85 - 87%, cán bộ kỹ sư - kỹ thuật chiếm 95%. Trong tay thành phần kinh tế nhà nước có nguồn tài nguyên to lớn, nhưng sử dụng kém hiệu quả. Đại bộ phận các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Doanh nghiệp nhà nước nhận các khoản trợ cấp từ ngân sách nhà nước gấp 3 lần các khoản doanh nghiệp nhà nước nộp cho ngân sách nhà nước. Các khoản trợ cấp này cao hơn số bội chi ngân sách nhà nước. Đây là một trong những nguyên nhân sâu xa và cơ bản dẫn đến lạm phát. Hai là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế chủ yếu là hiện vật. Trong thời gian đầu Nhà nước chỉ xem sản phẩm tiêu dùng là hàng hoá. Do vậy, quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị coi nhẹ và nguyên tắc hạch toán kinh doanh không được thực hiện đầy đủ. Tư liệu sản xuất, sức lao động, kết quả hoạt động khoa học - kỹ thuật, dịch vụ,... không được coi là hàng hoá và do đó Nhà nước cấm mua bán chúng trên thị trường. Nhưng thực chất chúng là hàng hoá nên tham gia vào lưu thông hàng hoá, không phải ở thị trường có tổ chức, mà ở “chợ đen”, nơi mà Nhà nước khó kiểm soát và điều chỉnh quá trình lưu thông của chúng. Kết quả là sức lao động, tư liệu sản xuất đã sử dụng rất lãng phí (50%). Đây là một trong những nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát. Ba là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà độc quyền Nhà nước và cơ chế tập trung bao cấp, quan liêu mệnh lệnh thống trị, Nhà nước không chỉ nắm trong tay độc quyền lãnh đạo chính trị, quản lý và kiểm soát nền kinh tế nói chung (độc quyền này là cần thiết) mà còn độc quyền sản xuất, kinh doanh trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. V.I.Lênin đã xác định, một trong những đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc là tập trung sản xuất và tư bản đến trình độ phát triển cao dẫn đến độc quyền và nó có vai trò nhất định trong đời sống kinh tế. Độc quyền kinh tế; một mặt, thúc đẩy phát triển chủ nghĩa tư bản đương thời; mặt khác, nó kiềm hãm phát minh, sáng kiến, cạnh tranh. Sự phát triển của lực lượng sản xuất của nước ta trong những năm 70, 80 chưa đạt đến trình độ độc quyền kinh tế. Trong điều kiện đó, độc quyền nhà nước là độc quyền phi kinh tế vì nó không dựa trên cơ sở kinh tế. Hậu quả tiêu cực của độc quyền phi kinh tế còn tồi tệ hơn độc quyền kinh tế. Trong thời gian dài tồn tại cơ chế tập trung bao cấp, quan liêu mệnh lệnh đã khuyến khích cấp dưới chờ cấp trên phân phối vật tư, lao động và tiền vốn, thiếu tính toán hiệu quả kinh tế. Tình hình trên làm cho hoạt động của nền kinh tế kém hiệu quả, dẫn đến lạm phát. Bốn là, lạm phát xuất hiện ở một nước, mà nền kinh tế phụ thuộc khá nhiều vào nước ngoài. Thu về xuất khẩu không đủ trang trải cho chi phí nhập khẩu. Tỉ trọng của xuất khẩu so với nhập khẩu các năm 1976 - 1980 là 23%, các năm 1981 - 1986 là 32% và năm 1989 là 61%. Để bù đắp chi phí nhập khẩu phải vay nợ nước ngoài. Tỉ trọng vay nợ nước ngoài so với chi bằng ngoại tệ vào các năm 1981 - 1985 là 52%, năm 1986 là 65% và năm 1989 là 39%. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều dựa vào vay nợ, viện trợ của nước ngoài, thiếu nó thì doanh nghiệp nhà nước không thể hoạt động bình thường. Sự viện trợ của nước ngoài giảm dần dẫn đến bội chi ngân sách nhà nước tăng dần và tạo điều kiện cho lạm phát phi mã. Trong thời kỳ này, nền kinh tế nước ta đã áp dụng hệ thống các nhóm giải pháp đồng bộ để chống lạm phát. Một số trong các nhóm giải pháp đó là: Thứ nhất, giảm thành phần kinh tế nhà nước đến mức Nhà nước có thể lãnh đạo, quản lý, điều tiết, kiểm soát nền kinh tế và phát triển các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh dưới các hình thức khác nhau. Có ý kiến cho rằng, càng mở rộng thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa thì càng tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội. Vì thế, đến năm 1985 thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm 95%. Đương nhiên, thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa không phải là mục đích của chủ nghĩa xã hội mà là một trong những công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa của nước ta trong thời kỳ đó có khuynh hướng phát triển mâu thuẫn với mục đích của chủ nghĩa xã hội, vì nhiều doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã làm ăn thua lỗ, đời sống của nhân dân khó khăn. Thứ hai, nâng cao lãi suất tín dụng đến mức bằng hoặc cao hơn tốc độ lạm phát. Tốc độ lạm phát hàng tháng của các năm 1986 - 1987 là 6,1 - 26,5%, trong khi đó lãi suất tín dụng ngắn hạn bình quân tháng là 2,0 - 5,6%, dài hạn là 0,9 - 1,5%. Chính sách lãi suất này đã hạ thấp chức năng của tiền tệ là phương tiện tích lũy. Theo tính toán thì 1 đồng năm 1987 bằng 0,2 xu năm 1976. Lãi suất tín dụng không đủ bù đắp sự giảm giá trị của đồng tiền. Điều này thúc đẩy doanh nghiệp và dân cư tích lũy vật tư hàng hoá và vàng làm cho vật tư hàng hoá và vàng tăng giá. Năm 1987 so với năm 1976 giá vật tư hàng hoá bán lẻ tăng 62.305%, vàng tăng 129.870%. Đầu năm 1988 áp dụng chính sách lãi suất mới đem lại kết quả khả quan: Vốn huy động trong các năm 1988 - 1989 bình quân năm là 1.000 tỉ đồng, chiếm 50% tất cả các nguồn vốn của ngân hàng; dự trữ vật tư hàng hoá giảm 95%; vấn đề thiếu tiền mặt đã được giải quyết dần. Thứ ba, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở sử dụng có hiệu quả nội lực. Đồng thời, để huy động ngoại lực, ngày 29-12-1987 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài. Để Luật Đầu tư nước ngoài đi vào cuộc sống, Nhà nước ta đã giải quyết nhiều vấn đề: xây dựng mới, bổ sung, sửa đổi các văn bản pháp quy cho phù hợp với Luật Đầu tư nước ngoài và thông lệ quốc tế; rà soát và xây dựng các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đào tạo và đào tạo lại cán bộ, nhất là cán bộ làm kinh tế đối ngoại,... Việc thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện cho nước ta không chỉ huy động được số vốn lớn theo nguyên tắc vốn trong nước là chủ yếu, vốn nước ngoài là quan trọng, mà còn tiếp thu được kỹ thuật, công nghệ sản xuất, kinh doanh và quản lý tiên tiến. Nhờ đó, đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và quản lý nhằm chống lạm phát. Lạm phát của nước ta hiện nay Năm 2007 tốc độ tăng GDP đạt mức cao nhất trong 10 năm qua. Nhưng do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, từ quý IV năm 2007 đến nay một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế nước ta đã có những biểu hiện xấu: 1. Chỉ số giá tiêu dùng trong quý IV năm 2007 tăng gần 5%, trong đó tháng 12-2007 tăng lên mức cao nhất là 2,91%. Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đầu năm 2008, so với tháng 12-2007 tăng 9,19%. 2. Năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 21,9%, nhưng tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 39% và nhập siêu lên tới 29%, chủ yếu vào quý IV năm 2007. Quý I năm 2008 nhập siêu tiếp tục tăng cao tới 56,5%. 3. Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán quý I năm 2007 là 11,13%, quý I năm 2008 chỉ đạt được 5,48%. Trong khi đó tốc độ tăng tổng dư nợ tín dụng năm 2007 là 6,41%, quý I năm 2008 lên đến 10,8%. Điều này chứng tỏ nguồn vốn cho vay đang thiếu hụt. 4. Thị trường chứng khoán hoạt động không ổn định. Chỉ số giá chứng khoán Việt Nam - Index đã xuống mức thấp nhất và hiện nay đã giảm hơn 50%, so với mức cao nhất đã đạt được năm 2006. 5. Đầu tư xây dựng cơ bản gặp khó khăn do giá đầu vào tăng làm tăng chi phí sản xuất và giảm hiệu quả đầu tư đối với đầu tư toàn xã hội, nhất là bằng vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước. 6. Đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, nhất là các vùng bị bão lũ và rét đậm, rét hại cuối năm 2007 và đầu năm 2008. Giá cả tăng làm giảm thu nhập thực tế của người lao động, trong đó những người nghèo, những người làm công ăn lương và nông dân không có sản xuất hàng hoá hoặc tỉ suất hàng hoá thấp bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nguyên nhân khách quan của tình hình trên là: 1. Những tác động của giá dầu thô, giá nhập khẩu xăng dầu, vật tư chủ yếu cho sản xuất, kinh doanh trong quý I năm 2008 tăng từ 30 - 50% so với cùng kỳ năm trước, đã tác động trực tiếp lên chi phí sản xuất, kinh doanh và làm tăng giá đầu ra. Mặt khác, do cung cầu lương thực của nhiều vùng trên thế giới mất cân đối, làm cho giá lương thực, thực phẩm tăng, kéo mặt bằng giá trong nước lên cao. 2. Sự suy thoái của kinh tế Mỹ, tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế lớn khác trong năm 2007 như EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ đều giảm sút so với năm 2006. Tình hình lạm phát trên phạm vi toàn cầu có dấu hiệu tăng lên ngay từ quý IV năm 2007 và tiếp tục gia tăng trong quý I năm 2008. Chỉ số lạm phát ở Trung Quốc năm 2007 là 4,7%, tháng 2-2008 so với cùng kỳ năm trước tăng 8,7%. Hầu hết các nước đang phát triển, các nước trong khu vực ASEAN đều bị tác động. Đối với nước ta, với kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tương đương 170% GDP và nguồn vốn của nước ngoài chiếm 35% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, thì sự suy giảm kinh tế thế giới ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế trong nước. 3. Bão lụt, rét đậm, rét hại và các bệnh dịch cây trồng, gia súc, gia cầm, một số dịch bệnh ở người đã gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống của nhân dân. 4. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu dựa vào đầu tư vốn và lao động; năng suất, chất lượng đóng góp vào tăng trưởng còn thấp. Đây là sự yếu kém nội tại của nền kinh tế. Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là, sự bất cập và yếu kém của hệ thống quản lý Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, lúng túng trong điều hành các vấn đề kinh tế vĩ mô. Điều này thể hiện như sau: 1. Trong các năm trước, nhất là năm 2007 tốc độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng lên rất cao, đưa tiền vào lưu thông rất lớn. Mãi đến quý I năm 2008 mới thực hiện nhiều biện pháp để thu hút tiền về như tăng dự trữ tối thiểu phát hành trái phiếu Ngân hàng Nhà nước, kiểm soát hạn mức tín dụng cho kinh doanh chứng khoán, bất động sản,... Do việc gia tăng tiền tệ của các năm trước quá lớn, nên những biện pháp vừa qua mới có những tác dụng bước đầu, vừa tích cực là đã thu hút được một ít tiền về, vừa hạn chế là một số ngân hàng thương mại thiếu vốn để cho vay, nhất là đối với các hợp đồng tín dụng đã ký trước đó. 2. Ngân sách nhà nước thất thu do gian lận thương mại, trốn lậu thuế, tham nhũng,... Chi ngân sách nhà nước vẫn còn lãng phí và kém hiệu quả, đặc biệt chi cho xây dựng cơ bản và chi thường xuyên. 3. Quản lý đất đai, đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, chứng khoán và bất động sản còn nhiều hạn chế. Trong thời gian ngắn, cho phép thành lập nhiều công ty chứng khoán đã tạo ra những yếu tố tiềm tàng, gây rủi ro cho hệ thống tài chính và nền kinh tế. Việc giám sát các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước chưa chặt chẽ, làm giảm hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực của Nhà nước, gây tình trạng độc quyền đẩy giá lên cao. 4. Việc điều chỉnh tăng giá xăng dầu và vật tư chủ yếu khác theo giá thị trường do tác động của giá cả thế giới là cần thiết, nhưng chưa có lộ trình thích hợp và điều chỉnh linh hoạt nên cũng có tác dụng đẩy giá lên cao. Như vậy, nguyên nhân lạm phát của nước ta hiện nay vừa do khách quan, vừa do chủ quan, vừa do quản lý vĩ mô, vừa do hoạt động của nền kinh tế. + Giải pháp ngắn hạn: thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng dự trữ bắt buộc, giảm số nhân tiền tệ, tăng lãi suất chiết khấu- tái chiết khấu, tái cấp vốn, giảm cung tiền , kiểm soát dư nợ tín dụng, giảm giá USD theo tín hiệu thị trường quốc tế để hạn chế một phần tác động của lạm phát quốc tế (nhiều nước đã làm từ tháng 9/2007), cắt giảm và kiểm soát chi tiêu công một cach hiệu quả, chính phủ phải thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu thường xuyên, giảm chi phí đi lại, kiểm soát dòng vốn quốc tế, kiểm soát nợ ngắn hạn, trợ cấp những hộ nghèo khó khăn, trợ cấp hộ chăn nuôi, đảm bảo an ninh lương thực, kiểm soát nhập khẩu bằng nhiều giải pháp sắc với sự phối hợp với hệ thống NHTM với cơ quan thuế và Bộ Công thương, giảm thuế nhập khẩu các mặt hàng chiến lược và những mặt hàng thực phẩm trong nước đang thiếu, tăng thuế tiêu thụ đặc biệt các mặt hàng chưa cần thiết (kiểm soát tín dụng thương mại quốc tế, mua hàng trả chậm), Chính phủ ban hành những Sắc lệnh mang tính cấp bách trong giai đoạn khó khăn (không tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu, dịch vụ giao thông đi lại…cho đến khi tình hình được kiểm soát), chống đến cùng các nhóm đầu cơ găm hàng làm giá, buôn lậu (tội phá hoại kinh tế). Trong điều hành kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần lưu ý đến bộ ba không thể có (Trinity Impossible): tỷ giá ổn định, tự do di chuyển vốn, chính sách tiền tệ độc lập. + Giải pháp dài hạn, là việc làm thường xuyên (như tập thể dục mỗi ngày): kiểm soát chi tiêu công một cách hiệu quả, cải cách thủ tục hành chính, chống tham nhũng thường xuyên và tích cực, chính sách tiền tệ theo hướng hỗ trợ vốn cho tăng trưởng trên cơ sở kiểm soát tín dụng lành mạnh, điều hành tỷ giá linh hoạt theo hướng mở rộng biên độ và theo tín hiệu thị trường, tiến tới hạn chế tối đa tình trạng đô la hóa tại VN, sử dụng có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ theo tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế (dự trữ bắt buộc, công cụ tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở..), kiểm soát nhập siêu, đầu tư cho các lĩnh vực sản xuất có chất lượng hàng thay thế hàng nhập khẩu: nhà máy lọc dầu, xi măng, phôi thép, phân bón, chất dẻo, thức ăn gia súc, vải, giấy,.. (đầu tư dài hạn và có chính sách hỗ trợ đặc biệt để đẩy nhanh tiến độ), hỗ trợ xuất khẩu thông qua nhiều giải pháp đồng bộ chứ không phải duy nhất như chính sách tỷ giá (chất lượng sản phẩm, mẫu mã, chủng loại hàng, hạ giá thành xuất khẩu, tài trợ tín dụng, hỗ trợ xúc tiến thương mại, chiến lược marketing quốc tế, chất lượng chế biến, uy tín đơn vị xuất khẩu..), cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, đảm bảo an ninh lương thực, khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc phát triển nông nghiệp- nông thôn, phòng trừ dịch họa và thiên tai, tăng cường công tác dự báo để có chính sách kịp thời, tăng dự trữ ngoại hối quốc gia… Tóm lại, kiềm chế lạm phát không phải là bài toán không có lời giải, vấn đề là cần chấp nhận những thiệt hại nhất định cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cho ngân sách nước nhà. Vì vậy, cần có đồng thuận và chia sẻ của Chính phủ, doanh nghiệp và nhân dân. Cần đặt nước ta trong nền kinh tế thế giới để có cái nhìn tổng hợp và bình tỉnh hơn. Các Bộ, các ban ngành từ trung ương đến địa phường cần làm hết sức mình, bằng những kế hoạch cụ thể để triển khai các chỉ đạo mà Thủ tướng Chính phủ đã ban hành. Những kết quả tốt đẹp sẽ đến với kinh tế VN nếu chúng ta đoàn kết và có quyết tâm cao theo một đường lối thống nhất của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng, NHNN Việt Nam điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu đặt ra. Thể hiện như sau:     Thứ nhất, chậm trễ trong điều hành tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc.     Từ năm 2004 đến tháng 6-2007, Thống đốc NHNN Việt Nam mới tăng tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc. Hệ quả là trong 5 năm qua (2002-2006), tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng năm sau tăng so với năm trước liên kề với tốc độ 2 chữ số. Do đó, tổng phương tiện thanh toán tăng đồng biến so với tăng tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng. Cụ thể, theo báo cáo thường niên của NHNN Việt Nam, năm 2002: tăng 17,7%; năm 2003: tăng 24,94%; năm 2004: tăng 30,39%; năm 2005: tăng 23,34%; năm 2006: tăng 33,59%. Nếu tính theo phương pháp cộng dồn, số liệu thực hiện năm trước là cơ số của năm sau; thì tổng phương tiện thanh toán cuối năm 2006 gấp 3,16 lần tổng phương tiện thanh toán cuối năm 2001. Một số nước phát triển, cứ 10 năm sau tổng phương tiện thanh toán mới tăng gấp đôi.     Thứ hai, lãi suất cơ bản do NHNN Việt Nam công bố hằng tháng không có hiệu lực và duy trì 24 tháng liên tục, tính đến tháng 11-2007.     Ở Mỹ, lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay qua đêm giữa các NHTM với nhau. Ngược lại, ở Việt Nam lãi suất cơ bản do NHNN công bố, dựa trên lãi suất cho khách hàng tốt nhất vay của một vài NHTM. “Lãi suất cơ bản của Thống đốc NHNN Việt Nam đã vô hiệu?”, là nhan đề của một bài báo đăng trên Thời báo kinh tế Việt Nam số 179 năm 2006. Thống đốc NHNN Việt Nam còn ban hành Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30-5-2002 về việc cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng bằng VNĐ của tổ chức tín dụng với khách hàng và duy trì đến nay (?). Luật NHNN Việt Nam không có Điều, Khoản nào đề cập đến ngôn từ “Lãi suất thoả thuận”. Gần đây, một số NHTM hạ lãi suất huy động vốn như NHTM cổ phần nhà Hà Nội, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển; ngược lại, NHTM cổ phần Phương Nam hạ lãi suất cho vay từ 0,05%/tháng đến 0,2%/tháng; những hành vi đó không đúng với biện pháp chống lạm phát.     Thứ ba, NHNN Việt Nam điều hành tỷ giá VND/USD thiếu mềm dẻo.     Trong nhiều năm nay, Cục Dự trữ liên bang Mỹ thực hiện chính sách USD yếu. NHNN Việt Nam điều hành tỷ giá tiền tệ theo hướng VND yếu so với USD. VND bị hai cái “yếu” chồng lên nhau - tức là USD yếu so với các loại tiền mạnh trên thế giới; VND yếu so với USD. Năm 2007, NHNN Việt Nam điều hành tỷ giá VND/USD theo hướng VND mất giá so với USD từ 1% đến 2%/năm. Bởi vậy, đầu năm 2007, USD tràn vào nước ta, với khối lượng giá trị lớn. Nhưng NHNN Việt Nam đưa tỷ giá VND/USD trên thi trường ngoại tệ liên ngân hàng theo hướng VND yếu so với USD. Một số NHTM dựa vào tỷ giá tiền tệ ấy bán USD cho NHNN Việt Nam, một số báo như Báo Lao động đã viết tin nói rằng một số NHTM thừa USD, nhưng thực tế trạng thái ngoại tệ của NHTM ấy không phải là “trạng thái ngoại tệ trường”.     Thứ tư, hoạt động “nghiệp vụ thị trường mở” không đạt yêu cầu khi lạm phát gia tăng. Sáu tháng đầu năm 2007, NHNN Việt Nam phát hành tín phiếu NHNN hơn 200.000 tỷ đồng, bên mua là NHTM. Đến cuối tháng 6-2007, số dư tài khoản bán tín phiếu NHNN chỉ có 80,948 tỷ đồng, không bằng số tiền NHNN mua 7 tỷ USD (112.000 tỷ đồng); kỳ hạn ngắn, có kỳ hạn chỉ có 7 ngày.     Thứ năm, Luật NHNN Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2003 có một số điều không đúng với nguyên lý quản lý tiền tệ.  Nếu không sửa kịp thời, lạm phát sẽ tiềm ẩn và dẫn đến Chính phủ “mặc cả” với Quốc hội, từ tỷ lệ lạm phát là một con số cố định, thay bằng tỷ lệ lạm phát năm thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng GDP như năm 2007. Nguyên nhân gây ra lạm phát có nhiều, bao gồm: - Lạm phát là do sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế, mâu thuẫn về phân phối gây ra tăng giá. Cơ chế lan truyền đã tạo nên căng thẳng thêm các mâu thuẫn đó và dẫn đến lạm phát tăng lên. Lạm phát là tất yếu của nền kinh tế khi muốn tăng trưởng cao, nhưng lại tồn tại nhiều khiếm khuyết, hạn chế và yếu kém. Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế xuất hiện khi có quan hệ không bình thường trong các cân đối lớn của nền kinh tế như công nghiệp - nông nghiệp, công nghiệp nặng - công nghiệp nhẹ, sản xuất - dịch vụ, xuất khẩu - nhập khẩu, tích luỹ- tiêu dùng. Những thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế - xã hội do tăng trưởng kinh tế thường dẫn đến giá tăng lên khi cơ cấu thị trường chưa được hoàn chỉnh, các nguồn vật lực có giới hạn, các quan hệ không được đặt trong một sự cân đối hợp lý, năng lực sản xuất không được khai thác hết, trạng thái vừa thừa vừa thiếu xuất hiện. - Lạm phát là do tiền tệ, giá tăng lên ít nhiều là do tăng cung tiền tệ quá mức cầu của nền kinh tế. Với quan điểm này, lạm phát xuất hiện khi có một khối lượng tiền bơm vào lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông của thị trường. Điều này, được biểu hiện ở chỗ đồng tiền nội địa mất giá. - Lạm phát do cầu kéo hay là do sự mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu hàng hoá và dịch vụ. Khi tổng cầu hàng hoá và dịch vụ có khả năng thanh toán lớn hơn tổng cung hàng hoá và dịch vụ, đã đẩy giá tăng lên để thiết lập một sự cân bằng mới trên thị trường, trong đó tổng cung bằng tổng cầu. Lạm phát phụ thuộc vào độ co dãn của giá cung hàng hoá và dịch vụ. Cung hàng hoá và dịch vụ có thể tăng nhanh do tăng giá một chút nếu độ co dãn của giá là lớn. Một mặt, nếu các cơ sở sản xuất đang hoạt động thấp hơn công suất hiện có và còn nhiều công suất sản xuất chưa được sử dụng, cung hàng hoá sẽ tăng nhờ tác động tăng cầu hàng hóa và có thể không gây ra lạm phát. - Lạm phát (chi phí đẩy) xảy ra khi có tác động của các yếu tố bên ngoài tác động vào không gắn với tình hình tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Như chúng ta đều biết, ở hầu hết các nước đang phát triển thường phải nhập một lượng lớn nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trong nước, nếu giá của những loại nguyên vật liệu này trên thị trường thế giới tăng lên làm cho chi phí sản xuất các sản phẩm sẽ tăng lên và để tồn tại, buộc các nhà sản xuất phải đưa giá bán trên thị trường trong nước tăng lên theo. Vai trò và chức năng của ngân hàng trung ương (Bài 2) 1. Ngân hàng trung ương là ngân hàng độc quyền phát hành tiền     Với vai trò phát hành độc quyền tiền trên toàn quốc như phương tiện trao đổi, ngân hàng trung ương trực tiếp quản lý cung ứng tiền mặt. Việc quản lý mức độ cung ứng tiền mặt là công cụ thứ nhất giúp ngân hàng trung ương điều tiết mức cung ứng tiền tổng hợp. Với việc độc quyền phát hành tiền thì chính phủ có thể điều chỉnh được lượng tiền lưu thông để có thể kiểm soát lạm phát và từ đó có thể tăng giảm lãi suất để tăng lượng cầu hay giảm lượng cầu ứng với mỗi thời điểm của nền kinh tế. 2. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của hệ thống các ngân hàng trung gian a. Ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán, chuyển nhượng, bù trừ của các ngân hàng trung gian.     Vì các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trong nước đều phải mở tài khoản và kí quỹ tại ngân hàng trung ương nên hoàn toàn thực hiện được vai trò điều tiết thanh toán giữa các ngân hàng giống như những thân chủ mua bán lẫn nhau cùng có một tài khoản ở một ngân hàng. Vai trò này giúp ngân hàng trung ương kiểm soát, theo dõi, quản lý hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính trong nước. Mặt khác có thể quản lý được lượng tín dụng ra vào trong hệ thống tài chính vào những thời điểm nhất định. b. Ngân hàng trung ương là ngân hàng quản lý dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân hàng trung gian.     Dự trữ bắt buộc là tiền mặt, và tỉ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là tỉ lệ % tiền mặt trên tổng số tiền mặt do nhân dân gửi vào mà các ngân hàng thành viên phải lưu lại trong kho tiền mặt của ngân hàng hay kí gửi tại ngân hàng trung ương, không được cho vay hết. Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính cũng giảm ngay tức khắc và ngược lại. Bằng cách việc quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc ngân hàng trung ương quản lý một cách chặt chẽ tốc độ và cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng trung gian.     c. Ngân hàng trung ương là cứu cánh cho vay cuối cùng của hệ thống ngân hàng trung gian.     Không có ngân hàng trung gian nào hoặc tổ chức tín dụng nào dám khẳng định rằng trong lịch sử hoạt động của mình chưa hề có lúc kẹt tiền mặt. Những đợt rút tiền ồ ạt của nhân dân ( vì lãi suất thấp, vì lạm phát cao cho nên lãi suất trở thành âm, vì có thể những loại đầu tư khác có lợi cao hơn hoặc vì không đủ tin tưởng vào ngân hàng…) sẽ rất dễ làm cho ngân hàng trung gian vỡ nợ vì không đủ tiền mặt chi trả cho nhân dân. Trong trường hợp như thế khi ngân hàng trung gian không còn chỗ vay mượn nào khác, không thu hồi về kịp những khoản vay về kịp thì nó phải đến ngân hàng trung ương vay tiền như cứu cánh cuối cùng. Ngân hàng trung ương cho ngân hàng trung gian vay với phương thức gọi là cho vay chiết khấu. Đó là hình thức cho vay qua cửa sổ chiết khấu. Lãi suất của sự cho vay này là lãi suất chiết khấu. Ngân hàng trung ương là ngân hàng duy nhất không thể vỡ nợ hay kẹt tiền mặt, đơn giản vì nó rất mất ít thời gian đẩ in tiền mới. Cho nên nó có thể cho ngân hàng trung gian vay khi có yêu cầu. Ngân hàng trung gian có thể cho vay hết dự trữ bắt buộc vì khi cần thiết nó có thể vay ngân hàng trung ương với lãi suất cũng giống như vay của nhân dân để thanh toán cho nhân dân. Nhưng giả sử ngân hàng trung ương quy định, tuy lãi suất cho vay của ngân hàng trung gian là 10%, nhưng nếu ngân hàng trung gian cho vay dưới tỉ lệ dự trữ bắt buộc và phải vay đến ngân hàng trung ương, ngân hàng trung ương sẽ cho vay với lãi suất 12%. Lúc đó ngân hàng trung gian sẽ cân nhắc, nếu nó cho vay dưới tỉ lệ dự trữ bắt buộc với lãi suất chỉ 10% , thì khi kẹt thanh toán nó phải vay lại của ngân hàng trung ương với lãi suất cao hơn. Việc lỗ trông thấy khi vay tiền của ngân hàng trung ương sẽ buộc các ngân hàng trung gian giảm lượng cho vay xuống, hay nói cách khác là giảm lượng cung ứng tiền ngân hàng và tăng dự trữ để giải quyết vấn đề khi dân rút tiền. Như vậy khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu thì sẽ làm giảm lượng cung tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, tức là giảm lượng cung tiền trong toàn bộ nền kinh tế và ngược lại.     Trong vai trò cứu cánh cuối cùng với lãi suất cho mình quy định, ngân hàng trung ương dùng lãi suất chiết khấu để điều tiết lượng tiền cung ứng của hệ thống ngân hàng trung gian và của nền kinh tế. Qua đây ta thấy được đây là một công cụ giúp chính phủ quản lý nền kinh tế một cách vĩ mô. 3. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng, đại lý và cố vấn cho chính phủ a. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của chính phủ     Tùy theo đặc điểm tổ chức của từng nước, chính phủ có thể ủy quyền cho bộ tài chính hay kho bạc đứng tên và làm chủ tài khoản ở ngân hàng trung ương. Hàng quý, hàng năm, tiền thuế thu được và những khoản thu khác của ngân sách được gửi vào ngân hàng trung ương để ngân hàng trung ương sử dụng và trả lãi. Khi chính phủ cần, bộ tài chính hay kho bạc cũng phải làm thủ tục để rút tiền gửi từ ngân hàng trung ương như một khách hàng bình thường. Khi chính phủ thâm hụt ngân sách, chính phủ có nhiều cách bù vào như: vay của dân bằng cách phát hành công trái, vay của nước ngoài, vay ứng trước thuế, …, và vay của ngân hàng trung ương. Nếu vay của ngân hàng trung ương thì về nguyên tắc có thể thế chấp bằng các loại tài sản mà chính phủ có như: chứng thư chủ quyền tài sản, chứng khoán, vàng… Trong trường hợp chính phủ vay mà không thế chấp thì ngân hàng có quyền từ chối. Nếu ngân hàng trung ương không từ chối được thì nó đành phát hành tiền mặt ngoài dự kiến cho chính phủ làm cho tổng cung về tiền tăng lên và nền kinh tế cũng sẽ biến động theo. Thông qua vai trò là chủ ngân hàng của chính phủ với nghiệp vụ là cho vay, ngân hàng trung ương làm thay đổi lượng tiền tệ trong nền kinh tế, nghĩa là can thiệp vào những biến động của kinh tế vĩ mô.     b. Ngân hàng trung ương là đại lý của chính phủ Với tư cách là đại lý cho chính phủ, ngân hàng trung ương thay mặt chính phủ tổ chức thu thuế qua hệ thống ngân hàng của nó. Đồng thời nó thay mặt chính phủ trong các thỏa thuận tài chính, viện trợ, vay mượn, chuyển nhượng và thanh toán với nước ngoài. Ngoài ra với tư cách này nó có thể phát hành trái phiếu, cổ phiếu…cho chính phủ kể cả trong và ngoài nước. Bằng việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu…ngân hàng trung ương đã làm trực tiếp tăng (giảm) lượng cung ứng tiền cho nền kinh tế. Và thông qua đó đã làm tác động đến kinh tế vĩ mô. c. Ngân hàng trung ương là cố vấn tài chính cho chính phủ Ngân sách có tác động khá quan trọng đến nền kinh tế vĩ mô vì nếu hoạt động của ngân sách không hài hòa với chính sách tiền tệ nó sẽ làm cản trở hiệu quả của chính sách tiền tệ trong điều tiết vĩ mô. Với lý do trên ngân hàng trung ương phải tham gia cố vấn cho chính phủ trong chính sách tài chính và kinh tế. Với vai trò này ngân hàng trung ương gián tiếp ảnh hưởng đến việc cung ứng trái phiếu của chính phủ và các hoạt động chi tiêu khác cho hợp lý với ngân sách. Đây là một cách để điều tiết kinh tế vĩ mô. 4. Ngân hàng trung ương là ngân hàng trực tiếp quản lý dự trữ quốc gia     Dự trữ quốc gia bao gồm những dự trữ chiến lược cho những trường hợp khẩn cấp như can thiệp vào điều tiết kinh tế, nhập khẩu hàng khẩn cấp để chống khan hiếm và chống lạm phát, khi có thiên tai, chiến tranh… Dự trữ bao gồm: vàng, tiền tệ, …. Với tư cách là ngân hàng của chính phủ, ngân hàng trung ương được giao phó nhiệm vụ quản lý dự trữ quốc gia. Khi nắm trong tay công cụ này ngân hàng trung ương(NHTU) có thể can thiệt bất kì lúc nào vào thị trường ngoại tệ để giữ giá đồng tiền trong nước, hay tăng hoặc giảm giá. NHTU với nghiệp vụ mua bán trên thị trường vàng và ngoại tệ, nó tạo ra hai tác động quan trọng là thay đổi cung ứng tiền và thay đổi tỉ giá hối đoái của đồng tiền trong nước. Hai điều này tác động đến tổng cầu, sản xuất, thu nhập và giá cả và đương nhiên điều này có tác động đến kinh tế vĩ mô. 5. Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương     Mọi họat động của ngân hàng trung ương đều ảnh hưởng mật thiết đến cung ứng tiền trong nền kinh tế. Cung ứng tiền thay đổi làm biến động giá cả, sản lượng quốc gia, do đó một cách gián tiếp mọi họat động ngân hàng ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế. a. Ảnh hưởng của cung ứng tiền đến nền kinh tế     Sự khác biệt trong chính sách cung ứng tiền là khoảng cách giữa chính sách cung ứng nới lỏng và chính sách cung ứng thắt chặt. Giả sử vào thời điểm ta nghiên cứu, đường cung ứng tiền tương ứng của ngân hàng là LS0 ứng với nhu cầu tiền trong nền kinh tế là LD. Nền kinh tế đạt bình quân tạm thời trên thị trường tiền tệ tại điểm bình quân E0 cho biết: với mức bình quân ấy lượng cung ứng tiền là L0 và lãi suất là R0. Bây giờ, cho rằng ngân hàng trung ương quyết định thắt chặt cung ứng tiền để hạn chế lạm phát (LS0 tới LS1) trong khi LD vẫn không thay đổi. Chính điều này đã làm cho lãi suất tăng vọt từ R0 đến R1. E0 di chuyển đến E1. Lúc này tiền sẽ khan hiếm hơn (do lượng cung giảm). Tiền khan hiếm thì giá trị của đồng tiền sẽ tăng theo do đó lạm phát sẽ giảm. Ngược lại, giả sử sau một khỏang thời gian chống lạm phát với cái giá là sự suy thoái (tiền khan hiếm, lãi suất cao bên cạnh đó sự thắt chặt tiền tệ của ngân hàng khiến doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn vay), ngân hàng trung ương bắt đầu chuyển sang cung ứng tiền nới lỏng. Tổng cung tiền tệ tăng từ LS1 lên LS2, cắt LD tại E2, lúc này lượng tiền tệ tăng lên L2 và lãi suất giảm xuống còn R2. Lúc này thì nền kinh tế phải đối mặt với thách thức mới là lạm phát có thể gia tăng (do có quá nhiều tiền trong lưu thông). Vì thế cho nên mỗi lần áp dụng mức lãi suất hay lượng cung ứng tiền ngân hàng trung ương phải đắn đo suy nghĩ những tác hại thiệt hơn cho mỗi chính sách tiền tệ.  Chính sách cung ứng tiền nới lỏng làm cho tiền tệ trở nên dồi dào hơn. Điều này kích thích tiêu dùng cho cuộc sống và cho đầu tư nhiều hơn. Sự gia tăng tiêu dùng và đầu tư làm sản xuất liên tục được mở rộng, tuyển mộ thêm công nhân, giảm thất nghiệp và gia tăng thu nhập quốc dân. Nền kinh tế tăng trưởng với giá cả tăng cao hơn trước. Chính sách cung ứng tiền thắt chặt làm cho chi phí để có tiền cao hơn và tiền trở nên khan hiếm. Sản xuất thiếu vốn, người mua thiếu tiền buộc phải cắt giảm chi tiêu và đầu tư, điều này dẫn đến tổng cầu giảm và giá cả hạ. Cái giá phải trả là sản xuất bị thu hẹp, thất nghiệp tăng, thu nhập quốc dân giảm và nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Do đó cung ứng tiền là sức mạnh đầy quyền lực của ngân hành trung ương. Khi ngân hàng trung ương điều tiết cung ứng tiền tức là nó bắt đầu tiến hành điều tiết nền kinh tế. b. Mục tiêu và phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô bằng cung ứng tiền của ngân hàng trung ương. Mục tiêu: -    Chính sách tiền tệ phải phục vụ cho mục đích đảm bảo cho nền kinh tế có tăng trưởng, tức là giảm thất nghiệp, gia tăng thu nhập quốc dân và mở rộng tiềm năng sản xuất, chống suy thoái… -    Chính sách tiền tệ phải hướng về ổn định giá cả: Giá cả có lạm phát thấp là mục tiêu của mọi nền kinh tế vì mức tăng thu nhập thực tế của nhân dân sẽ dương, do đó đời sống của người lao động sẽ tốt hơn và người dân sẽ tin chính phủ hơn. Sản xuất sẽ có vốn với chi phí hạ và nền kinh tế sẽ có sức bật về đầu tư lâu dài, giá trị đồng tiền nội địa sẽ ổn định. -    Phải tạo cho nền kinh tế có một nền tảng tài chính ổn định: Nền tảng tài chính ổn định được hiểu là bằng chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương phải ổn định họat động tài chính của hệ thồng tài chính trong nước một cách gián tiếp… hướng quản lý các họat động của nó phù hợp với các mục tiêu kinh tế. Làm hài hòa các lợi ích của các tổ chức tài chính để nó phục vụ tốt nhất cho lợi ích chung của cả nền kinh tế. -    Góp phần mở rộng sản lượng tiềm năng của nền kinh tế: Các tiềm năng như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người… mục tiêu cuối cùng của chính sách là khai thác và phát triển các ngưồn lực một cách có hiệu quả nhất. Các phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô bằng điều tiết cung ứng tiền của ngân hàng trung ương. a. Mục tiêu trung gian trong điều tiết kinh tế thông qua điều tiết cung ứng tiền Khi xem xét mục tiêu trung gian (lãi suất,dự trữ,tỷ giá) trong họat động điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương, thì những mục tiêu này thực chất chỉ là phương tiện giúp cho ngân hàng trung ương đạt được mục tiêu là điều tiết nền kinh tế. Xét về ngắn hạn lãi suất, dự trữ, tỷ giá thay đổi ảnh hưởng một cách nhanh chóng đến tiêu dùng và đầu tư và đến nền kinh tế. Từ đó về mặt ngắn hạn các nhà kinh tế học xem ba tác nhân trên là những mục tiêu trung gian.    •    Lãi suất Lãi suất là tỉ lệ phần trăm giữa khỏan tiền ngưởi vay trả cho người cho vay trên tiền vốn trong một khoảng thời gian nhất định như 1 năm, 1 tháng. Giả sử lúc đầu lãi suất của thị trường tiền tệ là R0, ở mức lãi suất này nhu cầu tiêu dùng của nhân dân là AD0 và sản lượng quốc gia là Y0. Bây giờ cho rằng ngân hàng trung ương và chính phủ quyết định nâng lãi suất để giảm lạm phát. Lãi suất cao hơn làm cho việc vay tiền trở nên khó khăn hơn do thế sản xuất không dám tiêu dùng nhiều vốn và sản xuất có xu hướng giảm sút. Do lãi suất cao nên người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn và nhu cầu tiêu dùng giảm xuống. Đường cầu AD0 dịch chuyển đến AD1. Tiêu dùng và đầu tư giảm làm giá cả giảm từ P0 xuống P1, sản lượng tụt xuống Y1 và nền kinh tế đi vào tình trạng suy thoái. Ngược lại khi lãi suất hạ xuống R2, sản xuất sẽ tiêu dùng nhiều vốn hơn, sản xuất được đẩy mạnh, lãi suất thấp người tiêu dùng sẽ tiết kiệm ít hơn và đầu tư và chi tiêu nhiều hơn do đó cầu sẽ tăng lên. Giá cả cũng sẽ tăng và sản lượng quốc gia do đó cũng tăng lên. •    Dự trữ Khi ngân hàng trung ương sử dụng tỷ lệ dữ trự bắt buộc như một công cụ, nó tác động trực tiếp đến cung ứng tiền. Lúc đó dự trữ bắt buộc là công cụ mà cung ứng tiền là mục tiêu. Khi ngân hàng trung ương không sử dụng cách điều tiết trực tiếp bằng việc áp đặt tỷ lệ dựtrữ bắt buộc, nó có thể tác động đến dự trữ bắt buộc bằng cung ứng tiền. Đó là cách điều tiết gián tiếp. Bằng việc bán chứng khoán ra để thu tiền về (giảm lượng tiền trong lưu thông, tiền từ đó khan hiếm dần), từ đó mà lãi suất tăng lên và làm giảm việc cho vay. Khi ngân hàng trung ương xuất tiền ra để mua chứng khóan (tăng cung ứng tiền cho nền kinh tế, tiền dễ dàng để có hơn) do đó làm giảm lãi suất, tăng khả năng cho vay. Trong trường hợp này cung ứng tiền là công cụ mà dự trữ là mục tiêu. •    Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái được xem là giá của một đồng tiền trên sự so sánh với một đồng tiền nước khác ( kí hiệu là E ).    Bằng việc thay đổi cung ứng tiền, ngân hàng trung ương có thể làm tăng hay giảm giá đồng tiền nội địa so với nước ngòai. Khi ngân hàng trung ương tăng cung ứng tiền từ LS0 lên LS2, có quá nhiều đơn vị tiền nội địa trong sự so sánh với nước ngoài, hay nói cách khác chỉ cần ít tiền nước ngoài hơn để đổi lấy một đơn vị đồng nội tệ, do vậy giá trị đồng tiền trong nước giảm từ RV0 xuống RV2 ( tỉ giá trao đổi từ E0 lên E2 ). Trong trường hợp ngược lại, khi ngân hàng trung ương thắt chặt tiền tệ, giảm cung ứng tiền xuống còn LS1, đồng tiền trong nước trở nên khan hiếm hơn và từ đó giá trị đồng tiền trong nước tăng lên đến RV1. Tỉ giá trao đổi giảm xuống E1. Hay cũng có cách khác, là cách như Hoa Kì làm trong năm 1995. Hoa Kì bán ngọai tệ để rút tiền nội địa về (thu hẹp cung ứng tiền) nhằm tăng giá đồng tiền nội địa. Và bán đồng nội tệ để mua ngoại tệ (tăng cung ứng tiền) nhằm giảm giá đồng nội tệ. Khi đồng tiền trong nước bị mất giá (tức là với một đơn vị ngọai tệ có thể đổi nhiều đồng nội tệ hơn) lúc đó sẽ làm gia tăng xuất khẩu (bán hàng ra nước ngòai và thu tiền về bằng ngọai tệ, khi đổi ra nội tệ sẽ có lợi hơn do đồng nội tệ đã mất giá hơn trước ), do đó sẽ làm tăng GDP. Và khi đồng tiền nội tệ tăng giá sẽ làm tăng nhập khẩu. Do những lý do trên tỉ giá hối đoái có tác động đến kinh tế vĩ mô và nắm được tỉ giá hối đoái này chính phủ cần ngân hàng trung ương điều tiết lượng cung ứng tiền.  b. Các công cụ điều tiết •    Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở có 2 lọai: được phép mua bán chứng khóan vào những thời điểm nhất định sau khi nghiệp vụ được tiến hành và lọai không được phép mua bán lại. Khi ngân hàng trung ương đem chứng khóan ra thị trường mở để bán nó thu tiền hay séc về, cho nên: 1. Giảm lượng cung tiền mắt trong lưu thông từ đó giảm khả năng cho vay của các ngân hàng trung gian.   2.Khi ngân hàng trung gian mua chứng khóan của ngân hàng trung ương thì dự trữ tiền của nó sẽ giảm xuống và khả năng cung ứng tiền của nó bị thắt chặt. 3. Lượng chứng khoán tăng lên, chứng khoán trở nên thừa và giá của nó sẽ giảm xuống, lãi suất của nó sẽ tăng lên. Lãi suất chứng khoán tăng lên buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất để tránh tình trạng người dân rút tiền ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào chứng khoán. Lãi suất ngân hàng tăng làm lượng tiền cung ứng giảm và do đó tiền trở nên khan hiếm, do đó tỉ giá và giá cả hàng hóa giảm xuống. Và ngược lại khi ngân hàng trung ương ra thị trường mở để mua chứng khoán. Như vậy khi ngân hàng trung ương thực hiện nghiệp vụ bán, nó thắt chặt cung ứng tiền, tăng lãi suất, giảm tỉ giá và giá cả hạ xuống và ngược lại khi thực hiện nghiệp vụ mua. •    Lãi suất cho vay chiết khấu Được ngân hàng trung ương quyết định trong cả hai trường hợp: 1. Cho vay bình thường với kí quỹ khi ngân hàng trung gian kẹt thanh tóan. 2. Cho vay dưới hình thức cứu cánh cuối cùng. Lãi suất cho vay chiết khấu có cả hai tác dụng: trực tiếp và gián tiếp. Tác động gián tiếp là nó làm tăng, giảm lãi suất cho vay của ngân hàng trung gian và do đó tác động đến cung ứng tiền và tín dụng. Tác động trực tiếp là nó làm tăng hay giảm dự trữ của ngân hàng trung gian và do đó tác động đến lượng cho vay tiêu dùng và đầu tư trong kinh tế. Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu thì đó là biến cố quan trọng. Lãi suất tăng khiến ngân hàng trung gian không thể vay mượn của ngân hàng trung ương nhiều và dễ dàng như trước. Do đó nó phải giảm lượng cho vay và hậu quả là tổng cầu và sản lượng giảm theo. Điều này cũng làm cho ngân hàng trung gian ý thức rằng khi cần vay thì ngân hàng trung gian phải trã lãi suất cao, do đó ngân hàng trung gian sẽ từ từ nâng lãi suất của mình để khỏi thiệt hại nặng khi phải vay của ngân hàng trung ương. Lãi suất tiếp tục thắt chặt lượng cung tiền và tác động đến nền kinh tế. Và ngược lại khi giảm lãi suất chiết khấu. •    Dự trữ bắt buộc Sự thay đổi trong tỉ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng cung của tiền và ảnh huởng sâu sắc đến nền kinh tế. •    Chính sách tiền mặt Ngòai việc có thể thay đổi cơ số tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở và cho vay chiết khấu ngân hàng trung ương có thể có những cách khác như: Khi ngân hàng tung tiền mặt ra mua ngọai tệ trên thị trưởng ngọai tệ, tức khắc nó làm tăng giá trị của đồng ngọai tệ (ngọai tệ trong lưu thông ít đi, lượng tiền nội tệ thì tăng thêm ), nâng tỉ giá lên cao. Cung ứng tiền nội tệ tổng thể lập tức bành trướng sau đó và ngược lại khi bán ngọai tệ. Khi ngân sách chính phủ thâm hụt nó sẽ cho chính phủ vay, lượng tiền mặt nó cho vay làm tăng lượgn tiền trong lưu thông và tăng cung ứng tiền trong nền kinh tế thông qua việc chi tiêu của chính phủ. Nhìn lại quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam Cùng với các nỗ lực kiềm chế lạm phát như cắt giảm chi tiêu và đầu tư, đẩy mạnh phong trào tiết kiệm... các động thái điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước với thị trường tiền tệ thông qua công cụ lãi suất rất đáng chú ý. Nhìn lại quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam mang lại hiểu biết đầy đủ hơn về cách thức sử dụng và tác động của công cụ này. I. Ý nghĩa của lãi suất và tự do hóa lãi suất  Lãi suất là một phạm trù kinh tế khách quan, mang tính chất tổng hợp và đa dạng. Nó là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức phải trả trên tổng số vốn đi vay trong một thời gian nhất định (năm, quí, tháng, ngày v.v..). Lãi suất được biểu hiện dưới dạng số tuyệt đối, đó chính là lợi tức tín dụng. Như vậy lợi tức tín dụng là khoản tiền phải trả cho việc vay mượn quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định.   Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất giữ vị trí khá quan trọng, nó được thể hiện như sau:  ° Lãi suất là đòn bẩy, kích thích sự tăng trưởng kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Chính sách lãi suất, nếu tạo ra được mức lãi suất cho vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ có tác dụng thúc đẩy kích thích các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, trang bị công nghệ sản xuất hiện đại bằng nguồn vốn vay ngân hàng. Hiệu quả cuối cùng sẽ tạo ra một nguồn vốn của cải cho xã hội, tổng thu nhập quốc dân tăng lên rất nhiều.  ° Lãi suất là công cụ thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, lãi suất là giá cả của vốn, do vậy thông qua lãi suất các ngân hàng thương mại sẽ tự điều chỉnh hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng của mình mà kết quả cuối cùng là nền kinh tế, các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư được lợi hơn vì sẽ được hưởng giá rẻ và chất lượng dịch vụ cao.  ° Lãi suất là công cụ dùng để điều chỉnh các hoạt động đầu tư trong nền kinh tế, hay nói cách khác, khi các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư có vốn, muốn đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải lấy lãi suất tín dụng trong nền kinh tế làm cơ sở và quyết định, ít nhất hiệu quả đầu tư vào các lĩnh vực khác để sinh lời phải có tỷ lệ lớn hơn hoặc cùng lắm phải bằng lãi suất tín dụng.  ° Lãi suất còn là công cụ để kềm chế lạm phát rất hữu hiệu thông qua chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất để thu hút tiền nhàn rỗi trong lưu thông về, nhằm điều hòa lượng tiền trong lưu thông, cân đối với khối lượng hàng hóa.  Như vậy, lãi suất trong nền kinh tế là công cụ kinh tế khá quan trong, làm sao lãi suất phải phù hợp với lãi suất của các nước trên thế giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề được đặt ra và cần được giải quyết. Tự do hóa lãi suất là một bộ phận quan trọng của tự do hóa tài chính, thực chất của tự do hóa lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho cung cầu vốn trên thị trường xác định lãi suất cân bằng. Ngân hàng trung ương chỉ can thiệp bằng các công cụ để điều chỉnh theo định hướng mà thôi. Hay nói cách khác: Tự do hóa lãi suất là việc trao cho thị trường vốn toàn bộ việc xác định lãi suất cân bằng, ngân hàng trung ương chỉ sử dụng các công cụ can thiệp một cách gián tiếp để điều chỉnh cho phù hợp chiến lược và mục tiêu đặt ra trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.  Tự do hóa lãi suất nói riêng và tự do hóa tài chính nói chung có ý nghĩa quan trọng đối với các quốc gia trong giai đoạn phát triển và chuẩn bị hội nhập vào nền kinh tế thế giới trên phương diện vĩ mô lẫn vy mô:  1. Xét ở phương diện vĩ mô của nền kinh tế:   Trong quá trình phát triển nền kinh tế và hội nhập, VN đã có những thành công bứơc đầu trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới sau nhiều năm bị gián đoạn. Hiện nay, chúng ta đã có mối quan hệ với IMF, WB, ADB, .v.v và là thành viên của ASEAN từ năm 1997, gia nhập AFTA và đang chuẩn bị gia nhập WTO, bước đầu hòa nhập như vậy chúng ta đã có những thành công lớn, kế tiếp là chúng ta đã chuyển đổi một số hoạt động cho phù hợp với thông lệ quốc tế, trong đó có lĩnh vực tài chính, ngân hàng.  Như vậy tự do hóa lãi suất, chuyển dần sang thực hiện các công cụ gián tiếp điều hành chính sách lãi suất, giảm sự can thiệp và điều hành bằng các công cụ hành chính trực tiếp, từ đó sẽ trả lãi suất đúng vai trò là đòn bẩy kích thích nền kinh tế phát triển, nhằm kích thích sự tăng trưởng kinh tế.  2. Về phương diện vi mô của nền kinh tế:   Tự do hóa lãi suất sẽ thúc đầy cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong nước và các chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài tại VN, giúp các ngân hàng trong nước có điều kiện phát triển, đa dạng hóa nghiệp vụ, tiếp cận công nghệ tiên tiến hơn. Đối với các khách hàng của ngân hàng thương mại đó là các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư sẽ chủ động hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời được quyền lựa chọn các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng để giao dịch, hoạt động.  II. Quá trình tự do hóa lãi suất ở VN  Quá trình tư do hóa lãi suất ở VN, chính là quá trình điều hành cơ chế lãi suất qua các thời kỳ phát triển của nền kinh tế, quá trình đó đựoc thể hiện như sau:  1. Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền kinh tế theo phương thức quản lý kế hoạch hóa tập trung (trước năm 1998):    Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá nặng nề, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới. Dẫn đến lãi suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.  2. Lãi suất thời kỳ nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước (từ năm 1988 đến 2006).   Bước ngoặt trong tiến trình đổi mới, cải cách nền kinh tế VN trong lĩnh vực ngân hàng bắt đầu bằng Nghị định 53/HĐBT ngày 26.3.1988 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Nội dung cơ bản của Nghị định 53/HĐBT đó là “Đã hình thành việc phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh, làm tiền đề cho hai pháp lệnh về: Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 23.5.1989 của Hội đồng nhà nước. Hai pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 1.10.1990 với nội dung chủ yếu: Xóa hẳn mô hình ngân hàng một cấp và xây dựng mô hình ngân hàng hai cấp phù hợp với mô hình của ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong đó Ngân hàng Nhà nước VN thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng, quản lý hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế, còn ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, thực hiện chức năng kinh doanh trực tiếp về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền kinh tế. Từ Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực 1.10.1990, đến ngày 1.10.1998 Luật ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ra đời và có hiệu lực cho đến nay đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế. Nhìn lại diễn biến của chính sách lãi suất qua từng thời kỳ, cho chúng ta thấy những bước phát triển của mỗi thời kỳ tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế. Quá trình tự do hóa lãi suất của Việt Nam được thể hiện tổng quát như sau:  a. Cơ chế thức thi chính sách lãi suất cố định (1989-5.1992):   Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo nguyên tắc của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp dụng ở các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được điều chỉnh theo biến động của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo mức lãi suất của thị trường tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thời gian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương.  b. Cơ chế điều hành khung lãi suất (6.1992-1995):   Đặc trưng của cơ chế này là Ngân hàng Nhà nước điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực chất là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, đảm bảo cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu quả, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.  c. Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-7.2000):   Nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất, đó là Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào của ngân hàng thương mại) và linh hoạt trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra). Cơ chế lãi suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của VND trong sự tương quan của các đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam Á.  d. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8.2000-5.2002):   Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.  Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi suất này cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới.  e. Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6.2002 – 2006):   Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi từng bước bắt đầu từ tháng 5.2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp theo 5.2002 là áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong nước. Nhìn một cách tổng quát thì quá trình thực thi cơ chế tự do hóa lãi suất ở VN bước đầu đã có kết quả nhất định.  Trong năm 2008, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã tăng lãi suất cơ bản 3 lần và tới thời điểm tháng 6/2008, mức lãi suất đang là 14%, mức cao nhất ở Châu Á, từ mức 12% trước đó. NHNN cũng giảm giá đồng VND 2% trong tháng này nhằm giải tỏa áp lực đối với đồng tiền trong nước. Tóm lại  Có thể nói quá trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt Nam từ khi có mô hình ngân hàng hai cấp (1988) đến nay đã trải qua năm bước chuyển đổi căn bản, đó là những bước đi khá thận trọng và khẳng định xu hướng tất yếu của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. Quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định:  - Tiến hành cải cách, điều chỉnh chính sách lãi suất làm cho lãi suất trong nền kinh tế đã trở thành công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát.  - Lãi suất góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, kích thích sự tiết kiệm và khuyến khích đầu tư. Việc xóa dần chính sách ưu đãi về lãi suất đã dần dần tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực hiện tốt công tác hạch toán kinh tế và kinh doanh của mình được chủ động và thuận lợi.  - Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất, chuẩn bị cho sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế giới. Quyết định 546/2002 QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng, đây là một bước ngoặt lớn đánh dấu sự mở đầu trong việc thực hiện cơ chế tự do hóa lãi suất trong nền kinh tế đối với hoạt động tín dụng và lãi suất cơ bản công bố của Ngân hàng Nhà nước dần dần sẽ mang tính chất tham khảo đối với các tổ chức tín dụng trong việc xác định lãi suất từng thời kỳ. Như vậy quá trình đổi mới cơ chế lãi suất từ kiểm soát trực tiếp, cố định lãi suất sang cơ chế lãi suất thỏa thuận thực chất là dần dần đã tự do hóa lãi suất, đây là những bước đi thận trọng, đã có những thành công cơ bản của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. Đổi mới và lành mạnh hóa hệ thống tài chính – Ngân hàng I. Thực trạng  chính sách tài chính – tiền tệ thời gian qua 1. Những thành quả  Thứ nhất: Chính sách tài chính - tiền tệ góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và  kềm chế lạm phát. Thứ hai:  Nâng cao hiệu suất huy động vốn của nền kinh tế Thứ ba: Hình thành và phát triển thị trường tài chính – nét đặc trưng trong hoạt động tài chính của cơ chế kinh tế thị trường Sự ra đời và phát triển của thị trường tài chính đã khai thông và thúc đẩy mạnh mẽ quá trình giao lưu vốn. Hiện tại nền kinh tế Việt Nam đã xuất hiện các công cụ huy động vốn của thị trường phục vụ cho mở rộng sản xuất kinh doanh, nhu cầu đầu tư phát triển của Nhà nước, khuyến khích tiết kiệm, đầu tư của công chúng thông qua thu nhập, lợi tức và giá cả chứng khoán. 2. Những tồn tại của chính sách tài chính - tiền tệ và trong cơ chế điều hành. - Về ngân sách nhà nước: Thu ngân sách nhà nước từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước  chỉ chiếm vào khoảng hơn 50%, còn lại dựa vào thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và bán dầu thô. Mức đóng góp vào nguồn thu thuế cho ngân sách nhà nước từ khu vực doanh nghiệp dân doanh còn thấp. Hệ thống thuế vẫn còn phức tạp trên nhiều khía cạnh. Chi ngân sách nhà nước hiệu quả còn thấp. Chi cho các đơn vị hành chính, sự nghiệp chưa tính hết khả năng tài chính và năng lực hoạt động của những đơn vị này, do đó chưa khuyến khích mạnh mẽ các đơn vị sự nghiệp có thu tăng cường khai thác nguồn thu, nâng cao thu nhập cho người lao động và giảm bớt phần cấp phát từ ngân sách nhà nước. - Về tín dụng nhà nước: Nhà nước chưa xây dựng được một chiến lược tổng thể với những kế hoạch vay nợ và trả nợ trung, dài hạn trong mối tương quan chặt chẽ với kế hoạch chi ngân sách nhà nước và chính sách phát triển kinh tế - xã hội trung, dài hạn. Đầu mối quản lý, theo dõi nợ quốc gia và sự phân định trách nhiệm giữa các Bộ, ngành trong quản lý nợ chính phủ và nợ quốc gia  còn thiếu chặt chẽ. Tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA chậm, cơ chế quản lý nguồn vốn ODA còn phân tán nên việc tổng hợp và đánh giá hiệu quả kinh tế của nguồn vốn này còn hạn chế. - Về tài chính doanh nghiệp: Chưa có đột phá trong đổi mới cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp. Nhà nước còn can thiệp sâu vào hoạt động  quản trị tài chính và quan hệ tín dụng – ngân hàng của các doanh nghiệp, quyền tự chủ thực tế của các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doclt tctt tong hop.doc
Tài liệu liên quan