Văn hóa kinh doanh của Công ty Cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Tài liệu Văn hóa kinh doanh của Công ty Cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế: LUẬN VĂN: Văn hóa kinh doanh của Công ty Cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cách đây hơn 60 năm (1946) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Phải làm sao cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho nhân dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng. Văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình nên hưởng" (Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003). Ngay sau ngày quốc khánh 02-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập Ủy ban văn hóa lâm thời Bắc Bộ. Ngày 07-9-1945 Bác tiếp các đại biểu của Ủy ban này và Người chỉ rõ: "Bổn phận các Ngài là lãnh đạo tư tưởng quốc dân, đấu tranh cho độc lập và kiến thiết một nền văn hóa mới"(Tư tưởng Hồ...

pdf143 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Văn hóa kinh doanh của Công ty Cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Văn hóa kinh doanh của Công ty Cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cách đây hơn 60 năm (1946) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Phải làm sao cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho nhân dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng. Văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình nên hưởng" (Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003). Ngay sau ngày quốc khánh 02-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập Ủy ban văn hóa lâm thời Bắc Bộ. Ngày 07-9-1945 Bác tiếp các đại biểu của Ủy ban này và Người chỉ rõ: "Bổn phận các Ngài là lãnh đạo tư tưởng quốc dân, đấu tranh cho độc lập và kiến thiết một nền văn hóa mới"(Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003). Như vậy, có thể khẳng định văn hóa có một vai trò rất lớn, nó vừa là môi trường,vừa là công cụ để tác động đến hành vi của cá nhân và tổ chức. Văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực vô hạn thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hóa và nhờ hàng hóa để phát triển, là mục tiêu cao cả của mọi hình thái xã hội. Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người xây dựng xã hội mới và con người mới trong tất cả các lĩnh vực hoạt động sản xuất - kinh doanh, hoạt động chính trị, hoạt động khoa học - công nghệ, hoạt động văn hóa - xã hội - nhân văn, vv... Trong thời đại ngày nay kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và cách mạng quản lý ngày càng phát triển như vũ bão, các quốc gia xích lại gần nhau hơn, vì thế văn hóa dân tộc, bản sắc dân tộc ngày càng trở thành trung tâm của mọi sự chú ý. Văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân được hình thành trên nền tảng văn hóa dân tộc và là bộ phận cấu thành, tô đậm thêm bản sắc văn hóa dân tộc, không thể đối lập với bản sắc văn hóa dân tộc. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, với sự di chuyển dễ dàng các nguồn tài chính, nguyên liệu và công nghệ từ quốc gia này sang quốc gia khác, việc du nhập các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến nói chung và thành tựu tiên tiến của khoa học quản trị nói riêng không khó. Tuy nhiên, yếu tố chính ảnh hưởng đến sự thành bại trong việc áp dụng thành công các thành tựu đó trong những điều kiện cụ thể của các quốc gia là sự khác biệt về văn hóa. Đối với lĩnh vực kinh doanh, xu hướng văn hóa hóa kinh doanh đang là một hướng đi tối ưu để tận dụng các thành tựu tiên tiến của khoa học đồng thời vẫn phát huy được sức mạnh của bản sắc văn hóa. Chính vì vậy, xây dựng văn hóa kinh doanh là góp phần tạo lập năng lực cốt lõi của doanh nghiệp, và do vậy, tạo cho doanh nghiệp năng lực cạnh tranh bền vững trong điều kiện cạnh tranh mang tính toàn cầu. Bên cạnh đó, nó còn góp phần thể hiện bản sắc văn hóa tiên tiến đậm đà tính dân tộc của văn hóa Việt Nam trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp. Với nhận thức được vai trò quan trọng của văn hóa kinh doanh đối với sự phát triển của doanh nghiệp, tôi mạnh dạn chọn đề tài: Văn hóa kinh doanh của Công ty Cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế" làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình. 2. Mục đích nghiên cứu đề tài Đề xuất những giải pháp, kiến nghị cơ bản để hoàn thiện văn hóa kinh doanh của Công ty Cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp. - Phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa kinh doanh của Công ty cổ phần dịch vụ vận tải TRACO - Nghiên cứu, đề xuất những giải pháp, kiến nghị chủ yếu nhằm hoàn thiện văn hóa kinh doanh của Công ty cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp, các yếu tố cấu thành văn hóa kinh doanh, việc xây dựng văn hóa kinh doanh, những ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế đến xây dựng văn hóa kinh doanh. - Phạm vi nghiên cứu: Được xác định trong khuôn khổ của Công ty cổ phần dịch vụ vận tải TRACO gắn với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Thời gian khảo sát được tiến hành trong giai đoạn 2002-2006. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Luận văn sử dụng các phương pháp sau: Thứ nhất: phương pháp duy vật biện chứng Thứ hai: phương pháp phỏng vấn. Phương pháp này được sử dụng để trực tiếp phỏng vấn một số nhà lãnh đạo và CBNV trong công ty. Thứ ba: phương pháp điều tra thông qua bảng câu hỏi Dựa trên kết quả khảo sát sơ bộ tác giả luận văn đã xây dựng bản câu hỏi điều tra tình hình thực tế văn hóa kinh doanh tại Công ty cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong giai đoạn hiện nay (Những nội dung chi tiết cụ thể của bảng câu hỏi được đính kèm trong phụ lục). Với 100 bảng câu hỏi được gửi tới các nhà quản trị và CBNV của công ty cổ phần dịch vụ vận tải TRACO, tác giả luận văn đã nhận được 68 câu trả lời. Các câu trả lời này được phân bố tương đối rộng khắp các phòng ban và bộ phận trong công ty, trong đó bao gồm cả các nhà quản trị và các CBNV. Thứ tư: phương pháp sử dụng nguồn thông tin thứ cấp Với phương pháp này, tác giả luận văn đã có được một số kết quả và nhận định về văn hóa kinh doanh tại Công ty cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong giai đoạn hiện nay thông qua việc thu thập các thông tin từ các sách, báo và tạp chí chuyên ngành như. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng văn hóa kinh doanh của Công ty cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong thời gian qua Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện văn hóa kinh doanh của Công ty cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP 1.1. VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA KINH DOANH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1.1.Khái niệm văn hóa Nghiên cứu vai trò của văn hóa đối với phát triển nói chung và đối với doanh nghiệp nói riêng trước hết phải có một khái niệm chính xác và nhất quán về văn hóa cũng như cấu trúc của nó. Văn hóa là một khái niệm rất rộng, đến mức hầu như mỗi nhà văn hóa đều có một khái niệm riêng về văn hóa. Cho đến nay có khoảng hơn 400 khái niệm về văn hóa. Các khái niệm đó không giống nhau tùy theo cách hiểu rộng hẹp khác nhau, trong khi văn hóa là lĩnh vực vô cùng rộng lớn, phong phú và phức tạp. Mặt khác, cũng như các lĩnh vực khoa học xã hội khác, ngành khoa học về văn hóa có tính chất lịch sử và phát triển xuyên suốt lịch sử loài người, từ văn hóa dân gian có văn tự và không văn tự đến văn hóa chỉnh thể của các chế độ đương thời. Trong quá trình lịch sử đó nội dung và khái niệm của văn hóa cũng thay đổi theo. Đó là hiện thực khách quan. Sau đây là một số trong những khái niệm đó. Theo E.Heriôt: "Cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi - đó chính là văn hóa". (Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB văn học, Hà Nội) Theo Unessco: "Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và của mỗi cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao nhiêu thế kỷ nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống, và dựa trên đó, từng dân tộc đã khẳng định bản sắc riêng của nước mình" (Văn hóa và văn hóa doanh nghiệp, NXB lao động, Hà Nội, 2001) Edward B. Taylor (1924) cho rằng: "Văn hóa là một phức thể bao gồm kiến thức, niềm tin, nghệ thuật, đạo đức, tập quán và tất cả những khả năng và tập tục khác cần thiết cho con người trong một xã hội". GS Hoàng Vinh trong " Đề cương văn hóa và Tôn giáo" đã khẳng định văn hóa là vốn hiểu biết của con người, tích lũy được trong suốt quá trình hoạt động thực tiễn - lịch sử, được kết tinh lại thành các giá trị và chuẩn mực xã hội, gọi chung là hệ giá trị xã hội, biểu hiện ở vốn di sản văn hóa và phong cách ứng xử của cộng đồng. Hệ giá trị là thành tố cơ bản làm nên bản sắc riêng của mọi cộng đồng xã hội, có khả năng liên kết các thành viên làm cho cộng đồng trở thành một khối vững chắc và có khả năng điều tiết hoạt động của các thành viên sống trong cộng đồng xã hội ấy. Trong bản thảo "Nhật ký trong tù" năm 1943, Bác Hồ đã khẳng định "Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt, cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" (Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 3, trang 431). Bác chỉ rõ nội hàm của văn hóa, đồng thời, Bác phân tích và luôn nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và cơ sở hạ tầng, văn hóa và kinh tế, chính trị, xã hội. Văn hóa là kiến trúc thượng tầng; nhưng khi cơ sở hạ tầng của xã hội kiến thiết rồi, lúc đó văn hóa mới đủ điều kiện phát triển được. Văn hóa là động lực của phát triển kinh tế, phát triển xã hội. Văn hóa phải soi đường cho mọi người tiến tới. Cựu Tổng giám đốc UNESSCO Federico Mayor nói: "Thực tế đã thừa nhận rằng văn hóa không tách rời cuộc sống, ngoài sự tư duy và hoạt động của mỗi cá nhân và cộng đồng, bởi văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống đã diễn ra trong quá khứ và hiện tại; trải qua bao thế kỷ nó đã cấu thành hệ thống giá trị, truyền thống, mỹ thuật và lối sống, mà dựa trên đó, từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình". Như vậy, có thể thấy văn hóa bao hàm cả nội dung rộng lớn và phức tạp, văn hóa về cơ bản là một cấu trúc nhiều tầng nấc. (xem hình 1.1). B¶N B¶n s¾c v¨n ho¸ øng S¾c B¶n s¾c VH (quèc gia) 1.1.1.2. Khái niệm văn hóa kinh doanh Văn hóa kinh doanh được thể hiện và chỉ có thể được thể hiện thông qua vật mang nó là doanh nghiệp. Nhưng để có một định nghĩa mạch lạc cho thuật ngữ văn hóa kinh doanh hầu như đã không dễ dàng, bởi lẽ về ngữ nghĩa thì ngay như khái niệm "văn hóa" cũng đã có hàng trăm cách diễn đạt khác nhau đã trình bày trên. Marvin Bower, Tổng giám đốc Mackinsey Company cho rằng: "Văn hóa kinh doanh là tất cả các thành tố mà chúng ta đang thực hiện trong quá trình kinh doanh và di sản để lại cho thế hệ kế tiếp". Như vậy, văn hóa hiện diện ở bất kỳ doanh nghiệp nào, tuy nhiên một doanh nghiệp phát triển phải có một nhãn quan rộng, tham vọng lâu dài, xây dựng được một nếp văn hóa có bản sắc riêng, thể hiện sự khác biệt vượt trội. Văn hóa kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào hoạt động kinh doanh, là cái mà các chủ thể kinh doanh áp dụng hoặc tạo ra trong quá trình hình thành nên những nền tảng có tính ổn định và đặc thù trong hoạt động kinh doanh của họ. Văn hóa kinh doanh là tất cả các giá trị tinh thần (dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể) có được của một doanh nghiệp trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp ấy - đã trở thành chuẩn mực và nguồn động lực chủ yếu nhất - thâm nhập vào và chi phối các quan niệm, tập quán và hành vi kinh doanh hướng về sự chất lượng, sáng tạo, trách nhiệm và kết hợp hài hòa các lợi ích. Văn hóa kinh doanh liên kết con người trong nội bộ với nhau, liên kết doanh nghiệp và xã hội bằng những giá trị nhân văn, đặt con người vào vị trí trung tâm và quyết định sự cạnh tranh thắng lợi và phát triển bền vững. Văn hóa kinh doanh suy cho cùng nó là cốt lõi của nền kinh tế tri thức / thị trường xã hội và nhân văn. Vấn đề văn hóa kinh doanh đối với Việt Nam không có gì mới, ông cha chúng ta đã đề cập từ lâu. Chàng rể vua Hùng- Mai An Tiêm bị đày ra hoang đảo đã trồng dưa hấu, dưa hấu chín, đã khắc tên mình lên quả dưa hấu có ghi địa chỉ, rồi thả xuống biển, sóng đưa dưa hấu vào đất liền vừa để "tiếp thị" gọi mời thương lái đến mua. Di tích cổ Hoa Lư thời nhà Đinh (968- 979) có nhiều viên gạch lớn khắc dòng chữ "Đại Việt quốc quân thành chuyên", phải chăng đây là thương hiệu. Chiếc lọ gốm vẽ hoa dây màu lam hiện đang trưng bày tại bảo tàng Topkapt Saray, ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ có dòng chữ ghi rõ niên đại sản xuất "Năm Đại hóa thứ 8" tức 1450 thời vua Lê Nhân Tông (1443- 1459), địa điểm sản xuất Nam Sách, Hải Dương, người sản xuất ghi: "Bùi thị hỉ bút" là người họ Bùi vẽ chơi. Hiệu chụp ảnh đầu tiên ở Hà Nội "Cảm Hiếu Đường" vào năm 1869, chủ hiệu là Đặng Huy Trứ, v.v... Cuộc canh tân đất nước đầu thế kỷ XX (1903) sự khởi đầu là sự kết hợp hai mục đích giáo dục và kinh doanh tìm ra nguồn lực cứu nước. Cụ cử Lương Văn Can (1854- 1927) hiệu trưởng trường Đông Kinh Nghĩa Thục, người đã sớm truyền bá tư tưởng "đạo làm giàu", cùng với gia đình thực hành kinh doanh xuất nhập khẩu, bị đày ải sang Nam Vang (Phnom Pênh- Campuchia). Cụ viết sách "Thương học phương châm" có đoạn "Đương buổi thế giới cạnh tranh này, các nước phú cường không đâu là chẳng đua tài thi sức ở trong trường thương chiến, văn minh tiến bộ, buôn bán càng thịnh đạt. Việc buôn bán thịnh suy có quan hệ đến quốc dân thịnh suy như thế, ta há coi thường, xem khinh được sao?". Nền kinh doanh ở nước ta còn là thảm cảnh bởi 10 lẽ như cụ Cử Lương Văn Can tổng kết: "1- Người mình không có thương phẩm; 2- Không có thương hội; 3- Không có tín thực; 4- Không có kiên tâm; 5- Không có nghị lực; 6- Không biết trọng nghề; 7- Không có thương học; 8- Kém đường giao tiếp; 9- Không biết tiết kiệm; 10- Khinh nội hóa!" Từ các phân tích trên đây, có thể đi đến xác lập một khái niệm chung về văn hóa kinh doanh, đó là: "Văn hóa kinh doanh là toàn bộ các nhân tố văn hóa được chủ thể kinh doanh chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh tạo nên bản sắc kinh doanh của chủ thể đó" Theo nghĩa cụ thể, văn hóa kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào trong hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù. Như vậy văn hóa kinh doanh là một phương diện của văn hóa trong xã hội bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, những phương thức và kết quả hoạt động của con người được tạo ra và sử dụng trong quá trình kinh doanh. 1.1.2. Tầm quan trọng của văn hóa kinh doanh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 1.1.2.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Ngày nay, cạnh tranh giữa các nước, các doanh nghiệp và sức mạnh kinh tế thực ra là một hình thức của công cuộc cạnh tranh về chất lượng khoa học và công nghệ. Kinh doanh là cạnh tranh, là đọ sức với các đối thủ trong nước và thế giới để mua hàng và bán hàng. Về bản chất cạnh tranh là cuộc chiến trên thương trường không chút khoan nhượng. Cạnh tranh mang những sắc thái cơ bản và nguyên tắc cơ bản của chiến tranh. Sự thỏa hiệp với các đối thủ (đối tác) có thể là sách lược trong những tình huống cụ thể với khoảng không gian và thời gian nhất định để đôi bên cùng có lợi. Điều đó không thể che giấu hết tính quyết liệt, sống còn trong quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và triết lý kinh doanh bằng cách vượt lên. Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp là nét đặc trưng cơ bản của văn hóa kinh doanh. Văn hóa kinh doanh có tác động quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy bởi vì để thực hiện hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nào cũng cần có các nguồn lực vật chất và tinh thần. Trong đó nguồn lực tinh thần, đặc biệt văn hóa kinh doanh chính là một trong trụ cột chính của các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh. Năng lực của các nhà quản trị có tính quyết định đối với sự thành bại của doanh nghiệp trong kinh doanh. Một nhà quản trị giỏi có thể xây dựng được yếu tố văn hóa kinh doanh làm cơ sở vững chắc cho quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Qua khảo sát các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả có thể rút ra hệ quả là: doanh nghiệp mạnh gắn liền với giám đốc giỏi. Lãnh đạo một số địa phương và Bộ, Ngành cũng cho rằng, tìm sản phẩm kinh doanh không khó, cái khó chính là tìm giám đốc doanh nghiệp giỏi. Một giám đốc - nhà quản trị giỏi có thể đưa một doanh nghiệp từ thua lỗ đến chỗ có lợi nhuận, từ yếu trở nên mạnh, trong khi việc đổi mới kỹ thuật, công nghệ hoặc tái cấu trúc lại khó có thể đưa lại một kết quả khả quan như vậy. Đặc biệt, trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay cả hai giải pháp sau đều rất khó thực hiện bởi cả lý do kinh tế lẫn xã hội. Các nhà quản trị giỏi sẽ biết cách tạo lập chiến lược cạnh tranh, phát huy năng lực sáng tạo của kỹ sư và công nhân để tạo ra bí quyết công nghệ, thu hút nhân lực giỏi về cộng tác, sử dụng đúng người, liên kết mọi người. Trước đây, trong điều kiện và hoàn cảnh còn khó khăn hơn các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc đã biết rút ngắn khoảng cách về năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp Hoa Kỳ và Châu Âu bằng con đường tự tìm ra cách thức quản trị riêng, phù hợp với văn hóa con người của họ, biến sở đoản của đội ngũ nhân lực thành sở trường. Bản sắc văn hóa quản trị Nhật Bản đã từng là vũ khí cạnh tranh chủ yếu của các doanh nghiệp Nhật Bản với các đối thủ trên trường quốc tế. Văn hóa kinh doanh được biểu hiện thông qua năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp không có năng lực canh tranh đồng nghĩa với doanh nghiệp đó không có văn hóa kinh doanh. Trong thời đại ngày nay không thể chỉ đứng lại trên văn hóa truyền thống qua các tấm huân, huy chương các loại của bề dày lịch sử trong cơ chế cũ mà không bao hàm được văn hóa chung của dân tộc Việt Nam theo dòng lịch sử từ xa xưa, văn hóa chung của nhân loại và xu hưởng phát triển trong tương lai. Lúc này, khó tồn tại "mẹ hát, con khen" mà phải tự thấy mình "trong nhà nhất mẹ nhì con, ra đường lắm kẻ đẹp giòn hơn ta", phải tự lăn mình vào cuộc sống thế giới, thực sự cọ xát với thương trường khu vực và thế giới. 1.1.2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động và sự phát triển bền vững của DN Xây dựng văn hóa kinh doanh có vai trò rất to lớn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Cụ thể, vai trò quan trọng đó được thể hiện trên 5 phương diện sau: Thứ nhất, văn hóa kinh doanh tạo ra sự cố kết và tính thống nhất cao trong hành động của các thành viên trong doanh nghiệp bằng một hệ thống các giá trị và chuẩn mực chung. Mọi người sẽ cùng nhau hướng tới mục tiêu chung của doanh nghiệp bằng niềm tin, sự tự nguyện và phối hợp hành động nhịp nhàng. Các thành viên trong doanh nghiệp là sự tập hợp của nhiều cá nhân với những nhân cách, cá tính, động cơ và mục tiêu khác nhau. Tính thống nhất, đồng tâm hiệp lực của các thành viên chỉ có được khi họ cùng nhau chấp nhận và chia sẻ những giá trị và chuẩn mực chung. Một doanh nghiệp đã xây dựng được văn hóa kinh doanh mạnh thì tự nó sẽ giúp các thành viên hành động một cách tự nguyện, đúng hướng và có hiệu quả mà không cần có quá nhiều quy chế và mệnh lệnh hành chính từ cấp trên. Thứ hai, văn hóa kinh doanh tạo cho doanh nghiệp một phong cách, cá tính hay bản sắc riêng, để phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác. Văn hóa kinh doanh được duy trì bảo tồn qua nhiều thế hệ quản trị, tạo ra khả năng phát triển bền vững của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp trong thời gian đầu khởi sự chưa thể có ngay được văn hóa kinh doanh. Qua quá trình hoạt động, các yếu tố của văn hóa kinh doanh sẽ được tạo lập, thử thách để rồi tồn tại trong chủ đích của người chủ doanh nghiệp, tạo ra cho doanh nghiệp một ấn tượng, hình ảnh và bản sắc riêng. Văn hóa kinh doanh vì vậy góp phần tạo dựng một hình ảnh riêng của doanh nghiệp trong con mắt của khách hàng, của các đối tác, của những người đi tìm việc làm và của xã hội. Nói cách khác, văn hóa kinh doanh góp phần tạo ra sự khác biệt và lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Thứ ba, văn hóa kinh doanh có tác dụng điều tiết hành vi và thái độ của các nhà quản trị. Nếu như các nội quy, quy chế, mệnh lệnh hành chính, kỷ luật... được coi là những công cụ điều tiết "cứng" (luật thành văn) thì văn hóa kinh doanh được coi là công cụ điều tiết "mềm" (luật bất thành văn) thông qua hệ thống triết lý, các chuẩn mực, truyền thống, tập tục, nêu gương...đã được xây dựng, duy trì và thừa nhận trong doanh nghiệp. Có thể nói, văn hóa kinh doanh xác định "luật chơi" chung, nó nói với các thành viên trong doanh nghiệp mọi việc nên làm thế nào và điều gì là quan trọng. Đối với các thành viên trong doanh nghiệp, văn hóa kinh doanh được coi là công cụ điều tiết cực kỳ hữu hiệu vì nó đánh vào lòng tự trọng (tự tôn) cá nhân và khi hành vi và thái độ của một cá nhân không phù hợp với những giá trị và chuẩn mực chung thì họ sẽ bị tẩy chay bởi thái độ của cả tập thể. Thứ tư, văn hóa kinh doanh là tài sản vô hình của doanh nghiệp, là nguồn lực để doanh nghiệp phát triển bền vững, là chất keo kết dính các thành viên lại với nhau. Văn hóa kinh doanh được nhìn nhận là tài sản tinh thần, là bầu không khí làm việc, môi trường bên trong của doanh nghiệp do các thành viên của nó (trước hết là ban lãnh đạo) tạo ra. Nó được coi là một loại nguồn lực (hay tài sản) giống như các nguồn lực khác của doanh nghiệp như nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính hay hay nguồn lực vật chất. Nhưng văn hóa kinh doanh là nguồn lực tinh thần, tài sản vô giá của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới tinh thần, thái độ lao động của mỗi một nhà quản trị và lòng trung thành của họ đối với doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có văn hóa kinh doanh tích cực sẽ tạo ra bầu không khí làm việc hăng say hào hứng vì mục tiêu chung, khiến các cá nhân thường xuyên phấn đấu để đạt nhiều lợi ích cho bản thân và doanh nghiệp. Thứ năm, văn hóa kinh doanh có tác dụng đào tạo và bồi dưỡng các nhà quản trị trong doanh nghiệp, tuân thủ những tôn chỉ và phương châm hành động; có cách ứng xử, thái độ và phong cách làm việc phù hợp; từ đó nâng cao được năng suất, chất lượng và hiệu quả trong công việc của họ. Một cá nhân thời gian đầu đến làm việc trong một doanh nghiệp (tổ chức) sẽ mang theo những đặc điểm riêng của mình về phong cách làm việc, quan niệm, truyền thống, giá trị,... Sau thời gian làm việc lâu dài trong một môi trường văn hóa (doanh nghiệp) nào đó, cá nhân sẽ được chính môi trường văn hóa đó đào tạo, nhào nặn và dần dần trở thành một con người mang theo phong cách, quan niệm, thói quen, cách thức làm việc,.... và có khi cả hình ảnh của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà khi tuyển dụng nhân sự, ngoài các tiêu chí về chuyên môn, các nhà tuyển dụng rất chú trọng đến việc xem xét các đặc điểm cá nhân của ứng viên có phù hợp với bản sắc văn hóa trong hoạt động quản trị hiện tại của doanh nghiệp hay không để xây dựng cho doanh nghiệp mình một đội ngũ nhân sự đồng nhất. Đối với các thành viên mới ra nhập doanh nghiệp, họ cần nhanh chóng học hỏi, tiếp thu những giá trị văn hóa để hòa nhập thực sự với môi trường làm việc mới. 1.2. CÁC YẾU TỐ TẠO NÊN VĂN HÓA KINH DOANH Văn hóa kinh doanh được tạo nên từ rất nhiều yếu tố phức tạp và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ở đây có thể khái quát thành các nhóm yếu tố cơ bản sau: 1.2.1. Triết lý kinh doanh Trong quan hệ với văn hóa hiểu theo nghĩa rộng, hoạt động quản trị, mà trực tiếp ở đây là quản trị kinh doanh, vừa là một bộ phận cấu thành văn hóa, vừa là yếu tố chịu ảnh hưởng, thậm chí bị quy định bởi các yếu tố khác cấu thành văn hóa. Phương thức quản trị, hành vi ứng xử trong quản trị đều có bản chất văn hóa theo đúng hai nghĩa như vậy, có thể phân ra hai quan hệ ảnh hưởng: Quan hệ thứ nhất liên quan đến tác động của văn hóa đến lựa chọn chiến lược kinh doanh lâu dài của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Quan hệ thứ hai liên quan đến sự ứng xử của chủ thể kinh tế với các đối tác cụ thể trực tiếp trong nội bộ doanh nghiệp như những người lãnh đạo cấp trên, điều hành cấp dưới, nhân viên người lao động, v.v..., với khách hàng mua và bán, các đối thủ cạnh tranh, các đối tác liên minh trên tinh thần "thêm bạn bớt thù" biến đối thủ thành đối tác. Hai quan hệ đó vừa có sự độc lập nhất định, lại vừa tác động lẫn nhau về nội dung các công việc cụ thể với sự xuyên suốt sợi chỉ đỏ - Triết lý kinh doanh. Triết lý kinh doanh hiện đã trở thành một từ thông dụng, nhiều khi như là một "hội chứng", "mốt", thành một trong những tiêu chuẩn cơ bản chứng tỏ "đẳng cấp văn hóa" của nhà quản trị. Tuy nhiên, trong thực tế cho thấy, với đa số, thông thường, sự thừa nhận nó mang tính hình thức hơn là có nội dung và giá trị thực tiễn, cho triết lý kinh doanh là thuật ngữ quá cao siêu và trừu tượng. Mặt khác, triết lý kinh doanh là nói đến mục đích, ý nghĩa cao nhất của quản trị doanh nghiệp hoạt động sản xuất- kinh doanh. Đó là những vấn đề mang tính chất triết lý mà mỗi nhà quản trị đã đến lúc phải tự đặt ra ra cho chính bản thân mình. Đó là lý lẽ để tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh riêng biệt, không doanh nghiệp nào giống doanh nghiệp nào về chỉ dẫn địa lý, về con người, về dây chuyền công nghệ, về quy mô, chất lượng và về giá cả hàng hóa,.... Do đó, triết lý kinh doanh là một hệ thống tư tưởng chủ đạo, thể hiện quan điểm riêng có của mỗi doanh nghiệp về giá trị vật chất và tinh thần của doanh nghiệp được đúc kết những thành công và những thất bại trong quá trình hình thành và phát triển. Từ đó, bổ sung và sáng tạo không ngừng để phục vụ khách hàng ngày một hoàn thiện hơn: Khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển hay diệt vong của doanh nghiệp. S¬ ®å q u ¶n t r Þ d o anh n g h iÖp v í i 7 c h ÷ “S” dÞc h t ­ ¬ n g ®­ ¬ n g 7 c h ÷ “C” Nguån: Ban t­ t­ ëng V¨n hãa Trung ­ ¬ng, Bé V¨n hãa Th«ng tin, ViÖn Qu¶n trÞ doanh nghiÖp: V¨n hãa vµ doanh nghiÖp, Nhµ xuÊt b¶n lao ®éng, Hµ Néi – 2001, Trang 200. Strategy (ChiÕn l­ î c) Skills (C¸c kü n¨ng) Staff (C¸n bé) Style (C¸ch qu¶n lý) n¨ng) Systems (C¸c hÖ thèng) Shared values (C¸c gi¸ trÞ) Struture (C¬ cÊu) Triết lý kinh doanh phản ánh mục đích của doanh nghiệp. Trước hết nhà quản trị cần phải tự khẳng định mình: Mình và doanh nghiệp phải tồn tại trong muôn vàn sóng gió. Mình và doanh nghiệp phải được phát triển bền vững trong biến động của thương trường bằng tài và lực nội bộ, chứ không phải trông chờ vào sự ban ơn, bố thí của người khác, tổ chức khác. Thông qua nội lực để tiếp thu sự hợp tác, hội nhập trên cơ sở "đồng thuận" và "cùng có lợi". Mặt khác: Doanh nghiệp có những gì và chưa có những gì? Doanh nghiệp hiện đang đứng ở đâu trong thiên đồ bát quái này? Lợi thế so sánh của doanh nghiệp là gì? v.v.... Triết lý kinh doanh chỉ ra phương thức hành động cho nhà quản trị và doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh giải đáp một cách cặn kẽ, cụ thể mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp cần đạt được với các tình huống: Xử lý bình thường "xuôi buồm, mát mái", xử lý các rủi ro trong dự kiến và xử lý các rủi ro ngoài dự kiến, đột biến bằng sự huy động mọi nguồn lực bên trong (là chủ yếu) và bên ngoài doanh nghiệp. Nguồn lực trong nội bộ khá phong phú, thuộc trong tầm tay của nhà quản trị, như: Đội ngũ người dưới quyền, vốn và tài sản, khoa học- công nghệ, mô hình tổ chức và cung cách điều hành, v.v...Trong đó con người giữ vai trò quyết định. Nguồn lực ngoài tầm tay của nhà quản trị trước hết phải phát huy nội lực, biến thách thức thành cơ hội, tiếp thu ngoại lai với tư chất là vị tướng chỉ huy tài ba, văn võ kiêm toàn về mọi mặt như Bác Hồ dạy: "Tướng giỏi (đủ cả: trí, tín, nhân, dũng, liêm) thì nước mạnh. Tướng xoàng thì nước hèn" (như trên, tập 3, trang 519) và là nhà ngoại giao thao lược, hào hoa, chân chính. Triết lý kinh doanh là gì? Triết lý kinh doanh là một bộ phận cấu thành văn hóa kinh doanh. Triết lý kinh doanh không tùy thuộc vào quy mô của doanh nghiệp: nhỏ, vừa, lớn, xuyên quốc gia. Quy mô doanh nghiệp chỉ chi phối độ phức tạp vì số lượng mối liên kết hữu cơ đối nội và đối ngoại của triết lý quản trị doanh nghiệp mà thôi, còn triết lý kinh doanh vẫn không đổi. Tóm lại, triết lý kinh doanh là những tư tưởng triết học chủ đạo, có hệ thống được vận dụng vào hoạt động kinh doanh, phản ánh các niềm tin, các giá trị, các nguyện vọng cơ bản và những tư tưởng chủ đạo mà các nhà quản trị theo đuổi gắn bó, tất cả những điều này hướng dẫn cung cách quản trị doanh nghiệp của họ. Triết lý kinh doanh lấy mong muốn thầm kín nhất về tiêu dùng của con người trong nước và thế giới làm lẽ sống, vượt lên tất cả với lợi thế cạnh tranh, với ý chí tiến công. Triết lý kinh doanh không bao giờ và không khi nào chấp nhận quan niệm "ăn xổi, ở thì", "đời cua cua máy, đời cáy cáy đào". Triết lý kinh doanh đã trở thành một trong những tiêu chuẩn cơ bản chứng tỏ "đẳng cấp" văn hóa của doanh nhân, "đẳng cấp" văn hóa của doanh nghiệp được thể hiện xuôi dòng từ chủ sở hữu, nhà quản trị đến người bán hàng, lao công tạp vụ và ngược dòng trở lại. Mặt khác, "đẳng cấp" quản trị doanh nghiệp được thể hiện ở sự hiện hữu hoặc không hiện hữu nhà quản trị, guồng máy doanh nghiệp vẫn hoạt động bình thường, không thay đổi. Từ đó xuất hiện thuật ngữ mới, doanh nghiệp vắng nhà quản trị (loại trừ yếu tố hỗ trợ của công nghệ thông tin). 1.2.2. Đạo đức kinh doanh Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh. Đây là hệ thống các quy tắc xử sự, các chuẩn mực đạo đức, các quy chế, nội quy... có vai trò điều tiết các hoạt động của quá trình kinh doanh nhằm hướng đến triết lý đã định. Đạo đức kinh doanh chính là đạo đức được vận dụng vào hoạt động kinh doanh và đạo đức kinh doanh là một dạng đạo đức nghề nghiệp. Các chủ thể kinh doanh ngày nay cần có các hành vi phù hợp với đạo lý dân tộc và các quy chuẩn về cái thiện và cái tốt chung của toàn nhân loại. Khi đó đạo đức kinh doanh sẽ góp phần phát triển mối quan hệ với người lao động, với chính quyền, với khách hàng, với đối thủ cạnh tranh, với nhà cung cấp và với cộng đồng xã hội, từ đó góp phần tạo nên môi trường kinh doanh ổn định. Các nguyên tắc và chuẩn mực của đạo đức kinh doanh - Tính trung thực: không dùng thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm lời. Giữ chữ tín, lời hứa trong kinh doanh, nhất quán trong nói và làm. Trung thực chấp hành luật pháp của Nhà nước, không làm ăn phi pháp như trốn lậu thuế,… - Tôn trọng con người: phải tôn trọng mọi cộng sự và người dưới quyền, tôn trọng phẩm giá, quyền lợi chính đáng, tôn trọng hạnh phúc, tôn trọng tiềm năng phát triển của nhân viên. Quan tâm đúng mức, tôn trọng quyền tự do và các quyền hạn hợp pháp khác. Đối với khách hàng phải tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý của khách hàng. Đối với đối thủ cạnh tranh phải tôn trọng lợi ích của đối thủ cạnh tranh. - Gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội, coi trọng hiệu quả gắn với trách nhiệm xã hội - Bí mật và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt Đối tượng điều chỉnh của đạo đức kinh doanh Có thể khẳng định đối tượng điều chỉnh của đạo đức kinh doanh chính là chủ thể hoạt động kinh doanh, bao gồm tất cả những ai là chủ thể của các quan hệ và hành vi kinh doanh, như: - Doanh nhân: đạo đức kinh doanh điều chỉnh hành vi đạo đức của tất cả các thành viên trong các tổ chức kinh doanh như ban giám đốc, các thành viên trong hội đồng quản trị, các cán bộ nhân viên. Lúc này đạo đức kinh doanh được gọi là đạo đức nghề nghiệp của họ. - Khách hàng: quy luật chung trong quan hệ giữa người mua và người bán là quy luật muốn mua rẻ bán đắt. Ở vào vị thế khách hàng, khách hàng luôn có lợi thế là "thượng đế" vì vậy cũng cần có định hướng đạo đức kinh doanh tránh làm xói mòn các tiêu chuẩn đạo đức do đề quá cao lợi ích. 1.2.3. Văn hóa doanh nhân Văn hóa doanh nhân là toàn bộ các nhân tố văn hóa mà các doanh nhân chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh của mình. Tài năng, đạo đức và phong cách của nhà kinh doanh có vai trò quyết định trong việc hình thành văn hóa kinh doanh của chủ thể kinh doanh. Doanh nhân không chỉ là người quyết định cơ cấu tổ chức và công nghệ kinh doanh mà còn là người sáng tạo ra các biểu tượng, các ý thức hệ, ngôn ngữ, niềm tin, nghi lễ và huyền thoại,... Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh doanh, văn hóa của doanh nhân sẽ được phản chiếu lên văn hóa kinh doanh. Vì vậy đòi hỏi chủ thể kinh doanh phải vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là cơ sở của tài. Tài năng, đạo đức, phong cách của chủ thể kinh doanh có vai trò quyết định trong việc hình thành văn hóa kinh doanh. Một số tiêu chuẩn được dùng để đánh giá văn hóa doanh nhân bao gồm: sức khỏe, đạo đức, trình độ và năng lực, phong cách và thực hiện trách nhiệm xã hội. Đạo đức doanh nhân là một thành tố quan trọng tạo nên văn hóa doanh nhân. Có thể hình dung một số tiêu chuẩn không thể thiếu đối với đạo đức của các doanh nhân qua hộp 1.1. như sau: Hộp 1.1. Tiêu chuẩn đối với đạo đức của các doanh nhân 1. Tính trung thực: thể hiện ở sự nhất quán giữa nói và làm, danh và thực. Tính cách này sẽ hướng các doanh nhân không dùng thủ đoạn xấu xa để kiếm lời, coi trọng công bằng, chính đáng và đạo lý trong kinh doanh. 2. Tôn trọng con người: thể hiện từ việc coi trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng, tôn trọng nhân viên, trọng chữ tín. 3. Vươn tới sự hoàn hảo: điều này giúp doanh nhân không ngừng tu dưỡng bản thân, có hoài bão, có lý tưởng. Giúp doanh nhân hình thành lý tưởng nghề nghiệp và quyết tâm vươn lên để thành đạt bằng kinh doanh. 4. Đương đầu với thử thách: đức tính này giúp doanh nhân không ngại khó, vượt qua những gian khổ mà nghề kinh doanh gặp phải. 5. Coi trọng hiệu quả gắn liền với trách nhiệm xã hội: doanh nhân phải không ngừng nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, đồng thời phải có những đóng góp xứng đáng cho xã hội. Ngoài những tiêu chuẩn đạo đức trên đây, các doanh nhân còn phải có tài năng kinh doanh. Tài năng kinh doanh của các doanh nhân có thể được biểu hiện thông qua các năng lực thể hiện trong hộp 1.2. sau đây: Hộp 1.2. Những năng lực cần có của các doanh nhân 1. Sự hiểu biết về thị trường: bao gồm hiểu biết về ngành hàng, về thị trường, về khách hàng, về đối thủ cạnh tranh,.. 2. Những hiểu biết về nghề kinh doanh: kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ kinh doanh như kiến thức về phương pháp quản trị, marketing, chất lượng sản phẩm, tài chính, công nghệ,… 3. Hiểu biết về con người và khả năng xử lý tốt các mối quan hệ: thể hiện qua khả năng giao tiếp, khả năng nuôi dưỡng và phát triển các mối quan hệ phục vụ công việc kinh doanh. 4. Nhanh nhạy, quyết đoán và khôn ngoan: đây là năng lực cốt yếu của các nhà kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường. Có được năng lực này mới có thể nắm bắt được các cơ hội thuận lợi mà thị trường mang lại. Như vậy, đạo đức, tài năng, phong cách của doanh nhân là những thành tố quan trọng để hình thành văn hóa doanh nhân nói riêng và văn hóa kinh doanh nói chung. 1.2.4. Văn hóa ứng xử với khách hàng Khách hàng là người mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vì vậy nếu không có khách hàng không một doanh nghiệp nào có thể tồn tại và phát triển. Sự thành công của bền vững của một doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng tạo ra các giá trị cho những người mà doanh nghiệp phục vụ - đó là khách hàng. Các doanh nghiệp ý thức được điều này đều có định hướng trong quá trình xây dựng văn hóa kinh doanh là tạo lập phong cách văn hóa lấy khách hàng làm trọng tâm. Hướng đến khách hàng là chúng ta phải biết lắng nghe và hiểu được nhu cầu của khách hàng để từ đó phục vụ khách hàng tốt hơn. Xây dựng một chiến lược kinh doanh hướng đến khách hàng, trên cơ sở tôn trọng khách hàng, coi khách hàng là bạn đồng hành trong quá trình phát triển của mình. Lúc này các doanh nghiệp thường hướng đến phương châm "Tồn tại và phát triển không theo lợi nhuận trước mắt mà phải vì một lợi nhuận lâu dài và bền vững". Giao tiếp và xử sự trước các tình huống khách hàng đặt ra là một bộ phận không thể thiếu của văn hóa kinh doanh. Thông qua hoạt động giao tiếp của doanh nghiệp, khách hàng có thể đánh giá được văn hóa của doanh nghiệp đó mạnh hay yếu. Chính vì vậy, cách thức xử sự trong giao tiếp với khách hàng luôn được các doanh nghiệp đặc biệt coi trọng. 1.2.5. Các hình thức văn hóa kinh doanh khác 1.2.5.1. Các quy chế, quy định và truyền thống, tập tục, thói quen, nghi lễ Văn hóa kinh doanh còn được thể hiện thông qua các quy chế, quy định, bởi vì các quy chế, quy định này sẽ tạo lập khung khổ cho các hoạt động quản trị cũng như cách thức tiến hành các hoạt động quản trị. Chẳng hạn, văn hóa quản trị của Tập đoàn HUYNDAI được thể hiện rõ nét qua các quy tắc ứng xử nội bộ cụ thể được quy định cho các nhà quản trị, bao gồm các nội dung sau: - Các nhà quản trị phải luôn giữ thái độ bình đẳng và tôn trọng nhau, tôn trọng người lao động, đối xử với họ một cách nhân ái và có thái độ ôn hòa với họ. - Trước khi trở thành người lao động, nhớ rằng con người mang trong mình tình cảm, quan niệm về sự bình đẳng và tính cách như nhau, không nên phân biệt người này với người khác. - Hãy nhận thức rằng con người ai cũng có nhu cầu phát triển và thể hiện mình, cho nên phải khích lệ tinh thần làm việc hơn là bắt họ làm theo mệnh lệnh một chiều, để họ có thể tự do phấn đấu hết sức mình. - Thông qua những cuộc đối thoại trung thực, quan tâm đến đời sống của người lao động, nhận sự phục tùng và cảm kích tấm lòng của họ. - Trong quá trình làm việc, nhà quản trị nhất định chỉ đạo công việc với ý thức rằng mình phải tự thi hành công việc của mình, phải nhận thức được là bản thân người lao động cũng đang làm những công việc có giá trị. - Phải hiểu rằng chính cách xử thế của nhà quản trị trong quan hệ lao động là điều quyết định đến không khí làm việc, phải tự cố gắng để phát triển bản thân mình. - Nhà quản trị phải từ bỏ ý thức quyền lực và thay thế bằng đối thoại một cách bình đẳng và thuyết phục, cần có lòng kiên trì và hành động một cách gương mẫu. Có thể nói, các quy tắc này mang đậm nét bản sắc văn hóa phương Đông. Phương Đông có một truyền thống quản trị có bề dày, trong đó thể hiện bản sắc riêng thông qua các quy tắc, lễ nghi chính thống và truyền thuyết dân gian. Chẳng hạn, Khổng Tử (551- 497 TCN) đã đề ra các quy tắc hành xử cho người quân tử: "chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" đến nay vẫn đúng và còn đúng mãi sau này. Trong lĩnh vực quân sự có các quy tắc ứng xử cho người làm tướng và được trình bày trong Binh pháp Tôn tử với 36 kế sách, ngày nay được vận dụng vào kinh doanh như là các quy tắc chuẩn mực để ứng phó với môi trường kinh doanh bất định... Bên cạnh các quy chế, quy định về quản trị thì truyền thống, tập tục, thói quen, nghi lễ cũng là yếu tố tạo lập nên văn hóa kinh doanh. Các nét sinh hoạt và lề lối làm việc trong doanh nghiệp như các hành vi ứng xử, giao tiếp nội bộ, thái độ, phong cách làm việc, cách thức xử lý vấn đề, quy trình công việc, cách thức truyền đạt thông tin, bầu không khí làm việc, các sinh hoạt tập thể về văn hóa, văn nghệ, thể thao,... được đề ra, duy trì, nuôi dưỡng lâu bền sẽ trở thành những truyền thống, tập tục, thói quen và nghi lễ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.5.2. Truyền thuyết, giai thoại Đây là những câu chuyện về quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp, về những năm tháng gian khổ và vinh quang của doanh nghiệp hay về một nhân vật anh hùng của doanh nghiệp (nhất là hình tượng người sáng lập, thủ lĩnh). Các câu chuyện này được xây dựng dựa trên những sự kiện trong quá khứ được thêm thắt những tình tiết hư cấu. Các giai thoại này được các thành viên trong doanh nghiệp truyền tụng và lấy đó làm tấm gương để noi theo. Các truyền thuyết (giai thoại) có tác dụng duy trì bầu không khí tích cực trong doanh nghiệp, tạo nên tính hư ảo, những tín điều có tính tôn giáo và niềm tin nội thân của doanh nghiệp. Chẳng hạn, ở công ty Microsoft lưu truyền một câu chuyện sau: Trong băng video gửi đến các nhân viên năm 1990 có tựa là Shipping software (Cung ứng phần mềm), Chris Peters huấn luyện các nhân viên Microsoft cách làm việc hiệu quả nhất tại công ty. Nguyên tắc chủ đạo là gì? Liên tục báo cáo với Bill:"...Các bạn không bao giờ nên giấu giếm Bill điều gì, bởi ông ấy rất nhạy bén trong việc nhận biết mọi việc đang diễn ra. Nhưng các bạn phải kiên định, và các bạn nên có thái độ phản ứng gay gắt với ông ấy. Lời khuyên duy nhất của tôi là các bạn phải được những lập trình viên rất, rất, rất giỏi của các bạn tháp tùng khi đi họp để những người này có thể trích dẫn những điều lý giải hùng hồn nhất và thậm chí họ có thể chôn vùi ông ấy trong hàng đống dữ kiện... Đừng bao giờ thiếu những câu trả lời. Nhưng hãy mạnh dạn nói không. Bill tôn trọng cách nói đó". 1.2.5.3. Những hành vi của các nhà quản trị Văn hóa bao giờ cũng thể hiện qua các "vật mang" cụ thể, đối với văn hóa kinh doanh, "vật mang" quan trọng nhất chính là các nhà quản trị. Nhà quản trị phải là những người mang văn hóa kinh doanh và tác động đến nhân viên một cách mạnh mẽ nhất. Hồ Chủ Tịch từng nói: "Trước mắt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ "Cộng sản" mà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải mực thước cho người ta bắt chước" (như trên, tập 5, trang 552). Hành vi của nhà quản trị bị chi phối bởi văn hóa mà họ tôn thờ, vì vậy cách thức hành xử của nhà quản trị cũng phản ánh bản sắc văn hóa trong hoạt động quản trị của một doanh nghiệp. Thông thường, khi doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, mọi công việc đều ở điểm khởi đầu, việc tổ chức bộ máy và phân công công việc trong doanh nghiệp chưa ổn định, hệ thống các chính sách, thủ tục, quy tắc chưa đầy đủ và đồng bộ, nhân viên dưới quyền chưa có nhiều kinh nghiệm. Nhà quản trị phải "miệng nói, tay làm", trực tiếp làm nhiều, ít có thời gian để "lo", thậm chí nhiều khi không còn thời gian để "lo". l o l µ m Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3 Hình 1.3. Lo và làm Nguồn: GS.TS Phạm Vũ Luận -Quản trị doanh nghiệp thương mại - NXB Thống kê, 2004 Trong khi đó, ở thời kỳ doanh nghiệp đã đi vào ổn định thì nhà quản trị có thể và cần phải giảm dần công việc "làm", chuyển nó cho các bộ phận và nhân viên dưới quyền để có thời gian tập trung suy nghĩ, "lo" đến những công việc lớn, quan trọng hơn và xa hơn. Hệ thống tổ chức đã ổn định, các kế hoạch hướng dẫn tương đối hoàn thiện, mọi người đã quen dần với công việc, môi trường nhân văn và bản sắc doanh nghiệp đã bước đầu hình thành, đó là những yếu tố quan trọng giúp cho các nhà quản trị chuyển từ trạng thái "điều hành trực tiếp" sang trạng thái "chỉ huy gián tiếp". Cuối cùng, khi doanh nghiệp ở trong quá trình phát triển thuận lợi, công việc chủ yếu của nhà quản trị là suy nghĩ, tư duy, "lo" cho tương lai của doanh nghiệp. Đây là giai đoạn mà mọi công sức và trí tuệ của nhà quản trị cần được tập trung vào việc giải quyết các vấn đề chiến lược. Một doanh nghiệp có văn hóa kinh doanh hay không, trước hết có thể xem xét cách hành xử kiểu "lo", "làm" như trên. Bên cạnh đó, có thể xem xét cách hành xử của giới quản trị trong doanh nghiệp đối với "những tình huống bất quy tắc" thì sẽ càng dễ nhận biết bản sắc văn hóa kinh doanh của chính doanh nghiệp. Nhà quản trị doanh nghiệp là: - Người có thể chất mạnh khỏe, khí chất mạnh mẽ hay ngược lại? - Người dễ bằng lòng với bản thân, với thực tế của điều kiện sống và làm việc hay ngược lại? - Người thích khám phá sáng tạo hay thích làm việc theo quy trình chặt chẽ và các chuẩn mực xác định trước? - Người thích sự mạo hiểm hay là người lựa chọn sự chắc chắn? - Người dám đem đánh cuộc cả sự nghiệp, tài sản và danh dự cuộc đời mình để phấn đấu thực hiện mục đích lý tưởng hay không? - Người dám chấp nhận rủi ro mạo hiểm để thực hiện công việc mà chỉ rất ít người, ngoài nhà quản trị doanh nghiệp tin vào thành công hay không? Căn cứ vào bản lĩnh của nhà quản trị được thể hiện trong những tình huống cụ thể cũng có thể đánh giá được văn hóa kinh doanh của một doanh nghiệp. Tóm lại, thông qua quan sát hành vi của các nhà quản trị doanh nghiệp, xem xét tương quan thời gian, sức lực mà họ dành cho hiện tại hay tương lai, có thể đánh giá được văn hóa kinh doanh và biết được "tình trạng sức khỏe" của doanh nghiệp. 1.2.5.4. Biểu trưng và biểu hiện bề ngoài Đây là nội dung hữu hình, là tầng bề mặt dễ quan sát nhất của văn hóa kinh doanh. Khi một người ở bên ngoài đến giao tiếp với doanh nghiệp, điều mà họ dễ nhận thấy nhất về văn hóa kinh doanh đó là các hành vi, ứng xử, giao tiếp của các thành viên và các biểu tượng của doanh nghiệp như logo, biển hiệu, màu sắc, cách thức trang trí doanh nghiệp, slogan, kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản phẩm,... của doanh nghiệp. Đây là bộ phận quan trọng của văn hóa kinh doanh làm nên sự khác biệt, một hình ảnh riêng của doanh nghiệp trong con mắt của các khách hàng, các đối tác và xã hội. 1.3. XÂY DỰNG VĂN HÓA KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP 1.3.1. Quan điểm về xây dựng văn hóa kinh doanh Xây dựng văn hóa kinh doanh là một quá trình phức tạp, lâu dài, do vậy, cần xác lập quan điểm đúng đắn đối với toàn bộ quá trình đó. Lý luận và thực tiễn đã cho thấy, muốn xây dựng văn hóa kinh doanh đúng đắn, cần phải quán triệt các quan điểm cơ bản sau: Thứ nhất, người chủ (người sáng lập) hay nhà quản trị cấp cao nhất doanh nghiệp đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng văn hóa kinh doanh. Bên cạnh đó, sự chia sẻ đồng thuận và cùng nhau thực hiện của các nhà quản trị trong doanh nghiệp cũng là yếu tố không thể thiếu. Văn hóa kinh doanh chỉ có thể được tạo lập khi người chủ hay nhà quản trị cấp cao nhất doanh nghiệp có đủ sức đủ tài để sáng tạo ra hệ thống giá trị, xác lập ý nghĩa của hoạt động quản trị. Họ phải là người khởi xướng, cổ vũ, bênh vực và làm lan truyền các văn hóa kinh doanh trong khắp doanh nghiệp. Người chủ trước hết phải hiểu thấu đáo và sâu sắc các giá trị mà họ khởi xướng, sau đó phải gương mẫu và thực hiện nghiêm túc những tập tục, thói quen và tuân thủ những chuẩn mực chung. Thứ hai, Văn hóa kinh doanh là tương đối bền vững và phải được thử thách, sàng lọc qua thực tiễn vì vậy, không thể muốn mà xây dựng được ngay trong ngày một ngày hai mà đòi hỏi một quá trình phấn đấu bền bỉ, gian khổ, hình thành nên những quan niệm giá trị, xu hướng tâm lý và sắc thái văn hóa chung của doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi phải có sự tổng kết thực tiễn, phát hiện những hành vi tiêu biểu, những giá trị cao đẹp,... khuyến khích mọi người làm theo, thực hiện, duy trì và nuôi dưỡng lâu bền để trở thành thành truyền thống, tập tục, và những thói quen không gì thay đổi được. Thứ ba, Văn hóa kinh doanh luôn gắn liền với văn hóa dân tộc. Không doanh nghiệp nào xây dựng được nền văn hóa mạnh nếu đứng ngoài tác động của văn hóa xã hội. Vì thế khi xây dựng văn hóa kinh doanh phải tính đến những dấu ấn, truyền thống, tập quán, giá trị chung,... của văn hóa dân tộc. Chẳng hạn, truyền thống quý báu của văn hóa Việt Nam là "tinh thần yêu nước nồng nàn và khả năng sáng tạo dồi dào". Thứ tư, văn hóa kinh doanh do toàn thể các thành viên của doanh nghiệp tạo nên. Vì thế, xây dựng văn hóa kinh doanh đòi hỏi phải giáo dục văn hóa cho các thành viên trong doanh nghiệp, nâng cao tri thức, trình độ đạo đức, thẩm mỹ,... làm cho họ hiểu và thấm nhuần những chuẩn mực và giá trị cơ bản của văn hóa kinh doanh. Chỉ khi nào các thành viên hiểu rõ được các giá trị, các chuẩn mực, truyền thống, tập tục... trong nền văn hóa doanh nghiệp mình, thừa nhận nó và tự giác tuân thủ thì khi đó doanh nghiệp mới thành công trong việc xây dựng cho mình văn hóa kinh doanh thực sự. Toàn bộ mọi hoạt động xã hội tốt hay xấu đều do con người. Con người luôn luôn giữ vị trí quyết định mọi công việc, mọi nơi, mọi lúc. Bác Hồ đã nói: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Xây dựng văn hóa kinh doanh không ngoài quan điểm đó. Thứ năm, văn hóa kinh doanh là cái phù hợp, ổn định và cần thiết đối với doanh nghiệp này có thể trở nên bất hợp lý, không phù hợp đối với doanh nghiệp khác. Vì vậy, khi nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm xây dựng văn hóa kinh doanh không được tùy tiện áp dụng (bắt chước) các triết lý, giá trị, chuẩn mực, hành vi ứng xử,... của các nền văn hóa khác hay của tổ chức (doanh nghiệp) khác vào trong doanh nghiệp mình. Ở đây cần chú ý đến một nguyên lý xây dựng văn hóa đó là vượt gộp. 1.3.2. Quy trình xây dựng văn hóa kinh doanh Xây dựng văn hóa kinh doanh là một quá trình tích lũy, sàng lọc, kế thừa, chắt chiu, vun đắp không ngừng trong hoạt động kinh doanh. Không thể tự nhiên mà có hay nhanh chóng qua ngày một, ngày hai. Tuy chưa có một công trình nào công bố đầy đủ về quy trình xây dựng văn hóa kinh doanh nhưng có thể hình dung được quy trình này qua các bước cơ bản sau: (i) xác lập triết lý quản trị; (ii) xây dựng các quy chế, quy định, truyền thuyết, truyền thống quản trị; (iii) xây dựng biểu tượng và cách thức giao tiếp với bên ngoài; (iv) đào tạo văn hóa cho các nhà quản trị. 1.3.2.1. Xác lập triết lý kinh doanh Việc xây dựng triết lý kinh doanh thường dựa trên các căn cứ chính yếu sau đây: - Triết lý kinh doanh phải tuân theo các quy tắc cuộc sống và thị trường. Trước hết, quản trị doanh nghiệp ra đời từ nền kinh tế thị trường phát triển ở mức cao. Chính cái "phông" xuất phát chung này quy định sự xem xét từng nội dung cấu thành cụ thể, triết lý kinh doanh dựa trên những nguyên tắc giống nhau, do bản chất hay cơ chế của kinh tế thị trường quy định. Thực chất của triết lý kinh doanh là giải quyết một cách tối ưu hay hợp lý nhất mối quan hệ giữa 3 thành tố cấu trúc cơ bản của nền kinh tế thị trường: Doanh nghiệp - Khách hàng - Đối tác bao hàm cả đối thủ. Trên những nguyên tắc rất sơ đẳng của đạo làm người: tự do, dân chủ, bình đẳng, cụ thể, rõ ràng, công khai, minh bạch. Đây là điểm chung nhất cho mọi doanh nghiệp có quy mô khác nhau, các chỉ dẫn địa lý khác nhau, các quốc gia trên giới "trên một sân chơi chung". Đây là triết lý kinh doanh đơn giản nhất, sơ đẳng nhất, cũng là nền tảng nhất. Xuất phát từ bản chất thị trường, tính nhấp nháy của thị trường là một quy tắc bắt buộc có giá trị tương đương. Sáng tạo và không ngừng sáng tạo là điều quyết định tạo nên vẻ đẹp của triết lý kinh doanh. - Triết lý kinh doanh là ý chí chủ động tấn công. Tự do hóa thương mại đồng hành với cạnh tranh khốc liệt. Triết lý kinh doanh là không ngừng sáng tạo kiến tạo lợi thế cạnh tranh và cạnh tranh thắng lợi trên thương trường. Cạnh tranh mang nhiều sắc thái và nguyên tắc cơ bản của chiến tranh về tư duy trong mỗi một con người trong doanh nghiệp "đổi mới hay là chết"; chiến tranh về khoa học - công nghệ; chiến tranh về kinh tế trên thương trường trong nước và thế giới. Về thực tiễn, hoàn toàn có cơ sở khi coi tiến công là triết lý cốt lõi của kinh doanh. - Triết lý kinh doanh là lòng trung thành. Xuất phát từ sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp tất yếu phải có lợi nhuận cao, thu nhập lớn, lòng trung thành và phục vụ hết mình cho doanh nghiệp của nhà quản trị doanh nghiệp được lan tỏa, thẩm sâu vào từng người trong doanh nghiệp như một tiêu chuẩn đáng tôn trọng, kiến tạo: doanh nghiệp là một gia đình thật sự không mảy may duy ý chí bỏ qua lợi ích vật chất và tinh thần. Thực sự thu hút nhân tài, tôn trọng kỹ năng làm việc, thâm niên công tác, nối nghiệp "cha truyền con nối", cống hiến hết mình cho doanh nghiệp. Tránh hiện tượng "Đứng núi này, trông núi nọ", "Đừng như con khỉ đứng đầu truông, khi vui dớn bóng, khi buồn dớn trăng". Xuất phát từ chủ sở hữu doanh nghiệp mà xác lập triết lý kinh doanh, như ông cha ta đã dạy "thà làm tớ thằng khôn, còn hơn làm thầy thằng dại". Đó cũng là triết lý của các nhà quản trị doanh nghiệp khi chọn minh chủ. Căn cứ vào chế độ sở hữu xuất hiện các cách thức xác lập triết lý kinh doanh sau đây: + Đối với những doanh nghiệp tư nhân: Chủ sở hữu doanh nghiệp là người đứng đầu trực tiếp quản trị doanh nghiệp thì triết lý quản trị kinh doanh là do nhãn quan của cá nhân chủ doanh nghiệp quyết định. + Đối với những doanh nghiệp đồng sở hữu: Chủ sở hữu trực tiếp quản lý và thuê Giám đốc hoặc Tổng giám đốc theo "minh chủ tuyển chọn hiền tài" và "hiền tài chọn minh chủ" trực tiếp quản trị doanh nghiệp thì triết lý kinh doanh là định mệnh. + Đối với doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hóa mà không có chủ sở hữu nào vượt quá 50% giá trị doanh nghiệp thì: Đại diện chủ sở hữu và nhà quản trị doanh nghiệp do bầu cử bỏ phiếu kín: tự ứng cử, có đề án tranh cử công khai, có tư vấn phản biện một cách tự do, dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch không bị một sức ép nào trước cổ động thì văn hóa doanh nhân và triết lý quản trị doanh nghiệp là định mệnh. + Đối với doanh nghiệp Nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa: khi Nhà nước giữ cổ phần chi phối, phần còn lại bán tự tự do thì dù có tổ chức mọi phương thức bầu cử công khai các chức danh quản lý và quản trị doanh nghiệp thì văn hóa doanh nhân và triết lý quản trị doanh nghiệp vẫn có nhiều vần đề cần bàn tính, e dễ lặp lại nếp cũ "bình mới, rượu cũ", v.v.... Có hai quan điểm trái ngược: Một số ý kiến cho rằng Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) không thể xây dựng triết lý kinh doanh, bởi vì trong DNNN ông chủ thực sự là Nhà nước, ban lãnh đạo chỉ là người được bổ nhiệm và có thể điều chuyển bất cứ lúc nào, mặt khác, DNNN thường bị áp lực theo chỉ đạo của cấp trên, khó lòng chủ động làm theo ý muốn. Ngược lại có quan điểm khẳng định rằng có thể xây dựng được. - Sự hợp nhất các loại hình doanh nghiệp để trở thành doanh nghiệp lớn hơn theo mệnh lệnh hành chính. Đây là cuộc thí điểm có quy mô lớn với diện khá rộng. Nước ta đã có nhiều bài học những năm cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 của thể kỷ 20 với phong trào hợp tác xã toàn xã, hợp tác xã bậc cao còn in đậm trong lòng người dân. "Việt Nam cần có Tập đoàn kinh tế mạnh trong nền kinh tế thị trường hội nhập". Đây là vấn đề rất mới chưa có tiền lệ. Sự hình thành và quản lý, quản trị tập đoàn kinh tế như thế nào đang là bài toán khó chưa có lời giải, còn nhiều nội dung đang nằm trong sự lúng túng trong cơ quan tham mưu sản sinh ra nó. Với biết bao nhiêu vấn đề còn tồn đọng trong lòng nó. 1.3.2.2. Xây dựng quy chế, quy định, truyền thống, tập tục, thói quen, lễ nghi Sau khi đã xác lập được triết lý kinh doanh, triết lý đó được thể chế hóa bằng các quy chế, quy định, truyền thống, tập tục, thói quen, lễ nghi của doanh nghiệp để mọi người (không loại trừ ai) đều cùng nhau tự nguyện, tự giác thực hiện. Trong quá trình kinh doanh sẽ nảy sinh nhiều vấn đề có lợi và bất lợi là điều tất nhiên, cùng nhau bàn bạc bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với sự nhấp nháy của thị trường. Trước hết cần thiết lập bản Điều lệ tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Đây là văn bản pháp quy khung, tổng quát nhất cho toàn bộ mọi hoạt động trong doanh nghiệp. Để làm được điều này phải huy động trí tuệ của tất cả mọi người trong doanh nghiệp từ Chủ sở hữu, nhà quản trị cho đến người lao công tự nguyện tự giác nhiệt thành tham gia trên tinh thần: Tất cả vì sự tồn tại và phát triển bền vững cả 3 lĩnh vực: về kinh tế; về xã hội và về môi trường của doanh nghiệp. Để làm được điều đó, những người lãnh đạo phải xây dựng được một nếp sống, một thói quen "sức khỏe là một tình trạng thoái mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không phải chỉ là một tình trạng không bệnh tật hay tàn tật": Tự do là không gian sáng tạo và sáng tạo không ngừng; Dân chủ là nguồn lực của nâng cao năng lực cạnh tranh với lợi thế so sánh tổng hợp của tổ quốc Việt Nam; bình đẳng là không gian văn hóa trong doanh nghiệp. Bản Điều lệ phải được lấy ý kiến tất cả các thành viên trong doanh nghiệp, thông qua hội nghị tổ sản xuất trở lên, góp ý trực tiếp, bằng văn bản, tọa đàm, hội thảo. Đồng thời, tìm chọn và lắng nghe các chuyên gia tư vấn bên ngoài doanh nghiệp tham gia giúp sức xây dựng bản Điều lệ này một cách toàn diện, hiệu quả. Thiết lập Chiến lược sản xuất - kinh doanh dài hạn 10 - 20 năm, có phân kỳ 5 năm. Thông qua thương mại điện tử, các doanh nghiệp có thể hiểu biết rất rõ các dự báo ngắn hạn và dài hạn quan hệ cung- cầu những mặt hàng trên thị trường trong nước, khu vực và toàn cầu, từ đó hoạch định chiến lược sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp hiện tại và tương lại trong thời đại cạnh tranh khốc liệt này. Theo kết quả khảo sát, có 62% doanh nghiệp thất bại trong kinh doanh là do hoạch định chiến lược kinh doanh không phù hợp, vì thiếu thông tin về thị trường,v.v... Mặt khác, có nhìn xa mới trông rộng kiến tạo cho doanh nghiệp một lối đi riêng riêng trên thương trường thiên la địa vọng trong nước và thế giới, có "thời gian sống kinh tế" của chính mình về xuất khẩu hàng hóa và tiêu dùng nội địa với mục tiêu: Cân đối ngoại tệ mạnh và xuất siêu. Mặt khác, muốn đổi mới "thiết bị nguồn - dây chuyền - công nghệ nguồn" phải thông qua dự án đầu tư với thời gian không ngắn. Để bản Chiến lược này có chất lượng cao cần huy động tổng lực trong doanh nghiệp tham gia đóng góp một cách rộng rãi thực sự tự do, dân chủ và bình đẳng. Đồng thời, tham vấn các chuyên gia giàu kinh nghiệm trong nước và quốc tế. "Mọi quản trị suy cho cùng là quản trị con người", do đó lãnh đạo doanh nghiệp phải thiết lập Chiến lược con người trong doanh nghiệp. Chiến lược này được xây dựng theo phương châm 12 chữ: trung thực, trung thành, kỷ cương, sáng tạo, chất lượng, hiệu quả. Muốn đạt được phương châm trên cần thực hiện sâu rộng trong doanh nghiệp: "Minh chủ chọn hiền tài", "Hiền tài chọn minh chủ", một doanh nghiệp văn minh sạch sẽ trong dây chuyền sản xuất -kinh doanh, môi trường thiên nhiên xung quanh, con người từ ăn mặc, lời nói, cử chỉ giao tiếp lịch sự, v.v.... không để ai phải phiền muộn, không để xã hội phải than phiền với hậu họa của doanh nghiệp tạo ra. Thường xuyên giáo dục, phát huy truyền thống đơn vị đã được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân chương lao động, Huân chương chiến công trong các thời kỳ, ghi chép, lưu giữ những tài liệu, hình ảnh, tấm gương tô thêm truyền thống đơn vị. Nên tìm trăm phương ngàn kế xây dựng cho được tính truyền thống tốt đẹp thông qua phòng trưng bày lịch sử truyền thống. Tại đây, ghi lại bao truyền thuyết hào hùng trong quá trình xây dựng, tồn tại và phát triển qua bao thế hệ của doanh nghiệp. Lịch sử truyền thống cần được thiết lập ngay từ đầu và nối tiếp nhau, chớ để mai một đi, khi bừng tỉnh quay trở lại thì không còn gì nữa. Tôn trọng lịch sử, chính là tôn trọng hiện tại và mới có tương lai. 1.3.2.3. Xây dựng các biểu trưng, biểu hiện ra bên ngoài Những điều người bên ngoài dễ nhận thấy nhất về văn hóa kinh doanh, đó là thông qua hành vi ứng xử, giao tiếp của các cán bộ nhân viên. Mỗi thành viên khi giao tiếp, tiếp xúc với người bên ngoài là đại diện cho hình ảnh của doanh nghiệp. Nền văn hóa bên trong doanh nghiệp như các giá trị được thừa nhận, phong cách làm việc, các chuẩn mực ứng xử, giao tiếp bên trong,... sẽ quyết định cách mà các thành viên ứng xử với bên ngoài, với khách hàng, cộng đồng và xã hội. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp cho rằng các nhà quản lý phải biết cách tôn trọng và đối xử tốt với nhân viên và mong rằng họ cũng tôn trọng và đối xử với khách hàng như vậy. Ngoài ra các biểu tượng của doanh nghiệp như logo, biển hiệu, màu sắc, cách thức trang trí doanh nghiệp, kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản phẩm,... sẽ đem hình ảnh của văn hóa kinh doanh đến với khách hàng và cộng đồng xã hội. Các biểu trưng cần được thiết kế sao cho có ý nghĩa phù hợp với những giá trị văn hóa kinh doanh. 1.3.2.4. Đào tạo văn hóa kinh doanh cho các nhà quản trị Muốn xây dựng CNXH phải có con người mới XHCN. Từ đó có thể suy ra rằng muốn tạo lập văn hóa kinh doanh cần phải có các nhà quản trị có bản sắc văn hóa. Nhà quản trị cần phải làm gương và là mực thước cho các nhân viên thực thi văn hóa. Để có được các nhà quản trị này, một trong những biện pháp quan trọng chính là đào tạo. Văn hóa kinh doanh là do các thế hệ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp xây dựng, duy trì và phát triển. Nên cần xây dựng cho được tiêu chuẩn của người cán bộ hiện tại và chuẩn bị điều kiện để phấn đấu cho tương lai. Trong tiêu chuẩn này nên hệ thống hóa quy định về phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức và tác phong của người Việt Nam có văn hóa, của cán bộ chuyên ngành và của người cán bộ doanh nghiệp cụ thể. Đào tạo văn hóa kinh doanh cho các nhà quản trị doanh nghiệp không thể tự nhiên mà có phải thông qua các chương trình đào tạo liên tục có hệ thống từ thấp tới cao. Tuy nhiên, cũng cần một số gợi mở cho sự đào tạo văn hóa kinh doanh cho các nhà quản trị như: - Đào tạo văn hóa kinh doanh cho các nhà quản trị phải gắn liền với cao trào xã hội hóa kinh tế thị trường trong thời đại mới- kinh tế tri thức, toàn cầu hóa, cách mạng quản lý, nhằm đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và số lượng nguồn nhân lực quản trị doanh nghiệp cho phát triển kinh tế Việt Nam làm trọng tâm nhằm thu hẹp cánh chéo tụt hậu ngày càng xa của nước ta. - Đào tạo văn hóa kinh doanh cho các nhà quản trị nhằm góp phần kiến tạo nên nhân tố hàng đầu xây dựng môi trường văn hóa, xã hội cho sự phát triển bền vững của đất nước với phương châm "Dân tộc - Khoa học - Đại chúng" trong giai đoạn mới, nhằm hình thành xã hội học tập, lực lượng lao động có văn hóa được tri thức hóa, trở thành chủ thể sáng tạo, sáng tạo không ngừng của sự nghiệp hiện đại hóa đất nước. Với phương thức, phương pháp dạy và học xoay quanh mục tiêu phát triển con người có bản sắc văn hóa Việt Nam và hiện đại. - Đào tạo văn hóa kinh doanh cho các nhà quản trị như Hồ Chủ Tịch đã đề ra: Giải phóng dân tộc, Giải phóng xã hội và Giải phóng con người gắn bó mật thiết với nhau. Trên con đường dài của ba cuộc giải phóng đó, chúng ta mới đi được chặng đường đầu. Đào tạo văn hóa quản trị cho các nhà quản trị phải đúng hướng thời đại - con người của thế kỷ 21, có chất lượng cao sẽ trở thành một động lực giúp chúng ta đi nhanh hơn trên những chặng đường còn lại. Nếu không có cuộc bứt phá tốt vượt khỏi vòng luẩn quẩn "cải tiến" và "cải tiến" trong đào tạo văn hóa quản trị cho các nhà quản trị như bấy lâu nay, thì sẽ bỏ mất cơ hội, thách thức sẽ ập đến không thể làm tốt nhiệm vụ của chính mình. 1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VĂN HÓA KINH DOANH 1.4.1. Nền văn hóa xã hội Văn hóa kinh doanh là một bộ phận của văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội. Vì vậy tất yếu sẽ có sự phản chiếu của văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội lên văn hóa kinh doanh. Mỗi chủ thể trong một nền văn hóa kinh doanh đều phụ thuộc vào một nền văn hóa dân tộc cụ thể, với một phần nhân cách tuân theo các giá trị văn hóa dân tộc. Mức độ coi trọng tính cá nhân hay tính tập thể, khoảng cách phân cấp của xã hội, tính đối lập giữa nam quyền hay nữ quyền,... là những thành tố của văn hóa xã hội tác động rất mạnh mẽ đến văn hóa kinh doanh. Đồng thời hoạt động kinh doanh luôn luôn tồn tại trong một môi trường nhất định nên nhất thiết nó phải chịu ảnh hưởng của văn hóa xã hội. Mỗi nền văn hóa xã hội lại có đặc trưng riêng và có những hệ quả đặc thù đối với hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn tính kỷ luật và trung thành trong các doanh nghiệp Nhật Bản, tính chính xác trong các doanh nghiệp Thụy Sỹ, sự hào hoa lãng mạn trong các doanh nghiệp Pháp, Ý,.... 1.4.2. Thể chế xã hội Bao gồm thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế văn hóa, các chính sách của chính phủ, hệ thống pháp luật,... là những yếu tố thuộc môi trường kinh doanh có ảnh hưởng sâu sắc tới việc hình thành và phát triển văn hóa kinh doanh. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh doanh phải tiến hành các hoạt động sao cho đạt doanh thu cao nhất với chi phí thấp nhất. Để làm được điều này, các chủ thể kinh doanh phải có tri thức, có văn hóa để khai thác và sử dụng các nguồn lực có hạn như vốn liếng, lao động, tài nguyên,.. một cách có hiệu quả nhất. Đồng thời cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường cũng buộc các nhà quản trị phải có đạo đức kinh doanh, tôn trọng con người, có tác phong tự chủ, dám chấp nhận rủi ro,,.. đó chính là bản lĩnh văn hóa của nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời thông qua quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng, các nhà cung cấp, các đối thủ cạnh tranh, chính quyền địa phương và xã hội, các nhà kinh doanh sẽ hình thành được các bản sắc văn hóa riêng từ việc kế thừa và tiếp thu các giá trị văn hóa tốt đẹp của nhân loại, những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc và thể hiện được các giá trị đó trong các sản phẩm sản xuất ra, trong cách ứng xử giao tiếp trong kinh doanh. Làm được điều đó, doanh nghiệp không những đạt được mục tiêu lợi nhuận mà còn hướng tới được sự phát triển bền vững. 1.4.3. Sự khác biệt, giao lưu văn hóa và quá trình toàn cầu hóa Có một thực tế cần thừa nhận là giữa các quốc gia, các chủ thể kinh doanh, các cá nhân không bao giờ có cùng một kiểu văn hóa thuần nhất. Nếu văn hóa Mỹ đánh giá cao lối sống cá nhân và thẳng thắn thì văn hóa Châu Á lại coi trọng việc tuân thủ luật lệ xã hội. Ở một số nền văn hóa thưởng hay hối lộ để có được một quyết định có lợi hơn là một thông lệ được chấp nhận. Còn ở một số nền văn hóa điều này là không thể chấp nhận, và có thể bị phạt tù. Sự khác biệt về văn hóa có thể là một nguyên nhân chính dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột văn hóa. Chính sự xung đột này tác động khá mạnh đến việc hình thành một bản sắc văn hóa kinh doanh cho phù hợp. Trong điều kiện ngày nay, quá trình hội nhập và quốc tế hóa nền kinh tế diễn ra mạnh mẽ các chủ thể kinh doanh không thể duy trì văn hóa của mình như một lãnh địa đóng kín mà phải mở cửa và phát triển giao lưu về văn hóa. Chính sự giao lưu này tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh học tập, chọn được các khía cạnh tốt về văn hóa của các chủ thể khác nhằm phát triển mạnh nền văn hóa của doanh nghiệp mình. Mặt khác quá trình tìm hiểu và giao lưu văn hóa làm cho các chủ thể kinh doanh hiểu rõ hơn về nền văn hóa của mình từ đó tác động ngược trở lại hoạt động kinh doanh theo hướng tích cực. Quá trình mở cửa của các quốc gia làm cho nền kinh tế của các quốc gia hòa nhập vào với nền kinh tế thế giới, tạo điều cho các doanh nhân có cơ hội phát huy hết khả năng của mình, không ngừng nâng cao trình độ kinh doanh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Cùng quá trình toàn cầu hóa có sự diễn ra của sự giao lưu giữa các nền văn hóa kinh doanh, từ đó bổ sung thêm các giá trị mới cho văn hóa kinh doanh của mỗi nước, làm phong phú kho tàng kiến thức về văn hóa kinh doanh, biết cách chấp nhập luật chơi chung, những giá trị chung để cùng hợp tác và phát triển. Hoạt động kinh doanh ngày càng mang tính toàn cầu, điều này đòi hỏi các chủ thể kinh doanh phải khai thác các thế mạnh trong đó văn hóa kinh doanh là một thế mạnh điển hình. Ngày nay môi trường kinh doanh luôn thay đổi, các chuẩn mực văn hóa được nâng lên, điều đó đòi hỏi các chủ thể phải xây dựng được nền văn hóa có tính thích nghi, có sự tin cậy cao độ để cạnh tranh thành công 1.4.4. Văn hóa ngành kinh doanh Văn hóa kinh doanh của mỗi doanh nghiệp còn chịu sự chi phối ảnh hưởng của văn hóa ngành kinh doanh mà doanh nghiệp đó đang hoạt động. Đó là những ảnh hưởng mang tính đặc thù của mỗi ngành nghề kinh doanh với những đặc điểm, những nét khác biệt do tính chất của sản phẩm ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể quy định. 1.4.5. Khách hàng Với vai trò là người đóng góp phần quan trọng vào việc tạo ra lợi nhuận lâu dài và bền vững cho chủ thể kinh doanh, khách hàng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến văn hóa kinh doanh. Trong nhiều trường hợp khách hàng không mua sản phẩm thuần túy mà họ mua các giá trị, họ đưa ra các quyết định dựa trên bối cảnh văn hóa chứ không chỉ đơn thuần là những quyết định có tính chất thiệt hơn. Do đó, nhu cầu, thẩm mỹ, trình độ dân trí của khách hàng có tác động trực tiếp đến đến văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp. 1.5. MỘT SỐ BÀI HỌC VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 1.5.1.Các điển hình về xây dựng văn hóa kinh doanh của một số doanh nghiệp trong và ngoài nước 1.5.1.1.Văn hóa FPT FPT một trong những doanh nghiệp Việt Nam đầu tiên ý thức được sức mạnh của nền tảng văn hóa trong kinh doanh và xúc tiến xây dựng văn hóa ngay từ khi mới thành lập. "Ở FPT, những giá trị cốt lõi nhất của Văn hóa được sắp xếp lại một cách có hệ thống, mạch lạc tường minh và được gọi là gene của công ty, được tóm tắt trong 5 chữ Sâu - Sáng - Tuyệt - Thông - Phong". Đây chính là sự tóm tắt của triết lí kinh doanh sâu sắc, chủ yếu coi hiền tài là cốt lõi của mọi thành công, lãnh đạo sáng suốt, mạnh mẽ ở khắp mọi cấp, chất lượng tuyệt hảo, thỏa mãn khách hàng ngoài sự mong đợi của họ, thông tin sáng suốt, đáp ứng mọi mục tiêu và hỗ trợ tác nghiệp có hiệu quả, cuộc sống và hoạt động của Công ty phong phú, đáp ứng nhu cầu văn nghệ thể thao tốt nhất cho cán bộ công nhân viên. Văn hóa FPT có những đặc trưng sau: - Nền Văn hóa kế thừa: Khởi đầu cho chiến lược phát triển Công ty, ban Giám đốc FPT đã xây dựng một mô hình được gọi nôm na là "chiến tranh nhân dân", trong đó toàn bộ công ty được bố trí theo kiểu quân đội và có sự phối hợp chặt chẽ với môi trường bên ngoài. Trong công ty có những nhóm hoạt động dưới các tên gọi: Tiểu đội trinh sát (Nghiên cứu thị trường), Bộ đội chủ lực (Lập trình viên), Câu lạc bộ sĩ quan lãnh đạo (Lãnh đạo bộ phận)… Nền văn hóa hướng về con người: FPT coi con người là nguồn tài nguyên quý báu nhất của Công ty. Yếu tố con người luôn được FPT đề cao như một "selling point" (điểm hấp dẫn khách hàng) và thực tế đã là một "selling point" quan trọng. Nền văn hóa mở: Để xây dựng nền văn hóa mở, FPT đã nghiên cứu học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm từ các công ty nước ngoài trong đó có những công ty tên tuổi như IBM, Microsoft, Hewlett Parkard…. là những đại gia trong nghành công nghệ thông tin và cũng có những công ty ít hoặc chưa có tên tuổi nhưng có triển vọng phát triển lớn và có văn hóa công ty tiêu biểu. Phác thảo tương lai: Năm 2003 đánh dấu một mốc mới có tính quyết định đến sự phát triển của FPT khi bắt đầu thực hiện mô hình quản lý kinh doanh theo hướng tập đoàn kinh tế. Sự sắp xếp lại mô hình của doanh nghiệp này là một bước tự đổi mới chính mình của FPT, tránh sự trì trệ trong hoạt động kinh doanh, phát huy tối đa tính sáng tạo, tính tự chủ của các bộ phận, của mỗi thành viên. 1.5.1.2. Văn hóa Mai Linh Công ty Mai Linh đã đề ra triết lí kinh doanh rất phù hợp với ngành dịch vụ taxi là: "An toàn - Chất lượng - Mọi lúc - Mọi nơi". Công ty đã chú trọng đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nhân viên bằng các biện pháp: + Thành lập trung tâm dạy nghề Mai Linh để đảm bảo chất lượng đội ngũ lao động + Chú trọng công tác huấn luyện đội ngũ kế cận + Trang bị đồng phục cho nhân viên để phân biệt với các doanh nghiệp khác. Công ty còn thường xuyên chăm sóc đời sống người lao động bằng việc đảm bảo chế độ lương thưởng hợp lý, công bằng. Đặc biệt, công ty có chế độ tặng cổ phiếu ưu đãi để nhân viên yên tâm với công việc và cống hiến hết mình vì công ty. Để tạo ấn tượng cho khách hàng cũng như gây dựng cho nhân viên lòng tự hào gắn bó với công ty, lãnh đạo công ty cũng chú trọng đầu tư, tạo ra hệ thống phương tiện kinh doanh đồng nhất: màu sắc trên phương tiện kinh doanh; chú trọng tới nhãn hiệu hàng hóa và thương hiệu của Mai Linh trên thương trường: Logo của Mai Linh có hình ảnh con chim Việt đang bay thể hiện quyết tâm của Mai Linh muốn dựa vào nền tảng VHDN để bay vào tương lai; xây dựng hệ thống quản lý hiện đại theo các tiêu chuẩn ISO 9000, SA 8000, ISO 14000, 5S và được BVQI của Anh cấp chứng chỉ hệ thống quản lý phù hợp với ISO 9002/1994; huấn luyện văn hóa giao tiếp văn minh lịch sự trong kinh doanh và trong giao tiếp nội bộ cho nhân viên; huấn luyện văn hóa truyền thống cho nhân viên; viết ca khúc hay về doanh nghiệp để khơi gợi lòng tự hào của nhân viên đối với công ty; phát huy chủ đề "Nụ cười Mai Linh" trong toàn hệ thống Mai Linh. Một số nét tiêu biểu của văn hóa Mai Linh + Điển hình về đạo đức, tinh thần trách nhiệm đối với xã hội, nhiều người lao động trong doanh nghiệp được báo chí nêu gương như những gương sáng giữa đời thường. + Phát huy tinh thần tương thân tương ái của dân tộc công ty thường xuyên tham gia các hoạt động nhân đạo + Bản thân lãnh đạo doanh nghiệp cũng là tấm gương sáng về tinh thần làm việc và khả năng quản lý. + Tôn vinh người lao động, như tổ chức lễ hội "Gia đình Mai Linh" để tuyên dương những thành viên có thành tích trong công việc. + Phong cách quản lý hiện đại, chú trọng đến việc xây dựng VHDN, công ty đã thành công trong việc tạo nên hình ảnh đẹp về doanh nghiệp Mai Linh trong xã hội. 1.5.1.3.Văn hóa Microsoft Không chỉ nổi tiếng vì sự phát triển nhanh chóng và vượt trội của mình, Microsoft còn nổi tiếng với một phong cách văn hóa khác biệt, một môi trường văn hóa đầy cá tính nuôi dưỡng đội ngũ nhân viên kiệt xuất với những con người không phải chỉ vì lợi nhuận hay tiền bạc, mà còn vì sự ham thích và niềm vui được vượt qua những thử thách mà công ty luôn tìm thấy cho mình. - Triết lý kinh doanh: Điểm nổi bật đầu tiên trong VHDN của Microsoft chính là triết lý kinh doanh của Công ty. Triết lý này có thể chia làm năm yếu tố chính: + Chính sách phát triển dựa trên nền tảng lâu dài + Hướng đến các thành quả + Tinh thần tập thể và động lực cá nhân + Thái độ trân trọng đối với sản phẩm, khách hàng + Thông tin phản hồi thường xuyên của khách hàng - Nền văn hóa khuôn viên Đại học: Sở thích nổi tiếng của Gates là chỉ tuyển dụng những sinh viên xuất sắc nhất thẳng từ các trường đại học. Theo Gates: "Giới trẻ sẵn sàng học hỏi hơn và luôn đưa ra những ý tưởng mới mẻ". Nhằm khuyến khích tinh thần tập thể, cung cách hành xử của công ty giữ nguyên không thay đổi nhiều so với những ngày đầu. Nhân viên đi làm ăn mặc đơn giản, đi máy bay giá rẻ nhất, ở khách sạn loại trung bình khi đi công tác (kể cả Bill Gates), không có những biểu tượng phân biệt cấp bậc như phòng ăn cho cấp giám đốc hay vật dụng văn phòng sang trọng. - Đề cao tầm quan trọng của các chuyên gia kỹ thuật: Tại Microsoft, các chuyên viên phát triển phần mềm giữ vai trò quan trọng hơn các nhà quản lý. Bill Gates coi việc "viết mã lệnh" - hay còn gọi là lập trình máy tính - là một công việc cao cả. - Nền văn hóa của những cá tính: nhân viên của Microsoft được tự do tạo ra một ngôn ngữ độc đáo, dựa trên những tiếng lóng mà họ thường sử dụng còn là những tay tin tặc (hackers) ở trường. - Nền văn hóa của những nỗ lực không mệt mỏi: Trong Microsoft tồn tại một khẩu hiệu: "Hãy nỗ lực làm việc và nỗ lực hơn nữa". - Nền văn hóa mang tính học hỏi: Có thể Microsoft là bộ máy khao khát tri thức. Ngay cả tổng hành dinh của công ty tại Redmond cũng mang cái tên rất "đại học": Khuôn viên Đại học Microsoft. - Nền văn hóa của những nhóm nhỏ: Microsoft đã phát triển một hệ thống độc đáo riêng của mình, có thể gọi nôm na là "chia để trị". Hệ thống này gồm một văn phòng chủ tịch bao gồm Tổng Giám đốc và 3 trợ lý thân tín nhất. Dưới phòng này là 15 cấp quản lý với khoảng 7 người ở cấp thứ 15, được biết đến như những "kiến trúc sư", họ là những thành viên cao cấp nhất của nhóm phát triển phần mềm trong công ty. 1.5.1.4. Văn hóa Honda Thành công của Honda được nhắc đến rất nhiều qua "phương pháp Honda". Điểm nổi bật về phương pháp Honda là nó tạo ra sự khác biệt giữa Honda Motor với mọi công ty khác tại Nhật, Mỹ hay là ở bất cứ quốc gia nào khác. Và đó cũng là nền văn hóa của công ty. Phương pháp Honda là tập hợp các nguyên tắc, lý tưởng, và niềm tin khác nhau, trong đó không có cái nào là độc nhất vô song. Điều đáng nói chính là việc áp dụng tập hợp này mới là cái độc đáo, vô song của Honda. Phương pháp Honda mang ý nghĩa quyết định với sự thành công của công ty hơn với bất cứ tiềm lực hay kỹ thuật kinh tế nào, và ảnh hưởng tới bất kỳ một quyết định quan trọng nào khắp công ty. Căn cứ vào các giá trị và niềm tin nhất định, rõ ràng, phương pháp Honda không những cung cấp một đặc tính, một nét tiêu biểu để nhận diện Honda mà còn hướng dẫn cách cư xử trên toàn công ty. - Cung cấp những sản phẩm cho hiệu quả cao với giá phải chăng trên phạm vi toàn thế giới. Sản phẩm của Honda được làm ra để cạnh tranh trên thị trường thế giới đòi hỏi có chất lượng tốt nhất. - Tôn trọng cá nhân - Đương đầu với những thách thức gay go trước tiên - Điều hành tại chỗ - Đề cao vai trò tuổi trẻ - Cầm bó đuốc Honda:Từ khi mới bắt đầu, Honda đã dựa vào những đổi mới kỹ thuật của riêng mình để áp dụng cho các sản phẩm. Mặc dù việc mua và sao chép các ý tưởng từ các công ty khác dễ dàng hơn, Honda vẫn từ chối việc tìm kiếm kỹ thuật từ các nguồn cung cấp bên ngoài. - Một tinh thần tất thắng: Triết lý của Honda được tóm tắt bằng tinh thần tất thắng của nó, một lối sống đòi hỏi sự hoàn thiện, dù nó có khó đạt đến cỡ nào đi nữa. Honda cam kết sản xuất những sản phẩm đạt hiệu quả cao với giá phải chăng. 1.5.2. Các bài học về xây dựng văn hóa kinh doanh trong các doanh nghiệp Như đã phân tích ở trên cho thấy xây dựng văn hóa doanh nghiệp là một công việc còn mới mẻ ở nước ta. Tại Việt Nam, một số doanh nghiệp cũng đã học tập mô hình văn hóa doanh nghiệp của những công ty trên thế giới, để áp dụng vào xây dựng văn hóa kinh doanh của mình. Mô hình văn hóa doanh nghiệp của các công ty nổi tiếng trên thế giới như Microsoft, Hon da hay điển hình của hai công ty Việt Nam là FPT và Mai Linh có thể chưa phải là tối ưu nhưng bước đầu đã chứng minh rằng: doanh nghiệp có thể tồn tại phát triển lớn mạnh nếu biết phát huy sức mạnh của nền tảng văn hóa trong kinh doanh. Muốn xây dựng bất cứ một công trình hay một giá trị nhân đạo nào, trước hết cần trông vào nội lực của chính bản thân mình. Thực tế đã chứng tỏ, con người Việt Nam có một nguồn nội lực vô cùng phong phú. Chỉ cần biết cách động viên, tạo điều kiện phát triển, nguồn nội lực này sẽ được phát huy, để trở thành động lực cho sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới. Chính vì vậy thông qua việc nghiên cứu một số các công ty điển hình trong việc xây dựng văn hóa kinh doanh tác giả đã rút ra một số bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam trong xây dựng văn hóa kinh doanh như sau: - Văn hóa kinh doanh là sự tổng hòa của quan niệm giá trị, tiêu chuẩn đạo đức, triết lý kinh doanh, quy phạm hành vi, ý tưởng kinh doanh, phương thức quản lý và quy tắc chế độ được toàn thể thành viên trong doanh nghiệp chấp nhận, tuân theo. Văn hóa kinh doanh lấy phát triển toàn diện con người làm mục tiêu cuối cùng. Cốt lõi của văn hóa kinh doanh là tinh thần doanh nghiệp và quan điểm giá trị của doanh nghiệp. - Trong quá trình phát triển, mỗi doanh nghiệp đều nỗ lực xây dựng một hệ thống quan điểm giá trị để công nhân viên chức chấp nhận, tạo ra sự hài hòa trong nội bộ doanh nghiệp, một không khí văn hóa tích cực để phát huy thế mạnh văn hóa của tập thể, tăng cường nội lực và sức mạnh của doanh nghiệp. Văn hóa kinh doanh là một giai đoạn phát triển của tư tưởng quản lý doanh nghiệp hiện đại, thể hiện sự chuyển dịch chiến lược phát triển kỹ thuật nhằm tạo nên những sản phẩm hàm chứa hàm lượng văn hóa cao. Bởi thế, có thể coi văn hóa kinh doanh là yếu tố tối quan trọng của thực tiễn doanh nghiệp đương đại. - Văn hóa của kinh doanh phải coi bản sắc văn hóa dân tộc bản địa là cơ sở để phát triển. Bản chất của văn hóa kinh doanh là đối nội phải tăng cường tiềm lực, quy tụ được sức sáng tạo của công nhân viên chức, khích lệ họ sáng tạo ra nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp; đối ngoại phải được xã hội bản địa chấp nhận. Nếu doanh nghiệp biết xây dựng văn hóa kinh doanh trên cơ sở bản sắc văn hóa dân tộc mà họ đang sống thì họ sẽ thành công, còn nếu chỉ biết du nhập nguyên xi mô hình văn hóa kinh doanh nước ngoài, không gắn kết với văn hóa bản địa, họ sẽ thất bại. - Văn hóa kinh doanh chú trọng hướng ngoại (cách ứng xử, hành vi đối với bên ngoài,....) - Văn hóa kinh doanh cần không ngừng được hoàn thiện để phù hợp với các yếu tố môi trường kinh doanh. - Văn hóa kinh doanh cần được tổng kết ngắn, gọn, dễ nhớ, gây ấn tượng sâu sắc và có tính mở (định hướng). Chương 2 THỰC TRẠNG VĂN HÓA KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DỊCH VỤ VẬN TẢI TRACO TRONG THỜI GIAN QUA 2.1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển công ty Tiền thân của công ty cổ phần vận tải TRACO ngày nay, Công ty đại lý vận tải hàng nặng Hà Nội (trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải) ra đời năm 1970 với nhiệm vụ làm đại lý vận tải hàng nặng cho các công trình trọng điểm như: nhà máy điện Thác Bà, nhà máy sợi Hà Nội,... vận chuyển hàng nội thương cho các tỉnh miền núi... Năm 1979, trước yêu cầu cấp bách tiếp nhận thiết bị toàn bộ nhập khẩu cho các công trình trọng điểm, vận tải hàng Bắc - Nam Công ty đại lý vận tải hàng nặng Hà Nội được chuyển về Hải Phòng với tên gọi mới là Công ty đại lý vận tải khu vực I trụ sở chính đặt tại 289 Lý thường Kiệt, Hải Phòng theo Quyết định số 1096 - QĐTC ngày 17/05/1979 của Bộ trưởng Bộ GTVT. Từ đó đến năm 1983 Công ty đã xứng đáng với vai trò chủ lực giải tỏa cảng Hải Phòng làm tổng B tiếp nhận vận chuyển trọn gói thiết bị toàn bộ cho nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nhà máy giấy Bãi Bằng, thiết bị hạng nặng cho Thủy điện sông Đà,... và làm đại lý tiếp nhận hàng triệu tấn phân bón vào đồng bằng sông Cửu Long, vận chuyển lương thực, hàng nội thương từ miền Nam ra Bắc. Tháng 9 năm 1983, Công ty được điều về Tổng cục đường biển và đổi tên thành Công ty Đại lý vận tải đường biển I. Năm 1988 lại được điều về trực thuộc Bộ Giao thông vận tải với tên gọi mới là Công ty dịch vụ vận tải I. Năm 1996 thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp Nhà nước của Chính phủ công ty được thành lập lại theo Nghị định 388/CP với tên Công ty dịch vụ vận tải số I, trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải theo Quyết định số:709 QĐ/TCCB - LĐ ngày 09/04/1996 của Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải. Là một trong những doanh nghiệp đi đầu trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước của Bộ Giao thông vận tải, năm 2000 công ty được cổ phần hóa theo quyết định số 3589/1999/QĐ - Bộ GTVT ngày 17/12/1999 của Bộ trưởng Bộ GTVT với tên gọi đầy đủ bằng tiếng Việt là Công ty cổ phần dịch vụ vận tải TRACO, tên giao dịch quốc tế: "ORIENT TRANSPORT AND FREIGHT FORWARDING JOINT STOCK COMPANY" gọi tắt là TRACO, trụ sở chính đặt tại: 45 Đinh Tiên Hoàng, Hồng Bàng, Hải Phòng. Sau hơn 30 năm ra đời và phát triển Công ty cổ phần vận tải TRACO đã trải qua bao thăng trầm thử thách. Nhưng dù trong thời gian nào nhu cầu vận chuyển cũng luôn luôn cần thiết, nên vai trò của công ty vẫn được phát huy. Thời bao cấp công ty là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc ngành GTVT gồm 5 xí nghiệp vận tải với trên 500 ô tô, cần cẩu; trên 1000 cán bộ công nhân viên rải khắp miền Bắc. Năm 1988 sau khi bàn giao các xí nghiệp vận tải về Cục vận tải ô tô công ty chỉ còn khối văn phòng làm dịch vụ giao nhận vận tải. Từ năm 1994 Công ty bắt nhịp được với cơ chế thị trường nên quy mô hoạt động kinh doanh ngày càng mở rộng, cơ sở vật chất ngày càng khang trang, uy tín doanh nghiệp ngày càng được khẳng định. 2.1.2. Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty Cổ phần dịch vụ vận tải TRACO Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty được xây dựng căn cứ vào Luật doanh nghiệp, Nghị định 44/1998/NĐ - CP ngày 29/06/1998 của Chính Phủ về việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần gồm 12 chương, 54 điều; được Đại hội cổ đông thành lập công ty ngày 12/01/2000 thông qua; được đăng ký và lưu giữ ở các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền; được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch Đầu tư TP. Hải Phòng số 0203000002 ngày 18/02/2000. Ngành nghề kinh doanh của Công ty Cổ phần dịch vụ vận tải TRACO tại Điều 4 trong Điều lệ tổ chức và hoạt động nêu rõ: - Vận tải xếp dỡ hàng hóa thông thường, siêu trường siêu trọng, container, hàng quá cảnh, hàng xuất nhập khẩu, vận tải đa phương thức trong và ngoài nước. - Giao nhận, tiếp vận kiểm đếm hàng hóa, thực hiện thủ tục thông quan - Kinh doanh kho bãi - Đại lý tàu biển, hàng không, môi giới hàng hải - Dịch vụ thương mại hàng hóa - Vận tải các loại hàng hóa - Dịch vụ bảo quản hàng hóa - Tư vấn tổ chức tiếp nhận vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu, hàng quá cảnh. 2.1.3. Bộ máy tổ chức của công ty Cơ cấu quản lý và kiểm soát công ty bao gồm: Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Ban kiểm soát. Trong đó, đại hội cổ đông là cơ quan quyền lực cao nhất công ty bầu ra HĐQT. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý cao nhất có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định các vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty phù hợp với pháp luật Nhà nước. Quyền hạn và trách nhiệm hoạt động của HĐQT và từng thành viên được quy định ở Điều 23, 24, 25 Điều lệ công ty. Chủ tịch HĐQT là người đại diện hợp pháp trước các cơ quan Nhà nước, pháp luật và kiêm nhiệm chức vụ tổng giám đốc. Nhiệm kỳ của các thành viên trong HĐQT là 5 năm. Giúp việc tổng giám đốc có phó tổng giám đốc và kế toán trưởng. Hiện tại công ty gồm 6 đơn vị cấp phòng và 7 đơn vị chi nhánh, xí nghiệp với 189 cán bộ công nhân viên được tổ chức theo mô hình sau (hình 2.1). Các đơn vị trực thuộc công ty đều có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ định biên được tổng giám đốc phê duyệt. Đặc biệt, các chi nhánh có nhiệm vụ đảm bảo khai thác nguồn hàng ở các địa bàn, cung cấp các thông tin về biến động giá cả thị trường hàng hóa, dịch vụ tại địa bàn đó đồng thời thực hiện nhiệm vụ tổ chức giao nhận xếp dỡ, nhận hàng, trả hàng khi hàng đến địa bàn. Xí nghiệp vận tải là phương tiện vận tải chủ lực của công ty. ®¹i héi cæ ®«ng Héi ®ång qu¶n trÞ Ban gi¸m ®èc Ban kiÓm so¸t Nguồn: Văn phòng công ty (năm 2007). 2.1.4. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty 2.1.4.1. Đặc điểm sản phẩm kinh doanh của công ty Vận tải đóng vai trò rất quan trọng và có tác dụng lớn đối với nền kinh tế quốc dân và giữ vị trí then chốt trong TMQT. Hệ thống vận tải được ví như hệ thống tuần hoàn của cơ thể sống. C.Mác đã khẳng định: "Ngoài ngành khai khoáng, ngành nông nghiệp và ngành chế biến ra, còn có một ngành sản xuất thứ tư nữa, ngành đó cũng trải qua ba giai đoạn sản xuất khác nhau là: thủ công nghiệp, công trường thủ công và cơ khí. Đó là ngành vận tải hàng hóa". Sản xuất xã hội mở rộng, chuyên môn hóa tập trung hóa sản xuất là phương hướng phát triển chuyên ngành vận tải. Song việc tập trung hóa này sẽ làm giảm bớt tính linh hoạt trong khai thác do đó chủ hàng sẽ không dễ dàng lựa chọn chủ phương tiện, loại phương tiện hoặc điều kiện vận chuyển. Chính vì vậy đã phát sinh hai xu hướng: xu hướng một: hình thành các đơn vị vận tải chuyên ngành: ô tô, đường sông, đường sắt, đường biển, …; xu hướng hai: hình thành một loại hình doanh nghiệp có chức năng tổ chức vận chuyển hàng hóa một cách hiệu quả nhất từ khâu thủ tục ban đầu đến khâu giao hàng cuối cùng, đó chính là các công ty làm dịch vụ vận tải (giao nhận vận tải, logistics,…). Dịch vụ vận tải là hoạt động kinh doanh chính của Công ty cổ phần dịch vụ vận tải TRACO theo pháp luật hiện hành là dịch vụ giao nhận hàng hóa có những đặc điểm nổi bật sau: - Sản phẩm của công ty là tổ chức giao nhận vận tải. Sản phẩm này cũng có hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng nhưng nó không có hình dáng kích thước cụ thể, không tồn tại ngoài quá trình sản xuất ra nó. Sản phẩm DVVT là một chuỗi những thao tác, nỗ lực. Mặc dù dịch vụ thường bao gồm các hành động hữu hình nhưng bản thân việc thực hiện quá trình dịch vụ lại không thể sờ mó được. Giống như tất cả các thao tác dịch vụ bị nhân tố thời gian chi phối và mang tính chất kinh nghiệm. Sản phẩm của công ty được đo lường bằng đơn vị tấn hàng hóa hoặc tấn dịch vụ. Tấn hàng hóa là khối lượng hàng hóa trong quá trình vận chuyển đã được công ty thực hiện. Tấn dịch vụ là đơn vị phản ánh tổng chiều dài quãng đường mà các phương thức vận chuyển đã sử dụng để hoàn thành quá trình đưa hàng hóa đến nơi khách hàng yêu cầu. Trong thực tế khi vận chuyển một lô hàng thông thường không chỉ sử dụng một loại phương tiện vận tải mà phải trải qua nhiều chặng đường trên các phương tiện khác nhau nên để xác định sản phẩm của công ty chúng ta thống nhất chọn đơn vị đo lường là tấn dịch vụ. - Hoạt động của công ty bị ảnh hưởng tương đối bởi nhân tố thời gian bởi vì dịch vụ được chuyển giao trong những khoảng thời gian thực tế nhưng thời gian khách hàng có thể vui lòng đón nhận dịch vụ lại có giới hạn. - Tổ chức các kênh phân phối và chăm sóc khách hàng của công ty là hệ thống các chi nhánh, xí nghiệp vận tải và các đội giao nhận để có thể đón kịp thời các nhu cầu dịch vụ vận chuyển hàng hóa có thể phát sinh ở khắp mọi nơi. - Hoạt động kinh doanh của công ty chịu ảnh hưởng cũng như tác động nhiều đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa do đó nắm vững các điều kiện trong giao dịch TMQT và quy định của Nhà nước về xuất nhập khẩu là nhiệm vụ thiết yếu của công ty. Hiện nay, Các sản phẩm dịch vụ của Traco đã được đánh giá chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000. Các sản phẩm dịch vụ chính bao gồm: - Dịch vụ Logistics 3PL, 4PL: Traco là doanh nghiệp đầu tiên kinh doanh Đại lý Vận tải và Logistics tại Việt Nam. Trải gần 40 năm kinh nghiệm, ngày nay Traco trở thành doanh nghiệp hàng đầu cung cấp dịch vụ Logistics cấp độ 3PL, 4PL ở Việt Nam và Khu vực. Dịch vụ logistics của Traco (cấp độ 3PL, 4PL) bao gồm chuỗi 40 sản phẩm đơn vị liên hoàn, liên quan với nhau tổ hợp thành 6 gói sản phẩm cơ bản đáp ứng nhu cầu thực tế của các khách hàng khác nhau. Khách hàng trong và ngoài nước đến với Traco logistics gồm 3 nhóm: Các nhà sản xuất mua dịch vụ logistics công nghiệp đầu vào; Các nhà phân phối mua dịch vụ logistics phân phối đầu ra; Traco còn cung cấp dịch vụ logistics cho các đồng nghiệp 3PL, 4PL trong và ngoài nước - Giao nhận kho vận ngoại thương: bao gồm: giao nhận kho vận đường biển, hàng không (sea, air, sea/air freight forwarding); Vận tải đường bộ, đường sắt, vận tải hỗn hợp, vận tải quá cảnh (road, rail complex transport, transit); Vận tải đa phương thức (multimodal transport); Vận tải đường ngắn phụ trợ (trucking, inland haulage); Dịch vụ gom hàng (Consolidation and pick up); Kho và quản trị kho (Warehousing and inventory management); Phân phối và giao hàng JIT (distribution & delivery JIT). - Vận tải hàng hóa và dịch vụ vận tải xếp dỡ: Traco nhận vận tải, xếp dỡ các loại hàng hóa: hàng thông thường, hàng bao, hàng máy thiết bị, sắt thép, hàng rời, hàng lỏng, hóa chất nguy hiểm, container FCL/LCL, hàng siêu trường siêu trọng, hàng dự án v.v. Vận tải ôtô, biển, thủy nội địa, vận tải liên hợp (complex transport), vận tải đa phương thức (MT), dịch vụ vận tải đường sắt, vận tải hàng không....Vận tải và giao nhận đường ngắn, inland hanlage, trucking & pick-up, door to door services... - Kinh doanh dịch vụ kho bãi: Kho bãi là cơ sở hạ tầng quan trọng của Logistics (instructure for logistics) trong khi hệ thống kho tàng của các Cảng không đủ lớn, Traco đã tạo lập được một hệ thống kho bãi tại các khu công nghiệp, trung tâm phân phối, terminal, và đầu mối giao thông xuyên suốt Bắc-Trung-Nam; Công nghệ thông tin được áp dụng trong quản lý, đáp ứng đưa hàng JIT rất thuận tiện cho các nhà sản xuất, các nhà phân phối hàng hóa. Ðể tăng sức cạnh tranh khi Việt Nam gia nhập WTO, nhiều nhà sản xuất và phân phối có xu hướng tăng cường outsoursing, nhất là công tác kho, Traco sẵn sàng cung cấp kho bãi và mặt bằng ở các vị trí thích hợp, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. - Dịch vụ giá trị gia tăng: Traco cung cấp cho khách hàng nhiều loại dịch vụ giá trị gia tăng (VAS) hữu ích, giúp hoàn thiện việc quản trị chuỗi cung ứng của khách hàng và đáp ứng những yêu cầu từ khách hàng: kiểm kê, phân loại, tuyển chọn, tái chế, lắp ráp, tu chỉnh, sửa chữa, thử mẫu, đóng bao, dán nhãn sản phẩm, trao đổi hàng hóa, vệ sinh công nghiệp, quản trị đơn hàng bán buôn và bán lẻ, thu hồi bao bì/ dụng cụ, logistics thu hồi (reverse logistics), dịch vụ bảo hiểm... và các VAS khác. - Dịch vụ hải quan: bao gồm: thực hiện thông quan các loại hàng hóa qua Cảng Hải Phòng; thực hiện thủ tục thông quan hàng lưu huỳnh quá cảnh Cảng Hải Phòng-Lao Cai-Vân Nam Trung Quốc; Traco thực hiện thông quan hàng hóa tại hầu khắp cửa khẩu trong cả nước như: Lạng Sơn, Lao Cai, Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dương, Thanh Hóa,... Traco luôn cập nhật và ứng dụng Công nghệ trong việc thông quan hàng hóa: khai báo Hải quan Điện tử, cập nhật Biểu thuế Xuất nhập khẩu, các văn bản Nhà nước hướng dẫn thực hiện Luật Hải quan, tư vấn khác hàng các bước thực hiện thông quan hàng hóa, tối ưu hóa quá trình thông quan,.... - Tư vấn khách hàng: Tư vấn khách hàng về việc lựa chọn đối tác 3PL, 4PL trong chiến lược tăng cường outsoursing - một giải pháp hữu hiệu của khách hàng trong cạnh tranh khi Việt Nam gia nhập WTO. Tư vấn khách hàng về điều kiện sử dụng có hiệu quả các dịch vụ logistics của Traco: logistics nguyên vật liệu đầu vào, logistics trong nhà máy, logistics phân phối sản phẩm và các dịch vụ giá trị gia tăng. Tư vấn khách hàng về công nghệ tổ chức vận tải các mặt hàng có khối lượng lớn, tiết kiệm chi phí, tăng sức cạnh tranh... - Dịch vụ Hàng hải: Đại lý tàu biển và Cung ứng tàu biển Với dịch vụ đại lý tàu biển: Traco thay mặt chủ tàu-người thuê tàu làm các thủ tục cho tàu ra vào Cảng với các cơ quan chức năng có liên quan Khách hàng: Chủ tàu, Người thuê tàu Với dịch vụ cung ứng tàu biển: - Dịch vụ cung cấp, bán: nhu yếu phẩm cho tàu (nước ngọt, lương thực, thực phẩm...) - Thủ tục thay đổi thuyên chuyển thuyền viên; đưa đón thuyền viên. - Sửa chữa, cung ứng phương tiện, nguyên vật liệu, thiết bị theo yêu cầu Khách hàng: Chủ tàu/Thuyền trưởng - Các dự án đầu tư phát triển SXKD, hợp tác, liên kết, liên doanh, bao gồm: + Dự án đầu tư Tháp Traco: Vị trí: 45 phố Đinh Tiên Hoàng, quận Hồng Bàng, Trung tâm TP Hải Phòng. Diện tích: 12,5m x 30m = 500m2. Dự kiến: xây tòa tháp 7 đến 9 tầng văn phòng cho thuê (ngân hàng, Cty bảo hiểm, văn phòng đại diện, các doanh nghiệp cần văn phòng tại trung tâm Thành phố, vị trí đẹp). Dự kiến chi phí xây dựng: 7-10 tỷ VNĐ. +Dự án đầu tư SHOWROOM-GARAGE: Vị trí: 271 phố Lê Thánh Tông, quận Ngô Quyền, TP Hải Phòng. Diện tích: 600m x 350m = 2.000m2. Dự kiến: xây tòa nhà 5 tầng: tầng trệt làm Garage/Showroom; các tầng trên: cho thuê văn phòng hoặc khách sạn... Dự kiến chi phí xây dựng: 6-9 tỷ VNĐ +Dự án kho bãi Đình Vũ:Trên tuyến đường từ Trung tâm Thành phố ra Cảng Đình Vũ. Diện tích: 35.000 m2. Kho Container, XN Traco Trucking, Cây xăng. 2.1.4.2. Công ty Cổ phần dịch vụ vận tải TRACO hoạt động trong hệ thống giao thông vận tải còn nhỏ bé lạc hậu và đang được nâng cấp. Việt Nam có hệ thống giao thông với đầy đủ các phương thức vận tải: đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển và hàng không. Sau 15 năm đổi mới được sự quan tâm của Đảng và nhà nước GTVT đã có những bước phát triển đáng kể. Trong giai đoạn 1997 - 2002 khối lượng hàng hóa vận chuyển là 851 triệu tấn, khối lượng vận tải hành khách là 4,3 tỷ hành khách, khối lượng hàng hóa thông qua các cảng biển đạt 447 triệu tấn, tăng bình quân 15%/năm. Chất lượng vận tải và dịch vụ vận tải được nâng lên, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, chấm dứt tình trạng ách tắc vận tải, cung cấp hàng hóa chậm trễ thường diễn ra trong thời kỳ bao cấp. Tuy nhiên, hệ thống GTVT ở nước ta có quy mô nhỏ bé, hầu hết chưa đạt kỹ thuật, trang thiết bị công nghệ lạc hậu, năng lực hạn chế, thể hiện qua phân tích hiện trạng hệ thống vận tải đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển và đường hàng không. Đường bộ: Với tổng chiều dài đường bộ là 219.192 km hầu hết các tuyến đường bộ chưa đạt mức kỹ thuật quy định. Hiện nay nước ta chưa có đường cao tốc, tỷ lệ trải mặt nhựa, bê tông xi măng thấp mới chỉ đạt 70% đối với quốc lộ và 30 - 40% đối với tỉnh lộ. Hệ thống đường bộ Việt Nam yếu kém hơn so với khu vực và quốc tế do không đảm bảo được hành lang an toàn đường bộ. Hiện trạng hệ thống vận tải đường bộ của Việt Nam thể hiện ở phụ lục 2. Đường sắt: Hiện nay mạng lưới đường sắt có 7 tuyến với tổng chiều dài 3142,9 km trong đó 2632 km chính tuyến. Đường sắt Việt Nam toàn bộ là đường đơn, chưa có đường đôi, đường điện khí hóa, đường cao tốc, chưa vào cấp kỹ thuật vì thế tốc độ chạy tàu chậm. Nhiều nước châu á có hệ thống giao thông đường sắt hiện đại và có tốc độ chạy tàu gấp đôi, gấp ba, thậm chí gấp bốn lần Việt Nam như Nhật Bản. Hiện trạng hệ thống vận tải đường sắt của Việt Nam thể hiện ở phụ lục 2. Đường sông: So với các nước tuy Việt Nam có hệ thống sông ngòi, kênh rạch rất thuận lợi cho khai thác vận tải song chủ yếu chỉ dựa vào tiềm năng thiên nhiên, luồng lạch chưa được trang bị phao tiêu, biển báo đầy đủ; các cảng sông quy mô nhỏ bé, trang thiết bị nghèo nàn; đội tàu sông cũ và trọng tải nhỏ nên năng lực vận tải rất hạn chế. Hiện trạng hệ thống vận tải đường sông của Việt Nam thể hiện ở phụ lục 2. Đường biển: Tuy là một quốc gia có bờ biển dài, nằm gần đường hàng hải quốc tế song sự phân bố cảng biển chưa hợp lý, đến nay chưa có cảng nước sâu và cảng trung chuyển quốc tế để tiếp nhận tàu có trọng tải lớn. Do vậy, hàng hóa xuất nhập khẩu đi bằng tàu lớn phải trung chuyển qua Singapore và Hồng Kông. Cảng biển thương mại nước ta quy mô nhỏ bé, khả năng tiếp nhận tàu lớn nhất là 50.000 DWT, khối lượng hàng qua cảng lớn nhất (Cảng Sài Gòn) đạt 10,5 triệu tấn năm 2001 (ở những nước có cảng biển lớn hiện đại khối lượng hàng hóa thông qua cảng hàng năm là 150 - 220 triệu tấn và có khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải tới 100.000 - 150.000 tấn). Tổng chiều dài bến của 8 cảng tổng hợp quốc gia là 8.267m chỉ gần bằng chiều dài của cảng Klang: 8.648m; cảng Tanjung Prick - Jakarta: 8.911m; cảng Manila: 7.592m. Hiện trạng hệ thống vận tải đường biển của Việt Nam thể hiện ở phụ lục 2. Hàng không: So với các nước trong khu vực và trên thế giới ngành hàng không Việt Nam còn tương đối trẻ, mới được đầu tư nâng cấp sau chiến tranh. Hiện trạng hệ thống vận tải hàng không của Việt Nam thể hiện ở phụ lục 2. Với 5 sân bay, trong đó 12 sân bay được khai thác vận tải nhưng hầu hết đều có quy mô nhỏ bé, tiêu chuẩn kỹ thuật thấp, trang thiết bị quản lý lạc hậu... Nguyên nhân của các tồn tại và yếu kém trên chủ yếu là do hệ thống GTVT Việt Nam bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh mới chỉ được tập trung đầu tư, cải tạo, nâng cấp từ những năm 1990; Thiếu vốn để cải tạo, xây dựng kết cấu hạ tầng; Trình độ tổ chức quản lý vận tải chưa đáp ứng nhu cầu; Chậm đổi mới về cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp GTVT. Bên cạnh đó điều kiện khí hậu thiên nhiên khắc nghiệt luôn tác động gây ra những tiêu cực, ảnh hưởng đến n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfVăn hóa kinh doanh của Công ty Cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.pdf
Tài liệu liên quan