Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 54
VAI TRÒ PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC 
ĐIỀU TRỊ MỘT SỐ U TRUNG THẤT ÁC TÍNH 
Huỳnh Quang Khánh*, Trần Quyết Tiến* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: So với mổ mở kinh điển thì phẫu thuật nội soi lồng ngực ngày nay là một lựa chọn trong các 
bệnh lý lồng ngực và dần dần trở thành một phương pháp tiêu chuẩn trong điều trị tổn thương trong trung thất 
(2). Tuy nhiên, với những lợi điểm mà nội soi mang lại cũng như những kinh nghiệm trong phẫu thuật nội soi, 
nói lên rằng chúng ta nên sử dụng phẫu thuật nội soi trong một số u trung thất ác tính có thể cắt trọn được với 
mục đích điều trị (3). Chúng tôi báo cáo sơ bộ những kinh nghiệm trong việc thực hiện phẫu thuật nội soi điều trị 
các u trung thất ác tính. 
Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu. Chúng tôi so sánh hai nhóm mổ mở và mổ 
nội soi cho các bệnh nhân có u ác tính trung thất. Từ tháng 7/2010-7/2013 tại khoa ngoại lồng ngực bệnh viện 
Chợ Rẫy có 209 bệnh nhân u trung thất được phẫu thuật, trong đó có 85 bệnh nhân có u ác tính ở trung thất 
được đưa vào nghiên cứu. Trong số này có 64 bệnh nhân u tuyến ức không có nhược cơ, còn lại 21 bệnh nhân là 
các u ác tính khác của trung thất. 
Kết quả: Chúng tôi phân tích 85 bệnh nhân u ác tính trung thất được mổ điều trị. Nhóm mổ nội soi 36 
trường hợp, nhóm mổ mở 45 trường hợp. Không có tử vong hay trường hợp nào phải chuyển từ mổ nội soi sang 
mổ mở. Kết quả sớm: Kích thước u trung bình (cm) 8,44 ± 3,01 (Mở) so với 7,47 ± 2,31 (NS), p=0,108. Thời gian 
mổ trung bình (phút) 124,79 ± 50,79 (Mở) so với 84,58 ± 41,23 (NS), p < 0,0001. Lượng máu mất trung bình 
(ml) 235,10 ± 307,72 (Mở) so với 59,58 ± 59,58 (NS), p = 0,001. Thời gian hậu phẫu (ngày) 7,95 ± 2,43 (Mở) so 
với 5,22 ± 1,39 (NS), p < 0.0001. Thời gian lưu ống dẫn lưu trung bình (ngày) 3,26 ± 0,93 (Mở) so với 2,08 ± 
0,28 (NS), p < 0.0001. Điểm đau sau mổ 5,79 ± 1,80 (Mở) so với 3,80 ± 1,61 (NS), p <0,0001. Tỉ lệ biến chứng 
10,2% (Mở) so với 0,0% (NS). Kết quả trung hạn: có 2 trường hợp u tái phát trong quá trình theo dõi trung bình 
39 tháng ở nhóm mổ nội soi. 
Kết luận: Kết quả ngắn hạn cho thấy phẫu thuật nội soi có khả năng cắt trọn các u trung thất. Kết quả chỉ ra 
rằng so với mổ mở thì phẫu thuật nội soi cắt trọn các u trung thất ác tính có nhiều lợi điểm như: thời gian mổ 
ngắn, ít mất máu, thời gian hậu phẫu ngắn, thời gian lưu ống dẫn lưu màng phổi ngắn, điểm đau sau mổ ít hơn. 
Tỉ lệ biến chứng ở nhóm mổ nội soi ít hơn. Theo dõi lâu dài các u ác tính cần có thêm nghiên cứu lâu dài hơn. 
Từ khóa: Phẫu thuật nội soi lồng ngực, Phẫu thuật nội soi lồng ngực hỗ trợ, U tuyến ức U trung thất ác 
tính. 
ABSTRACT 
THE ROLE OF VIDEO THORACOSCOPIC MANAGEMENT MALIGNANT 
MEDIASTINAL TUMORS 
Huynh Quang Khanh, Tran Quyet Tien 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 54 – 62 
Background: Compared with the conventional operation, video thoracoscopic surgery (VTS) is an 
alternative method for managing thoracic diseases and has gradually become a standard approach to some 
* Khoa Ngoại lồng ngực bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: TS.BS Huỳnh Quang Khánh ĐT: 0908115780 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 55
mediastinal lesions. However, with the advancement in video-equipment and greater experience gained by VTS 
enthusiasts, it is appropriate to say that we should try to use VTS to remove some resectable malignant tumors 
with a curative intention. We report our preliminary experience with video thoracoscopic removal of malignant 
mediastinal tumors. 
Methods: This was a prospective cohort study. We compared patients undergoing mediastinal tumors 
resection for malignant tumors by either VTS or open methods. From July 2010 to July 2013 at Thoracic Surgery 
Department Cho Ray hospital, there were 209 patients with mediastinal tumors resection, in there 85 patients 
with malignant tumors were included in this study. Sixty-four patients were included due to thymoma without 
myasthenia gravis, and 21 patients were included due to other malignant mediastinal tumors. 
Results: We analyzed 85 patients with malignant mediastinal tumors resection (VTS: 36, OPEN: 45). None 
of operative mortality observed or none of VTS was converted to open procedures. The mean tumor size (cm) was 
8.44 ± 3.01 (OPEN) versus 7.47 ± 2.31 (VTS), p= 0.108. The mean operation time (min) was 124.79 ± 50.79 
(OPEN) versus 84.58 ± 41.23 (VTS), p < 0.0001. The mean blood loss (ml) 235.10 ±307.72 (OPEN) versus 59.58 
± 59.58 (VTS), p= 0.001. The mean postoperation time (day) was 7.95 ± 2.43 (OPEN) versus 5.22 ± 1.39 (VTS), p 
< 0.0001. The mean chest tube duration (day) was 3.26 ± 0.93 (OPEN) versus 2.08 ± 0.28 (VTS), p < 0.0001. The 
mean pain score postoperative was 5.79 ± 1.80 (OPEN) versus 3.80 ± 1.61 (VTS), p <0.0001. Complication rates 
were 10.2% (OPEN) versus 0.0% (VTS). The mid-term results: there were two cases recurrences during the 
mean follow-up of 39 months in VTS group. 
Conclusions: The short-term results support the feasibility of VTS in managing technically resectable 
mediastinal tumors. The results confirm that VTS malignant mediastinal tumors resection is associated with a 
statistically significant shorter operation time, less blood loss, shorter post-operation time, shorter chest tube 
duration, less postoperative pain score than in OPEN group. Complication rates are less in VTS than in OPEN 
group. Yet the long-term prognosis for the malignant lesions is deferred and needs further study. 
Keywords: Video thoracoscopic surgery -VTS, Video-assisted thoracoscopic surgery- VATS, Thymoma, 
Malignant mediastinal tumors 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
U trung thất là một bệnh lý ở trung thất, bao 
gồm tất cả các khối u lành tính và ác tính, bẩm 
sinh và mắc phải, các khối u tiên phát và thứ 
phát, trong đó 60% là các u tuyến ức, u thần 
kinh, và các nang lành tính, 30% là u tế bào 
lympho, u quái trung thất. 
Phẫu thuật là phương pháp điều trị cơ bản 
và hiệu quả đối với hầu hết các u trung thất. 
Phần lớn các phẫu thuật viên thống nhất cần 
phải chỉ định mổ sớm các khối u lành tính và các 
nang ở trung thất vì tỉ lệ ung thư hóa các u nang 
lành tính ở trung thất khá cao tới 37-41%. 
So với mổ mở kinh điển thì phẫu thuật nội 
soi lồng ngực ngày nay là một lựa chọn trong các 
bệnh lý lồng ngực và dần dần trở thành một 
phương pháp tiêu chuẩn trong điều trị tổn 
thương trong trung thất. Cho đến nay đã có 
nhiều báo cáo điều trị thành công các u lành tính 
ở trung thất bằng phẫu thuật nội soi. Với những 
u ác tính, việc xem xét, e ngại khả năng cắt 
không trọn vẹn khối u đã làm cho một số phẫu 
thuật viên miễn cưỡng trong việc thực hiện phẫu 
thuật nội soi trong điều trị (2). Tuy nhiên, với 
những lợi điểm mà nội soi mang lại cũng như 
những kinh nghiệm trong phẫu thuật nội soi, nói 
lên rằng chúng ta nên sử dụng phẫu thuật nội 
soi trong một số u trung thất ác tính có thể cắt 
trọn được với mục đích điều trị (3). Chúng tôi 
báo cáo sơ bộ những kinh nghiệm trong việc 
thực hiện phẫu thuật nội soi điều trị các u trung 
thất ác tính. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Chúng tôi phân tích một nghiên cứu đoàn hệ 
có so sánh một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 56
sàng và kết quả giữa hai phương pháp mổ trong 
điều trị u trung thất nguyên phát. 
Phương pháp nghiên cứu 
Đoàn hệ tiền cứu 209 trường hợp u trung 
thất được phẫu thuật điều trị bằng phẫu thuật 
nội soi hay mổ mở (trong đó có 85 trường hợp có 
kết quả giải phẫu bệnh sau mổ là u ác tính). Thời 
gian: từ 07/2010 đến 07/2013 tại khoa ngoại Lồng 
Ngực bệnh viện Chợ Rẫy. Các bệnh nhân được 
chẩn đoán u trung thất, được hội chẩn khoa có 
chỉ định mổ, việc quyết định mổ nội soi hay mổ 
mở do hội chẩn quyết định. Chúng tôi chỉ quan 
sát thu thập số liệu, phân tích kết quả, không can 
thiệp vào quá trình điều trị của khoa. 
Chỉ định mổ nội soi hay mổ mở u trung thất 
của khoa dựa trên một số đặc điểm chung sau: vị 
trí u, kích thước u, lọai u, giải phẫu bệnh u, mức 
độ chèn ép, xâm lấn của u với cấu trúc xung 
quanh. Trên cơ sở đó việc chọn mổ nội soi điều 
trị u trung thất cho các u chưa có xâm lấn, chèn 
ép các cơ quan xung quanh. Việc chọn mổ mở 
cho các u trung thất có các tiêu chí như trên và 
một số trường hợp u trung thất có chèn ép tĩnh 
mạch chủ trên. Tuy nhiên trong nghiên cứu này 
để cho hai nhóm bệnh tương đồng, chúng tôi chỉ 
chọn các trường hợp mổ mở u trung thất chưa có 
chèn ép tĩnh mạch chủ trên vào nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
- Lâm sàng: các bệnh nhân có chẩn đoán u 
trung thất chưa có hội chứng trung thất trên lâm 
sàng, chưa có di căn hạch thượng đòn. 
- Trên hình ảnh CT ngực có cản quang: có 
hình ảnh u trung thất chưa có xâm lấn vào các cơ 
quan quan trọng trong trung thất như: tim, mạch 
máu lớn, khí quản, phế quản, thực quản. Hoặc 
hình ảnh các nang trung thất. 
- Chúng tôi chỉ chọn các trường hợp sau mổ 
có kết quả giải phẫu bệnh là u tuyến ức hoặc là u 
ác tính đưa vào phân tích nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
- Bệnh nhược cơ 
- U trung thất thứ phát do lao hoặc ung thư 
nơi khác di căn đến. 
- Bướu giáp thòng vào trung thất. 
- U thực quản. 
- U khí quản. 
- U trung thất có kèm theo các phẫu thuật 
khác như: u phổi, kén khí phổi, tràn dịch màng 
tim, tràn dịch màng phổi. 
Phương pháp tiến hành 
Các bệnh nhân được khám lâm sàng và cận 
lâm sàng để xác định chẩn đoán và đánh giá giai 
đoạn bệnh. Chẩn đoán u trung thất chủ yếu dựa 
trên lâm sàng và CT ngực có cản quang. Các yếu 
tố trước mổ cần đánh giá như: tuổi, giới, kích 
thước u. 
Bệnh nhân mê nội khí quản 2 nòng, thông 
khí một phổi 
* Nhóm mổ nội soi: - Nội soi hoàn toàn 
(VTS): sử dụng 3 lỗ trocar (2 trocar 10mm, 1 
trocar 5mm). Hay nội soi hỗ trợ (VATS): sử dụng 
1 trocar 10mm, 1 trocar 5mm, đường mở hỗ trợ 
3-4cm). Khi cần đưa các dụng cụ hỗ trợ như 
trong mổ mở vào để thao tác, cầm nắm 
- Chuyển mổ mở: mở rộng vết mổ ngực. Khi 
đánh giá mổ nội soi không thực hiện được (do u 
quá lớn không có khoảng trống thao tác, hay có 
biến chứng không xử trí được qua nội soi như: 
tổn thương mạch máu lớn, tổn thương khí phế 
quản, thực quản, tim). 
Bóc tách u ra khỏi tổ chức xung quanh, cắt 
cầm máu các mạch máu bằng dao đốt siêu âm 
hay clip các mạch máu lớn. Tránh tổn thương 
thần kinh hoành, các tổ chức xung quanh như 
mạch máu lớn, khí phế quản. Nếu có tổn thuơng 
phổi do u dính nhiều, sẽ cắt bằng stapler hay 
khâu phổi. Trường hợp u lớn cần dụng cụ mổ 
mở hỗ trợ sẽ dùng đường mổ hỗ trợ. Với u nang 
trung thất có thể chọc hút dịch trong u rồi bóc 
tách lấy trọn u. Với u đặc hay u hỗn hợp sau khi 
bóc tách cắt u, lấy u ra ngoài qua lỗ trocar 10, hay 
cắt nhỏ u cho vào bao bệnh phẩm lấy ra qua lỗ 
trocar 10. Dẫn lưu màng phổi sau mổ qua lỗ 
trocar 10. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 57
* Nhóm mổ mở: mở ngực đường bên (tùy vị 
trí u ở bên nào) hoặc mở xương ức (khi u trung 
thất trước ở cả hai bên lồng ngực). Các bước 
phẫu thuật cũng tương tự nhóm mổ nội soi. 
Ghi nhận các yếu tố: thời gian mổ, lượng 
máu mất trong mổ, thời gian hậu phẫu, thời gian 
lưu ống dẫn lưu màng phổi, các biến chứng, 
thang điểm đau sau mổ. 
KẾT QUẢ 
Không có tử vong hay biến chứng lớn trong 
cả hai nhóm, và không có trường hợp nào 
chuyển từ mổ nội soi sang mổ mở. Tuổi trung 
bình 44,30 ± 15,15 trong nhóm mổ nội soi và 
43,52 ± 15,47 trong nhóm mổ mở (P=0,86). Có 50 
nam/63 nữ trong nhóm mổ nội soi và 49 nam/47 
nữ trong nhóm mổ mở (p = 0,327). 
Đặc điểm chung nhóm nghiên cứu về kết quả 
giải phẫu bệnh sau mổ 
Về phân loại u lành tính, ác tính. U lành 
tính chiếm đa số (59,3%), u ác tính chiếm ít 
hơn (40,7%). 
Bảng 1. Đặc điểm giải phẫu bệnh sau mổ 
Đặc điểm Nhóm NS 
n=113 
Nhóm mổ mở 
n=96 
Tổng 
N=209 
Phân loại u lành-ác 
 U lành tính 
 U ác tính 
77 (68,1%) 
36 (31,9%) 
47 (49,0%) 
49 (51,0%) 
124 (59,3%) 
85 (40,7%) 
Phân loại Masaoka trong u tuyến ức 
 Giai đoạn I 
 Giai đoạn II 
 Giai đoạn III 
 Giai đoạn IV 
(n=29) 
23 (79,3%) 
3 (10,3%) 
3 (10,3%) 
0 (0,0%) 
(n=35) 
20 (57,1%) 
8 (22,9%) 
6 (17,1%) 
1 (2,9%) 
(n=64) 
43 (67,2%) 
11 (17,2%) 
9 (14,1%) 
1 (1,6%) 
Đặc điểm giải phẫu bệnh nhóm u ác tính 
U tuyến ức chiếm đa số (75,3%), kế đến là 
lymphoma (9,4%), ung thư trung thất nguyên 
phát (7,1%), u tế bào mầm (3,5%), u tế bào 
thần kinh nội tiết (3,5%), và cuối cùng là 
sarcoma sụn (1,2%). Tất cả các trường hợp u 
tuyến ức đều có khả năng xâm lấn nên phải 
được xem là ác tính. 
Bảng 2. Đặc điểm giải phẫu bệnh nhóm u ác tính 
Loại U Mổ NS Mổ mở Tổng 
U tuyến ức 29 35 64 (75,3%) 
Lymphoma 5 3 8 (9,4%) 
Ung thư trung thất nguyên 
phát 
1 5 6 (7,1%) 
U tế bào mầm 0 3 3 (3,5%) 
U tế bào thần kinh nội tiết 0 3 3 (3,5%) 
Sarcoma sụn 1 0 1 (1,2%) 
Tổng 36 49 85 (100%) 
So sánh các đặc điểm trong, sau mổ giữa hai nhóm 
Bảng 3. So sánh các đặc điểm trong u ác tính 
Đặc điểm Nhóm mổ NS (n=36) Nhóm mổ mở (n=49) p* 
Kích thước u 
Kích thước u trung bình 
7,47 ± 2,31 
8,44 ± 3,01 
0,108 
Các đặc điểm trong mổ 
Thời gian mổ trung bình 
84,58 ± 41,23 
124,79 ± 50,79 
<0,001 
Lượng máu mất trung bình trong mổ 59,58 ± 59,58 235,10 ±307,72 0,001 
Các đặc điểm sau mổ 
Thời gian hậu phẫu trung bình 
5,22 ± 1,39 
7,95 ± 2,43 
<0,001 
Thời gian lưu ống dẫn lưu trung bình 2,08 ± 0,28 3,26 ± 0,93 <0,001 
Thời gian chích thuốc giảm đau trung bình 3,80 ± 1,61 5,79 ± 1,80 <0,001 
Điểm đau trung bình 4,88 ±1,42 6,72 ± 1,47 <0,001 
(*): t test 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 58
So sánh kết quả giữa hai nhóm 
Bảng 4. So sánh kết quả giữa hai nhóm trong u ác tính 
Đặc điểm Nhóm mổ NS (n=36) Nhóm mổ mở (n=49) p* 
Kết quả sớm 
Tốt 
Trung bình 
Xấu 
36 (100%) 
0 (0,0%) 
0 (0,0%) 
44 (89,8%) 
4 (8,2%) 
1 (2,0%) 
0,142 
Kết quả theo dõi 6 tháng 
Tốt 
Tái phát 
Mất theo dõi 
(n=31) 
29 (93,5%) 
1 (3,2%) 
1 (3,2%) 
(n=43) 
42 (97,7%) 
0 (0,0%) 
1 (2,3%) 
0,479 
Kết quả theo dõi 12 tháng 
Tốt 
Tái phát 
Mất theo dõi 
(n=27) 
23 (85,1%) 
1 (3,7%) 
3 (11,1%) 
(n=39) 
37 (94,9%) 
0 (0,0%) 
2 (5,1%) 
0,307 
Kết quả trung hạn 
Tốt 
Trung bình 
Mất theo dõi 
31 (86,1%) 
2 (5,6%) 
3 (8,3%) 
47 (95,9%) 
0 (0,0%) 
2 (4,1%) 
0,167 
(*): Kiểm chi bình phương. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm u ác tính trong nhóm mổ nội soi 
Trong nghiên cứu này có 85 trường hợp u ác 
tính, trong đó mổ nội soi có 36 trường hợp, mổ 
mở có 49 trường hợp. Trong nhóm mổ nội soi: U 
tuyến ức 29 trường hợp, lymphoma 5 trường 
hợp, ung thư trung thất nguyên phát 1 trường 
hợp, sarcoma sụn 1 trường hợp. Trong đó u 
tuyến ức chiếm đa số. 
Tất cả các trường hợp u tuyến ức đều có khả 
năng xâm lấn nên phải được xem là ác tính. U 
tuyến ức, là loại u trung thất phát triển chậm, khi 
được điều trị ở giai đoạn sớm bệnh nhân có 
nhiều cơ may sống lâu dài. Phẫu thuật, xạ trị, 
hoá trị đều có vai trò nhất định trong quản lý 
bệnh. Trong đó phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn là 
phương pháp chủ đạo trong điều trị u tuyến ức. 
Trong khi mổ, phẫu thuật viên đánh giá sự xâm 
lấn của u và đánh dấu các vùng nghi ngờ để chỉ 
dẫn cho các nhà giải phẫu bệnh kiểm tra về vi 
thể. Cắt bỏ toàn bộ tuyến ức mở rộng được 
khuyến cáo trong tất cả các trường hợp. Các 
bệnh nhân được cắt bỏ toàn bộ khối u có tiên 
lượng tốt nhất và phẫu thuật viên nên cố gắng 
làm điều này khi có thể(1). 
Các u còn lại như: lymphoma, ung thư trung 
thất nguyên phát và sarcoma sụn rất nhạy với 
hoá trị, nên vai trò phẫu thuật là lấy tối đa khối 
lượng u để tránh chèn ép trung thất và gửi mô u 
xác định giải phẫu bệnh. Việc theo dõi và điều trị 
tiếp theo phối hợp với khoa ung bướu để điều trị 
hoá trị. 
So sánh các đặc điểm trong, sau mổ giữa hai 
nhóm mổ nội soi và mổ mở cho thấy kích thước 
u hai nhóm không khác biệt, tuy nhiên thời gian 
mổ, lượng máu mất, thời gian hậu phẫu, điểm 
đau sau mổ nhóm mổ nội soi tốt hơn. 
So sánh kết quả sớm 
So sánh kết quả sớm giữa hai nhóm mổ nội 
soi và mổ mở cho thấy, kết quả sớm ở nhóm mổ 
nội soi tốt (100%), còn ở nhóm mổ mở tốt 
(89,8%), trung bình (8,2%). Kết quả này có khác 
biệt nhưng chưa có ý nghĩa thống kê (p=0,142). 
So sánh kết quả theo dõi 
* Sau 1 tháng, sau 3 tháng: kết quả hai nhóm 
mổ mở và nội soi như nhau. 
* Sau 6 tháng: kết quả ở nhóm mổ nội soi 
có 1 trường hợp tái phát, trong khi ở nhóm mổ 
mở không có tái phát. Khác biệt không có ý 
nghĩa (p=0,479). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 59
* Sau 12 tháng: kết quả ở nhóm mổ nội soi 
có 1 trường hợp tái phát, trong khi ở nhóm mổ 
mở không có tái phát. Khác biệt không có ý 
nghĩa (p=0,307). 
Như vậy trong các u ác tính trung thất, mổ 
nội soi có kết quả tốt hơn mổ mở về thời gian 
mổ, lượng máu mất, thời gian hậu phẫu, điểm 
đau sau mổ. Tuy nhiên kết quả sớm và theo dõi 
ở hai nhóm không có khác biệt. 
Bàn về u tuyến ức 
Liên quan u tuyến ức với kết quả giữa hai 
nhóm 
Trong nghiên cứu này, mổ nội soi ở nhóm 
u ác tính chủ yếu là u tuyến ức và có 2 trường 
hợp tái phát trong nhóm mổ nội soi đều thuộc 
về u tuyến ức. Do vậy chúng tôi muốn phân 
tích sâu thêm về vai trò mổ nội soi trong điều 
trị u tuyến ức. 
Trong phẫu thuật u tuyến ức, có một số 
nguyên tắc(1): 
Tránh thực hiện phẫu thuật sinh thiết nếu 
như việc đánh giá u tuyến ức là có thể mổ được. 
Mục đích của phẫu thuật là cắt bỏ hoàn 
toàn các tổn thương bao gồm cắt bỏ hoàn toàn 
tuyến ức. 
Phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn có thể đòi hỏi 
việc cắt bỏ các cấu trúc lân cận bao gồm màng 
ngoài tim, các mạch máu lớn. 
Trong quá trình cắt bỏ tuyến ức, nên kiểm 
tra bề mặt màng phổi để tìm các di căn 
màng phổi. 
Có nhiều cách phân loại u tuyến ức như 
bảng phân loại Masaoka, bảng phân loại TNM 
và giai đoạn, bảng phân loại của tổ chức y tế 
thế giới năm 1999. Nhưng cho đến nay hệ 
thống xếp giai đoạn của Masaoka cho u tuyến 
ức vẫn có ý nghĩa trên lâm sàng về điều trị và 
tiên lượng. Đánh giá sống thêm 5 năm toàn bộ 
cho các giai đoạn I, II, III và IV lần lượt như 
sau: 90%, 90%, 60%, <25%. Và 10 năm cho các 
giai đoạn I, II, III lần lượt là: 80%, 80%, 30%(2). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chủ yếu 
bệnh nhân ở giai đoạn I và II. Không có sự 
khác biệt giữa hai nhóm. Chúng tôi so sánh 
với các nghiên cứu khác của Chung JW, Yu-
Jen Cheng. Cũng cho thấy rằng chủ yếu bệnh 
nhân ở giai đoạn I và II, không có sự khác biệt 
giữa nhóm mổ nội soi và nhóm mổ mở(2,3). 
Bảng 5. So sánh kết quả phân loại Masaoka với tác 
giả khác 
Masaoka n Nhóm mổ 
NS 
Nhóm mổ 
mở 
p 
J. W. Chung 
Giai đoạn I 
70 
48 
25 
18 
45 
30 
>0,05 
Giai đoạn II 15 6 9 
Giai đoạn III 5 0 5 
Giai đoạn IV 2 1 1 
Yu-Jen Cheng 
Giai đoạn II 
22 
12 
10 
>0,05 
H. Q. Khánh 
Giai đoạn I 
Giai đoạn II 
Giai đoạn III 
Giai đoạn IV 
64 
43 
11 
9 
1 
29 
23 
3 
3 
0 
35 
20 
8 
6 
1 
0,266 
Nghiên cứu của tác giả Chung JW, cho thấy 
thời gian mổ trung bình giữa hai nhóm mổ nội 
soi 117 ± 48 phút và mổ mở 70,0 ± 23,6 phút 
không khác biệt, chỉ có thời gian lưu ống dẫn lưu 
mổ nội soi 1,84 ± 0,94 ngày và mổ mở 3,62 ± 2,04 
ngày có khác biệt (p<0,001); thời gian nằm viện 
trung bình mổ nội soi 3,4 ± 1,3 ngày và mổ mở 
6,4 ± 2,5 ngày có khác biệt (p<0,001)(3). 
Nghiên cứu của Tác giả Yu- Jen Cheng, 
lượng máu mất trung bình trong nhóm mổ nội 
soi 119,2 ± 70,6 ml ít hơn so với nhóm mổ mở 
238,5 ± 110,2 ml khác biệt có ý nghĩa (p=0,006). 
Thời gian mổ nội soi 193,3 ± 79,6 phút tương tự 
với mổ mở 207,5 ± 85,8 phút không khác biệt 
(p=0,692). Thời gian lưu dẫn lưu khoang màng 
phổi trung bình nhóm mổ nội soi 4,2 ± 2,1 ngày 
và nhóm mổ mở 4,6 ± 2,1 ngày không khác biệt 
(p=0,702). Thời gian hậu phẫu trung bình nhóm 
mổ nội soi 6,8 ± 2,3 ngày và nhóm mổ mở 8,9 ± 
4,4 ngày không khác biệt (p=0,157)(2). 
Tác giả Odaka M, nghiên cứu so sánh mổ nội 
soi cắt u tuyến ức với mổ mở cho 40 bệnh nhân u 
tuyến ức không nhược cơ ở giai đoạn I và giai 
đoạn II (với 22 bệnh nhân trong nhóm mổ nội soi 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 60
và 18 bệnh nhân trong mổ mở). Tác giả ghi nhận: 
lượng máu mất trong mổ giữa hai nhóm không 
khác biệt với 100,6 ml ở nhóm mổ nội soi và 
208,1 ml ở nhóm mổ mở (p=0,0513). Tuy nhiên 
thời gian nằm viện trung bình ở nhóm mổ nội 
soi là 4,6 ngày ít hơn so với nhóm mổ mở là 11,2 
ngày, khác biệt có ý nghĩa (p<0,0001). Không có 
biến chứng quan trọng nào được ghi nhận trong 
mổ cũng như sau mổ ở cả hai nhóm(4). 
Các tác giả cũng ghi nhận, trong mổ nội soi 
thời gian mổ, lượng máu mất có khác nhau tuỳ 
tác giả nhưng thời gian hậu phẫu ít hơn so với 
nhóm mổ mở. 
 So sánh kết quả sớm giữa hai nhóm 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả sớm 
ghi nhận tốt 100% các trường hợp ở nhóm mổ 
nội soi, còn ở nhóm mổ mở tốt 97,1%, xấu 2,9%. 
Tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa (p=0,359). 
Nghiên cứu của tác giả Chung JW, cho thấy 
có 3 trường hợp biến chứng ở nhóm mổ mở, 
không có trường hợp nào biến chứng ở nhóm 
mổ nội soi không khác biệt (p>0,05)(3). 
Các nghiên cứu đều ghi nhận kết quả sớm ở 
nhóm mổ nội soi tốt hơn, tuy nhiên sự khác biệt 
này không có ý nghĩa. 
Điều trị hỗ trợ sau mổ 
Điều trị u tuyến ức dựa theo giai đoạn và 
khả năng mổ được hay không(1,5). 
Giai đoạn I: Được điều trị với mục đích triệt 
căn bằng phẫu thuật đơn thuần, điều trị hỗ trợ 
bằng xạ trị, hoá trị là không cần thiết. Theo dõi 
hàng năm bằng chụp cắt lớp lồng ngực. 
Giai đoạn II: Điều trị triệt căn bằng phối hợp 
các phương pháp. Sau khi phẫu thuật cắt bỏ 
hoàn toàn. Đánh giá mô bệnh học sẽ quyết định 
thái độ điều trị tiếp: 
Nếu diện cắt không còn tổn thương vi thể: 
Xạ trị tại chỗ, không hoá trị. 
Nếu diện cắt có tổn thương vi thể: Xạ trị hậu 
phẫu cho trường hợp u tuyến ức. Xạ trị và hoá trị 
bổ trợ nếu là ung thư biểu mô tuyến ức. 
Nếu diện cắt còn tổn thương đại thể: Xạ trị 
và có thể hoá trị. 
Giai đoạn III: Bệnh nhân được điều trị theo 
từng tình huống lâm sàng. Các bệnh nhân còn 
mổ được có thể đưa vào phẫu thuật rồi xạ trị và 
hoá trị tương tự gia đoạn II. Các bệnh nhân 
không mổ được có thể điều trị bằng hoá trị bổ 
trợ trước sau đó đánh giá lại. Các trường hợp tái 
phát tại chỗ: nên xem xét khả năng cắt bỏ trước 
khi hoá trị, xạ trị. 
Giai đoạn IV: Các trường hợp di căn có thể 
xem xét hoá trị hoặc xạ trị. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, điều trị hỗ 
trợ cho các bệnh nhân giai đoạn III, giai đoạn IV 
còn giai đoạn I và giai đoạn II sau mổ cắt trọn u 
chỉ theo dõi. Ở nhóm mổ nội soi: không điều trị 
27 trường hợp (93,1%), có 3 trường hợp bệnh 
nhân giai đoạn III sau mổ có chỉ định xạ trị, tuy 
nhiên chỉ có 2 trường hợp (6,9%) tham gia điều 
trị xạ trị. Tuy nhiên trong nhóm không điều trị, 
có 2 trường hợp tái phát (1 trường hợp bệnh 
nhân giai đoạn II được mổ lại và hoá trị, 1 
trường hợp bệnh nhân giai đoạn III lúc đầu 
không tham gia xạ trị, khi tái phát phải hoá trị). 
Còn ở nhóm mổ mở: không điều trị 23 trường 
hợp (65,7%), có điều trị xạ trị 11 trường hợp 
(31,4%), hoá trị 1 trường hợp (2,8%), không có 
trường hợp nào mổ lại do u tái phát. Khác biệt 
giữa hai nhóm không có ý nghĩa (p=0,078). 
Nghiên cứu của tác giả Chung JW, cho thấy 
ở nhóm mổ nội soi sau mổ có 8 trường hợp 
(32%) xạ trị (1 trường hợp ở giai đoạn I, 6 trường 
hợp ở giai đoạn II, 1 trường hợp ở giai đoạn IV), 
không có trường hợp nào hoá trị hay mổ lại do u 
tái phát, còn trong nhóm mổ mở sau mổ có 20 
trường hợp (44,4%) xạ trị (7 trường hợp ở giai 
đoạn I, 7 trường hợp ở giai đoạn II, 5 trường hợp 
ở giai đoạn III, 1 trường hợp ở giai đoạn IV), 2 
trường hợp (4,4%) hoá trị, không có trường hợp 
nào phải mổ do u tái phát. Khác biệt giữa hai 
nhóm không có ý nghĩa (p>0,05)(3). 
Tác giả Chung JW, cho rằng phẫu thuật cắt 
trọn u là yếu tố cơ bản trong phẫu thuật u tuyến 
ức. Tuy nhiên trong nghiên cứu của ông cho 
thấy việc áp dụng xạ trị bổ trợ cho cả những 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 61
trường hợp ở giai đoạn sớm: giai đoạn I có 8 
trường hợp (1 trường hợp ở nhóm mổ nội soi, 7 
trường hợp ở nhóm mổ mở), ở giai đoạn II có 13 
trường hợp (6 trường hợp ở nhóm mổ nội soi, 7 
trường hợp ở nhóm mổ mở). Ngoài ra ở giai 
đoạn III có 5 trường hợp, giai đoạn IV có 2 
trường hợp cần xạ trị bổ trợ. Có 2 trường hợp 
điều trị hóa trị bổ trợ(3). 
Nghiên cứu của Tác giả Yu- Jen Cheng điều 
trị 22 trường hợp u tuyến ức giai đoạn II (12 
trường hợp mổ nội soi, 10 trường hợp mổ mở). 
Tác giả không điều trị xạ, hoá bổ trợ cho các 
trường hợp này(2). 
Như vậy trong điều trị u tuyến ức việc sử 
dụng điều trị hỗ trợ ở nhóm mổ nội soi cũng 
tương tự như nhóm mổ mở. 
So sánh kết quả theo dõi 
Trong nghiên cứu về u tuyến ức ác tính, 
chúng tôi theo dõi đến thời điểm kết thúc nghiên 
cứu tháng 9/2013. Thời gian theo dõi trung bình 
20,54 ± 10,62 tháng, ngắn nhất 2 tháng, lâu nhất 
38 tháng. Ghi nhận kết quả, sau 3 tháng kết quả 
tốt ở cả 2 nhóm. Sau 6 tháng có 1 trường hợp tái 
phát ở nhóm mổ nội soi còn ở nhóm mổ mở 
không có tái phát. Sau 12 tháng có 1 trường hợp 
tái phát ở nhóm mổ nội soi, không có trường hợp 
nào tái phát ở nhóm mổ mở. Tuy nhiên khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p=0,539 và p=0,540). 
Phân tích 2 trường hợp tái phát này: 1 trường 
hợp u ở giai đoạn III, sau mổ bệnh nhân không 
tham gia điều trị xạ trị, sau 6 tháng u tái phát sau 
đó bệnh nhân được hoá trị và có kết quả tốt. Còn 
1 trường hợp u ở giai đoạn II, sau mổ cắt trọn u 
theo dõi sau 12 tháng u tái phát được mổ lại và 
hoá trị sau đó, kết quả tốt. 
Qua đó cho thấy, đối với nhóm mổ mở các u 
tuyến ức chưa ghi nhận tái phát ngay cả ở giai 
đoạn III hay giai đoạn IV, còn trong nhóm mổ 
nội soi có 2 trường hợp tái phát. Điều này có 
khác biệt, nhưng không có ý nghĩa thống kê. Cần 
có thời gian theo dõi lâu hơn và số lượng bệnh 
nhân nhiều hơn. 
Tác giả Chung JW, nghiên cứu 70 trường 
hợp u tuyến ức (25 trường hợp mổ nội soi, 45 
trường hợp mổ mở) không ghi nhận trường hợp 
nào tái phát trong thời gian theo dõi từ 5,5 đến 
78,6 tháng (trung bình 51,7 ± 15,8 tháng). Tỉ lệ 
không tái phát ước tính sau 2 năm, 5 năm, 7 năm 
ở nhóm mổ nội soi là 100%, 96% và 96%. Ở 
nhóm mổ mở tương ứng là 98%, 95% và 95%. 
Khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ sống 
còn ước tính sau 2 năm, 5 năm, 7 năm ở nhóm 
mổ nội soi là 100%, 100% và 100%. Còn ở nhóm 
mổ mở là 98%, 87% và 77%. Khác biệt có ý nghĩa 
(p=0,033)(3). 
Nghiên cứu của Tác giả Yu- Jen Cheng theo 
dõi trung bình 33,9 ± 19,7 tháng (từ 5,2 đến 63,5 
tháng) điều trị 22 trường hợp u tuyến ức giai 
đoạn II, không điều trị xạ, hoá bổ trợ. Ghi nhận 
không có trường hợp nào tái phát. Thời gian 
sống còn trung bình ở nhóm mổ nội soi và nhóm 
mổ mở là 32,3 ± 22,0 tháng và 35,8 ± 17,5 tháng. 
Khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,686)(2). 
Như vậy đối với các trường hợp u tuyến ức 
giai đoạn I và giai đoạn II. Mổ nội soi có nhiều 
lợi điểm về kết quả trong, sau mổ hơn so với mổ 
mở. Kết quả sớm và trung hạn giữa 2 nhóm 
không khác biệt. 
Bàn về mổ nội soi với các loại u ác tính khác 
Trong nghiên cứu này, cho thấy u tuyến ức 
chiếm đa số. Trong đó nhóm mổ nội soi chỉ có 5 
trường hợp lymphoma, 1 trường hợp ung thư 
trung thất nguyên phát, 1 trường hợp sarcoma 
sụn. Còn nhóm mổ mở có 3 trường hợp 
lymphoma, 5 trường hợp ung thư trung thất 
nguyên phát, 3 trường hợp u tế bào mầm, 3 
trường hợp u tế bào thần kinh nội tiết. Các 
trường hợp này u đáp ứng tốt với hoá trị nên sau 
mổ được hội chẩn khoa ung bướu điều trị hoá trị 
phối hợp. Cho đến thởi điểm kết thúc nghiên 
cứu, không ghi nhận trường hợp nào tái phát. 
Tại cơ sở chúng tôi nghiên cứu, không thực 
hiện việc lấy mẫu mô bệnh học trước mổ nên 
phẫu thuật cũng là phương pháp lấy mô bệnh 
học. Như vậy, vai trò mổ nội soi và cả mổ mở là 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 62
lấy trọn u làm giảm khối lượng tế bào u và lấy u 
xác định mô bệnh học. Việc điều trị hỗ trợ sau 
mổ là cần thiết. 
KẾT LUẬN 
Kết quả ngắn hạn cho thấy phẫu thuật nội 
soi có khả năng cắt trọn các u trung thất. Kết 
quả chỉ ra rằng so với mổ mở thì phẫu thuật 
nội soi cắt trọn các u trung thất ác tính có 
nhiều lợi điểm như: thời gian mổ ngắn, ít mất 
máu, thời gian hậu phẫu ngắn, thời gian lưu 
ống dẫn lưu màng phổi ngắn, điểm đau sau 
mổ ít hơn. Tỉ lệ biến chứng ở nhóm mổ nội soi 
ít hơn. Theo dõi lâu dài các u ác tính cần có 
thêm nghiên cứu lâu dài hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ahmad U, Detterbeck CF (2014). Diagnostic Evaluation of 
Anterior Mediastinal Masses and Clinical and Surgical 
Approach to Thymic Tumors via Sternotomy, Mastery of 
Cardiothoracic Surgery. Lippincott Williams & Wilkin, 
Philadelphia, USA, pp. 124-133. 
2. Cheng YJ, Kao EL, Chou SH (2005). Videothoracoscopic 
Resection of Stage II Thymoma: Prospective Comparison of 
the Results between Thoracoscopy and Open Methods.. 
American College of Chest Physicians, 128, pp. 3010-3012. 
3. Chung JW, Kim HR, Chun MS, Kim YH, Park SI, Kim SR, Lee 
DH (2012). Long-term Results of Thoracoscopic Thymectomy 
for Thymoma without Myasthenia Gravis. The Journal of 
International Medical Research, 40, pp. 1973-1981. 
4. Odaka M, Akiba T, Hiramatsu M, Matsudaira, et al (2010 
Apr), "Unilateral Thoracoscopic Subtotal Thymectomy for The 
Treatment of Stage I and II Thymoma". Eur J Cardiothorac Surg, 
37, (4), pp. 824-826. 
5. Theodore P, Jablons D (2010). Thoracic Wall, Pleura, 
Mediastinum, & Lung. Current Diagnosis & Treatment: Surgery, 
Thirteenth edition.. The McGraw-Hill Companies, Inc., 
USA.pp.79-85 
Ngày nhận toàn văn: 27/11/2017 
Ngày nhận bài nhận xét: 28/12/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018