Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 2 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 246
TỶ LỆ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI 
KỲ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA LONG AN 
Bùi Thị Phương Nga*, Lê Phạm Hoa Sơn Trà** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) đang là một vấn đề đáng quan tâm của y tế cộng đồng vì tỷ 
lệ mắc bệnh ngày càng gia tăng cũng như các biến chứng của bệnh cho cả người mẹ và thai nhi. Nghiên cứu này 
góp phần bước đầu xây dựng quy trình tầm sóat và quản lý ĐTĐTK tại bệnh viện đa khoa Long An giúp ngăn 
ngừa và giảm thiểu các kết cục xấu cho thai phụ và thai nhi. 
Mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ ở phụ nữ mang thai từ tuần 24 – 28. (2) Xác định một 
số yếu tố liên quan đến đái tháo đường thai kỳ. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện từ tháng 1/2018 – 6/2018 với 404 thai phụ có 
tuổi thai từ tuần 24 – 28 được thực hiện nghiệm pháp dung nạp 75g glucose. Chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ 
theo tiêu chuẩn ADA 2011 và các biến số khảo sát sự liên quan là: tiền sử gia đình có người trực hệ đái tháo 
đường, tiền sử đẻ con to, tiền sử đái tháo dường thai kỳ, tăng cân nhanh trong thai kỳ, chế độ ăn thừa năng 
lượng, thừa protid, thừa glucid, thừa lipid. 
Kết quả:Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ là 15,35%, trong đó nhóm có yếu tố nguy cơ là 20,7% và nhóm không 
có yếu tố nguy cơ là 7,4 %. Các yếu tố liên quan của đái tháo đường thai kỳ là: tiền sử đẻ con ≥ 4000g (OR=3,37 
với p= 0,009, KTC: 1,34 – 7,43), đường niệu dương tính (OR= 3,06 với p=0,001, KTC= 1,75 – 5,94), chế độ ăn 
thừa glucid (OR=5,72 với p=0,004, KTC=1,76 – 16,78). 
Kết luận: (1) Nghiệm pháp dung nạp glucose nên thực hiện cho tất cả thai phụ thay vì chỉ tập trung vào các 
thai phụ có yếu tố nguy cơ. (2) Chế độ ăn thừa glucid làm tăng khả năng bị ĐTĐTK 5,72 lần, do đó chú ý nên có 
phần hướng dẫn chế độ ăn không chỉ trong quy trình khám thai cho thai phụ mà cho cả phụ nữ chuẩn bị mang 
thai, nhất là những thai phụ có tiền căn sanh con to. 
Từ khóa: đái tháo đường thai kỳ, yếu tố nguy cơ 
ABSTRACT 
PREVALENCE AND RELATED FACTORS OF GESTATIONAL DIABETES MELLITUS AT LONG AN HOSPITAL 
Bui Thi Phuong Nga, Le Pham Hoa Son Tra 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3- 2019: 246-253 
Methods: The cross-sectional study conducted from January 2018 to June 2018 included 404 women who 
were at 24 to 28 weeks of pregnancy were performed a 75 g glucose tolerance test. Diagnosis of gestational 
diabetes was made by the ADA 2011 standard and the variables were: family history of diabetes, a history of large 
childbirth, a history of diabetes, fast weight gain in pregnancy, total food energy excess, excess dietary protein, 
glucid and lipids. 
Results: The rate of gestational diabetes was 15.35%, in which the risk group was 20.7% and the group 
without risk factor was 7.4%. The factors related to gestational diabetes were: history of giving birth ≥ 4000g (OR 
= 3.37 with p = 0.009, KTC: 1.34 - 7.43), positive urinary glucose (OR = 3.06 with p = 0.001, KTC = 1.75 - 5.94), 
dietary excess of glucid (OR = 5.72 with p = 0.004, KTC = 1.76 - 16.78). 
*Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch **Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Long An 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Bùi Thị Phương Nga ĐT: 0903722237 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Conclusions: (1) Glucose tolerance test should be performed for all pregnant women instead of focusing on 
pregnant women with risk factors. (2) The excess dietary glucid increased the likelihood of being diagnosed with 
diabetes by 5.72 times, so there should be a dietary guideline not only for pregnant women in the regular 
monitoring of pregnancy but also for women who are planning a pregnancy, especially pregnant women with a 
history of macrosomia. 
Key word: gestational diabetes, prevalence, risks factors 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cùng với sự gia tăng của ĐTĐ, đái tháo 
đường thai kỳ (ĐTĐTK) đang không ngừng gia 
tăng. Cho tới nay ĐTĐTK đang là một vấn đề 
đáng quan tâm của y tế cộng đồng(8,20) vì tỷ lệ 
mắc bệnh ngày càng gia tăng cũng như một số 
biến chứng thai – mẹ có thể là hậu quả của 
ĐTĐTK như tiền sản giật, sanh non, thai chết 
lưu, hội chứng suy hô hấp cấp, tử vong chu sinh, 
thai to gây khó đẻ, đặc biệt nguy cơ mắc đái tháo 
đường typ 2 thực sự sau này(10,20,21). Nhiều công 
trình nghiên cứu cho thấy rằng việc sàng lọc và 
quản lý ĐTĐTK tốt đã góp phần làm giảm biến 
chứng cho mẹ và thai. 
Tuy nhiên, việc sàng lọc ĐTĐTK hiện nay 
vẫn chưa được tiến hành thường quy ở nhiều 
phòng khám thai trong cả nước, trong đó có 
Long An, vấn đề ĐTĐTK vẫn còn bỏ ngỏ. Theo 
số liệu 6 tháng đầu năm 2017 của bệnh viện Đa 
khoa Long An, tại phòng khám thai có 2.778 thai 
phụ, trong đó tuổi thai từ 24-28 tuần là 512 
người (trung bình mỗi ngày có khoảng 4 người); 
tổng số sanh là 3246 ca trong đó tổng số thai nhi 
≥ 3500g là 1321 ca (40,7%) trong đó ≥ 4000g là 68 
ca (2,1%); tiền sản giật là 75 ca (2,3%); sanh non 
93 ca (3%) và thai lưu 154 ca (5%) Xuất phát từ 
những thực tế trên, nghiên cứu này được thực 
hiện nhằm bước đầu xây dựng quy trình tầm 
sóat và quản lý ĐTĐTK tại bệnh viện đa khoa 
Long An giúp ngăn ngừa và giảm thiểu các kết 
cục xấu cho thai phụ và thai nhi. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ ở phụ 
nữ mang thai từ tuần 24 – 28. 
Xác định một số yếu tố liên quan đến đái 
tháo đường thai kỳ. 
PHƯƠNG PHÁP - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang. 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả thai phụ có tuổi thai từ 20 - 27 tuần 
đến khám thai tại khoa Sản- Bệnh viện Đa khoa 
Long An từ 02/01/2018 đến 30/06/2018, loại trừ 
các trường hợp ĐTĐ có từ trước khi có thai hoặc 
trong 3 tháng đầu thai kỳ, đang mắc các bệnh ác 
tính, mãn tính như đang sử dụng các thuốc 
Corticoid, Salbutamol, lợi tiểu nhóm Thiazide 
hoặc bệnh tâm thần, câm điếc. 
Cỡ mẫu nghiên cứu 
Chọn mẫu toàn bộ trong thời gian nghiên 
cứu, mẫu tối thiểu là 341 thai phụ với p = 0,08(13). 
Một số định nghĩa 
ĐTĐTK: khi thai phụ được thực hiện nghiệm 
pháp dung nạp 75g glucose (NPDNĐ) có ít nhất 
1 giá trị dương tính theo tiêu chuẩn chẩn đoán 
của ADA 2011, 2017(2,3). 
Thời điểm lấy mẫu Ngưỡng giá trị chẩn đoán 
Lúc đói > 92mg/dl (5,1 mmol/l) 
1 giờ > 180 mg/dl (10,0 mmol/l) 
2 giờ > 153mg/dl (8,5 mmol/l) 
Biến số nghiên cứu 
Tiển sử đẻ con to: trong tiền sử có ít nhất 1 
lần đẻ con > 4000g. 
Tiền sử ĐTĐTK: những trường hợp không 
được làm được xếp vào nhóm không biết. 
Tiền sử ĐTĐ gia đình: khi bố, mẹ hay anh 
chị em ruột đang mắc ĐTĐ đang điều trị. 
Chỉ số BMI trước mang thai: theo khuyến 
cáo của tổ chức Y tế Thế giới đề nghị cho khu 
vực Châu Á - Thái Bình Dương tháng 2/2000, 
thừa cân, béo phì khi BMI ≥ 23(4). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 2 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 248
Tăng cân nhanh trong thai kỳ lần nầy: được 
đánh giá dựa theo khuyến cáo chi tiết về mức 
tăng cân cho phép của các thai phụ tùy theo 
từng phân loại BMI khác nhau của Viện Y khoa 
Hoa Kỳ năm 2009. 
Thừa năng lượng tổng và thừa khối lượng 
các thành phần Protid, Glucid, Lipid: khi hiệu số 
của tổng năng lượng và khối lượng các thành 
phần trong thực đơn thực tế cao hơn thực đơn lý 
tưởng >10%. 
Năng lượng tổng và khối lượng các thành 
phần Protid, Glucid, Lipid trong khẩu phần ăn 
lý tưởng cho thai phụ ĐTĐTK: được tính theo 
Hướng dẫn của Bộ Y tế(5). 
Năng lượng tổng, khối lượng các thành phần 
Protid, Glucid, Lipid của thực đơn thực tế từng 
ngày: là giá trị trung bình của nhật ký bữa ăn 
của 3 ngày liên tiếp trước khi thực hiện NPDNĐ, 
được tính bằng phần mềm Eiyokun dành cho 
người Việt Nam. 
Nhóm nguy cơ là nhóm có ít nhất một 
trong các yếu tố sau: béo phì, tiền sử rối loạn 
dung nạp đường, tiền sử gia đình bị ĐTĐ, tiền 
sử sanh con to. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu 
Bảng 1: Một số đặc điểm chung của dân số nghiên cứu 
Đặc điểm thai phụ N(404) Tỷ lệ (%) 
Tuổi Tuổi trung bình: 29,51 
<35 334 82,7 
≥35 70 17,3 
Nghề nghiệp 
Công nhân 218 53,9 
Nông dân 22 5,5 
Buôn bán, tự do 99 24,5 
Nhân viên văn phòng 65 16,1 
Trình độ văn hóa 
Mù chữ, cấp 1 29 7,2 
Cấp 2, cấp3 284 70,3 
Cao đẳng, đại học 91 22,5 
Địa chỉ 
Thành thị 118 29,2 
Nông thôn 286 70,8 
Tiền thai 
Con so 171 42,3 
Con rạ 233 57,7 
Đặc điểm thai phụ N(404) Tỷ lệ (%) 
BMI 
Nhẹ cân, bình thường 314 77,7 
Thừa cân, béo phì 90 22,3 
Trong 404 thai phụ có 82,7% thai phụ < 35 
tuổi, 77,5% thai có trình độ văn hóa chỉ đến cấp 3 
và 22,3 % thai phụ thừa cân, béo phì. 
Tỷ lệ ĐTĐTK 
Tỷ lệ ĐTĐTK chung 
Trong 404 thai phụ tham gia nghiên cứu có 
62 thai phụ được chẩn đoán ĐTĐTK theo tiêu 
chuẩn ADA 2011, chiếm tỷ lệ 15,35% 
Tỷ lệ ĐTĐTK theo yếu tố nguy cơ (YTNC) 
Biểu đồ 1: Tỷ lệ ĐTĐTK của nhóm có YTNC và 
không có YTNC 
Trong nhóm có YTNC (241) có 50 thai phụ 
ĐTĐTK (20,75%), trong nhóm không có YTNC 
(163) có 12 thai phụ ĐTĐTK (7,36%) (Biểu đồ 2). 
Bảng 2. Các trường hợp ĐTĐTK được chẩn đoán 
theo thời điểm 
Các trường hợp chẩn đoán ĐTĐTK N (62) Tỷ lệ (%) 
1 chỉ số 
ĐH đói (G0) 1 1,6 
ĐH sau 1giờ (G1) 11 17,7 
ĐH sau 2 giờ (G2) 13 21 
2 chỉ số 
G0+ G1 3 4,8 
G1+G2 20 32,3 
G0+ G2 1 1,6 
3 chỉ số G0+ G1+ G2 13 21 
G0, hoặc G1, hoặc G2 cao: là 25 trường hợp, 
chiếm tỷ lệ 40,2%. 
G0 cao: 1 trường hợp đơn lẽ (1,6%) và 17 
trường hợp kết hợp với G1 và/hoặc G2 (27,4%). 
Trong 18 trường hợp này có 4 trường hợp chỉ số 
>126mg/dl. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
G1 và/hoặc G2 cao: chiếm 98,4% các trường 
hợp, trong đó cao cả hai chỉ số là 33 trường hợp 
chiếm 53,3%, G1 hoặc G2 cao riêng lẻ là 14 
trường hợp chiếm 22,6%. 
Sự liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ và đái 
tháo đường thai kỳ 
Phân tích đơn biến 
Tiền sử gia đình, tiền sử sanh con to và 
đường niệu dương tính liên quan có ý nghĩa 
thống kê đến ĐTĐTK với p < 0,05 (Bảng 3). 
Bảng 3: Sự liên quan giữa tiền sử, thai kỳ hiện tại và ĐTĐTK 
Các yếu tố 
ĐTĐTK 
P OR KTC 
Có n=62 Không n=342 
Tiền sử gia đình 
Có 17 (28,8) 42 (71,2) 0,002 2,67 1,32-5,32 
Không 45 (13) 300 (87) 
Tiền sử đẻ con to 
Có 12 (38,7) 19 (61,3) < 0,001 4,08 1,68-9,45 
Không 50 (13,4) 323 (86,6) 
Tiềnsử ĐTĐTK 0 0 - - - 
BMI trước có thai 
Thừa cân, béo phì 19 (21,1) 71 (78,9) 0,085 1,86 0,87-3,17 
Không thừa cân 43 (13,7) 271 (86,3) 
Tăng cân nhanh 
Có 35 (15,8) 186 (84,2) 0,781 1,08 0,61-3,94 
Không 27 (14,8) 156 (85,2) 
Bảng 4: Sự liên quan giữa chế độ ăn và ĐTĐTTK 
Chế độ ăn 
Đái tháo đường thai kỳ 
P OR KTC 
Có n=62 Không n=342 
Thừa năng lượng 
Có 46 (25,3) 136 (74,7) <0,001 4,35 2,30-8,55 
Không 16 (7,2) 206 (92,8) 
Thừa protid 
Có 27 (28,1) 69 (71,9) <0,001 3,05 1,65-5,57 
Không 35 (11,4) 273 (88,6) 
Thừa lipid 
Có 23 (17,6) 108 (82,4) 0,46 1,26 0,68-2,26 
Không 39 (14,3) 234 (85,7) 
Thừa glucid 
Có 52 (25) 156 (75) <0,001 6,2 2,97-14,1 
Không 10 (5,1) 186 (94,9) 
Chế độ ăn thừa năng lượng, thừa protid, 
thừa glucid so với khẩu phần ăn lý tưởng liên 
quan có ý nghĩa thống kê đến ĐTĐTK với p<0,05 
(Bảng 4). 
Phân tích hồi quy đa biến 
Sau khi phân tích hồi quy đa biến các yếu tố 
liên quan có ý nghĩa thống kê đến ĐTĐTK gồm: 
tiền sử sanh con to, đường niệu dương tính và 
chế độ ăn thừa glucid với p≤ 0,009 (Bảng 5). 
Bảng 5: Sự liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ và 
ĐTĐTTK 
Các yếu tố P OR KTC 
Ts gia đình có ĐTĐ 0,108 1,85 0,85-3,80 
Tiền sử đẻ con to 0,009 3,37 1,34 -7,43 
Chế độ ăn thừa năng lượng 0,981 1,06 0,34 - 2,88 
Chế độ ăn thừa Glucid 0,004 5,72 1,76 - 16,78 
Chế độ ăn thừa protid 0,440 1,33 0,63 - 2,74 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 2 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 250
BÀN LUẬN 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Kết quả nghiên cứu cho thấy tuổi thai phụ < 
35 tuổi chiếm tỷ lệ 82,7% và tỷ lệ thừa cân, béo 
phì trước khi mang thai với BMI > 23 là 22,3%. 
Qua đây chúng ta có thể nhận định là đời sống 
của con người ngày càng phát triển theo xu 
hướng phát triển của nền kinh tế xã hội, do đó tỷ 
lệ thừa cân, béo phì ngày càng gia tăng ở phụ nữ 
trẻ. Với chỉ số BMI càng cao thì người phụ nữ 
càng có nhiều nguy cơ mắc bệnh tật nói chung 
và nguy cơ trong thai nghén nói riêng. 
Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ 
Nghiên cứu của chúng tôi có 62/404 thai phụ 
được chẩn đoán ĐTĐTK theo tiêu chuẩn ADA 
2011 chiếm tỷ lệ 15,35 %. Theo xu hướng hiện 
nay, có thể thấy tỷ lệ ĐTĐTK đang tăng lên theo 
thời gian và tỷ lệ này có thể thay đổi tùy theo 
tiêu chuẩn chẩn đoán(1,2,3,10). Trong nghiên cứu 
của chúng tôi, với cùng tiêu chuẩn chẩn đoán, tỷ 
lệ ĐTĐTK cao tương đương với các nghiên cứu 
khác trong nước(7,12,13,14,16,17,19,21,22). Điều này có thể 
do những năm gần đây tỉnh Long An có tốc độ 
phát triển kinh tế khá nhanh, một số tập quán ăn 
uống, sinh hoạt thay đổi đã làm tăng khả năng 
mắc bệnh và sẽ góp phần không nhỏ làm tăng tỷ 
lệ biến chứng thai – mẹ nếu ĐTĐTK không được 
kiểm soát tốt, cũng như tăng tỷ lệ trẻ em béo phì 
sanh ra từ mẹ ĐTĐTK và có nguy cơ mắc các 
bệnh về chuyển hóa trong tương lai(6,9). Vì vậy, 
cần có sự chỉ đạo để các cơ sở khám thai, theo 
dõi thai nghén, tăng cường công tác tư vấn, 
tuyên truyền về bệnh ĐTĐTK, cách khám sàng 
lọc và dự phòng, nhằm làm giảm tỷ lệ mắc 
ĐTĐTK trong tương lai. 
Nếu chỉ xét nghiệm đường huyết lúc đói 
(G0), chúng ta chỉ phát hiện được 18/46 trường 
hợp (29%) mắc ĐTĐTK, nếu thai phụ được thực 
hiện NPDNĐ thì đo chỉ số đường huyết sau 1 
giờ (G1) sẽ phát hiện thêm 50% số trường hợp và 
sau 2 giờ (G2) thêm 21% số trường hợp. Do đó, 
nếu chỉ làm G0 thì sẽ bỏ sót 71% số trường hợp 
mắc bệnh ĐTĐTK, vì thế cần tổ chức sàng lọc 
ĐTĐTK bằng NPDNĐ như một xét nghiệm 
thường quy. Trong nghiên cứu này chúng tôi sử 
dụng tiêu chuẩn chẩn đoán của ADA, do đó giá 
trị của G0 và G2 không giúp chúng ta chẩn đoán 
được ĐTĐ trước mang thai đối với những thai 
phụ đến khám lần đầu tiên khi tuổi thai từ 24 – 
28 tuần. Tuy nhiên, nếu sử dụng tiêu chuẩn của 
WHO 2016 thì chúng ta có thể chẩn đoán được 
ĐTĐ trước mang thai khi thực hiện NPDNĐ ở 
tuần 24 – 28 thai kỳ, cụ thể là khi G0 ≥ 126mg/dl, 
hoặc G2 ≥ 200mg/dl(23). Điều này giúp chúng ta 
định hướng điều trị phù hợp hơn và tiên lượng 
thai mẹ tốt hơn. Khi phân tích 62 ca ĐTĐTK 
được chẩn đoán theo ADA, chúng tôi có 18 
trường hợp G0 ≥ 92mg/dl trong đó có 2 trường 
hợp có 2 giá trị G0 ≥ 126mg/dl và G2 ≥ 200mg/dl 
và 2 trường hợp chỉ có G0 ≥ 126mg/dl, mặc dù 
trước đó thai phụ có kết quả đường huyết đói 
bình thường ở quý 1 thai kỳ. Nếu sử dụng tiêu 
chuẩn chẩn đoán của WHO 2006 thì đây là 
những trường hợp ĐTĐ tồn tại trước thai kỳ 
này, nhưng điều này khó giải thích vì chỉ số 
đường huyết đói ở quý 1 của họ là bình thường. 
Có thể chăng đó là sự không tuân thủ điều kiện 
xét nghiệm của bệnh nhân, hoặc ĐTĐ vừa mới 
xuất hiện trùng lấp trong thai kỳ này. 
Nghiên cứu của Jensen (Đan Mạch) ở phụ 
nữ có thai bị RLDNĐ nhẹ dưới tiêu chuẩn chẩn 
đoán ĐTĐTK thấy có mối tương quan tuyến tính 
giữa đường huyết sau 2 giờ với tỷ lệ thai to, mổ 
lấy thai, sinh non, trật khớp vai, thai to(11). Tuy 
nhiên, kết quả bảng 3.2 cho thấy G1 hoặc G2 cao 
riêng lẻ có tỷ lệ bằng nhau, là 14 trường hợp 
chiếm 22,6%. Điều này cho thấy trong ĐTĐTK 
để giám sát thai phụ, nếu chỉ theo dõi đơn thuần 
chỉ số G2 thì việc quản lý điều trị có thể sẽ thiếu 
sót và hậu quả trên thai – mẹ có thể xảy ra ngoài 
sự kiểm soát của chúng ta. 
Đối tượng nào sẽ được sàng lọc ? Kết quả 
nghiên cứu cho chúng ta thấy tỷ lệ ĐTĐTK trong 
nhóm không yếu tố nguy cơ chiếm 7,4%, con số 
đang cảnh báo chúng ta ngoài các yếu tố nguy 
cơ đã được nhiều y văn đề cập đến như tiền sử 
gia đình, tiền sử sanh con to, thừa cân, béo 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
phìchúng ta phải chú ý đến sự thay đổi nếp 
sống, sinh hoạt, chế độ ăn cũng có thể can 
thiệp vào sự gia tăng của tỷ lệ ĐTĐTK cũng như 
ĐTĐ trong dân số chung(15). Nếu chỉ chú trọng 
tầm soát trong nhóm có yếu tố nguy cơ, chúng ta 
sẽ bỏ sót không ít thai phụ bị ĐTĐTK, điều nầy 
ủng hộ cho việc tầm soát đại trà ĐTĐTK cho tất 
cả thai phụ. 
Sự liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ và 
ĐTĐTK 
Trong phân tích đơn biến, chúng tôi ghi 
nhận có 6 YTNC liên quan đến ĐTĐTK là tiền sử 
gia đình, tiền sử sanh con to, đường niệu dương 
tính, chế độ ăn thừa năng lượng, thừa tinh bột và 
thừa đạm. Yếu tố tiền sử ĐTĐTK không ghi 
nhận được trong nghiên cứu này vì trên địa bàn 
tỉnh Long An chưa phòng khám thai nào triển 
khai việc tầm soát ĐTĐTK. Tuy nhiên, theo y 
văn, ĐTĐTK có tỷ lệ tái phát trong những thai 
kỳ sau là 2/3 trường hợp cho thấy đây là yếu tố 
cần phải khảo sát và quan tâm trong quá trình 
khám thai. 
Tỷ lệ ĐTĐTK ở những thai phụ có tiền sử 
gia đình bị ĐTĐ là 28,8%, ở nhóm không có 
tiền sử gia đình đái tháo đường là 13%. Sự 
khác biệt nầy có ý nghĩa thống kê khi phân 
tích đơn biến với p = 0,002. 
Trong nhóm có tiền sử sanh con > 4000g có 
38,7% thai phụ ĐTĐTK và trong nhóm không có 
tiền sử đẻ con > 4000g chỉ có 13,4%. Sự khác biệt 
nầy có ý nghĩa thống kê trong phân tích đơn 
biến với p < 0,001 và OR= 4,08 với khoảng tin cậy 
là 1,64-9,45. Khuynh hướng liên quan nầy vẫn 
còn chặt chẽ sau khi đưa vào phân tích đa biến 
với p=0,009, OR= 3,37. Kết quả này cũng tương 
tự như nghiên cứu của Lê TMP(13), Nguyễn 
TTD(18) và Nguyễn VH(19) và nhiều tác giả khác. 
Theo cơ chế sinh bệnh học thì con to là hậu quả 
của ĐTĐTK, nên yếu tố tiền sử đẻ con to của thai 
phụ có thể là yếu tố gián tiếp của bệnh lý 
ĐTĐTK của lần mang thai trước. 
Khi phân tích về BMI chúng ta thấy có sự 
khác nhau về tỷ lệ ĐTĐTK, nhưng sự khác nhau 
này không có ý nghĩa thống kê dù rằng về cơ chế 
sinh lý bệnh thì thừa cân, béo phì là yếu tố nguy 
cơ của ĐTĐ nói chung. Điều này có thể được lý 
giải là do cỡ mẫu nghiên cứu nhỏ, hoặc do chế 
độ dinh dưỡng trong thai kỳ, hoặc do sự thay 
đổi nội tiết khác nhau giữa các thai phụ. 
Chúng tôi ghi nhận được 45% (182/404) 
thai phụ có chế độ ăn có tổng năng lượng thực 
tế cao hơn lý tưởng. Điều này phản ảnh một 
thực tế là quan niệm khi có thai cần phải ăn 
cho mẹ và cho con nên ăn càng nhiều càng tốt. 
Kết quả là có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê 
về tỷ lệ ĐTĐTK ở nhóm thừa năng lượng so 
với nhóm không thừa năng lượng với OR = 
4,35 và p < 0,001 trong phân tích đơn biến. Bên 
cạnh tổng năng lượng trong thực đơn, sự phân 
bố khối lượng của Protid, Glucid, Lipid cũng 
quan trọng và khi phân tích chúng tôi có kết 
quả là nhóm ăn thừa Glucid và Protid có liên 
quan đến ĐTĐTK có ý nghĩa thống kê với p < 
0,001. Tuy nhiên, trong phân tích đơn biến kết 
quả còn ghi nhận chế độ ăn thừa năng lượng 
phần nhiều là do thừa Glucid, chiếm 84% 
(52/62) và trong 208 thai phụ ăn thừa Glucid có 
52 thai phụ ĐTĐTK, chiếm 25%, cao hơn so 
với chế độ ăn thừa Protid. Sau khi đưa vào 
phân tích đa biến, thì khuynh hướng liên quan 
đến tỷ lệ ĐTĐTK của chế độ ăn thừa năng 
lượng và thừa protid không còn nữa, chỉ còn 
chế độ ăn thừa Glucid vẫn còn ảnh hưởng đến 
tỷ lệ ĐTĐTK với OR = 5,72 và p = 0,004. 
KẾT LUẬN 
Nghiệm pháp dung nạp glucose nên thực 
hiện cho tất cả thai phụ thay vì chỉ tập trung vào 
các thai phụ có yếu tố nguy cơ. 
Chế độ ăn thừa glucid làm tăng khả năng bị 
ĐTĐTK 5,72 lần, do đó chú ý nên có phần 
hướng dẫn chế độ ăn không chỉ trong quy trình 
khám thai cho thai phụ mà cho cả phụ nữ chuẩn 
bị mang thai, nhất là những thai phụ có tiền căn 
sanh con to. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. American Diabetes Association (2010). “International 
Association of Diabetes and pregnancy study groups consensus 
panel”. Diabetes Care, 33(3): pp.676-682. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 2 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 252
2. American Diabetes Association (2011). “Diagnosis and 
Classification of Diabetes Mellitus”. Diabetes Care, 34(1):pp.62-69. 
3. American Diabetes Association (2017). “Diagnosis and 
Classification of Diabetes Mellitus”. Diabetes Care, 40(1):pp.24-26. 
4. Anuurad E (2003). “The new BMI criteria for Asian by the 
Regional Office for the Western Pacific Region of WHO are 
suitable for screening of overweight to prevent metabolic 
syndrome in Elder Japanese workers”. Journal of Occupation 
Health, 45:pp. 335 – 343. 
5. Bộ Y tế (2015). “Đái tháo đường và thai kỳ”. Hướng dẫn chẩn 
đoán và điều trị bệnh nội tiết – chuyển hóa, pp. 230. 
6. Coustan DR, Lowe LP, Metger BE and Dyre AR (2010). “The 
Hyperglycemia and Adverse Pregnancy Outcome (HAPO) 
study: paving the way for new diagnostic criteria for gestational 
diabetes mellitus”. Am J Obter Gynecol, 202(6):pp.654e 1-6. 
7. Đặng Thị Minh Nguyệt, Nguyễn Thị Kim Liên (2011). “Xác 
định tỷ lệ và thời điểm chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ ở 
nhóm thai phụ có yếu tố nguy cơ cao”. Y học Thực hành, 
1:pp.134-136. 
8. Đỗ Trung Quân (2007). “Đái tháo đường thai nghén”. Đái tháo 
đường và điều trị, NXB Y học, pp.399-419. 
9. Gonzales VH et al (2007). “The impact of glycemia control on 
neonatal outcome in singleton pregnancies complicated by 
gestational diabetes”. Diabetes Care, vol 30:pp.467-470. 
10. Holt RI, Coleman MA (2011). “The implications of the new 
International Association of Diabetes and Pregnancy Study 
Groups (IADPSG) diagnostic criteria for gestational diabetes”. 
Diabet Med, pp. 382-385. 
11. Jensen DM, Korsholm L, Ovensen P, Molsted-pedersen L (2008). 
“Adverse pregnancy outcome in women with mild glucose 
intolerance: is there a clinically meaningful threshold value for 
glucose?”. Acta Obstet Gynecol Scand, 87:pp.59-62. 
12. Lê Thị Hoàng Phượng (2013). “Tỷ lệ đái tháo đượng thai kỳ và 
các yếu tố liên quan tại bệnh viện Tân Bình TP Hồ Chí Minh”. 
Luận án chuyên khoa II, Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ 
Chí Minh. 
13. Lê Thị Minh Phú (2014). “Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ và các 
yếu tố liên quan tại khoa Sản bệnh viện Nguyễn Tri Phương”. 
Luận án chuyên khoa II, Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ 
Chí Minh, pp.51-70. 
14. Ngô Thị Kim Phụng (2004). “Tầm soát đái tháo đường trong 
thai kỳ tại quận 4 thành phố Hồ Chí Minh”. Luận án tiến sỹ y học, 
Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 
15. Nguyễn Lê Hương (2012). “Kiến thức thực hành và tỷ lệ đái 
tháo đường thai kỳ ở các thai phụ tới khám tại bệnh viện Phụ 
sản Trung ương năm 2012 và một số yếu tố liên quan”. Luận văn 
Thạc sỹ y tế công cộng, Trường Đại học Y tế công cộng, pp. 35-47. 
16. Nguyễn Thị Kim Liên, Đặng Thị Minh Nguyệt (2011). “Tìm 
hiểu mối liên quan giữa yếu tố nguy cơ cao với tỷ lệ đái tháo 
đường thai kỳ”. Y học thực hành, 2:pp. 46-49. 
17. Nguyễn Thị Mai Phương 2015). “Nghiên cứu đái tháo đường 
thai kỳ tại bệnh viên Phụ sản Hải Phòng”. Luận văn thạc sĩ y học, 
Trường Đại học Y Hà Nội, pp.36-46. 
18. Nguyễn Thị Thùy Dung (2014). “Thực trạng và một số yếu liên 
quan đến đái tháo đường thai kỳ ở thai phụ 24-32 tuần”. Luận 
văn thạc sĩ sinh học, Trường Đại học Vinh, pp.29-35 
19. Nguyễn Văn Hương, Ngô Đức Kỷ. “ Đặc điểm và tỷ lệ đái tháo 
đường thai kỳ của phụ nữ đến khám tại Bệnh viện hữu nghị đa 
khoa Nghệ An năm 2012 - 2013”. Y học dự phòng, Tập XXIV, số 
2(150):pp. 78 - 83. 
20. Tạ Văn Bình (2007). “Thuật ngữ và những quan niệm hiện đại”, 
“Chẩn đoán và phân loại bệnh đái tháo đường”, “Các nghiên 
cứu về đái tháo đường ở Việt Nam”, “Những nguyên lý nền 
tảng đái tháo đường - tăng glucose máu”. Nhà xuất bản Y học, 
pp. 16 - 17, 18 - 26, 53 - 62. 
21. Thái Thị Thanh Thúy (2012). "Nghiên cứu tỷ lệ đái tháo đường 
thai kỳ theo tiêu chuẩn ADA 2011 và các yếu tố nguy cơ". Luận 
văn thạc sĩ y học, chuyên ngành nội khoa, Trường Đại Học Y Hà 
Nội, pp.48-65. 
22. Vũ Bích Nga (2007). “Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ và một số 
yếu tố nguy cơ của các thai phụ được quản lý thai tại khoa sản, 
Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội”. Thông tin Y dược, Số 10/2008, Bộ Y 
tế - Viện Thông tin thư viện Y học Trung Ương, pp.21-23. 
23. World Health Organization (2013). “Diagnostic Criteria and 
Classification of Hyperglycaemia First Detected in Pregnancy”. 
WHO/NMH/MND/13, pp.3-5. 
Ngày nhận bài báo: 01/02/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/02/2019 
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2019