Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 64
TỶ LỆ VÀ ĐẶC ĐIỂM UNG THƯ TUYẾN GIÁP Ở NGƯỜI KIỂM TRA 
SỨC KHỎE TỔNG QUÁT TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY 
Huỳnh Kim Phượng* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Tần suất ung thư tuyến giáp (UTTG) đặc biệt ung thư tuyến giáp dạng nhú kích thước nhỏ 
(UTTGDNKTN) ngày càng gia tăng bởi vì sự ứng dụng kỹ thuật siêu âm tuyến giáp với đầu dò độ phân giảicao 
kết hợp với chọc hút tế bào bằng kim nhỏ (FNA) dưới hướng dẫn của siêu âm. 
Mục tiêu: 1. Xác định tỷ lệ UTTG, UTTGDNKTN trên đối tượng người kiểm tra sức khỏe tổng quát 
(KTSKTQ). 2. Khảo sát các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng và cận lâm sàng của UTTG và UTTGDNKTN. 3. 
Khảo sát mối liên quan giữa UTTG và các yếu tố khác: béo phì, thói quen ăn muối i-ốt, phình giáp hạt. 
Phương pháp: Hồi cứu mô tả cắt ngang. Đối tượng NC là những người KTSKTQ được chẩn đoán UTTG 
tại Khoa Chăm sóc Sức khoẻ theo yêu cầu-Bệnh viện Chợ Rẫy từ 11/2015 đến 10/2016. 
Kết quả: Khảo sát trên 6.340 người KTSKTQ đã ghi nhận: tần suất của UTTG 0,87% (55/6.340), trong đó 
UTTGDNKTN chiếm 52,7% (29/55); tuổi trung bình 44,92±12,49; nữ/nam 2,92; sống tại TPHCM 40%; thói 
quen ăn muối iốt chiếm 64,1%; nhân viên văn phòng 58,18%; đường kính trung bình bướu 10,01mm (<10mm 
chiếm 70,91%); UTTG đa ổ 12,73% (7/55); UTTG đơn ổ 87,27% (48/55) và 60,42% UTTG đơn ổ ở thùy phải 
(29/48); phình giáp hạt chiếm 56,36% (31/55); di căn hạch 1,81% (1/55); đặc tính siêu âm độ phản âm kém chiếm 
98,18%; UTTG dạng nhú (dựa trên FNA) 76,36% và dạng nang 23,64%. UTTGDNKTN có tuổi TB 44,41 
±10,23; nữ/nam: 3,14; đường kính TB bướu 6,21mm (nhỏ nhất 2mm); bướu đơn ổ 82,76%; phình giáp hạt 
48,3%; dấu hiệu độ phản âm kém trên siêu âm 100%. Không ghi nhận mối liên quan có ý nghĩa giữa UTTG dạng 
nhú với tuổi, giới tính, thừa cân-béo phì, thói quen ăn muối iốt và phình giáp hạt. 
Kết luận: Trên những người KTSKTQ, tần suất của UTTG cao, đặc biệt là UTTGDNKTN. 
Từ khóa: Ung thư tuyến giáp, ung thư tuyến giáp dạng nhú, ung thư tuyến giáp dạng nhú kích thước nhỏ, 
người kiểm tra sức khỏe. 
ABSTRACT 
INCIDENCE AND CHARACTERISTICS OF THYROID CANCER 
AMONG COMPREHENSIVE HEALTH CHECKUP EXAMINEES 
Huynh Kim Phuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 64 - 75 
Background: Thyroid cancer and papillary thyroid microcarcinoma are increasing in incidence because the 
extensive use of high-frequency ultrasound and ultrasound –guided fine-needle aspiration cytology. 
Objective: Assessing the incidence of thyroid cancer (TC) and papillary thyroid microcarcinoma (PTMC) 
among comprehensive health checkup examinees; investigating characteristics of epidemiology, clinical and 
laboratory findings of TC and PTMC; investigating the relationship between thyroid cancer and obesity, iodine 
intake and nodular goiter. 
Method: A retrospective descriptive cross- sectional study was carried out on the comprehensive health 
checkup examinees at Health Care Department of Cho Ray hospital from Nov. 2015 to Oct. 2016. 
Results: Investigating on 6,340 health checkup examinees has revealed: incidence of TC 0.87% (55/6,340), in 
* Khoa CSSK Theo yêu cầu - Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Huỳnh Kim Phượng, ĐT: 0913121418, Email: 
[email protected]. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 65
which PTMC 52.7% (29/55); the mean age is 44.92±12.49 years old; female/male ratio is 2.92; geography: HCM 
city 40%;iodine intake 64.1%; office- career is 58.18%; mean diameter of thyroid tumor is 10.01mm (<10mm: 
70.91%); multifocal TC is 12.73% (7/55), monofocal TC is 87.27% (48/55) and 60.42% of monofocal TC (29/48) 
at right lobe; nodular goiter is 56.36% (31/55); lymph node metastasis is 1.81% (1/55), low echo gene of tumor is 
dominant 98.18%; FNA cytology-based PTC is 76.36% and FNA cytology-based follicular TC is 23.64%. 
Revealed PTMC with mean age 44.41 ±10.23; female/male ratio 3.14, mean diameter of tumor is 6.21mm 
(minimum 2mm), monofocal tumor is 82.76%, nodular goiter is 48.3%, low echo gene is 100%. No significant 
correlation between papillary thyroid cancer and age, gender, obesity, iodine intake and nodular goiter. 
Conclusion: In the comprehensive health checkup examinees, incidence of TC is high especially of PTMC. 
Keywords: Thyroid cancer, papillary thyroid carcinoma, papillary thyroid microcarcinoma, health checkup 
examinee. 
MỞ ĐẦU 
UTTG là ung thư phổ biến nhất của hệ nội 
tiết, chiếm khoảng 90%(19).Theo ACS, những năm 
gần đây tỷ lệ UTTG có tốc độ tăng nhanh nhất so 
với các bệnh lý ung thư khác, hàng năm có 
khoảng 17.000 trường hợp (TH) được phát 
hiện(3,19). Sự gia tăng này một phần là do tăng độ 
nhạy của các phương tiện chẩn đoán như siêu 
âm với đầu dò độ phân giải cao(3,16). Phẫu thuật 
vẫn là phương pháp điều trị hiệu quả đối với 
UTTG(13,23,24). Tại Việt Nam, UTTG cũng xảy ra 
nhiều ở nữ giới, có tỷ lệ mới mắc cao đứng hàng 
thứ 6 so với các bệnh lý ung thư khác, ước tính 
vào năm 2020 sẽ có khoảng hơn 6.000 trường 
hợp được phát hiện(1). Tuy nhiên, theo một NC 
hồi cứu năm 2009 trên những BN (BN) đến 
khám và điều trị tại các bệnh viện, thì đa số bệnh 
đã vào giai đoạn muộn, chiếm khoảng 70%(1). 
Trong các loại UTTG, ung thư tuyến giáp 
dạng nhú (UTTGDN) là loại thường gặp nhất, 
chiếm khoảng 80%. UTTGDN thường cho di 
căn hạch vùng cổ, với tỉ lệ khá cao trong một 
số báo cáo lên tới 50%(18). Ảnh hưởng của di 
căn hạch lên sự sống còn vẫn còn nhiều tranh 
cãi nhưng người ta thấy rằng, ở những BN 
UTTGDN có di căn hạch cổ thì nguy cơ tái 
phát cao hơn sau điều trị(12,22). Việc di căn hạch 
cổ đã được chứng minh là có liên quan đến 
một số yếu tố bệnh học của UTTGDN như tính 
chất đa ổ của u, sự xâm lấn ra vỏ bao của 
u(9,10,12). Nhiều NC gần đây đã chỉ ra rằng tỷ lệ 
mắc UTTG gia tăng đáng kể phần lớn là do 
UTTGDNKTN ngày càng được phát hiện 
nhiều hơn(22,25) qua siêu âm và chọc hút tế bào 
bằng kim nhỏ (FNA) dưới siêu âm(15). Theo Tổ 
chức y tế thế giới (WHO) năm 1988, 
UTTGDNKTN được định nghĩa là những 
nhân giáp ác tính có kích thước từ 10mm trở 
xuống(6,15,26) và được chẩn đoán bằng FNA 
dưới hướng dẫn của siêu âm(6,15). Do đó, phát 
hiện sớm UTTGDNKTN nói riêng, UTTG nói 
chung có ý nghĩa quan trọng, góp phần cải 
thiện chất lượng cuộc sống cho BN với tỷ lệ 
chữa khỏi bệnh rất cao(5). 
Việc quản lý UTTG vẫn còn là một thách 
thức lớn đối với tất cả các nước trên thế giới. 
Hiện nay, đã có nhiều NC khảo sát về nguyên 
nhân và các yếu tố nguy cơ của bệnh, cũng như 
các phương pháp điều trị mới.Nhưng việc phát 
hiện sớm bệnh nhằm cải thiện khả năng sống 
cho BN vẫn chưa được thực hiện một cách có 
hiệu quả. Trên cơ sở đó, chúng tôi thực hiện NC 
này nhằm khảo sát tỷ lệ cũng như đặc điểm dịch 
tễ học, lâm sàng, cận lâm sàng về bệnh UTTG 
trên những người đến kiểm tra sức khỏe tại 
Bệnh viện Chợ Rẫy nhằm có thể cung cấp một số 
thông tin cần thiết cho các chương trình phòng 
ngừa và tầm soát sớm bệnh sau này. 
Mục tiêu tổng quát 
Đánh giá tỷ lệ và đặc điểm UTTG ở người 
KTSKTQ. 
Mục tiêu cụ thể 
Đánh giá tỷ lệ UTTG và UTTGDNKTN. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 66
Khảo sát các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng 
và cận lâm sàng của UTTG và UTTGDNKTN. 
Khảo sát mối liên quan giữa UTTG dạng nhú 
và các yếu tố khác: tuổi, giới tính, thừa cân-béo 
phì, thói quen ăn muối iốt và phình giáp hạt. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế NC 
Hồi cứu mô tả cắt ngang, từ 11/2015 đến 
10/2016. 
Đối tượng NC 
Tất cả người đến kiểm tra sức khỏe tổng quát 
tại Khoa CSSK Theo yêu cầu – BV Chợ Rẫy. Tiêu 
chuẩn chọn mẫu: tuổi >15 tuổi, người KTSKTQ 
sau khi được kiểm tra sức khỏe bởi thực hiện 
những xét nghiệm tổng quát, siêu âm tổng quát 
bao gồm siêu âm màu tuyến giáp, FNA tuyến 
giáp dưới hướng dẫn của siêu âm, và được 
chẩn đoán UTTG dựa trên kết quả giải phẫu 
bệnh sau phẫu thuật lấy bướu. Tiêu chuẩn loại 
trừ: không có đầy đủ thông tin từ hồ sơ bệnh án 
hoặc mất thông tin liên lạc với BN. Cỡ mẫu: lấy 
mẫu thuận tiện. 
Thu thập số liệu 
Tất cả BN sau khi được chẩn đoán là UTTG 
được ghi nhận: các chỉ số nhân trắc học: tuổi, 
giới, cân nặng, chiều cao; các đặc điểm về nghề 
nghiệp, nơi sinh sống; tiền căn ăn muối iốt, tiền 
căn bản thân và gia đình, các yếu tố nguy cơ 
UTTG: tiếp xúc chất phóng xạ, tiền căn gia đình 
có hội chứng đa bướu nội tiết, các bệnh lý đi 
kèm, đặc điểm hình ảnh học trên siêu âm và 
kết quả tế bào học FNA; chẩn đoán xác định 
UTTG dựa trên chẩn đoán UTTG sau khi phẫu 
thuật. Các dữ liệu sẽ được ghi vào mẫu bệnh án 
đã soạn sẵn. 
Công cụ thu thập số liệu 
Thu thập số liệu bằng bệnh án mẫu đã soạn 
sẵn. 
Biến số 
Biến định lượng gồm tuổi, chiều cao, cân 
nặng, BMI, FT4, TSH. Biến định tính gồm giới, 
nghề nghiệp, nơi sinh sống, tiền căn gia đình, lý 
do đến khám, sờ thấy nhân giáp, đặc điểm hình 
ảnh siêu âm, kết quả FNA, bệnh lý đi kèm. 
Xử lý số liệu 
Sau khi thu thập đầy đủ dữ liệu sẽ được mã 
hóa và nhập vào phần mềm thống kê Stata 13.0. 
Kết quả sẽ được trình bày dưới dạng tần suất, tỷ 
lệ %, trung bình, độ lệch chuẩn, 
Vấn đề y đức 
Đây là NC hồi cứu nên đảm bảo vấn đề y 
đức. 
KẾT QUẢ 
Tỷ lệ UTTG và UTTGDNKTN 
Nghiên cứu hồi cứu trong thời gian từ 
11/2015 đến 10/2016 thu thập được 55 trường 
hợp bị UTTG trong tổng số 6.340 TH đến 
KTSKTQ tại khoa CSSKTYC-BVCR, UTTG 
chiếm tỷ lệ 0,87 % (55/6.340), trong đó 
UTTGDNKTN chiếm tỷ lệ 52,7% (29/55). 
Các đặc điểm của UTTG và UTTGDNKTN 
UTTG 
Tuổi TB của nhóm UTTG là 44,92±12,49 (nhỏ 
nhất 23 tuổi, lớn nhất 78 tuổi). Nhóm tuổi 
thường gặp nhất là 31-60 (78,18%); nữ chiếm đa 
số với 41 TH (74,55%) nữ/nam: 2,92; công nhân 
viên chiếm đa số 58,18 %, phần lớn BN đến 
khám sống tại TPHCM tỷ lệ 40% (22/55); ghi 
nhận thói quen ăn muối iốt 63,64%, lý do khám 
KTSKTQ 56,36%, sờ thấy nhân giáp 7,27%. 
Đặc điểm nhân giáp 
Kích thước nhân giáp ≤ 10mm chiếm tỷ lệ 
70,91% (39/55). 
Tính chất đa ổ-đơn ổ 
UTTG đa ổ chiếm 12,73% (7/55); trong 7 TH 
này, bướu giáp ác tính phân bố cùng 1 thùy giáp 
là 3 TH (42,86%) và phân bố ở 2 thùy là 4 TH 
(57,14%). Trong UTTG đơn ổ, tỷ lệ bướu giáp ác 
tính phân bố tại thùy phải tuyến giáp là 60,42% 
(29/48), thùy trái là 37,50% (18/48) và eo giáp là 
2,08% (1/48). 
Phình giáp hạt đi kèm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 67
Chiếm 56,36% (31/55). 
Hạch cổ di căn 
Có 1 TH hạch cổ di căn chiếm 1,81%. 
Tính chất gợi ý ác tính nhân giáp trên siêu âm 
Độ echo kém 98,18%, vi vôi hóa/vôi hóa 
không liên tục 32,73%, trục dọc 23,64%, giới hạn 
không rõ 5,45%, xâm lấn vỏ bao 3,64%. 
Tế bào học FNA 
UTTG dạng nhú 76,36%, UTTG dạng nang 
23,64%. 
UTTGDNKTN 
Tuổi 
Độ tuổi trung bình là 44,41±10,23 thay đổi từ 
27-64 tuổi và nhóm tuổi thường gặp nhất là 31-60 
tuổi với tỷ lệ 82,75%. 
Giới tính 
Trong 29 trường hợp UTTGDNKTN, nữ 
chiếm đa số 75,86% (22/29). Tỷ số nữ/nam: 3,14 
(22/7). 
Tình huống phát hiện 
Hầu hết các trường hợp UTTGDNKTN đến 
khám vì kiểm tra sức khỏe tổng quát hoặc vì 
bệnh lý khác với tỷ lệ 93,1% (27/29), trên lâm 
sàng đều không sờ thấy nhân giáp và tất cả đều 
được phát hiện qua siêu âm tuyến giáp. 
Tính chất nhân giáp 
Kích thước nhân giáp 
Trong 29 trường hợp UTTGDNKTN, kích 
thước nhân giáp trung bình là 6,21mm, dao động 
từ 2mm đến 10mm. Kích thước nhân giáp 
thường gặp là 4mm và 8mm. 
Tính chất đa ổ 
Chúng tôi ghi nhận UTTGDNKTN thường 
biểu hiện đơn độc một nhân với tỷ lệ là 82,76% 
(24/29), chỉ có 17,24% TH là bệnh đa ổ. 
Vị trí 
Ghi nhận UTTGDNKTN được phát hiện chủ 
yếu ở 1 thùy tuyến giáp 86,2% (25/29). 
Phình giáp hạt đi kèm 
Trong 29 trường hợp UTTGDNKTN có 14 
TH có phình giáp hạt đi kèm, chiếm tỷ lệ 48,3%. 
Đặc điểm nhân giáp trên siêu âm 
Tính chất trên siêu âm của UTTGDNKTN 
bao gồm: hình ảnh echo kém 100%, hình ảnh hạt 
giáp theo trục dọc 31,03%, xâm lấn vỏ bao 3,44%, 
vi vôi hóa hoặc vôi hóa không liên tục 17,24%. 
Mối liên quan giữa UTTGDN và các yếu tố: 
giới tính, tuổi, thừa cân-béo phì, thói quen 
ăn muối iốt và phình giáp hạt đi kèm 
Mối liên quan giữa UTTGDN và giới tính 
Bảng 1:Mối liên quan giữa UTTGDN và giới tính. 
Giới tính Nam Nữ Tổng 
UTTGDN 10 32 42 
Không phải UTTGDN 4 9 13 
Tổng 14 41 55 
Nhận xét 
Giá trị Pearson χ2= 0,2534 với mức ý nghĩa Pr 
= 0,615 cho thấy không có mối liên quan giữa 
UTTGDNKTN và giới tính. 
Mối liên quan giữa UTTGDN và nhóm 
tuổi ≤ 40 tuổi, >40 tuổi 
Bảng 2: Mối liên quan UTTGDN và nhóm tuổi. 
Tuổi ≤ 40 tuổi > 40 tuổi Tổng 
UTTGDN 18 24 42 
Không phải UTTGDN 5 8 13 
Tổng 23 32 55 
Nhận xét 
Giá trị Pearson χ2= 0,0788 với mức ý nghĩa Pr 
= 0,779 cho thấy không có mối liên quan giữa 
UTTGDNKTN và tuổi. 
Mối liên quan giữa UTTGDN và tình trạng 
thừa cân - béo phì 
Bảng 3: Mối liên quan giữa UTTGDN và thừa cân - 
béo phì. 
BMI ≥ 23 < 23 Tổng 
UTTGDN 24 18 42 
Không phải UTTGDN 5 8 13 
Tổng 29 26 55 
Nhận xét: Giá trị Pearson χ2= 1,3899 với 
mức ý nghĩa Pr = 0,238 cho thấy không có mối 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 68
liên quan giữa UTTGDNKTN và tình trạng 
thừa cân-béo phì. 
Mối liên quan giữa UTTGDN và thói quen 
ăn muối iốt 
Bảng 4: Mối liên quan giữa UTTGDN và thói quen 
ăn muối iốt. 
Thói quen ăn muối iốt Không Có Tổng 
UTTGDN 15 27 42 
Không phải UTTGDN 5 8 13 
Tổng 20 35 55 
Nhận xét 
Giá trị Pearson χ2= 0,0324 với mức ý nghĩa Pr 
= 0,857 cho thấy không có mối liên quan giữa 
UTTGDNKTN và thói quen ăn muối iốt. 
Mối liên quan giữa UTTGDN và phình 
giáp hạt đi kèm 
Bảng 5: Mối liên quan giữa UTTGDN và phình giáp 
hạt đi kèm. 
Phình giáp hạt Có Không Tổng 
UTTGDN 23 19 42 
Không phải UTTGDN 8 5 13 
Tổng 31 24 55 
Nhận xét 
Giá trị Pearson χ2= 0,1854 với mức ý nghĩa Pr 
= 0,667 cho thấy không có mối liên quan giữa 
UTTGDNKTN và bệnh lý phình giáp đi kèm. 
BÀN LUẬN 
Tỷ lệ UTTG trên đối tượng KTSKTQ 
Cùng với sự phát triển của kỹ thuật siêu âm 
đầu dò độ phân giải cao và FNA dưới hướng 
dẫn siêu âm đã giúp phát hiện ngày càng nhiều 
hơn UTTG giai đoạn sớm kích thước nhỏ, đặc 
biệt dích vụ KTSKTQ định kỳ hằng năm đã giúp 
cho phát hiện ngày càng nhiều hơn những bệnh 
lý khối u trong đó có u tuyến giáp. NC chúng tôi 
khảo sát trên 6.340 TH đến KTSKTQ tại Khoa 
CSSKTYC BV Chợ Rẫy từ 11/2015 đến 10/2016 
ghi nhận 55 trường hợp UTTG chiếm tỷ lệ 0,87% 
(8,7/100.000). Theo các thống kê dịch tễ học tại 
Mỹ, Anh và Trung Quốc vào những năm thập 
niên 70 và 80, tỷ lệ mắc bệnh UTTG còn thấp dao 
động từ 1-3,6/100.000 dân(2,3,26). Theo NC của 
Rosenbaum MA(18) ghi nhận tần suất mắc bệnh 
UTTG tăng 4% mỗi năm và là một trong tám loại 
ung thư thường gặp nhất đối với phụ nữ, trong 
đó UTTG dạng nhú chiếm đa số 80%. 
Theo kết quả NC của Hughes DT và Cs đã 
ghi nhận(8) tần suất UTTGDN gia tăng ở những 
người trên 45 tuổi, số lượng UTTGDNKTN nhỏ 
hơn 10mm gia tăng trong tất cả các nhóm, hiện 
nay tại Hoa Kỳ, UTTGDNKTN ở người trên 45 
tuổi là thường gặp nhất. 
Theo tác giả Youxin Wang và Cs(26), tần 
suất mắc bệnh UTTG tại Thượng Hải từ 1983 
đến 2007 từ 2,6% đến 14,4% đối với nam giới 
và từ 4,9% đến 19,9% đối với nữ giới, sự gia 
tăng tần suất mắc bệnh đỉnh điểm xảy ra sau 
khi có chiến dịch bổ sung muối iốt cho cả hai 
giới nam và nữ tại Trung Quốc, điều này gợi ý 
sự phát triển phương tiện chẩn đoán (siêu âm) 
hoặc việc bổ sung iốt có thể làm gia tăng tần 
suất mắc bệnh UTTG. 
Theo một NC khác của Davies L và Cs(2) đã 
ghi nhận tần suất mắc bệnh UTTG tại Hoa Kỳ 
gia tăng từ 3,6/100.000 dân năm 1973 lên 
8,7/100.000 dân trong năm 2002. Sự gia tăng tần 
suất mắc bệnh UTTG được cho là do gia tăng 
phát hiện UTTGDNKTN chứ không phải do gia 
tăng xuất hiện UTTG. 
So với kết quả của các NC trên, tần suất mắc 
bệnh UTTG trong NC của chúng tôi cao hơn rất 
nhiều. NC của chúng tôi nhằm đánh giá tần suất 
mắc bệnh UTTG đối với đối tượng kiểm tra sức 
khỏe tổng quát, không phải là một NC đánh giá 
tần suất mắc bệnh UTTG trong cộng đồng, vì thế 
tần suất mắc bệnh 0,87% chưa phải là tần suất 
mắc bệnh UTTG trong cộng đồng. Tuy nhiên, 
đối tượng kiểm tra sức khỏe tổng quát đa số là 
những người không không có triệu chứng hoặc 
người khỏe mạnh, vì thế tần suất mắc bệnh 
0,87% phần nào phản ánh tần suất mắc bệnh 
UTTG trong cộng đồng. Kết quả này phải khiến 
cho các nhà lâm sàng như: bác sĩ nội khoa, nội 
tiết, ung thư, cần phải có sự quan tâm hơn để 
phát hiện UTTG ở giai đoạn sớm khi mà BN 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 69
chưa có triệu chứng gì, cũng như cần có những 
nghiên cứu cỡ mẫu lớn hơn trong cộng đồng 
nhằm đánh giá tần suất mắc bệnh trong cộng 
đồng và tìm yếu tố nguyên nhân liên quan nếu 
có đối với UTTG. 
Từ nhiều năm nay, Khoa CSSKTYC đã triển 
khai sử dụng kỹ thuật siêu âm với độ phân giải 
cao nhằm tầm soát UTTG, chúng tôi sử dụng 
trong NC này là máy siêu âm thế hệ mới Logic 
E95 của hãng GE đầu đò tần số 12MHz. Kết quả 
của nhiều NC trên phạm vi toàn thế giới đã ghi 
nhận tần suất mắc bệnh UTTG ngày càng tăng, 
điều này có thể lý giải là do sự phát triển ngày 
càng hoàn thiện của các kỹ thuật chẩn đoán hình 
ảnh đặc biệt là siêu âm với độ phân giải cao có 
thể phát hiện được những nhân giáp với kích 
thước rất nhỏ cùng với việc áp dụng kỹ thuật 
FNA dưới hướng dẫn của siêu âm góp phần 
không nhỏ phát hiện ngày càng nhiều các 
trường hợp UTTG, thậm chí có những báo cáo 
siêu âm giáp có thể phát hiện bướu giáp kích 
thước 1mm. 
Trong NC của chúng tôi, UTTGDNKTN 
chiếm đa số trong các trường hợp UTTG với tỷ lệ 
là 52,7% (29/55). Kết quả này khá phù hợp với 
NC của Harach HR(4) khi tiến hành tử thiết bao 
gồm cả tuyến giáp mà trước đó hoàn toàn không 
có biểu hiện lâm sàng và phát hiện được 67% các 
trường hợp là UTTGDNKTN. Tuy nhiên, NC 
của chúng tôi khá cao so với các công trình NC 
khác khi tỷ lệ này dao động từ 5,6 – 28,4%(4,27). 
Theo tác giả Noguchi Shiro, trong tổng số 6.019 
trường hợp UTTG phát hiện từ năm 1966 đến 
1995 tại Nhật thì UTTGDNKTN chiếm tỷ lệ 
42,8%(15). 
Còn theo tác giả Ngô Viết Thịnh, 
UTTGDNKTN chiếm có 9,2% trong 5.061 trường 
hợp UTTG dạng nhú tính từ năm 2006 → 2010 
được chẩn 
đoán và điều trị tại Bệnh viện Ung Bướu Thành 
phố Hồ Chí Minh(14). Sự khác biệt này là do đối 
tượng NC trong NC của tác giả Ngô Viết Thịnh 
là những BN UTTG được điều trị tại BV Ung 
Bướu, trong khi đối tượng trong NC của chúng 
tôi là người kiểm tra sức khỏe tổng quát nên 
những trường hợp UTTGDNKTN chiếm đa số là 
điều dễ hiểu. Tuy nhiên, kỹ thuật siêu âm tiên 
tiến với độ phân giải cao cũng như sự cẩn thận 
của chuyên gia siêu âm nhằm mục đích tầm soát 
bệnh ung thư ở giai đoạn sớm cũng là một lý giải 
cho tần suất cao mắc bệnh UTTG và tỷ lệ cao của 
UTTGDNKTN trong NC của chúng tôi. 
Các đặc điểm UTTG và UTTGDNKTN 
UTTG 
Tuổi 
Tuổi khởi phát bệnh là một yếu tố tiên lượng 
quan trọng, những BN UTTG trên 45 tuổi sẽ có 
tiên lượng xấu hơn. Trong NC của chúng tôi, 
tuổi trung bình là 44,92±12,49 dao động từ 23 
đến 78 tuổi. Kết quả này khá phù hợp với một số 
NC khác với tuổi trung bình mắc bệnh là 47 
tuổi(17). Theo NC của tác giả Noguchi S(15) BN 
UTTG dạng nhú lớn hơn 55 tuổi thì tỷ lệ tái phát 
40% trong 30 năm và tiên lượng xấu hơn so với 
BN trẻ hơn. 
Theo NC từ 1978-2011 tại Hoa Kỳ của tác giả 
O’ Grady TJ ghi nhận(16) ở cả hai giới nam và nữ, 
tỷ lệ mắc bệnh UTTG dạng nhú ở người trên 50 
tuổi đều cao hơn người dưới 50 tuổi. 
Theo NC của Yu XM và Cs(27) trên 18.445 
trường hợp bị UTTGDNKTN ghi nhận những 
BN trên 45 tuổi, nam giới, người Mỹ gốc phi, di 
căn hạch, di căn xa và xâm lấn vỏ bao là những 
yếu tố tiên lượng xấu đối với sống còn. 
Giới tính 
Nhiều NC của các tác giả trên thế giới cũng 
chỉ ra rằng bệnh xảy ra thường xuyên ở nữ giới 
với tỷ số nữ/nam là 2-3(5,11,19). NC của chúng tôi 
cũng phù hợp với các tác giả này, nữ giới chiếm 
đa số các trường hợp với tỷ lệ là 74,55%, gấp 2,92 
lần so với nam giới. 
Nghề nghiệp và nơi cư trú 
Trong NC này, phần lớn BN đến khám là 
công nhân viên (58,18%) và sống chủ yếu ở 
thành phố Hồ Chí Minh (40%). Điều này có thể 
do đặc điểm của đối tượng khám sức khỏe và 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 70
yếu tố địa lý. BV Chợ Rẫy là bệnh viện tuyến 
trung ương của khu vực phía Nam nên lượng 
bệnh đến khám chủ yếu là các tỉnh thành phía 
Nam trong đó có thành phố Hồ Chí Minh.Đa số 
công nhân viên là thành phần được kiểm tra sức 
khỏe hàng năm, sống và làm việc chủ yếu tại 
thành phố nên có điều kiện đến kiểm tra sức 
khỏe định kỳ. 
Tiền căn bệnh tuyến giáp – Thói quen ăn muối iốt 
– Lâm sàng 
Về đặc điểm tiền căn, trong NC của chúng 
tôi không ghi nhận trường hợp nào có xạ trị 
vùng cổ trước đây cũng như không mắc bất kỳ 
bệnh lý ung thư nơi khác. 
Yếu tố gia đình được xem là có liên quan đến 
UTTG. Tuy nhiên, trong 55 trường hợp NC, 
chúng tôi chỉ ghi nhận có 1 trường hợp trong gia 
đình có người bị UTTG, chiếm tỷ lệ 1,82%. 
Thói quen ăn muối iốt chiếm đa số các 
trường hợp UTTG 63,64%. Đã có nhiều báo cáo 
nói rằng việc sử dụng quá nhiều muối iốt làm 
tăng nguy cơ UTTG. Tuy nhiên trong NC của 
chúng tôi, cỡ mẫu không là cao, vì thế cần có NC 
cỡ mẫu lớn hơn với thiết kế NC nhằm khảo sát 
mối tương quan giữa việc ăn muối iốt và UTTG 
thì mới có thể kết luận được vai trò lượng muối 
iốt ăn vào đối với UTTG. 
Việc sờ thấy nhân giáp trên lâm sàng tùy 
thuộc vào đặc điểm cấu tạo vùng cổ của BN, kích 
thước nhân giáp cũng như kinh nghiệm của nhà 
lâm sàng. Có những nhân giáp với kích thước 
lớn cũng không sờ thấy được nếu như không 
khám kỹ hay trên những BN thừa cân béo phì, 
cổ ngắn và dày mỡ. Hầu hết trong nhóm NC, BN 
đến khám vì KTSKTQ và không có bất kỳ triệu 
chứng than phiền về bệnh lý tuyến giáp (chiếm 
tỷ lệ 94,54%) như sờ thấy u vùng cổ, nghẹn 
ngang cổ, nuốt thấy vướng, nhịp tim nhanh, 
Và trong các trường hợp NC của chúng tôi, chỉ 
có 4 trường hợp là sờ thấy được nhân giáp trên 
lâm sàng, chiếm tỷ lệ 7,27%. Nói chung, UTTG 
hầu hết đều không có biểu hiện triệu chứng lâm 
sàng và chủ yếu được phát hiện tình cờ qua 
khám sức khỏe tổng quát có làm siêu âm tuyến 
giáp tầm soát. Vì thế vai trò của siêu âm với đầu 
dò độ phân giải cao có vai trò quan trọng trong 
việc phát hiện ra những nhân giáp ác tính, đặc 
biệt là những trường hợp UTTG kích thước nhỏ. 
Đặc điểm nhân giáp 
Kích thước 
Kích thước bướu là yếu tố tiên lượng quan 
trọng trong UTTG. NC của chúng tôi trên 6.340 
trường hợp có thực hiện siêu âm tuyến giáp ghi 
nhận đa số là nhân có kích thước nhỏ <15mm, 
điều này cũng phù hợp do đối tượng NC là 
những người kiểm tra sức khỏe, không phải là 
bệnh tuyến giáp sẳn có. 
Trong 55 trường hợp UTTG, đa số là bướu có 
kích thước chủ yếu ≤ 10mm chiếm tỷ lệ 70,91% 
(39/55), điều này cũng phù hợp do đặc điểm đối 
tượng NC.Kích thước trung bình của bướu là 
10,01mm, kích thước nhỏ nhất phát hiện là 2mm 
và lớn nhất là 30mm. 
Theo kết quả NC gộp của Yang SL và Cs ghi 
nhận sự khác biệt về kích thước giữa hai nhóm 
UTTGDNKTN phát hiện tình cờ qua tử thiết 
(nhóm I) và UTTGDNKTN phát hiện lâm sàng 
(nhóm II) như sau: nhóm I có kích thước bướu < 
3mm, nhóm II có kích thước bướu > 5mm. Ngoài 
yếu tố tính chất tế bào, kích thước bướu giáp là 
yếu tố quan trọng để tiên lượng quan trọng của 
UTTG; theo NC của Noguchi S và Cs(15) ghi nhận 
trên 2.070 trường hợp UTTG dạng nhú khi kích 
thước của bướu 6-10mm tỷ lệ tái phát là 14% 
trong vòng 35 năm, tỷ lệ này chỉ là 3,3% đối với 
bướu có kích thước < 6mm. 
Hiện nay, khả năng siêu âm với đầu dò có độ 
phân giải cao có thể phát hiện những hạt giáp có 
kích thước rất nhỏ thậm chí 1mm, theo nhiều 
báo cáo tần suất của UTTG dạng nhú ngày càng 
gia tăng tại Việt Nam cũng như ở nước 
ngoài(8,14,16). 
Tính chất đa ổ- di căn hạch 
Trong NC của chúng tôi ghi nhận có 7 
trường hợp UTTG đa ổ chiếm tỷ lệ 12,73%, phân 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 71
bố cùng một thùy giáp là 3 trường hợp và phân 
bố ở 2 thùy giáp là 4 trường hợp. Theo y văn, hai 
tính chất quan trọng của UTTG dạng nhú là là 
tính đa ổ và tính ưu thế di căn hạch, mặc dù kích 
thước trung bình của bướu trong NC của chúng 
tôi là 10,01mm, nhưng do đa phần là UTTG dạng 
nhú nên vẫn có những trường hợp UTTG đa ổ. 
Trong trường hợp đơn ổ, tỷ lệ nhân giáp 
phân bố đa số tại thùy phải là 60,42% (29/48), 
thùy trái 37,50% (18/48) và eo giáp là 2,08% 
(1/48). 
Trong 55 trường hợp UTTG ghi nhận 1 
trường hợp có di căn hạch cổ, chẩn đoán này 
được xác định dựa vào kết quả giải phẫu bệnh lý 
của hạch được nạo. Số trường hợp còn lại đánh 
giá giải phẫu bệnh không ghi nhận hình ảnh di 
căn. Trong 55 trường hợp có 12 trường hợp phẫu 
thuật tại BVCR và 43 trường hợp phẫu thuật tại 
BV Ung Bướu và BV tư nhân, đây cũng chính là 
lý do khiến chúng tôi không thể thu thập đầy đủ 
các kết quả giải phẫu bệnh sau phẫu thuật. Việc 
xác định chẩn đoán UTTG dựa trên lời khai và 
giấy xuất viện của BN. 
Phình giáp đa hạt đi kèm 
Trong NC bào cáo tại Phần Lan trên 101 tử 
thiết phát hiện tần suất UTTGDN là 35,6% là đây 
là báo cáo có tần suất cao nhất trên thế giới(4). 
Những NC gần đây ghi nhận tần suất phát hiện 
UTTGDN từ 3,1-21% trên những BN được phẫu 
thuật vì bệnh lý lành tính tuyến giáp và từ 2-
15,2% trên những BN phình giáp đa hạt được 
phẫu thuật(14). Những kết quả đạt được này là do 
trình độ chuyên môn cao của bác sĩ siêu âm cũng 
như sự thành thạo kỹ thuật chọc hút tế bào dưới 
hướng dẫn của siêu âm tầm soát trước phẫu 
thuật. 
Trong NC của chúng tôi ghi nhận có 31 
trường hợp có phình giáp hạt đi kèm chiếm tỷ lệ 
56,36% cao hơn so với những NC khác(14,21,23). 
Việc phát hiện những trường hợp 
UTTGDNKTN trên nền phình giáp đa hạt đã 
giúp cho bác sĩ lâm sàng một sự hiểu biết mới về 
bệnh học cũng như cũng cần phải chú ý theo dõi 
kỹ hơn nhằm chẩn đoán nhân giáp nào lành 
tính, nhân giáp nào ác tính trên những trường 
hợp bệnh lý này. Nhiều nghiên cứu cho thấy 
UTTG trên phình giáp đa hạt rất cao khiến 
chúng ta cần phải thay đổi quan điểm cho rằng 
UTTG xảy ra trên phình giáp đa hạt thấp hơn 
đơn hạt(21). 
Đặc điểm gợi ý nhân giáp ác tính trên siêu âm 
Nhờ vào sự ứng dụng kỹ thuật siêu âm trong 
phát hiện và tầm soát bệnh lý ung thư nói chung 
và ung thư tuyến giáp nói riêng, những nhân 
giáp ác tính ≤ 10mm qua siêu âm kiểm tra ngày 
càng nhiều, đây chính là thách thức lớn đối với 
BS siêu âm và bác sĩ lâm sàng nhằm phân biệt 
nhân lành tính và nhân ác tính. Ngày nay, việc 
sử dụng chọc hút tế bào bằng kim nhỏ (FNA) 
dưới hướng dẫn của siêu âm là một phương 
pháp tương đối ít xâm lấn và có giá trị để chẩn 
đoán một nhân giáp ác tính. Khả năng phát hiện 
những nhân giáp có kích thước ≤ 10mm đòi hỏi 
BS siêu âm có nhiều năm kinh nghiệm trong 
thực hành bệnh lý tuyến giáp và đồng thời phải 
được trang bị máy siêu âm hiện đại với dầu dò 
siêu âm có độ phân giải cao. 
Hình ảnh echo kém chiếm hầu hết các 
trường hợp 98,18% (54/55), điều này cũng phù 
hợp với y văn trên thế giới, đặc tính thường gặp 
trên siêu âm của nhân giáp ác tính là echo kém. 
Tính chất nốt vi vôi hóa/vôi hóa không liên tục 
đứng hàng thứ 2 với 32,73% (18/55), đây là tính 
chất thường gặp của những nhân giáp ác tính. 
Tính chất trục dọc của nhân giáp ác tính chỉ 
chiếm 23,64% (13/55). Hình ảnh nhân giáp giới 
hạn không rõ chỉ chiếm 5,45% và xâm lấn vỏ bao 
3,64%, điều này cũng phù hợp do đa phần các 
bướu giáp trong NC chúng tôi là <10mm và 
được phát hiện ở gia đoạn còn rất sớm. 
Kết quả FNA 
Trong NC của chúng tôi, kết quả FNA là 
UTTGDN chiếm đa số 76,36%, kết quả này cũng 
phù hợp với nhiều kết quả NC trong và ngoài 
nước, tỷ lệ UTTGDN chiếm đa số trong các dạng 
UTTG, trong khi đó UTTG dạng nang chỉ chiếm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 72
23,64% (13/55). Chúng tôi chưa thể đánh giá 
được mức độ phù hợp giữa kết quả FNA và kết 
quả giải phẫu bệnh sau mổ bởi vì đa số các BN 
được phẫu thuật tại BV khác, đây cũng chính là 
khó khăn lớn khi lấy số liệu NC như đã đề cập. 
UTTGDNKTN 
Cùng với sự phát triển của tiến bộ y học, các 
phương tiện chẩn đoán kỹ thuật cao như CT 
Scan, MRI, PET-CT, siêu âm,... Đặc biệt việc áp 
dụng kỹ thuật FNA dưới hướng dẫn của siêu âm 
ngày càng thành thạo và phổ biến trên ứng dụng 
lâm sàng đã giúp cho việc chẩn đoán bệnh lý 
ung thư tuyến giáp ở giai đoạn sớm đồng thời 
tần suất UTTGDNKTN ngày càng gia tăng. 
Trong NC của chúng tôi, trên 55 trường hợp 
UTTG ghi nhận có 29 trường hợp UTTGDNKTN 
được chẩn đoán dựa vào kết quả FNA chiếm tỷ 
lệ 52,7%. 
Theo kết quả NC của Ngô Viết Thịnh(14) ghi 
nhận UTTGDNKTN chiếm tỷ lệ 9,2% trong 
UTTG dạng nhú (465/5.061), so với kết quả NC 
của chúng tôi UTTGDNKTN chiếm 52,7% thì có 
sự khác biệt rất xa, điều này có thể do đối tượng 
NC của chúng tôi là người kiểm tra sức khỏe 
tổng quát vì thế đa số là bướu giáp kích thước 
nhỏ < 10mm chiếm đa số. 
Tỷ lệ của UTTGDNKTN theo kết quả NC 
của các tác giả nước ngoài ghi nhận từ 5,6% đến 
28,4%(8,27). Theo kết quả NC của Noguchi S và Cs 
từ 1966 đến 1995 ghi nhận trong 6.019 ung thư 
dạng nhú nói chung có 2.070 trường hợp là 
UTDNKTN chiếm tỷ lệ 34,4%. 
Tuổi và giới 
Theo kết quả NC ghi nhận tuổi trung bình 
44,41±10,23 tuổi. Trong 4 nhóm tuổi ≤ 30 tuổi, 
31-40 tuổi, 41-60 tuổi, > 60 tuổi, nhóm tuổi 41-
60 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 55,17%, kế đến 
nhóm tuổi 31-40 tuổi chiếm 27,58%, nhóm tuổi 
≤ 30 tuổi chiếm 10,34% và > 60 tuổi có tỷ lệ 
thấp nhất 6,89%. 
Trong 29 trường hợp UTTGDNKTN, nữ giới 
chiếm đa số với 22 TH chiếm tỷ lệ 75,86%, tỷ lệ 
nữ/nam là 3,14 (22/7). So sánh kết quả NC của tác 
giả Ngô Viết Thịnh, UTTGDNKTN cũng thường 
gặp ở nữ hơn là nam, nữ/nam là 7,94. Theo báo 
cáo của nhiều y văn, bệnh lý tuyến giáp xảy ra 
trên nữ nhiều hơn nam, tương tự UTTGDNKTN 
xảy ra trên nữ nhiều hơn nam(7). 
Tình huống phát hiện 
Hầu hết trường hợp được phát hiện do BNđi 
KTSKTQ định kỳ hoặc vì bệnh lý khác với tỷ lệ 
93,1% (27/29). Hai trường hợp còn lại với lý do 
khám là thấy cổ to ra. Tất cả các trường hợp đều 
không sờ được nhân giáp mà chỉ được phát hiện 
qua siêu âm tuyến giáp. 
Năm 1988 Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã 
đưa ra định nghĩa UTTGDNKTN là những 
trường hợp UTTGDN có kích thước ≤ 10mm. Vì 
thế, với kích thước nhỏ như thế rất khó phát hiện 
bởi khám lâm sàng, vì thế đã có nhiều NC trước 
đây báo cáo về UTTGDNKTN thường được 
chẩn đoán qua các tình huống như: qua các mẫu 
tử thiết hoặc phát hiện tình cờ sau phẫu thuật 
những bệnh lý lành tính của tuyến giáp,... Cùng 
với sự phát triển nhanh chóng kỹ thuật siêu âm 
hiện đại với đầu dò độ phân giải cao cũng như 
mô hình kiểm tra sức khỏe định kỳ hằng năm 
trong đó bao gồm xét nghiệm tổng quát, siêu âm 
tổng quát, siêu âm tuyến giáp...đã giúp phát hiện 
những nhân giáp nghi ngờ ác tính. Trong những 
trường hợp này, kỹ thuật FNA dưới hướng dẫn 
của siêu âm đã giúp cho việc chẩn đoán những 
tổn thương nhân nghi ngờ ác tính ngày càng 
thuận tiện và chính xác hơn(20). 
Để phát hiện nhân giáp nghi ngờ ác tính kích 
thước nhỏ ≤ 10mm, ngoài yếu tố máy siêu âm 
phải hiện đại và có độ phân giải cao, thì yếu tố 
bác sĩ siêu âm có trình độ chuyên môn cao cũng 
như cần phải luôn ý thức việc tầm soát phát hiện 
bướu giáp nếu có. Những nhân giáp kích thước 
< 10mm có thể được sờ thấy ở những BN có cổ 
dài và ốm, nhưng đôi khi một nhân giáp kích 
thước 20mm cũng có thể bị bỏ sót nếu như 
không khám cẩn thận kỹ lưỡng trên một có cổ 
ngắn và dày mỡ. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 73
Như vậy, vai trò của siêu âm rất quan trọng 
đối với khám và kiểm tra sức khỏe định kỳ tổng 
quát tầm soát bệnh ung thư nói chung và UTTG 
nói riêng. Vào năm 2002, Bệnh viện Chợ Rẫy là 
nơi đầu tiên tại phía Nam thành lập khoa kiểm 
tra sức sức khỏe định kỳ, các bác sĩ siêu âm được 
đào tạo và rất có kinh nghiệm trong việc phát 
hiện tổn thương ác tính giai đoạn sớm khi kích 
thước bướu còn rất nhỏ. Tùy thuộc vào dấu hiệu 
nghi ngờ ác tính trên siêu âm, bác sĩ siêu âm sẽ 
lựa chọn nhân giáp nào cần được làm FNA để 
xác định chẩn đoán. Theo y văn, các dấu hiệu gợi 
ý nhân giáp ác tính khi: độ phản âm kém, giới 
hạn bướu không rõ, trục dọc, vi vôi hóa, tăng 
sinh mạch máu trong mô bướu và xâm lấn (vỏ 
bao, mạch máu). 
Tính chất nhân giáp 
Kích thước 
Trong NC của chúng tôi ghi nhận kích 
thước trung bình của bướu UTTGDNKTN là 
6,21mm, kích thước bướu nhỏ nhất được phát 
hiện là 2mm. Theo tài liệu tham khảo nước 
ngoài, khả năng phát hiện của siêu âm với đầu 
dò có độ phân giải cao được sử dụng bởi bác sĩ 
có kinh nghiệm thì có thể phát hiện nhân giáp 
kích thước rất nhỏ, thậm chí 1mm. Theo kết 
quả NC của tác giả Ngô Viết Thịnh(14) trên 465 
BN UTTGDNKTN ghi nhận kích thước trung 
bình của bướu là 6,54mm và kích thước bướu 
nhỏ nhất cũng là 2mm, kích thước trung bình 
bướu UTTGDNKTN trong NC của chúng tôi 
tương tự kích thước trung bình bướu 
UTDNKTN trong NC của Ngô Viết Thịnh 
(6,21mm so với 6,54mm). 
Trong UTTG nói chung, kích thước của bướu 
là một yếu tố tiên lượng quan trọng. Theo một số 
NC nước ngoài, có thể phân nhóm 
UTTGDNKTN dựa vào kích thước của bướu: 5-
10mm và < 5mm, bởi vì có sự khác biệt di căn 
hạch giữa hai nhóm này, kích thước bướu 6-
10mm có tỷ lệ tái phát 14% trong 35 năm và tỷ lệ 
này 3,3% khi kích thước bướu <6mm(15). 
Trong NC của chúng tôi, kích thước bướu 
4mm chiếm nhiều nhất 31,03 (9/29) và kích 
thước bướu 8mm chiếm tỷ lệ 27,58 % (8/29). 
Nếu phân nhóm thì bướu có kích thước <5mm 
chiếm 34,48% (10/29), nhóm 5-10mm chiếm 
65,51% (19/29). 
Tính chất đa ổ- di căn hạch cổ 
Đa số UTTGDNKTN trong NC chúng tôi 
biểu hiện đơn độc một nhân với tỷ lệ 82,76% 
(24/29), UTTGDNKTN đa ổ chiếm 17,24% và di 
căn hạch cổ là 3,44%. 
Theo y văn thế giới, hai tính chất quan trọng 
của UTTG dạng nhú là tính chất đa ổ và tính ưu 
thế di căn hạch. Vì thế mặc dù là UTTG kích 
thước nhỏ, diễn tiến bệnh khá chậm nhưng 
UTTGDNKTN vẫn có tính chất đa ổ và di căn 
hạch như UTTG dạng nhú kích thước lớn. Tính 
chất này là do chính tế bào bướu sản sinh ra yếu 
tố gây tăng sinh bướu và tăng sinh sự phát triển 
của hệ bạch huyết. So sánh với NC của tác giả 
Ngô Viết Thịnh, tỷ lệ đa ổ của UTTGDNKTN là 
5,59% và di căn hạch cổ 8,82%, kết quả NC của 
chúng tôi với tỷ lệ đa ổ cao hơn (17,24% so với 
5,59%) và tỷ lệ di căn hạch thấp hơn (3,44% so 
với 8,82%). Trong NC chúng tôi có 29 BN 
UTTGDNKTN có 1 trường hợp có di căn hạch cổ 
(3,44%), không có trường hợp nào ghi nhận di 
căn xa, sự khác biệt khi so với NC của tác giả 
Ngô Viết Thịnh có thể do đa phần các trường 
hợp trong NC của chúng tôi được phát hiện sớm 
hơn, kích thước bướu nhỏ hơn nên tỷ lệ di căn 
hạch cổ thấp hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ đa ổ cao trong 
NC của chúng tôi thể hiện được tính chất của 
bướu UTTGDNKTN. 
Vị trí 
UTTGDNKTN trong NC chúng tôi đa số ở 
thùy phải với tỷ lệ 44,82% (13/29), ở thùy trái 
41,37% (12/29) và eo giáp là 13,79% (4/29). 
Phình giáp hạt đi kèm 
Tỷ lệ phình giáp hạt đi kèm chiếm 48,3% 
(14/29), phù hợp với lý do đến khám là kiểm tra 
sức khỏe tổng quát. Kết quả này cao hơn so với 
kết quả của các NC khác trong nước(21), nhưng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 74
thấp hơn so với tỷ lệ phình giáp đa hạt đi kèm 
trong nhóm UTTG chung 56,36%. 
Mối liên quan giữa UTTGDN với các yếu 
tố 
Tuổi, giới tính, tình trạng thừa cân-béo phì, 
thói quen ăn muối iốt và phình giáp hạt đi kèm: 
không ghi nhận mối liên quan có ý nghĩa thống 
kê giữa UTTGDN với các yếu tố kể trên. 
KẾT LUẬN 
NC mô tả hồi cứu từ 11/2015 đến 10/2016 tại 
Khoa Chăm sóc Sức khỏe theo yêu cầu BV Chợ 
Rẫy trên 6.340 trường hợp KTSKTQ, chúng tôi có 
những kết luận sau: 
Tỷ lệ UTTG là 0,87% trong đó UTTGDNKTN 
chiếm 52,7%. 
UTTG có độ tuổi trung bình 44,92±12,49 tuổi, 
nữ/nam 2,92, kích thước nhân giáp trung bình 
10,01mm, tính chất đa ổ 12,73%, phân bố thùy 
phải đa số 60,42%, phình giáp đi kèm 56,36%, 
đặc tính siêu âm độ phản âm kém 98,18%. 
UTTGDNKTN có độ tuổi trung bình 
44,41±10,23 tuổi, nữ/nam 3,14, kích thước nhân 
giáp trung bình 6,21mm, tính chất đơn ổ 82,76% 
và đa ổ 17,24%, phình giáp đi kèm 48,3%, đặc 
tính siêu âm độ phản âm kém 100%. 
Không ghi nhận mối liên quan giữa UTTG 
và giới tính, tuổi, tình trạng thừa cân béo phì, 
thói quen ăn muối iốt và phình giáp đi kèm. 
KIẾN NGHỊ 
Cần quan tâm hơn nhằm để phát hiện bệnh 
lý UTTG đặc biệt là UTTG kích thước nhỏ ≤ 
10mm nhằm mang lại hiệu quả điều trị tốt, 
thành lập đơn vị ung thư tuyến giáp tại BV Chợ 
Rẫy nhằm quản lý và điều trị những trường hợp 
UTTG được phát hiện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bùi Diệu và cộng sự (2015), Gánh nặng bệnh ung thư và 
chiến lược phòng chống ung thư quốc gia đến năm 2020. 
Trong Tạp chí ung thư học Việt Nam, số 4, tr.13-18. 
2. Davies L, Morris L (2015). American association of clinical 
endocrinologists and american college of endocrinology 
disease state clinical review: The increasing incidence of 
thyroid cancer. Endocrine Practice. 21(6), p. 686-696. 
3. Davies L, Welch HG (2006). Increasing incidence of thyroid 
cancer in the United States, 1973-2002. JAMA. 295, p. 2164-
2167. 
4. Harach HR, Franssila KO, Wasenius V (1985). Occult 
papillary of 
the thyroid. A “Normal” finding in Finland. A systemic 
autopsy 
study. Cancer. 56 (531), p. 8. 
5. Haugen BR, Alexander EK (2015). 2015 American Thyroid 
Association Management Guidelines for Adult Patients 
with Thyroid Nodules and Differentiated Thyroid Cancer. 
The American Thyroid Association (ATA) Guidelines Taskforce 
on Thyroid Nodules and Differentiated Thyroid. 10.p. 1089. 
6. Hedinger C, Williams ED, Sobin LH (1989). WHO 
histological classifiation of thyroid tumors: a commentary 
on the second edition. Cancer. 63. P.908-911. 
7. Gharib H, Papini E, Paschke R, Duick DS, Valcavi 
R, Hegedüs L, Vitti P; AACE/AME/ETA Task Force 
on Thyroid Nodules (2010). American association of clinical 
endocrinologists, associazione medici endocrinologi, and 
european thyroid association medical guidelines for clinical 
practice for the diagnosis and management of thyroid 
nodules. J Endocrinol Invest. 33(5 Suppl):51-6. 
8. Hughes DT, Haymart MR, Miller BS, Gauger PG, Doherty 
GM (2011). The most commonly occurring papillary thyroid 
cancer in the 
United States is now a microcarcinoma in a patient older 
than 45 
years. Thyroid. 21. p. 231-236. 
9. Koo BS, Yoon YH, Kim JM, Choi EC, Lim YC 
(2009). Predictive factors of level IIb lymph node metastasis 
in patients with papillary thyroid carcinoma. Ann Surg 
Oncol. 16(5), p.1344-1347. 
10. Kupferman ME, Weinstock YE, Santillan AA 
(2008). Predictors of level V metastasis in well-differentiated 
thyroid cancer. Head Neck.30(11), p. 1469-1474. 
11. Lê Hoàng Minh và cộng sự (2014). 5 ung thư hàng đầu của 
Thành Phố Hồ Chí Minh. Trong Tạp chí ung thư học Việt 
Nam, số 3, tr. 18-27. 
12. Merdad M, Eskander A, Kroeker T (2014). Predictors of level 
II and Vb neck disease in metastatic papillary thyroid 
cancer. JAMA Otolaryngology Head & Neck Surgery. 138 (11), 
p. 1030-1033. 
13. Morrison SA, Suh H, Hodin RA (2014). The Surgical 
Management of Thyroid Cancer. Rambam Maimonides Med J. 
5(2), p. 1-11. 
14. Ngô Viết Thịnh và cộng sự (2014). Chẩn đoán và xử trí 
carcinôm tuyến giáp dạng nhú kích thước nhỏ. Trong Tạp 
chí ung thư học Việt Nam. số 3, tr. 78-86. 
15. Noguchi S, Yamashita H, Uchino S, Watanabe S (2008). 
Papillary Microcarcinoma. World Journal of Surgery. 32(5), p. 
747–753. 
16. O’Grady TJ, Gates MA, Boscoe FP (2015). Thyroid cancer 
incidence attributable to overdiagnosis in the United States 
1981-2011. Int J Cancer. 137, p. 2664-2673. 
17. Pelizzo MR, Boschin IM, Toniato A (2006). Papillary thyroid 
microcarcinoma (PTMC): prognostic factors, management 
and outcome in 403 patients. Eur J Surg Oncol. 32, p. 1144–
1148. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 75
18. Rosenbaum MA, McHenry CR (2009). Contemporary 
management of papillary carcinoma of the thyroid 
gland. Expert Rev Anticancer Ther. 9, p. 317–29. 
19. Steward DL (2012). Update in utility of secondary node 
dissection for papillary thyroid cancer. J Clin Endocrinol 
Metab. 97(10), p. 3393-3398. 
20. Stulak JM, Grant CS, Farley DR, Thompson GB (2006). 
Value of preoperative ultrasonography in the surgical 
management of initial and reoperative papillary thyroid 
cancer. Arch Surg. 141(5), p. 489-494. 
21. Trần Thị Kim Thảo và cộng sự (2010). Khảo sát đặc điểm 
ung thư tuyến giáp trên bệnh nhân phình giáp đa hạt . 
Trong Y Học TP Hồ Chí Minh. Tập 14 (4), tr.184-189. 
22. Trần Văn Thiệp và cộng sự (2009). Chẩn đoán và điều trị 
ung thư tuyến giáp dạng nhú kích thước nhỏ. Trong Y Học 
TP Hồ Chí Minh. Tập 13(6), tr. 154-158. 
23. Tunbridge WM, Evered DC, Hall R, Appleton D, Brewis 
M, Clark F, Evans JG, Young E, Bird T, Smith PA (1977). The 
spectrum of thyroid disease in a community: the Whickham 
survey. Clin Endocrinol (Oxf). 7(6), p. 481-93. 
24. Www.springerlink.com (2010). American Joint Committee 
on Cancer TNM classification of thyroid carcinomas. 
Springer Science and Business Media LLC, Seventh Edition. 
25. Yong SL, Hyunsun L (2014). Papillary thyroid 
microcarcinomas are different from latent papillary thyroid 
carcinomas at autopsy. Oncology & Hematology. 29, pp. 676-
679. 
26. Youxin W, Wei W (2015). Increasing Incidence of Thyroid 
Cancer in Shanghai, China, 1983-2007. Asia Pac J Public 
Health. 2(27), p. 407-417. 
27. Yu XM, Wan Y, Sippel RS, Chen H (2011). Should all 
papillary thyroid microcarcinomas be aggressively treated? 
An analysis of 18,445 cases. Annals of surgery. 254(4), p. 653-
660. 
Ngày nhận bài báo: 15/02/2017 
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/02/2017 
Ngày bài báo được đăng: 05/04/2017