Tỷ lệ suy yếu ở người cao tuổi điều trị tại các khoa nội - Bệnh viện đại học y dược TP HCM theo bộ câu hỏi groningen, mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng và nhân khẩu học với suy yếu

Tài liệu Tỷ lệ suy yếu ở người cao tuổi điều trị tại các khoa nội - Bệnh viện đại học y dược TP HCM theo bộ câu hỏi groningen, mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng và nhân khẩu học với suy yếu: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Nội Khoa 296 TỶ LỆ SUY YẾU Ở NGƯỜI CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ TẠI CÁC KHOA NỘI - BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP.HCM THEO BỘ CÂU HỎI GRONINGEN, MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ NHÂN KHẨU HỌC VỚI SUY YẾU Nguyễn Ngọc Mai Phương*, Tăng Thị Thu*, Võ Yến Nhi*, Thân Hà Ngọc Thể**, Nguyễn Ngọc Hoành Mỹ Tiên**, Trịnh Thị Bích Hà** TÓM TẮT Mở đầu: Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về hội chứng suy yếu người cao tuổi (NCT), tỷ lệ mắc hội chứng này dao động từ 4% đến 59,1% tùy thuộc vào dân số nghiên cứu và tiêu chuẩn đánh giá suy yếu. Tỷ lệ suy yếu trên NCT điều trị nội trú theo bộ câu hỏi GFI (Groningen Frailty Indicator) và mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng, nhân khẩu học với tình trạng suy yếu chưa được nghiên cứuở Việt Nam. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy yếu NCT điều trị tại các khoa Nội Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM theo bộ câu hỏi GFI và mối liên quan giữa một số đặc điể...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 142 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ suy yếu ở người cao tuổi điều trị tại các khoa nội - Bệnh viện đại học y dược TP HCM theo bộ câu hỏi groningen, mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng và nhân khẩu học với suy yếu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Nội Khoa 296 TỶ LỆ SUY YẾU Ở NGƯỜI CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ TẠI CÁC KHOA NỘI - BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP.HCM THEO BỘ CÂU HỎI GRONINGEN, MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ NHÂN KHẨU HỌC VỚI SUY YẾU Nguyễn Ngọc Mai Phương*, Tăng Thị Thu*, Võ Yến Nhi*, Thân Hà Ngọc Thể**, Nguyễn Ngọc Hoành Mỹ Tiên**, Trịnh Thị Bích Hà** TÓM TẮT Mở đầu: Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về hội chứng suy yếu người cao tuổi (NCT), tỷ lệ mắc hội chứng này dao động từ 4% đến 59,1% tùy thuộc vào dân số nghiên cứu và tiêu chuẩn đánh giá suy yếu. Tỷ lệ suy yếu trên NCT điều trị nội trú theo bộ câu hỏi GFI (Groningen Frailty Indicator) và mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng, nhân khẩu học với tình trạng suy yếu chưa được nghiên cứuở Việt Nam. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy yếu NCT điều trị tại các khoa Nội Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM theo bộ câu hỏi GFI và mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng, nhân khẩu học với suy yếu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 303 bệnh nhân nhập viện bệnh viện ĐHYD TP.HCM ≥ 60 tuổi trong thời gian từ 9/2016 đến 6/2017 được tham gia vào nghiên cứu. Thiết kế nghiên cứu là mô tả cắt ngang. Công cụ đánh giá suy yếu là bộ câu hỏi GFI. Kết quả: Tuổi trung vị của bệnh nhân là 74, khoảng tứ phân vị là 67-80 tuổi. Tỷ lệ suy yếu NCT điều trị nội trú ở các khoa nội bệnh viện ĐHYD TP.HCM theo bộ câu hỏi GFI là 66,34%. Nhóm tuổi, trình độ học vấn, nhóm BMI có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng suy yếu theo bộ câu hỏi GFI với (p<0,05). Sau khi đưa các yếu tố nhóm tuổi, giới, trình độ học vấn, nơi sinh sống, nhóm BMI vào mô hình đa biến để kiểm soát yếu tố gây nhiễu thì ghi nhận nhóm tuổi, nhóm BMI là yếu tố nguy cơ độc lập với tình trạng suy yếu theo bộ câu hỏi GFI. Kết luận: Tỷ lệ suy yếu NCT điều trị nội trú ở các khoa Nội bệnh viện ĐHYD TP.HCM theo bộ câu hỏi GFI là 66,34%. Nhóm tuổi, trình độ học vấn, nhóm BMI có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng suy yếu theo bộ câu hỏi GFI. Từ khóa: Tỷ lệ suy yếu NCT, bộ câu hỏi GFI ABSTRACT PREVALANCE OF FRAILTY IN THE HOSPITALIZED ELDERLY PATIENT AT UNIVERSITY MEDICAL CENTER HCMC ACCORDING TO THE GRONINGEN FRAILTY INDICATOR QUESTIONNAIRE, ASSOCIATION BETWEEN CLINICAL ANDDEMOGRAPHIC CHARACTERISTICS AND FRAILTY SYNDROME Nguyen Ngoc Mai Phuong, Than Ha Ngoc The, Nguyen Ngoc Hoanh My Tien, Tang Thi Thu, Vo Yen Nhi, Trinh Thi Bich Ha * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 296 - 302 Background: The growing body of evidence on fraity worldwide has shown thatthe prevalence of this syndrome ranges from 4% to 59.1% depending on studied population andassessment criteria. However, evidence on the prevalance of frailty among elderly inpatientsusing the Groningen Frailty Indicator (GFI) questionnaire and the association among clinical &demographiccharacteristics and frailty syndrome remains in scarcity. * Cao học Lão khoa 2015-2017 ** Bộ môn Lão khoa – Đại học Y Dược TP.HCM Tác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Ngọc Mai Phương ĐT: 01262943180 Email: nguyenngocmaiphuong.jackie@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 297 Objectives: To identify the prevalence of frailty among hospitalized elderly patients from medical wards at University Medical Center (UMC) HCMC using the GFI questionnaire and to identify the association between clinical &demographiccharacteristics and frailty syndrome. Methods: 303 patients aged ≥ 60 years old who had admitted to UMC HCMC from 9/2016 to 6/2017 were recruited into the research. The study design was a descriptive cross-sectional study. The assessment tool for frailty was the GFI questionnaire. Results: The median age of the sample was 74 and the interquatile range was (67; 80). The prevalence of frailty in the hospitalized elderly patient at UCM HCMC assessed by the GFI questionnaire was 66.34%. There were significant associations between age group, educational background, BMI group and frailty syndrome assessed by GFI questionnaire (p<0.05). After entering the factors of age, gender, educational background, living location, BMI groups into the mulvariable model for controlling biases and confounders, age group and BMI group were proven to be independent risk factors of frailty syndrome assessed by GFI. Conclusions: The prevalence of frailty in the hospitalized elderly patient at UMC HCMC assessed by the GFI questionnaire was 66.34%. There were significant associations between age group, educationalbackground, BMI group and frailty syndrome assessed by the GFI questionnaire. Keywords: prevalence of frailty in the hospitalized elderly patient, Groningen Frailty Indicator ĐẶT VẤN ĐỀ Suy yếu là tình trạng rất thường gặp ở NCT. NCT suy yếu sẽ đối mặt với nguy cơ giảm chất lượng sống,vì suy yếu góp phần làm nặng thêm bệnh nền, tăng tỷ lệ nhập viện, tăng chi phí chăm sóc y tế cho gia đình và xã hội. Ngày nay có rất nhiều công cụ, thang điểm được dùng để đánh giá tình trạng suy yếu ở NCT. Tỷ lệ mắc hội chứng này dao động từ 4% đến 59,1% tùy thuộc vào dân số nghiên cứu và tiêu chuẩn đánh giá suy yếu(2). Ở Việt Nam hiện có nghiên cứu của tác giả Nguyễn Xuân Thanh ghi nhận tỷ lệ suy yếu ở NCT điều trị tại Bệnh viện Lão Khoa Trung Ương theo tiêu chuẩn Fried là 35,4%(10). Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Minh Hải năm 2015 thực hiện trên 357 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị tại Bệnh viện Lão Khoa Trung Ương báo cáo tỷ lệ suy yếu theo tiêu chuẩn Fried là 49,98%(3). Tỷ lệ suy yếu trên NCT điều trị nội trú theo bộ câu hỏi GFI và mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng, nhân khẩu học với tình trạng suy yếu chưa được nghiên cứu nhiều. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu 303 bệnh nhân nhập bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM có khả năng giao tiếp, biết đọc và biết viết tiếng Việt trong thời gian từ 9/2016 đến 6/2017 được tham gia vào nghiên cứu. Thiết kế nghiên cứu là cắt ngang mô tả Những bệnh nhân không đủ năng lực trả lời câu hỏi nghiên cứu (bệnh tâm thần, sa sút trí tuệ nặng, bệnh cấp tính đang diễn tiến nặng, mù chữ), được chẩn đoán bất kỳ loại ung thư nào trước đây sẽ được loại khỏi nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu Tất cả đối tượng thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu được phỏng vấn bộ câu hỏi GFI. Các đặc điểm nhân khẩu học, dịch tễ học, bệnh đi kèm được ghi nhận. Các biến số nghiên cứu Đặc điểm nhân khẩu học, dịch tễ học Tuổi: biến định lượng được mã hoá thành biến định tính, tính tuổi từ năm sinh đến lúc ghi nhận trong nghiên cứuđược phân thành 3 nhóm: 60t – 69 tuổi; 70t – 79 tuổi; ≥ 80 tuổi Giới: biến nhị giá gồm giá trị là nam hoặc nữ. Khoa điều trị: biến thứ tự gồm các giá trị: Tiêu hóa, Nội Tổng Hợp, Hô Hấp, Tim mạch, Nội thần kinh, Lão – chăm sóc giảm nhẹ. Trình độ học vấn: biến thứ tự gồm các giá trị: Cấp 1; Cấp 2; Cấp 3; Cao đẳng, đại học; Sau đại học. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Nội Khoa 298 Nơi sinh sống: biến nhị giá, gồm có giá trị: Thành thị; Nông thôn. BMI: là biến định lượng được tính bằng công thức: cân nặng/ (chiều cao)2. Sau đó được mã hoá thành biến định tính, phân thành 3 nhóm: Gầy: BMI < 18,5; Bình thường: BMI thuộc (18,5 – 22,9); Thừa cân: BMI ≥ 23. Hoàn cảnh gia đình: biến nhị giá gồm giá trị: Sống chung gia đình; Sống một mình. Điểm số bộ câu hỏi GFI lần 1 Bộ câu hỏi GFI gồm 15 câu hỏi về các lĩnh vực: khả năng vận động, thị lực, thính lực, dinh dưỡng, các bệnh đồng mắc, nhận thức, tâm lý xã hội, sức mạnh thể chất. Nếu tổng điểm trả lời ≥ 4 điểm xem như có suy yếu. Biến định lượng, mã hóa thành biến định tính. Gồm hai giá trị: Có; Không. Phân tích thống kê Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1; xử lý số liệu bằng Stata 13. Các biến số định lượng phân phối chuẩn được trình bày dưới dạng trung bình độ lệch chuẩn. Các biến số định lượng không phân phối chuẩn được trình bày dưới dạng trung vị, khoảng tứ phân vị. Các biến số định tính và phân loại sẽ được trình bày dưới dạng tần suất, tỷ lệ phần trăm. Dùng phép kiểm chi bình phương hoặc Fisher để xác định mối liên quan với biến kết cuộc là biến nhị giá. Để lượng giá mối liên quan dùng chỉ số PR - Prevalence ratio (Tỷ suất tỷ lệ hiện mắc). Sự khác biệt được xem là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. Đây là nghiên cứu quan sát, không can thiệp vào quá trình điều trị nên không vi phạm về mặt y đức. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trong thời gian từ 9/2016 đến 6/2017, nghiên cứu của chúng tôi đã ghi nhận được 303 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn nghiên cứu. Kết quả như sau: Đặc điểm chung Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu (n=303) Tần số Tỷ lệ (%) Khoa điều trị Tiêu hóa 79 26,07 Nội Tổng Hợp 86 28,38 Hô hấp 24 7,92 Lão - Chăm sóc giảm nhẹ 18 5,94 Tim mạch 88 29,04 Nội thần kinh 8 2,64 Tuổi 74 (67:80) Nhóm tuổi 60-69 tuổi 114 37,75 70-79 tuổi 101 33,44 ≥ 80 tuổi 87 28,81 Giới Nữ 192 63,37 Nam 111 36,63 Trình độ học vấn Cấp 1 196 64,69 Cấp 2 41 13,53 Cấp 3, Trung cấp 52 17,16 Cao đẳng, Đại học 12 3,96 Sau đại học 2 0,66 Nơi sinh sống Thành thị 105 34,65 Nông thôn 198 65,35 Hoàn cảnh gia đình Sống một mình 5 1,65 Sống chung gia đình 298 98,35 Điểm số BMI(TB ĐLC) 22,09 4,01 Nhóm BMI Gầy 43 14,19 Bình thường 148 48,84 Thừa cân 112 36,96 Bảng 2. Tỷ lệ suy yếu NCT điều trị tại các khoa Nội bệnh viện ĐHYD theobộ câu hỏi GFI Tần số Tỷ lệ (%) Suy yếu theo GFI Không 102 33,66 Có 201 66,34 Khảo sát đơn biến mối liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu học, dịch tễ học với tỷ lệ suy yếu NCT theo bộ câu hỏi GFI Bảng 3. Mối liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu học, dịch tễ học với tỷ lệ suy yếu NCT theo bộ câu hỏi GFI Đặc điểm Suy yếu theo GFI P PR (KTC 95%) Không(%) Có(%) Nhóm tuổi 60-69 tuổi 74 (72,55) 41 (20,4) <0,001** 1 70-79 tuổi 25 (24,51) 76 (37,81) 1,6 (1,44-1,76) ≥ 80 tuổi 3 (2,94) 84 (41,79) 2,55 (2,08-3,11) Giới Nữ 59 (57,84) 133 (66,17) 0,155 0,82 (0,6-1,08) Nam 43 (42,16) 68 (33,83) Trình độ học Cấp 1 50 (49,02) 146(72,6) 0,002** 1 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 299 Đặc điểm Suy yếu theo GFI P PR (KTC 95%) Không(%) Có(%) vấn Cấp 2 20 (19,61) 21(10,45) 0,83 (0,74-0,93) Cấp 3 24 (23,53) 28 (13,93) 0,69 (0,55-0,87) Cao đẳng, Đại học 7 (6,86) 5 (2,49) 0,58 (0,41-0,81) Sau đại học 1 (0,98) 1(0,5) 0,48 (0,31-0,76) Nơi sinh sống Thành thị 34 (33,33) 71 (35,32) 0,731 0,97 (0,822-1,14) Nông thôn 68 (66,67) 130 (64,68) Hoàn cảnh gia đình Sống một mình 2 (1,96) 3 (1,49) 0,547* 1,11 (0,54-2,28) Sống chung 100 (98,04) 198 (98,51) Nhóm BMI Gầy 3 (2,94) 40 (19,9) <0,001** 1 Bình thường 46 (45,1) 102 (50,75) 0,75 (0,68-0,84) Thừa cân 53 (51,96) 59 (29,35) 0,57 (0,46-0,7) **Có tính khuynh hướng, *Kiểm định fisher Khảo sát tương quan giữa tuổi, BMI với suy yếu theo bộ câu hỏi GFI Bảng 4. Hệ số tương quan Suy yếu theo bộ câu hỏi GFI Hệ số r P Tuổi 0,47 <0,001 Chỉ số BMI -0,2 <0,001 0 5 1 0 1 5 60 70 80 90 100 tuoi tong diem Groningen 1 Fitted values 0 5 1 0 1 5 10.00 20.00 30.00 40.00 50.00 chi so BMI tong diem Groningen 1 Fitted values Biểu đồ 1. Tương quan giữa điểm số GFI với tuổi của bệnh nhân Biểu đồ 2. Tương quan giữa điểm số GFI với BMI của bệnh nhân Khảo sát đa biến mối liên quan giữa suy yếu với các yếu tố nhân khẩu học Bảng 5. Mô hình đa biến giữa suy yếu với các yếu tố nhân khẩu học P PR(KTC 95%) Nhóm tuổi 60-69 tuổi 1 70-79 tuổi <0,001 4,8 (2,6-8,8) ≥ 80 tuổi <0,001 44,5 (12,7-155,7) Nhóm BMI Gầy 1 Bình thường 0,003 0,14 (0,04-0,51) Béo phì 0,001 0,11 (0,03-0,4) Trình độ học vấn 0,58 0,9 (0,68-1,24) Giới 0,31 0,73 (0,39-1,35) BÀN LUẬN Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Tuổi trung vị của đối tượng nghiên cứu là 74, với khoảng tứ phân vị 67-80 tuổi. Kết quả này thấp hơn so với độ tuổi trung bình trong nghiên cứu của tác giả Ineke HGJ Smets và cộng sự (2010-2012) là 76 tuổi. Nghiên cứu được tiến hành tại trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Hà Lan và Bỉ, trên 290 đối tượng ≥ 70 tuổi. Sở dĩ có sự khác biệt này có thể vì nghiên cứu của tác giả tiến hành trên nhóm dân số cao tuổi hơn trong nghiên cứu của chúng tôi(5). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Nội Khoa 300 Trong nghiên cứu của chúng tôi, nữ giới chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới, cũng tương đồng với nghiên cứu của tác giả Ineke HGJ Smets. Kết quả tương tự nhau có thể được lý giải do tuổi thọ của bệnh nhân nữ thường cao hơn bệnh nhân nam, dẫn đến gia tăng các bệnh liên quan đến tuổi Tỷ lệ NCT suy yếu điều trị tại các khoa Nội Bệnh viện ĐHYD TP.HCM theo bộ câu hỏi GFI Trong số 303 đối tượng tham gia nghiên cứu có: số bệnh nhân suy yếu theo bộ câu hỏi GFI là 201 bệnh nhân (66,34%), 102 bệnh nhân không suy yếu (33,66%). Tỷ lệ suy yếu theo bộ câu hỏi GFI trong nghiên cứu của chúng tôi (66,34%) cao hơn so với nghiên cứu của Ineke và cộng sự (51%) là do chúng tôi tiến hành trên bệnh nhân đang nằm điều trị tại các khoa Nội với nhiều bệnh đồng mắc(5). Tỷ lệ suy yếu giữa các nghiên cứu rất khác nhau, dao động từ 4% đến 59,1% tùy thuộc vào cộng đồng dân số nghiên cứu và tiêu chuẩn định nghĩa suy yếu được sử dụng. Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Thanh và cộng sự (2015) trên bệnh nhân cao tuổi điều trị tại Bệnh viện Lão Khoa Trung Ương bằng tiêu chuẩn Fried cải biên, báo cáo tỷ lệ suy yếu là 35,4%(10). Trong kết quả nghiên cứu của tác giả Lilian L.Peters và cộng sự tiến hành tại miền Bắc Hà Lan, 2010, phân tích dữ liệu trên 713 đối tượng ≥ 65 tuổi, ghi nhận tỷ lệ suy yếu theo bộ câu hỏi GFI tại điểm cắt 4, là 51%(7). Tỷ lệ suy yếu theo bộ câu hỏi GFI tại điểm cắt 4 trong nghiên cứu của tác giả Lilian L. Peters MSc và cộng sự tại Hà Lan (2008-2010) ghi nhận là 59,78%, thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Nghiên cứu tiến hành trên đối tượng ≥ 65 tuổi, sống trong cộng đồng ở Hà Lan, hình thức phỏng vấn là đối tượng tự điền bộ câu hỏi rồi nộp lại(11). Trong nghiên cứu đoàn hệ của tác giả Ramon Daniels và cộng sự (2008-2009) tiến hành ở Limburg và Utrecht, Hà Lan, trên 532 đối tượng sống trong cộng đồng ≥ 70 tuổi, ghi nhận tỷ lệ suy yếu theo GFI tại điểm cắt 4 là 46,3%. Sau một năm theo dõi, cỡ mẫu còn lại 430 đối tượng, với tỷ lệ suy yếu là 46%(12). Trong nghiên cứu của tác giả L.L.Peters và cộng sự ở Đông Bắc Hà Lan, trên 5712 đối tượng ≥ 65 tuổi sống trong cộng đồng, báo cáo tỷ lệ suy yếu theo bộ câu hỏi GFI đại điểm cắt 4 điểm là 9,24%. Tỷ lệ suy yếu khá thấp một phần vì những đối tượng người cao tuổi suy giảm nhận thức đã bị loại trước khi tham gia nghiên cứu, đồng thời phần lớn đối tượng tham gia nghiên cứu này thuộc tầng lớp có chất lượng cuộc sống cao, ít chịu những stress tác động trong cuộc sống(6). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của tác giả Marinela Olaroiu và cộng sự (2013) tiến hành ở Romania báo cáo tỷ lệ suy yếu theo bộ câu hỏi GFI tại điểm cắt 4 điểm khá cao, 75%. Sự chênh lệch này cũng một phần phản ánh sự hỗ trợ chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi phụ thuộc ở Romania còn hạn chế(8). Mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng, nhân khẩu học với suy yếu Nhóm tuổi và suy yếu Về nhóm tuổi, trong nghiên cứu của chúng tôi, suy yếu có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tuổi (p<0,05). Tuổi càng gia tăng thì nguy cơ suy yếu sẽ tăng theo. Kết quả này cũng tương đồng với phần lớn các nghiên cứu trên thế giới và nghiên cứu tại Việt Nam. Nhóm bệnh nhân ≥ 80 tuổi có nguy cơ cao suy yếu tăng hơn so với các nhóm tuổi 60-69 và 70-79 trong nghiên cứu của Reis và cộng sự(13). Nghiên cứu của Peters LL và cộng sự tiến hành trên 5712 người cao tuổi, ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuổi khác nhau, tỷ lệ suy yếu tăng dần theo độ tuổi tăng dần ở các nhóm 65-69 tuổi, 70- 74 tuổi, 75-79 tuổi, và ≥ 80 tuổi, với p ≤ 0,001(6). Trong nghiên cứu tại Brazil của Castell M.V và cộng sự (2013) ghi nhận tuổi cao có mối liên quan rõ rệt với suy yếu(1). Nghiên cứu tổng quan có hệ thống của Mello và cộng sự cũng cho thấy mối liên quan giữa suy yếu và tuổi cao(9). Nghiên cứu “Hội chứng dễ bị tổn thương (fraity syndrome) và các yếu tố liên quan trên Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 301 NCT điều trị tại bệnh viện Lão khoa Trung Ương của tác giả Nguyễn Xuân Thanh năm 2015 thực hiện trên 461 bệnh nhân cao tuổi ghi nhận có mối liên quan rõ rệt giữa suy yếu và tuổi (p<0,001). Tuổi càng tăng thì tỷ lệ suy yếu càng cao(10). Suy giảm chức năng liên quan đến tuổi xảy ra trong tất cả các cơ quan và hệ thống cơ quan.Các yếu tố bên ngoài và bệnh tật liên quan đến tuổi đóng vai trò khác nhau trong hệ thống cơ quan và giữa các cá thể.Những thay đổi lão hóa sinh lý học của các cơ quan và hệ thống cơ quan làm tổn thương các chức năng của cơ thể và làm giảm khả năng sống còn khi tuổi cao.Suy yếu cũng là một biểu hiện của quá trình lão hóa, dễ bị tổn thương với các yếu tố căng thẳng, giảm dự trữ sinh lý dẫn đến giảm duy trì cân bằng nội môi. Do vậy, trong nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa suy yếu và tuổi. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng không nằm ngoài quy luật này. Trình độ học vấn và suy yếu Trong nghiên cứu của chúng tôi, trình độ học vấn được chia làm 5 nhóm, trong đó nhóm trình độ học vấn cấp 1 chiếm tỷ lệ cao nhất. Đây cũng chính là nhóm có tỷ lệ suy yếu cao nhất, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Các nghiên cứu trên thế giới phần lớn chỉ ra mối liên quan giữa trình độ học vấn thấp và suy yếu. Người cao tuổi trình độ học vấn thấp có nguy cơ xuất hiện suy yếu cao gấp ba lần những người có trình độ học vấn cao trong nghiên cứu của tác giả Hoogendijk. Nghiên cứu của tác giả kéo dài 13 năm nhằm đánh giá mối liên quan giữa trình độ học vấn và suy yếu theo thời gian (2014)(4). Nghiên cứu của Peters LL và cộng sự tiến hành trên 5712 người cao tuổi, ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuổi khác nhau theo thang đo GFI. Các đối tượng được phân nhóm về trình độ học vấn như sau: nhóm tiểu học, trung học và trình độ trên trung học. Kết quả nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ suy yếu giảm dần khi trình độ học vấn tăng dần và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p ≤0,001(6). Nghiên cứu “Hội chứng dễ bị tổn thương (fraity syndrome) và các yếu tố liên quan trên NCT điều trị tại bệnh viện Lão khoa Trung Ương” của tác giả Nguyễn Xuân Thanh năm 2015 thực hiện trên 461 bệnh nhân ≥ 60 tuổi, ghi nhận có mối liên quan rõ rệt giữa suy yếu và trình độ học vấn (p<0,05)(10). Chỉ số khối cơ thể BMI và suy yếu Về chỉ số khối cơ thể, trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm bệnh nhân có BMI gầy có tỷ lệ suy yếu cao nhất. Và mối liên quan này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nghiên cứu của Reis và cộng sự ghi nhận mối liên quan giữa nhóm bệnh nhân thiếu cân và suy yếu(13). Nghiên cứu của tác giả Peters LL và cộng sự tiến hành trên trên 5712 NCT cộng đồng, ≥ 65 tuổi, tại Hà Lan, từ tháng 7 năm 2008 đến tháng 12 năm 2012 ghi nhận có mối liên quan giữa chỉ số khối cơ thể và suy yếu ( p≤0,001)(6). Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Xuân Thanh ghi nhận mối liên quan giữa chỉ số khối cơ thể và suy yếu không có ý nghĩa thống kê, dù nhóm bệnh nhân thiếu cân có tỷ lệ suy yếu cao nhất. Qua đó cho thấy chế độ dinh dưỡng là một trong những yếu tố góp phần dẫn đến sự xuất hiện suy yếu. Nâng cao nhận thức, hướng dẫn người cao tuổi quan tâm dinh dưỡng, bổ sung chế độ ăn đầy đủ chất là một trong những biện pháp hữu ích góp phần dự phòng cũng như đảo ngược tình trạng suy yếu. KẾT LUẬN Tỷ lệ suy yếu NCT điều trị nội trú ở các khoa Nội bệnh viện ĐHYD TP.HCM theo bộ câu hỏi GFI là 66,34%. Nhóm tuổi, trình độ học vấn, nhóm BMI có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng suy yếu theo bộ câu hỏi GFI. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Castell MV, et al (2013), "Frailty prevalence and slow walking speed in person age 65 and older: implications for primary care", BMC Fam Pract, 14, pp. 86. 2. Collard R, et al (2012), "Prevalance of Frailty in Community- Dwelling Older Persons: A Systemic Review", Journal of the American Geriatrics Society, 60(8), pp. 1487-1492. 3. Hồ Thị Kim Thanh, Nguyễn Thị Minh Hải (2015), Đánh giá hội chứng dễ bị tổn thương ở người cao tuổi mắc đái tháo đường típ 2, Luận văn thạc sĩ y học, Đại học Y Hà Nội. 4. Hoogendijk OE, et al (2014), "Explaining the association between educational level and frailty in older adults: results Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Nội Khoa 302 from a 13-year longitudinal study in the Netherlands", Ann Epidemiol, 24 (7), pp. 538-544.e532. 5. Ineke HGJS, Gertrudis IJMK, Maryska LGJ, Laura D, Frank JVMB, Marjan VDA (2014), "Four screening instruments for frailty in older patients with and without cancer: a diagnostic study", BMC Geriatrics, 14(26). 6. Lilian LP, Han B, Erik B, Joris PJS (2012), "Measurement Properties of the Groningen Fraity Indicator in Home-Dwelling and Institutionalized Elderly People", Jamda, (13), pp. 546-551. 7. Lilian LP, Johannes GMB, Han B, Beate W, Erik B, Joris PJS (2015), "Predictive validity of a fraity measure GFI and a case complexity measure IM-E-SA on healthcare costs in an elderly population", Journal of Psychosomatic Research, (79), pp. 404-411. 8. Marinela O, Minerva G, Viorica N, Brinza I, Wim vdH (2014), "The psychometric qualities of the Groningen Frailty Indicator in Romanian community-dwelling old citizens", Family Practice, 31 (4), pp. 490-495. 9. Mello CA, Engstrom ME, Alves CL (2014), "Health-related and sociodemographic factors associated with frailty in the elderly: a systematic literature review", Cadernos de Saude Publica, 30, pp. 1143-1168. 10. Nguyễn Xuân Thanh (2015), Hội chứng dễ bị tổn thương (frailty) và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân cao tuổi điều trị tại bệnh viện Lão Khoa Trung Ương, Luận văn thạc sĩ y học, Đại học Y Hà Nội. 11. Peters LL, Boter H, Burgerhof JGM, Slaets JPJ, Buskens E (2015), "Construct validity of the Groningen Frailty Indicator established in a large sample of home-dwelling elderly persons: Evidence of stability across age and gender", Experimental Gerontology, (69), pp. 129-141. 12. Ramon D, Erik VR, Anna B, Wim VDH, Luc DW (2012), "The predictive validity of three self-report screening instruments for identifying frail older people in the community", BMC Public Health, 12, pp. 69. 13. Reis WM, et al (2014), "Pre-frailty and frailty of elderly residents in a municipality with a low Human Development Index", Revista Latino Americana de Enfermagem, 22 (4), pp. 654-661. Ngày nhận bài báo: 22/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 24/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/3/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfty_le_suy_yeu_o_nguoi_cao_tuoi_dieu_tri_tai_cac_khoa_noi_ben.pdf
Tài liệu liên quan