Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 166
TỶ LỆ NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ HOÀN TOÀN ĐẾN 6 THÁNG 
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN MÊKÔNG 
Lê Thị Hoàng Uyên*, Võ Minh Tuấn** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Nuôi con bằng sữa mẹ là phương pháp tự nhiên mang lại nhiều lợi ích về kinh tế, bảo vệ sức 
khỏe bà mẹ và trẻ em, nhưng hầu hết các bà mẹ Việt Nam chưa thực hiện tốt nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn đến 
6 tháng tuổi. Mục tiêu nghiên cứu là xác định tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn đến 6 tháng tuổi ở những trẻ 
được sinh tại Bệnh viện Mêkông và những yếu tố liên quan. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện ở những phụ nữ có con trong độ tuổi 6 đến 8 
tháng được sinh và tiêm ngừa tại Bệnh viện MêKông. Phỏng vấn các yếu tố dịch tễ, tình trạng hôn nhân, đặc 
điểm công việc, đặc điểm cuộc sinh,cách thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ; so sánh giữa nhóm nuôi con bằng sữa 
mẹ hoàn toàn đến 6 tháng và nhóm không nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn. 
Kết quả: Khảo sát 386 bà mẹ từ tháng 12/2016 đến 03/2017, tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn đến 6 
tháng tuổi là 27,2%. Các yếu tố liên quan bao gồm: tuổi mẹ > 35 tuổi (PR = 4,1; KTC 95%: 1,0-16,6), bé trước 
được cho bú > 24 tháng (PR = 7,13; KTC 95%: 1,0 – 49,7), thời điểm bắt đầu cho bú mẹ > 1 giờ (PR = 0,1; KTC 
95%: 0,06 – 0,32), thời gian mẹ đi làm lại > 6 tháng (PR = 2,2; KTC 95%: 1,0 – 4,6), mẹ tự vắt và dự trữ sữa (PR 
= 2,9; KTC 95%: 1,6 – 5,4). 
Kết luận: Tỷ lệ bú nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn đến 6 tháng tuổi tại bệnh viện Mêkông còn thấp, 27,2%. 
Hướng dẫn cách vắt sữa và dự trữ sữa cho các bà mẹ cho con bú, tạo điều kiện để các bà mẹ vắt và dự trữ sữa ở 
nơi làm việc, giúp đỡ và hướng dẫn các bà mẹ bú sớm trong 1 giờ sau sanh 
Từ khóa: nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn (NCBSMHT). 
ABSTRACT 
PREVALENCE AND RISK FACTORS OF EXCLUSIVE BREASTFEEDING IN FIRST 6 MONTHS AT 
MEKONG HOSPITAL 
Le Thi Hoang Uyen, Vo Minh Tuan 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 166- 173 
Objectives: Breastfeeding is the natural method which bringsvarious economic benefits as well as protects 
marternal and infant health. However, most of Vietnamese mothers have not skillfully practicedthe process of 
exclusive breastfeeding over first 6 months. Our study figures out the prevalence of exclusive breastfeeding in first 
6 months and related factors at Mekong hospital. 
Methods: A cross – sectional study was conducted among women who had given birth at Mekong Hospital. 
All the participants were recrusted after 6-8 months of their childbirth. Subjects were face-to-face 
interviewedwhen they had their children vaccinated at the hospital. The questionnaire included social factors, 
characteristics during the delivery and feeding models. We compared the odd of the factors between the two 
groups: with and without first 6 months exclusive breastfeeding. 
Results: From September 2016 to March 2017, 386 women were interviewed, the rate of first-six-month 
exclusive breastfeeding was 27,2%. Some factors were found associated with this rate including mother age over 
* Bệnh viện Phụ sản Mêkông ** Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Võ Minh Tuấn ĐT: 0909727199 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 167
35 (PR = 4.1; 95% CI: 1.0-16.6), history of breastfeeding more than 24 months for her previous child (PR = 7.13; 
95% CI: 1.0 – 49.7), initiation of breastfeeding 1 hour later after childbirth (PR = 0.1; 95% CI: 0.06 – 0.32), 
return working more than 6 months after childbirth (PR = 2.2; 95% CI: 1.0 – 4.6), suction and store breastmilk 
(PR = 2.9; 95% CI: 1.6 – 5.4). 
Conclusions: The rate of first-six-month- exclusive breastfeeding was low at Mekong hospital. To initiate 
breastfeeding during the first hour of childbirth and store breastmilk for busy mother might be the 
recomemdations for mothers who would like to keep exclusive breastfeeding in first 6 months. 
Key words: exclusive breastfeeding. 
ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ MỤC TIÊU 
Nuôi con bằng sữa mẹ là biện pháp tự nhiên 
mang nhiều lợi ích về kinh tế, bảo vệ sức khỏe bà 
mẹ và trẻ em. Sữa mẹ chứa hàng trăm thành 
phần dinh dưỡng và các yếu tố bảo vệ giúp tăng 
cường khả năng miễn dịch cho cơ thể của bé, đặc 
biệt sữa non. Bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ giúp 
phát triển mối quan hệ gần gũi yêu thương, gắn 
bó tình cảm mẹ con. Ngoài ra việc nuôi con bằng 
sữa mẹ có thể tiết kiệm cho nhà nước hàng triệu 
đô la Mỹ vào việc sản xuất, vận chuyển phân 
phối các sản phẩm, thực phẩm dùng để chữa trị, 
phục hồi cho các trẻ em bị suy dinh dưỡng(7). 
Mặc dù lợi ích như vậy, hầu hết các bà mẹ ở Việt 
Nam chưa thực hiện tốt việc cho bé bú mẹ hoàn 
toàn đến 6 tháng tuổi. 
Theo UNICEF ước tính 1,3 triệu trẻ chết 
hàng năm bởi không được nuôi con bằng sữa mẹ 
hoàn toàn trong vòng sáu tháng đầu(8). Tổng Cục 
thống kê Việt Nam thực hiện năm 2010 chỉ có 
39,7% trẻ được bú sữa mẹ lần đầu tiên trong 1 
giờ đầu sau sanh và chỉ có 17% trẻ được bú sữa 
mẹ hoàn toàn cho đến 6 tháng đầu. 
Từ khi nhận được công văn sở y tế qui định 
về việc hướng dẫn nuôi con bằng sữa mẹ tại các 
cơ sở y tế ban hành ngày 19/12/2013, Bệnh viện 
MêKông (BVMK) đã thực hiện các chương trình 
nhằm nâng cao tỷ lệ cho bé bú sữa mẹ như: sản 
phụ được da kề da thường qui đối với sinh 
thường, nhân viên y tế hướng dẫn cho con bú 
sớm ngay sau sinh tại phòng hậu sản gần. Tuy 
nhiên, các trẻ sinh mổ không được da kề da 
thường qui và bé cách ly khỏi mẹ trong thời gian 
6 giờ ở phòng hồi sức. Tại các khoa hậu sản, 
nhân viên y tế hướng dẫn nuôi con bằng sữa mẹ 
(NCBSM) trong thời gian nằm viện. Bệnh viện tổ 
chức các lớp hướng dẫn NCBSM mỗi tuần cho 
các sản phụ và thân nhân. Cho đến thời điểm 
hiện tại, BVMK chưa có nghiên cứu nào để khảo 
sát các bà mẹ sinh tại BVMK có thực hiện tốt việc 
NCBSM hay không. Do đó chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu để xác định tỷ lệ cũng như các khó 
khăn và thuận lợi của việc NCBSM ở những sản 
phụ sinh con tại BVMK. 
Câu hỏi nghiên cứu “Tỉ lệ trẻ bú mẹ hoàn 
toàn cho đến 6 tháng tuổi ở những trẻ được sinh 
tại Bệnh viện Phụ Sản MêKông bao nhiêu? 
Những yếu tố nào liên quan đến việc trẻ được 
bú mẹ hoàn toàn đến 6 tháng tuổi?”. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định tỷ lệ bà mẹ cho con bú mẹ hoàn 
toàn đến 6 tháng tuổi ở những sản phụ sinh tại 
Bệnh viện MêKông trong khoảng thời gian từ 
tháng 05/2016 đến tháng 08/2016. 
Khảo sát yếu tố liên quan đến việc trẻ được 
bú mẹ hoàn toàn đến 6 tháng tuổi tại Bệnh viện 
Mêkông 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang. 
Dân số nghiên cứu 
Phụ nữ có con 6-8 tháng tuổi tại BVMK đưa 
con đến tiêm ngừa tại phòng khám Nhi và 
không có chống chỉ định cho con bú sữa mẹ, 
đồng thuận tham gia nghiên cứu. 
Cỡ mẫu 
Tính cỡ mẫu theo công thức ước tính một tỷ 
lệ trong quần thể với độ chính xác tuyệt đối 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 168
 
2
2
α/21 1
d
pp
n
 
p = tỷ lệ ước lượng bệnh trong quần thể. Tỷ 
lệ thay đổi theo các nghiên cứu, do vậy chọn p = 
0,50 để có được cỡ mẫu lớn nhất; Z= 1,96; d = 0,05 
 n = 386. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn phòng theo ngày 
trong tuần. Có 3 phòng khám tiêm ngừa Nhi, 
mỗi ngày chọn tất cả các đối tượng thỏa điều 
kiện trong một phòng để phỏng vấn và luân 
phiên phòng theo thứ tự thời gian đến khi thu 
thập đủ mẫu. 
Các bước tiến hành 
Bước 1: Tiến hành phỏng vấn thử bảng câu 
hỏi (Pilot Study) trên 10 đối tượng nghiên cứu để 
chỉnh sửa bảng câu hỏi phù hợp, dễ hiểu. Thông 
tin 10 mẫu này không lấy vào số liệu nghiên cứu. 
Bước 2: Sàng lọc và thu nhận đối tượng 
nghiên cứu. Chúng tôi mời tham gia nghiên 
cứu tất cả bà mẹ đưa bé đến tiêm ngừa có con 
từ 6 đến 8 tháng, trong quá trình các bà mẹ 
chờ đến số thứ tự, thỏa điều kiện trong cùng 
một phòng khám. 
Bước 3: Mời tham gia nghiên cứu và ký 
bảng đồng thuận tham gia nghiên cứu. Nếu bà 
mẹ đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ được mời 
đến phòng Tư Vấn Sinh Sản để phỏng vấn và 
kí bảng đồng thuận, sau khi đã hoàn tất việc 
tiêm ngừa (trong thời gian chờ theo dõi 30 
phút sau tiêm ngừa). 
Bước 4: Tiến hành phỏng vấn và thu thập 
số liệu. Người phỏng vấn sẽ hỏi trực tiếp đối 
tượng nghiên cứu theo bảng câu hỏi, câu trả 
lời sẽ được người phỏng vấn điền vào bảng 
thu thập số liệu.Thời gian phỏng vấn kéo dài 
khoảng 10 - 15 phút. 
Bước 5: Nhập, làm sạch và phân tích số liệu. 
Xử lý số liệu 
Bằng phần mềm thống kê stata. Phân tích 
gồm 2 bước: 
Bước 1: Mô tả và phân tích đơn biến bằng hồi 
quy Logistic. 
Bước 2: Phân tích đa biến bằng hồi quy 
Logistic nhằm kiểm soát các yếu tố gây nhiễu. 
Sử dụng khoảng tin cậy 95%. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian từ tháng 12/2016 đến tháng 
03/2017, chúng tôi chọn theo phương pháp ngẫu 
nhiên đơn và phỏng vấn được 386 trường hợp. 
Bảng 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu. 
Đặc điểm Tần số 
(N=386) 
Tỷ lệ (%) 
Nhóm tuổi < 25 29 7,51 
 25 - 35 323 83,68 
 > 35 34 8,81 
Địa chỉ: Hồ Chí Minh 354 91,71 
 Khác 32 8,29 
Dân tộc: Kinh 385 99,74 
 Khác 1 0,26 
Nghề nghiệp 
Công nhân viên chức 210 54,40 
Buôn bán 55 14,25 
Lao động tự do 41 10,62 
Nội trợ, thất nghiệp 80 20,73 
Trình độ học vấn 
Đại học và sau đại học 266 68,91 
Cấp I - II 29 7,51 
Cấp III 91 23,58 
Công việc phải trực đêm 
Không 381 98,70 
Có 5 1,30 
Tình trạng hôn nhân 
Sống chung với chồng 379 98,19 
Không sống với chồng 7 1,81 
Số lần sinh: 1 238 61,66 
 2 128 33,16 
 ≥ 3 20 5,18 
Nghề chồng 
Buôn bán 75 19,43 
Công nhân viên chức 225 58,29 
Lao động tự do 79 20,47 
Không sống với chồng 7 1,81 
Nhóm tuổi chồng < 25t 11 2,85 
 25 - 35t 266 68,91 
 > 35t 105 27,20 
Mẹ đơn thân 4 1,04 
Số người sống chung < 2 23 5,96 
 ≥ 2 363 94,04 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 169
Đặc điểm Tần số 
(N=386) 
Tỷ lệ (%) 
Thời gian cho bé bú lần trước 
Dưới 6 tháng 33 8,55 
6 tháng đến < 12 tháng 52 13,47 
12 đến < 24 tháng 56 15,51 
≥ 24 tháng 7 1,81 
Chưa sinh con 238 61,66 
Đa số sản phụ sinh con lần đầu và có độ tuổi 
từ 25 đến 35 tuổi, dân tộc Kinh và cư ngụ tại 
TP.HCM. Chủ yếu các bà mẹ làm công nhân 
viên chức (54,4%) và có trình độ học vấn từ cấp 
III trở lên (98,7%). 
Bảng 2. Đặc điểm cuộc sinh. 
Đặc điểm Tần số (N=386) Tỷ lệ (%) 
Cách sinh 
Ngả âm đạo 208 53,89 
Sinh mổ 178 46,11 
Da kề da sau sinh 
Không 167 43,26 
Có 219 56,74 
Băng huyết sau sinh 
Không 380 98,45 
Có 6 1,55 
Truyền máu sau sinh 
Không 384 99,48 
Có 2 0,52 
Nhiễm trùng sau sinh 
Không 376 97,41 
Có 10 2,59 
Mẹ sốt sau sinh 
Không 376 97,41 
Có 10 2,59 
Mẹ dùng thuốc không thể cho bé bú sau sinh 
Không 382 98,96 
Có 4 1,04 
Mẹ bị mất ngủ, lo lắng 
Không 269 69,69 
Có 117 30,31 
Giới tính 
Trai 206 53,37 
Gái 180 46,63 
Cân nặng lúc sinh 
< 2500 g 8 2,07 
2500 g - 3500 g 311 80,57 
> 3500 g 67 17,36 
Tuổi thai lúc sinh 
Non tháng 21 5,44 
Đủ tháng 365 94,56 
Bé bị cách ly 
Không 175 45,34 
Có 211 54,66 
Tỷ lệ sinh mổ và sinh ngả âm đạo, tỷ lệ da kề 
da sau sinh gần tương đương, tỷ lệ biến chứng 
sau sinh rất thấp < 3%. Chủ yếu trẻ sinh ra đủ 
tháng và cân nặng > 2500g. Đặc điệt trong 
nghiên cứu 54,6% trẻ bị cách ly với mẹ sau sinh. 
Bảng 3. Đặc điểm nuôi con bằng sữa mẹ 6 tháng đầu 
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) 
Cách cho bú sữa mẹ (N = 386) 
Không bú mẹ 29 7,51 
Bú mẹ hoàn toàn 133 34,46 
Bú mẹ chủ yếu 95 24,61 
Bú mẹ kết hợp 129 33,42 
Phân bố nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu 
(N = 133) 
1 tháng 2 1,50 
2 tháng 3 2,26 
3 tháng 4 3,01 
4 tháng 2 1,50 
5 tháng 17 12,78 
≥ 6 tháng 105 78,95 
Khi khảo sát cách bà mẹ cho bé bú sữa mẹ 
chúng tôi ghi nhận có 4 cách bú mẹ: trẻ bú mẹ 
hoàn toàn và trẻ được bú mẹ kết hợp chiếm tỷ lệ 
cao nhất là 34,46% và 33,42%, kế đến trẻ được bú 
mẹ chủ yếu chiếm 24,61%. Chúng tôi cũng ghi 
nhận có 29 trường hợp trẻ hoàn toàn không 
được bú sữa mẹ sau sinh. 
Trong đó cách cho bú sữa mẹ được định 
nghĩa như sau: 
Bú sữa mẹ hoàn toàn: là khi trẻ chỉ bú sữa 
mẹ trực tiếp hoặc gián tiếp (vắt sữa của mẹ hoặc 
của người phụ nữ khác) và không dùng bất cứ 
loại thức ăn nước uống nào khác, ngoại trừ 
vitamin, khoáng chất và thuốc chữa bệnh. 
Bú sữa mẹ chủ yếu: khi trẻ nhận được nguồn 
dinh dưỡng chủ yếu từ sữa mẹ. Nghĩa là ngoài 
sữa mẹ, trẻ có thể dùng thêm chất lỏng như nước 
lọc, nước trái câycác loại thức uống không có 
chất dinh dưỡng, không kèm sữa công thức. 
Bú mẹ kết hợp: là khi trẻ nhận được nguồn 
dinh dưỡng từ sữa mẹ và bổ sung thêm các loại 
sữa khác ngoài sữa mẹ hoặc ăn dặm trước 6 
tháng. 
Không bú sữa mẹ: khi trẻ nhận được nguồn 
dinh dưỡng hoàn toàn từ sữa ngoài, không nhận 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 170
từ sữa mẹ hoặc bà mẹ bắt đầu ngưng cho con bú 
mẹ trong vòng 1 tuần đầu sau sinh. 
Bú sữa mẹ: khi trẻ được bú sữa mẹ trực tiếp 
hoặc gián tiếp. 
Tuy nhiên, trong nhóm bà mẹ cho trẻ bú sữa 
mẹ hoàn toàn chỉ có 105/133 trường hợp vẫn tiếp 
tục NCBSM hoàn toàn 6 tháng. Như vậy tỷ lệ 
NCBSM hoàn toàn đến 6 tháng trong nghiên cứu 
của chúng tôi là 105/386 trường hợp chiếm 27,2% 
dân số nghiên cứu với KTC 95%: 22,7-31,7. 
Bảng 4. Các vấn đề khi nuôi con bằng sữa mẹ (N = 
386). 
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) 
Thời điểm bắt đầu bú sữa mẹ 
Không 29 7,51 
Trong 1 giờ đầu 149 38,60 
1- 48 giờ đầu 176 45,60 
Sau 48 giờ sau sinh 32 8,29 
Lý do bú trễ 
Mệt và đau 62 16,06 
Không có sữa 63 16,32 
Không cho bú 5 1,3 
Bé dưỡng nhi 84 21,76 
Bé không biết bú 6 1,55 
Lý do khác 17 4,40 
Bé bú sớm 149 38,69 
Nhân viên y tế hướng dẫn nuôi con bằng sữa mẹ 
Không 25 6,48 
Có 361 93,52 
Mẹ tự vắt sữa 
Không 186 48,19 
Có 200 51,81 
Vắt sữa tại nơi làm việc khi đi làm trước 6 tháng sau sinh 
Không 39 10,1 
Có 38 9,84 
Chưa đi làm 309 80,05 
Thời gian đi làm lại sau sinh 
≤ 6 tháng 77 19,95 
> 6 tháng 243 62,95 
Ở nhà 66 17,10 
Mẹ mắc bệnh về vú thời kỳ hậu sản 
Không 232 60.10 
Đau vú 46 11,92 
Tắc sữa 73 18,91 
Nứt vú 19 4,91 
Áp xe vú 16 4,15 
Có 92,49% trẻ trong nghiên cứu của chúng 
tôi được bú sữa mẹ, nhưng chỉ 38,6% trẻ bắt đầu 
được bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu và lý do 
trẻ bắt đầu bú mẹ trễ thường gặp nhất là do bé 
gởi dưỡng nhi, 21,76%. 
Một trong những yếu tố quan trọng khi 
NCBSM là bà mẹ có thực hiện vắt sữa hay 
không, kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi 
có tỷ lệ các bà mẹ có thực hiện vắt sữa (52%) 
Ngoài ra trong nghiên cứu chúng tôi có 77 bà mẹ 
phải đi làm sớm trước 6 tháng thì chỉ có 50% 
trường hợp có thực hiện vắt sữa tại nơi làm việc 
để đảm bảo nguồn sữa cho trẻ. Hầu hết bà mẹ 
(80,05%) được nghỉ ở nhà đến hơn 6 tháng nên 
có đủ thời gian cần thiết để thực hiện NCBSM 
hoàn toàn 6 tháng đầu đời của trẻ. 
Khi nuôi con bằng sữa mẹ, các bà mẹ có thể 
gặp một số vấn đề về vú sau sinh, khoảng 60,1% 
trường hợp. 
Phân tích mối liên quan 
Qua phân tích hồi quy đa biến mối liên quan 
giữa các biến số và việc NCBSM hoàn toàn 6 
tháng đầu chỉ còn 5 yếu tố liên quan có ý nghĩa 
thống kê bao gồm: 
Tuổi của bà mẹ > 35 tuổi giúp tăng khả năng 
NCBSM hoàn toàn 6 tháng đầu lên 4,1 lần so với 
nhóm bà mẹ có độ tuổi < 25 tuổi, với P < 0,05. 
Nhóm bà mẹ đã từng NCBSM ≥ 24 tháng 
trong những lần mang thai trước đây giúp tăng 
khả năng NCBSM hoàn toàn 6 tháng đầu lên 7,13 
lần so với nhóm bà mẹ trước đây chỉ NCBSM < 6 
tháng, với P < 0,05. 
So với nhóm trẻ được bú mẹ sớm trong 1 giờ 
đầu sau sinh thì nhóm trẻ được cho bú mẹ trễ 
sau 1 giờ sau sinh làm giảm khả năng NCBSM 
hoàn toàn 6 tháng đầu 7,7 lần, với P<0,05. 
Những bà mẹ có thực hành vắt sữa mẹ sẽ 
giúp tăng khả năng NCBSM hoàn toàn 6 tháng 
đầu lên 2,96 lần so với nhóm không vắt sữa 
mẹ với P < 0,05. Bà mẹ đi làm lại trễ ≥ 6 tháng 
giúp tăng khả năng NCBSM hoàn toàn lên 2,18 
lần so với những bà mẹ đi làm lại sớm < 6 
tháng, với P < 0,05. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 171
Bảng 5. Mối liên quan giữa các yếu tố và nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn 6 tháng 
Biến số BMHT 6 tháng (N = 105) Không BMHT 6 tháng (N=281) PR* KTC 95% P
*
Nhóm tuổi 
< 25t 5 (17,24) 24 (82,76) 1 
25 - 35t 87 (26,93) 236 (73,07) 1,99 0,63-6,28 0,243 
> 35t 13 (38,24) 21 (61,76) 4,10 1,01-16,6 0,048 
Thời gian cho con bú lần trước 
< 6 tháng 4 (12,12) 29 (87,88) 1 
6 - < 12tháng 19 (36,54) 33 (63,46) 2,60 0,72-9,37 0,145 
12 - < 24tháng 18 (32,14) 38 (67,86) 3,31 0,93-11,8 0,066 
≥ 24 tháng 3 (42,86) 4 (57,14) 7,13 1,02-49,7 0,047 
Sinh lần đầu 61 (25,63) 177 (74,37) 2,30 0,71-7,39 0,163 
Thời điểm bắt đầu bú 
≤ 1 giờ đầu 70 (46,98) 79 (53,02) 1 
> 1 giờ đầu 35 (14,77) 202 (85,23) 0,13 0,06-0,32 0,000 
Mẹ tự vắt sữa 
Không 34 (18,28) 152 (81,72) 1 
Có 71 (35,5) 129 (64,5) 2,96 1,63-5,37 0,000 
Thời gian mẹ đi làm lại 
< 6 tháng 14 (18,18) 63 (81,82) 1 
≥ 6 tháng 67 (27,57) 176 (72,43) 2,18 1,03-4,62 0,041 
Mẹ ở nhà 24 (36,36) 42 (63,64) 1,72 0,71-4,19 0,233 
*Multivariate Logistic Regression 
BÀN LUẬN 
Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn 6 tháng 
đầu 
Tỷ lệ NCBSM hoàn toàn 6 tháng đầu sau 
sinh trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn 
mong đợi. Mặc dù vậy, tỷ lệ NCBSM hoàn toàn 6 
tháng đầu ở nghiên cứu của chúng tôi lại cao 
hơn nhiều so với các nghiên cứu tại TP.HCM 
trước đó. Theo nghiên cứu được công bố năm 
2014 OCED phối hợp với Tổ chức Y tế thế giới về 
tỷ lệ NCBSM hoàn toàn 6 tháng đầu ở các nước 
Châu Á, tỷ lệ của Việt Nam vào năm 2011 là 
17%, thấp thứ 3 trong số 22 nước tham gia 
nghiên cứu(9). Báo cáo này cũng nêu ra yếu tố 
góp phần dẫn tới tỷ lệ thấp như vậy là thiếu sự 
hỗ trợ từ bệnh viện, từ các thực hành chăm sóc, 
các chính sách và thái độ của bà mẹ cho rằng 
mình không đủ sữa cho trẻ bú. Nghiên cứu định 
tính của tác giả Almroth, S. và Quang, N. D tiến 
hành năm 2008(1), phỏng vấn sâu 118 đối tượng 
bao gồm cha, mẹ, ông bà, người lớn tuổi và nhân 
viên y tế ở thành thị và nông thôn miền Nam 
nước ta đã rút ra được một số nguyên nhân làm 
cho việc NCBSM hoàn toàn tại nước ta trở lên 
không phổ biến như: sự hiểu biết kém và ít được 
đánh giá cao về NCBSM của ngay cả nhân viên y 
tế và những người được phỏng vấn rằng 
NCBSM là cách tốt nhất cho dinh dưỡng của trẻ 
6 tháng đầu đời, việc bắt đầu cung cấp nước sớm 
cho trẻ như là qui tắc và đa số trẻ được cung cấp 
thêm sữa và nước kèm theo sữa mẹ, tuy nhiên 
khi người mẹ đi làm họ cũng tìm cách để không 
cản trở việc NCBSM hoàn toàn. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn 
các tác giả khác tại TP.HCM có thể là do: 
Đối tượng nghiên cứu chúng tôi chủ yếu cư 
ngụ ở khu vực trung tâm thành phố, các bà mẹ 
chọn sanh ở BVPSMK đa phần từ quận Tân 
Bình, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Gò Vấp, Quận 
1 đây là các quận có nền kinh tế phát triển và 
mức sống cao. 
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi có trình 
độ văn hóa đa phần trên cấp III (92,49%). 
Nghề nghiệp phổ biến nhất trong nghiên 
cứu chúng tôi là công nhân viên chức, đây là 
một yếu tố thuận lợi cho việc tiếp cận thông 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 172
tin về chăm sóc sức khỏe cũng như vấn đề 
chăm sóc trẻ em. 
Tại bệnh viện chúng tôi nghiên cứu, 
thường xuyên có các lớp tư vấn NCBSM trước 
sinh, khuyến khích bú sớm và da kề da ngay 
sau sinh thường và điều trị, xử trí các vấn đề 
về vú sau sinh. 
Tuy nhiên, tỷ lệ của chúng tôi vẫn không cao 
so với các nước khác trong khu vực Châu Á. 
Như vậy việc NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng 
đầu tại TP.HCM cũng như tại Việt Nam đang 
gặp khó khăn khiến cho tỷ lệ này không cao dù 
có cả chính sách hỗ trợ về thời gian nghỉ hậu sản 
và điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi. Từ đó đưa 
ra câu hỏi nguyên nhân thật sự của khó khăn 
trong NCBSM ở TP.HCM là gì. 
Khi nghiên cứu mối liên quan giữa thực 
hành vắt sữa mẹ và tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ 
hoàn toàn 6 tháng, nghiên cứu của chúng tôi đã 
chỉ ra rằng những bà mẹ có thực hành vắt sữa 
mẹ sẽ giúp tăng khả năng NCBSM hoàn toàn 6 
tháng đầu lên 2,96 lần so với nhóm không vắt 
sữa mẹ. So với nghiên cứu của tác giả Tôn Thị 
Anh Tú chỉ có 37,26% bà mẹ đồng ý với thái độ 
vắt sữa do các bà mẹ sợ sữa lấy ra lạnh, dễ 
nhiễm khuẩn, bé bú không tốt. Một nghiên cứu 
khác của tác giả Mai Ngọc Xuân cũng cho thấy 
bà mẹ có vắt sữa dự trữ có tỉ lệ trẻ bú mẹ hoàn 
toàn 6 tháng gấp 1,31 lần (p<0,001). Các bà mẹ 
trong nghiên cứu của chúng tôi đa số lại là có 
con lần đầu nhưng tỷ lệ biết vắt sữa và trữ sữa 
mẹ khá cao 51,8% là dấu hiệu thuận lợi cho việc 
thực hiện NCBSM hoàn toàn 6 tháng đầu. Sự 
khác biệt này có thể là do chúng tôi có lớp tập 
huấn và tờ rơi về NCBSM trong đó có mục bảo 
quản và dự trữ sữa. 
Các vấn đề thường gặp khi nuôi con bằng sữa 
mẹ 
Khi so sánh với các nghiên cứu khác, tỷ lệ trẻ 
bắt đầu bú mẹ sớm trong nghiên cứu của chúng 
tôi cao hơn các nghiên cứu tương tự ở TPHCM 
như nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thi Nguyên 
Thảo(4) tiến hành tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 
(30%), tác giả Mai Ngọc Xuân(3) tiến hành tại 
Bệnh viện Nhi Đồng 2 (24%) và tác giả Đinh Thị 
Hải Yến(2) tiến hành tại Củ Chi (28%), tuy nhiên 
tỷ lệ này lại thấp hơn so với nghiên cứu của tác 
giả Tôn Thị Anh Tú(6) tiến hành tại Bệnh viện 
Nhi Đồng 1 (69%) và số liệu toàn quốc từ Viện 
Dinh Dưỡng Quốc Gia (62%). 
Theo bảng kết quả nghiên cứu như trên của 
tác giả Takahashi và cộng sự(5) công bố tháng 3 
năm 2017, tỷ lệ bắt đầu bú mẹ sớm sau sinh tại 
Việt Nam là 63,9% đứng thứ 4 trong 9 nước 
Châu Á tham gia nghiên cứu và đứng thứ 9 
trong tổng số 24 nước tham gia nghiên cứu. Từ 
các số liệu về tỷ lệ trẻ bắt đầu bú mẹ sớm ở 
nghiên cứu trên, nghiên cứu của chúng tôi và các 
nghiên cứu khác tại TP.HCM cho thấy khoảng 
cách tỷ lệ trẻ bắt đầu bú sớm ở các nghiên cứu tại 
TP.HCM còn quá xa so với tỷ lệ của toàn quốc và 
các nước khác. Đây là vấn đề cần được xem xét, 
tìm nguyên nhân và hỗ trợ chặt chẽ ở các Bệnh 
Viện trong TP.HCM, thúc đẩy thực hiện tập 
huấn nhân viên y tế và có các chương trình chăm 
sóc hướng dẫn cụ thể từ trước sinh và sau sinh 
về NCBSM hoàn toàn và triển khai được hầu hết 
các Bệnh Viện trong TP.HCM thực hiện 3 
khuyến cáo toàn cầu về NCBSM: da kề da ngay 
sau sinh dù sinh ngả âm đạo hay sinh mổ, hỗ trợ 
trẻ bắt đầu bú mẹ sớm và hướng dẫn khuyến 
khích bà mẹ NCBSM hoàn toàn 6 tháng đầu đời. 
Tại BVMK luôn có tập huấn nội bộ nhân viên 
hàng năm về NCBSM và tăng cường phổ biến 
kiến thức về NCBSM từ phòng khám thai đến 
các khoa có bà mẹ và trẻ nội trú nên hầu hết các 
bà mẹ trong nghiên cứu của chúng tôi được 
nhân viên y tế hướng dẫn NCBSM (93,52%). 
Nhưng phải chăng sự giúp đỡ vẫn chưa đủ 
chuyên nghiệp, chưa đồng bộ giữa các khoa 
hoặc chưa thuyết phục được các bà mẹ có niềm 
tin vào việc NCBSM hoàn toàn 6 tháng đầu, do 
đó tỷ lệ này ở nghiên cứu của chúng tôi không 
cao và các bà mẹ dễ dàng tìm đến sữa công thức 
khi mà lý do không đủ sữa hoặc không có sữa 
mẹ cho trẻ chiếm tỷ lệ cao nhất 45,2%. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 173
Ưu điểm và nhược điểm 
Đây là nghiên cứu không tốn nhiều kinh phí 
và thời gian thực hiện nên mang tính khả thi cao, 
dễ thực hiện trong môi trường bệnh viện và 
ngoài cộng đồng. 
Tuy nhiên nghiên cứu của chúng tôi vẫn còn 
một số hạn chế. Thiết kế cắt ngang là thiết kế 
phù hợp để xác định một tỷ lệ bệnh đang lưu 
hành trong dân số nhưng chỉ xác định các yếu tố 
liên quan mà không đánh giá chính xác nguy cơ 
của các phơi nhiễm. Việc chọn mẫu tại khoa 
khám Nhi của Bệnh Viện, nơi đa số trẻ được sinh 
ra tại viện đến khám và tiêm ngừa tuy nhiên 
chưa đại diện tuyệt đối cho dân số trẻ sinh tại 
Bệnh Viện MêKông vì còn hơn 50% trẻ sinh ra 
không tiêm ngừa tại viện. Biến số mang tính chủ 
quan như mất ngủ, lo lắng, kích thích sau sanh, 
không thể đo lường chính xác được nên chúng 
tôi phải chấp nhận thu thập dựa trên đánh giá 
chủ quan của đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu 
thu thập số liệu bằng hình thức phỏng vấn thông 
qua bảng câu hỏi soạn sẵn nên người phỏng vấn 
không quan sát trực tiếp mà chỉ ghi nhận lại 
thông tin thông qua việc nhớ lại của các bà mẹ. 
Như vậy sai lệch nhớ lại có thể xảy ra khi các bà 
mẹ không nhớ chính xác thông tin. 
KIẾN NGHỊ 
Qua kết quả và mối liên quan ghi nhận 
được từ nghiên cứu chúng tôi có một số kiến 
nghị để nâng cao tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ 
hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Hướng dẫn cách 
vắt sữa và dự trữ sữa cho các bà mẹ cho con 
bú. Tạo điều kiện thuận lợi để các bà mẹ có thể 
vắt sữa và dự trữ sữa ở nơi làm việc, giúp đỡ 
và hướng dẫn các bà mẹ bú sớm trong 1 giờ 
sau sanh, tạo điều kiện để các bà mẹ được 
nghỉ hậu sản ≥ 6 tháng sau sanh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Almroth S, Arts M, Quang ND, Hoa PT, Williams C (2008). 
“Exclusive breastfeeding in Vietnam: an attainable goal”. Acta 
Paediatr, 97(8):pp.1066-9. 
2. Đinh Thị Hải Yến (2014). “Những yếu tố ảnh hưởng đến hành 
vi nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tại 
TP.HCM”. Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ, Dịch vụ y tế. Đại học Y 
Dược thành phố Hồ Chí Minh. 
3. Mai Ngọc Xuân (2014). “Tỉ lệ trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 
tháng đầu và các yếu tố liên quan của bệnh nhi đến khám tại 
Bệnh viện Nhi Đồng 2 Thành Phố Hồ Chí Minh”. Luận văn tốt 
nghiệp Thạc sĩ, Dịch vụ y tế. Đại Học Y Dược Tp. HCM. 
4. Nguyễn Thị Nguyên Thảo (2014). “Khảo sát tình hình nuôi con 
bằng sữa mẹ hoàn toàn và sử dụng sản phẩm dinh dưỡng 
công thức cho con trong 6 tháng đầu ở bệnh nhi nhập viện 
Bệnh viện Nhi Đồng 1”. Luận văn tốt nghiệp Thạc Sỹ Y Khoa. Đại 
Học Y Dược Tp. HCM. 
5. Takahashi K, Ganchimeg T, Ota E, Vogel JP, Souza JP, et al 
(2017). “Prevalence of early initiation of breastfeeding and 
determinants of delayed initiation of breastfeeding: secondary 
analysis of the WHO Global Survey”. Sci Rep, 7:pp.44868. 
6. Tôn Thị Anh Tú, Nguyễn Thu Tịnh (2011). “Kiến thức – thái độ 
- thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con 
dưới 6 tháng tuổi tại bệnh viện nhi đồng I từ 1/12/2009 đến 
30/4/2010”. Y Học TP. Hồ Chí Minh, 15(1):pp.186-191. 
7. Victora CG, Bahl R, Barros AJ, Franca GV, Horton S, et al. 
(2016). “Breastfeeding in the 21st century: epidemiology, 
mechanisms, and lifelong effect”. The Lancet, 387(10017):pp.475-
90. 
8. WHO/UNICEF (1990). “Protecting, promoting and supporting 
breastfeeding: the special role of maternity services. A joint 
WHO/UNICEF statement”. Int J Gynaecol Obstet, 31(1):pp.171-
83. 
9. World Health Organization (WHO) and Organisation for 
Economic Co-operation and Development (OECD)(2014). 
“Health at a Glance: Asia/Pacific 2014. Country note: Viet Nam. 
Infants exclusively breastfed for first 6 months of life”. URL: 
https://www.oecd.org/countries/vietnam/Health-at-
a-Glance-Asia-Pacific-2014-Note-VIETNAM.pdf 
(Access 10.10.2017). 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018