Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 19
TỶ LỆ NHIỄM VÀ TÍNH GIA ĐÌNH CỦA BỆNH GIUN KIM 
 Ở TRẺ HỌC MẪU GIÁO 
Lưu Mỹ Phụng*, Nhữ Thị Hoa*, Tăng Kim Hồng** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm và tính gia đình của bệnh giun kim ở trẻ mẫu giáo xã Tân An Hội, huyện Củ 
Chi, TP.HCM, năm học 2012 – 2013. 
Đối tượng-Phương pháp: Cắt ngang mô tả, chẩn đoán giun kim bằng kỹ thuật Graham. Tính gia đình của 
bệnh được đánh giá dựa trên tỷ lệ các gia đình có ít nhất một thành viên bị nhiễm, mức độ nặng của tính gia đình 
(tỷ lệ gia đình có ≥ 50% số thành viên bị nhiễm) và các yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm của gia đình trẻ 
bệnh. 
Kết quả: 23,8% trẻ mẫu giáo nhiễm giun kim. Có 29,5% gia đình trẻ bệnh có thành viên đồng nhiễm, trong 
đó nhiễm nặng chiếm 39,4%, nhóm người nhà ≤ 10 tuổi nhiễm nhiều hơn nhóm > 10 tuổi (p < 0,03). Tỷ lệ dương 
tính lần lượt tăng 9,85 và 6,1 lần ở các thành viên có thói quen mút tay, cắn móng tay ≤ 10 tuổi và > 10 tuổi (p < 
0,004 và p < 0,009). Trẻ bệnh không rửa hậu môn mỗi sáng sớm làm tăng khả năng nhiễm cho các thành viên ≤ 
10 tuổi trong gia đình, nhưng không liên quan đến nhóm > 10 tuổi. Nếu trẻ bệnh được mẹ trực tiếp chăm sóc sẽ 
giảm được sự lây nhiễm trong gia đình (OR = 0,27, p < 0,03). 
Kết luận và đề xuất: tỷ lệ nhiễm ở trẻ mẫu giáo và đồng nhiễm trong gia đình khá cao chứng tỏ việc kiểm 
soát nhiễm giun kim không chỉ giới hạn ở trẻ mẫu giáo, trường mẫu giáo mà đòi hỏi sự tham gia tích cực hơn nữa 
từ các thành viên sinh hoạt trong cùng không gian với trẻ bệnh. Do đó, nên cung cấp thông tin qua các phương 
tiện truyền thông đại chúng về bệnh giun kim nhằm đưa kiến thức phòng ngừa giun kim trở thành kiến thức phổ 
biến cho người dân, từng bước loại trừ bệnh. 
Từ khóa: tính gia đình, giun kim. 
ABSTRACT 
PREVALENCE AND FAMILIAL CHARACTER OF ENTEROBIASIS 
AMONG KINDERGARTEN CHILDREN IN TAN AN HOI COMMUNE, 
CU CHI DISTRICT, HO CHI MINH CITY, 2012 
Luu My Phung, Nhu Thi Hoa, Tang Kim Hong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 3- 2018: 19 - 25 
Objective: To determine prevalence and familial character of enterobiasis among kinder garden children in 
Tan An Hoi Commune, Cu Chi District, Ho Chi Minh City from September 2012 to December 2012. 
Method: A descriptive and cross sectional study. Enterobiasis was diagnosed via Graham’s technique. The 
familial character of enterobiasis was assessed via proportion of families having at least one member infected, the 
strength of familial character (rate of families with ≥ 50% of family members infected) and factors related to the 
infection within the household were also studied. 
Result: Prevalence rate among kindergarten children is 23.8%. About 29.5% of families of infected 
kindergarten children have at least one other member co-infected, of whom 39.4% are heavily infected, prevalence 
* Bộ môn Ký Sinh – Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 
** Bộ môn Dịch tễ học cơ bản – Dân số học – Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: BS. Lưu Mỹ Phụng ĐT: 0907580948 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 20
in family members of ≤ 10 years old is higher than that of the rest (p < 0.03). Positivity among members of ≤ 10 
years and those > 10 years of age with habit of finger sucking, nail biting are 9.85 (p < 0.004) and 6.1 times (p < 
0.009) as high as those without this behavior, respectively. The act of not washing the anal area every early 
morning in the infected kindergarten kids will increase the infectivity to household members of ≤ 10 year old. but 
not to the > 10 year old group. If the children with enterobiasis are directly cared by their mother, then 
transmission to their family members will be lower (OR = 0.27, p < 0.03). 
Conclusion and recommendations: Relatively high prevalence in kindergarten children and co-infection 
among their family members imply that pinworm control must not be restricted to kindergarten children, but 
active participation from household members of the infected children is also needed. Therefore, dissemination of 
knowledge on pinworm prevention to communities via mass media is necessary in order to gradually eliminate the 
disease. 
Key words: familial, enterobiasis. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Giun kim Enterobius vermicularis là loại giun 
hình ống ký sinh ở ruột già. Sự phổ biến của 
bệnh trong cộng đồng, đặc biệt ở trẻ mẫu giáo, 
đã cho phép xem bệnh giun kim là một vấn đề 
sức khoẻ cần được quan tâm. Ở Việt Nam, tỷ lệ 
nhiễm giun kim dao động từ 4,49% – 47%, có 
vùng lên đến 73,5%, chủ yếu tập trung ở nhóm 3 
- 6 tuổi(4,7,8). 
Sự phổ biến rộng rãi của bệnh xuất phát từ 
chu trình phát triển trực tiếp ngắn của giun kim: 
trứng giun kim chứa sẵn phôi nên có khả năng 
lây nhiễm ngay, thêm vào đó trứng được đẻ ở rìa 
hậu môn nên dễ phát tán trong không gian sinh 
hoạt của bệnh nhân đồng thời có khả năng lây 
nhiễm rất cao vào các thành viên trong gia đình 
và đặc điểm này dẫn đến tính gia đình của bệnh. 
Việc khảo sát tính gia đình sẽ góp phần không 
nhỏ trong việc kiểm soát bệnh giun kim. 
Các khảo sát về nhiễm giun kim trên trẻ học 
mẫu giáo tại huyện Củ Chi năm 2008 và 2009 đã 
ghi nhận tỷ lệ dương tính lần lượt là 22,75% và 
30,7%, trong đó bao gồm xã Tân An Hội(5,3), mặc 
dù chiến lược xổ giun định kỳ đã được áp dụng 
mỗi 6 tháng tại các trường mẫu giáo. Vì thế, bên 
cạnh những bất cập về điều kiện vệ sinh, về kiến 
thức liên quan đến nhiễm giun kim vẫn còn tồn 
đọng trong cộng đồng xã Tân An Hội, không thể 
không nghĩ đến tính gia đình/tập thể của bệnh. 
Vậy tính gia đình được thể hiện ra sao đối với tỷ 
lệ nhiễm giun kim tại xã Tân An Hội? 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu tổng quát 
Xác định tỷ lệ nhiễm và tính gia đình của 
bệnh giun kim ở trẻ mẫu giáo xã Tân An Hội, 
huyện Củ Chi, TP.HCM, năm học 2012 – 2013. 
Mục tiêu chuyên biệt 
Xác định tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ học mẫu 
giáo tại xã Tân An Hội, huyện Củ Chi, TP. HCM, 
năm học 2012 – 2013. 
Xác định tỷ lệ nhiễm giun kim ở các thành 
viên trong gia đình có trẻ mẫu giáo bị nhiễm 
giun kim tại xã Tân An Hội, huyện Củ Chi, TP. 
HCM, năm học 2012 – 2013. 
Xác định các yếu tố liên quan đến tính gia 
đình của bệnh giun kim ở trẻ mẫu giáo xã Tân 
An Hội, huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh, năm 
học 2012 – 2013. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Trẻ học tại tất cả các trường mẫu giáo xã 
Tân An Hội, huyện Củ Chi, TP. HCM năm học 
2012-2013. 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Các bước tiến hành 
Chuẩn bị dụng cụ, tập huấn. Họp phụ 
huynh. Tiến hành xét nghiệm cho trẻ mẫu giáo. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 21
Phát và thu bảng thu thập thông tin cho gia đình 
trẻ bệnh, lấy mẫu Graham cho gia đình trẻ bệnh. 
Trả kết quả cho gia đình trẻ bệnh. Điều trị cho 
trẻ mẫu giáo và gia đình trẻ bệnh. 
Xử lý số liệu 
Phần mềm Stata 10.0. Thống kê mô tả: tần số, 
tỷ lệ đối với các biến định tính. Thống kê phân 
tích: với độ tin cậy 95%, phép kiểm χ2 để khảo 
sát mối liên quan của từng yếu tố thuận lợi đến 
tính gia đình của bệnh. Thể hiện mức độ khác 
biệt bằng OR. Phân tích hồi quy logistic để khử 
nhiễu khi xét các yếu tố liên quan đến tính gia 
đình của bệnh. 
KẾT QUẢ 
Tỷ lệ nhiễm 
Tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ học mẫu giáo tại 
xã Tân An Hội là 23,8%. 
Tỷ lệ nhiễm giun kim ở các thành viên trong 
gia đình có trẻ nhiễm giun kim 
Đối với gia đình của trẻ mẫu giáo bị nhiễm 
giun kim, 29,5% hộ có ít nhất 1 thành viên cùng 
bị nhiễm giun kim trong đó khoảng 39,4% hộ có 
≥ 50% mẫu Graham dương tính. 
Đối với các thành viên trong gia đình trẻ 
bệnh, tỷ lệ các thành viên dưới 10 tuổi nhiễm 
giun kim (25,4%) nhiều hơn các thành viên trên 
10 tuổi (13,9%) với p < 0,03. 
Sự phân bố tính gia đình theo hành vi của các thành viên trong gia đình trẻ bệnh 
Bảng 1: Phân tích đơn biến sự phân bố tính gia đình theo hành vi của các thành viên ≤ 10 tuổi trong gia đình trẻ 
bệnh (n = 63). 
Nhiễm / ≤ 10 tuổi Kiểm định χ
2
(+) (-) p OR [KTC 95%] 
Mút tay, cắn móng tay 
Có 10 (58,8) 07 (41,2) 
0,0002 9,5 [2,2-42,3] 
Không 06 (13,0) 40 (87,0) 
Ngậm đồ chơi 
Có 05 (55,6) 04 (44,4) 
0,02 4,9 [0,9-28,3] 
Không 11 (20,4) 43 (79,6) 
Rửa tay trước khi ăn 
Không 05 (62,5) 03 (37,5) 
0,01 6,7 [1,1-47,8] 
Có 11 (20,0) 44 (80,0) 
Rửa hậu môn buổi sáng 
Không 06 (42,9) 08 (57,1) 
0,09 2,9 [0,7-12,2] 
Có 10 (20,4) 39 (79,6) 
Tẩy giun 
Thường xuyên (-) 12 (25,0) 36 (75,0) 
0,9 0,9 [0,2-4,7] 
Thường xuyên (+) 04 (26,7) 11 (73,3) 
Bảng 2: Phân tích đa biến mối liên quan giữa tính gia 
đình và các hành vi nguy cơ của các thành viên ≤ 10 
tuổi trong gia đình (n = 63). 
Tình trạng nhiễm giun của trẻ 
≤ 10 tuổi 
OR p [KTC 95%] 
Mút tay, cắn móng tay 9,85 0,004 [2,1 – 46,1] 
Ngậm đồ chơi 2,79 0,30 [0,4 – 19,2] 
Rửa tay trước khi ăn 2,60 0,33 [0,4 – 18,1] 
Rửa hậu môn 1,64 0,57 [0,3 – 9,3] 
Tẩy giun 2,83 0,26 [0,5 – 17,3] 
Phân tích đơn biến sự phân bố tính gia 
đình trên các thành viên ≤ 10 tuổi sống chung 
với trẻ bệnh cho thấy hành vi mút tay - cắn 
móng tay, không rửa tay trước khi ăn làm tăng 
nhiễm giun kim gấp 9,5 và 6,7 lần so với các 
nhóm còn lại. Chưa tìm thấy mối liên quan với 
các hành vi khác. 
Kết quả phân tích đa biến chỉ phát hiện sự 
liên quan giữa tỷ lệ nhiễm với hành vi mút tay 
- cắn móng tay của các thành viên ≤ 10 tuổi 
trong gia đình trẻ bệnh, cao gấp 9,85 lần so với 
trẻ ≤ 10 tuổi không có hành vi trên (p < 0,004). 
Các hành vi khác chưa thể hiện sự khác biệt 
giữa các nhóm. 
Chưa tìm thấy sự khác biệt về sự phân bố 
tính gia đình theo hành vi của các thành viên > 
10 tuổi sống chung với trẻ bệnh. Nhưng khi 
kiểm soát các yếu tố rửa tay trước ăn, rửa hậu 
môn và tẩy giun định kỳ, tính gia đình tăng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 22
gấp 6,1 lần ở nhóm thành viên > 10 tuổi có thói 
quen cắn móng tay so với nhóm > 10 tuổi còn 
lại (p < 0,009). 
Bảng 3: Phân tích đa biến mối liên quan giữa tính gia 
đình và hành vi của các thành viên > 10 tuổi trong gia 
đình trẻ bệnh (n = 194). 
Tình trạng nhiễm giun 
 của các thành viên > 10 tuổi 
OR p [KTC 95%] 
Cắn móng tay 6,10 0,009 [1,6 – 23,6] 
Rửa tay trước khi ăn 1,59 0,52 [0,4 – 6,4] 
Rửa hậu môn 0,67 0,46 [0,2 – 1,9] 
Tẩy giun 2,51 0,14 [0,7 – 8,5] 
Các yếu tố liên quan đến tính gia đình của 
nhiễm giun kim 
Sự phân bố tính gia đình theo các đặc điểm của 
trẻ bệnh (trẻ mẫu giáo bị nhiễm giun kim) 
Khi kiểm soát các thuộc tính lớp, giới, 
phân hiệu, học vấn người chăm sóc và số 
người trong gia đình trẻ mẫu giáo bị nhiễm 
giun kim, nếu người chăm sóc trẻ không phải 
là mẹ, tỷ lệ nhiễm trong gia đình sẽ tăng gấp 
3,77 lần những gia đình có trẻ mẫu giáo dương 
tính được mẹ chăm sóc (bảng 4). 
Trong phân tích đa biến, nếu không rửa 
hậu môn mỗi buổi sáng cũng như không tẩy 
giun định kỳ cho trẻ mẫu giáo, tỷ lệ nhiễm 
trong gia đình sẽ lần lượt gấp 2,68 và 2,82 lần 
so với các gia đình có trẻ bệnh nhưng được vệ 
sinh vùng hậu môn thường xuyên và tẩy giun 
định kỳ (bảng 5). 
Khi kiểm soát vấn đề tẩy giun, những trẻ 
mẫu giáo bị nhiễm giun kim nhưng không rửa 
hậu môn mỗi sáng, khả năng nhiễm cho anh 
chị em ≤ 10 tuổi trong nhà cao gấp 4,8 lần so 
với nhóm có vệ sinh vùng hậu môn (bảng 6). 
Bảng 4: Phân tích đa biến mối liên quan giữa tính gia 
đình và các thuộc tính của trẻ bệnh (n = 112). 
Tình trạng nhiễm giun của gia 
đình trẻ bệnh phân bố theo 
OR p [KTC 95%] 
Lớp 0,44 0,15 [0,1 – 1,4] 
Giới 0,47 0,11 [0,2 – 1,2] 
Phân hiệu 0,78 0,57 [0,3 – 1,9] 
Người chăm sóc 3,77 0,03 [1,2 – 12,2] 
Học vấn người chăm sóc 0,58 0,32 [0,2 – 1,7] 
Số người trong gia đình 0,93 0,88 [0,4 – 2,4] 
Bảng 5: Phân tích đa biến mối liên quan giữa tính gia 
đình và thực hành ở trẻ bệnh (n = 112). 
Tình trạng nhiễm giun 
của gia đình trẻ bệnh 
OR p [KTC 95%] 
Trẻ bệnh không được 
rửa hậu môn/ sáng 
2,68 0,037 [1,1 – 6,7] 
Trẻ bệnh không được tẩy giun 2,82 0,034 [1,1 – 7,3] 
Bảng 6: Phân tích đa biến mối liên quan giữa tỷ lệ 
nhiễm trong nhóm các thành viên ≤ 10 tuổi với thực 
hành ở trẻ bệnh (TB) (n = 63). 
Tình trạng nhiễm giun ở các 
thành viên ≤ 10 tuổi 
OR p [KTC 95%] 
Trẻ bệnh không được rửa hậu 
môn/ sáng 
4,80 0,03 [1,2 – 19,3] 
Trẻ bệnh không được tẩy giun 2,93 0,15 [0,7 – 12,8] 
Sự phân bố tính gia đình theo đặc điểm sinh 
hoạt của gia đình trẻ bệnh 
Không có sự khác biệt về ý nghĩa thống kê 
giữa tỷ lệ nhiễm của tính gia đình với các biến 
nền nhà, cách thức vệ sinh nhà và tình trạng ngủ 
chung của trẻ. 
Tỷ lệ nhiễm của tính gia đình ở nhóm không 
giặt chăn gối, không rửa đồ chơi và không cắt 
móng tay cho bé thường xuyên lần lượt cao gấp 
3,3 lần (p = 0,007), 2,8 (p = 0,02) và 3,4 lần (p = 
0,02) so với gia đình giặt chăn gối, rửa đồ chơi và 
cắt móng tay cho bé thường xuyên (bảng 7). 
Bảng 7: Phân tích đơn biến mối liên quan giữa tỷ lệ nhiễm trong gia đình với các đặc điểm sinh hoạt của gia đình 
trẻ bệnh (n =112) 
Gia đình bị nhiễm Kiểm định χ
2
(+) (-) p OR [KTC 95%] 
Nền nhà 
Khác gạch bông 09 (30,0) 21 (70,0) 
0,94 1,04 [0,4-2,8] 
Gạch bông 24 (29,3) 58 (70,7) 
Ngủ chung giường 
Có 32 (29,1) 78 (70,9) 
0,50 0,4 [0,005-33,2] 
Không 01 (50,0) 01 (50,0) 
Vệ sinh nhà 
Quét trước lau 33 (29,7) 78 (70,3) 
0,52 kxđ
* 
Lau trước quét 00 (0,00) 1 (100,0) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 23
Gia đình bị nhiễm Kiểm định χ
2
(+) (-) p OR [KTC 95%] 
Giặt chăn gối 
Thường xuyên (-) 15 (48,4) 16 (51,6) 
0,007 3,3 [1,2-8,6] 
Thường xuyên (+) 18 (22,2) 63 (77,8) 
Rửa đồ chơi 
Thường xuyên (-) 15 (45,5) 18 (54,5) 
0,02 2,8 [1,1-7,3] 
Thường xuyên (+) 18 (22,8) 61 (77,2) 
Cắt móng tay 
Thường xuyên (-) 10 (52,6) 09 (47,4) 
0,02 3,4 [1,1-10,6] 
Thường xuyên (+) 23 (24,7) 70 (75,3) 
* kxđ: không xác định 
Khi phân tích đa biến, tính gia đình chưa thể 
hiện mối liên quan về mặt thống kê đối với các 
đặc điểm sinh hoạt của gia đình trong nhiễm 
giun kim. 
BÀN LUẬN 
Tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ học mẫu giáo 
Khảo sát cho thấy 23,8% trẻ mẫu giáo tại xã 
Tân An Hội có mẫu Graham dương tính, tương 
tự báo cáo của Lương Thúy Vân năm 2008 
(22,75%), Hồ Quốc Cường và Nguyễn Trương 
Tường Duy năm 2009 (23,8%)(5,3) cùng thực hiện 
tại Củ Chi, nhưng thấp hơn các kết quả ở Tây 
Nguyên. Sự khác biệt này có thể là do điều kiện 
vệ sinh trường lớp và vệ sinh cá nhân ở miền núi 
kém hơn(4,2). 
Ngoài ra, tiêu chuẩn chẩn đoán cũng tác 
động đến kết quả như Trương Quang Ánh thực 
hiện xét nghiệm giun kim 3 lần đã tìm thấy 
39,49% trẻ dương tính, cao hơn kết quả khảo sát 
trong nghiên cứu(9). Một số trường hợp nhiễm 
giun kim nhưng chưa đến chu kỳ sinh sản, 
không thải trứng ở rìa hậu môn dẫn đến kết quả 
Graham âm tính giả. Theo GC Cook(1), quệt hậu 
môn 1 lần chỉ phát hiện 50% số trường hợp 
nhiễm giun kim trong khi quệt hậu môn 3 lần, tỷ 
lệ lên đến 90%. 
Tỷ lệ nhiễm giun kim của các thành viên trong 
gia đình có trẻ nhiễm giun kim (n = 257) 
Do đa số mẫu được thu thập từ các thành 
viên trên 10 tuổi (chủ yếu là cha, mẹ) nên ít 
nhiều làm giảm tỷ lệ nhiễm trong gia đình trẻ 
bệnh. Tỷ lệ này còn bị ảnh hưởng bởi chất lượng 
lam Graham do người nhà tự lấy mẫu vì vậy sai 
sót kỹ thuật là không thể tránh khỏi. Nghiên cứu 
cho thấy 29,5% hộ gia đình tham gia có ít nhất 
một thành viên dương tính trong đó 39,4% gia 
đình nhiễm nặng (hộ có ≥ 50% mẫu Graham 
dương tính). Khoảng 45,6% hộ gia đình có ≤ 50% 
thành viên trong nhà tham gia nghiên cứu. Các 
yếu tố này cho phép suy diễn 29,5% trong kết 
quả khảo sát là ước lượng non. Số liệu cho thấy 
sự vượt trội ở các thành viên 10 tuổi (25,4%) so 
với > 10 tuổi (13,9%) (p<0,03), phù hợp kết quả 
khảo sát của Pezzani tại Mansilla, Argentina: 
29,12% đối tượng nhiễm giun kim, với 41,42% ở 
những người con, cao hơn 14,28% ở cha mẹ 
(p=0,001), trong đó mẹ nhiễm nhiều hơn bố do 
chăm sóc, gần gũi con hơn. Tính tập thể đã phản 
ánh logic cho đặc điểm trong chu trình phát triển 
của giun kim. 
Sự phân bố tính gia đình theo hành vi của các 
thành viên trong gia đình trẻ bệnh 
Đối với những thành viên ≤ 10 tuổi trong gia 
đình trẻ bệnh, kết quả phân tích đa biến trong 
bảng 2 kết luận nhóm trẻ ≤ 10 tuổi nếu có hành 
vi mút tay – cắn móng tay, sẽ có khả năng nhiễm 
giun kim cao gấp 9,85 lần so với trẻ không mút 
tay – cắn móng tay (p < 0,004). Trong gia đình có 
trẻ nhiễm giun kim, nếu vệ sinh cá nhân không 
đảm bảo, mầm bệnh sẽ phát tán khắp nơi, các trẻ 
nhỏ khác thường chơi chung, ăn chung, ngủ 
chung với trẻ bệnh, lại có thói quen mút tay, cắn 
móng tay, nên khả năng nhiễm bệnh là rất cao. 
Về hành vi rửa tay trước khi ăn, phân tích đơn 
biến (bảng 1) cho thấy sự khác biệt giữa nhóm có 
hoặc không rửa tay trước khi ăn với OR là 6,7 
[1,1-47,8] (p < 0,01) nhưng không được ghi nhận 
trong phân tích đa biến. Tương tự, mối liên quan 
giữa nhiễm giun kim và các yếu tố ngậm đồ 
chơi, rửa hậu môn, tẩy giun của trẻ chưa được 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 24
phát hiện trong cả bảng đơn biến, đa biến (bảng 
1 và bảng 2) và đều bộc lộ một điểm chung là 
khoảng tin cậy đều rộng, gợi ý đến sai số do cơ 
hội. Phải chăng cỡ mẫu chưa đủ để khảo sát vấn 
đề này? 
Kết quả phân tích đa biến, bảng 3, đã phát 
hiện khả năng nhiễm E. vermicularis ở những đối 
tượng > 10 tuổi cắn móng tay cao hơn nhóm còn 
lại 6,1 lần (p < 0,009). Khe giữa móng tay là “nơi 
trú ngụ khá kín đáo ”của trứng giun kim. Vì vậy, 
cắn móng tay sẽ tạo thuận lợi cho trứng giun 
kim xâm nhập vào đường tiêu hoá. Tỷ lệ và mật 
độ nhiễm ở các đối tượng > 10 tuổi không đáng 
kể, họ không giữ vai trò quan trọng trong việc 
phát tán trứng vào môi trường, qua đó việc rửa 
hậu môn mỗi sáng sớm cũng như việc tẩy giun 
định kỳ của họ sẽ không chi phối rõ ràng đến 
tình trạng nhiễm của chính họ; chủ yếu người 
lớn bị lây nhiễm mầm bệnh thải ra từ trẻ nhỏ. 
Hành vi mút tay – cắn móng tay của các thành 
viên trong gia đình trẻ bệnh có liên quan với tỷ 
lệ nhiễm của họ nhưng không thấy vai trò của 
ngậm đồ chơi. Có lẽ do xác suất trứng giun kim 
bám trên đồ chơi không cao như ở móng tay. 
Thật vậy, nghiên cứu tại trường mầm non Đại 
học Y Thái Nguyên, Phạm Thị Hiển đã phát hiện 
trứng giun kim hiện diện trong móng tay, sàn 
nhà, bàn ghế – đồ chơi với tỷ lệ lần lượt là 
29,91%, 20%, 17,5%(6). 
Các yếu tố liên quan đến tính gia đình của 
nhiễm giun kim 
Sự phân bố tính gia đình theo các đặc điểm của 
trẻ bệnh (trẻ mẫu giáo bị nhiễm giun kim) 
Sau khi kiểm soát khả năng tương tác, gây 
nhiễu, bảng 4 đã phát hiện nếu trẻ bệnh không 
được mẹ chăm sóc trực tiếp, tính gia đình của 
bệnh giun kim sẽ tăng gấp 3,77 lần (p < 0,03). 
Sự chăm sóc của mẹ có thể chu đáo hơn như 
thường xuyên vệ sinh đồ ngủ, đồ chơi, tắm 
rửa cho trẻ mỗi sáng sẽ góp phần loại bỏ mầm 
bệnh, vì thế các thành viên khác ít bị lây 
nhiễm hơn. Các yếu tố về lớp, giới, phân hiệu 
thường mang tính thuận lợi cho việc lan 
truyền bệnh giữa các trẻ học chung trường, 
lớp hơn là việc nhiễm giữa các thành viên 
trong gia đình trẻ. Về trình độ học vấn của 
người chăm sóc, trình độ cao chưa hẳn đã hiểu 
biết đúng về cách phòng ngừa giun kim. Do 
chu trình phát triển đặc thù, các biện pháp 
phòng tránh các loại giun khác – đã được 
tuyên truyền rất nhiều – không hiệu quả đối 
với giun kim. Đường lây truyền của giun kim 
là hậu môn – tay – miệng hoặc hít trứng từ 
không khí, đồng thời sự phát tán mầm bệnh 
vào không gian sinh hoạt rất dễ dàng vì trứng 
bám ở rìa hậu môn. Vai trò quyết định trong 
việc cắt đường lan truyền bệnh giun kim là 
rửa hậu môn đều đặn mỗi sáng sớm. 
Kết quả phân tích đa biến (bảng 5) đã bộc 
lộ được tỷ lệ nhiễm trên người nhà của trẻ lần 
lượt tăng 2,68 và 2,82 lần nếu việc rửa hậu 
môn mỗi sáng sớm và tẩy giun định kỳ không 
được thực hiện cho trẻ bệnh. Tuy nhiên, khi 
khảo sát sâu hơn theo từng nhóm ≤ 10 tuổi và 
> 10 tuổi, bảng 6 chỉ minh hoạ ý nghĩa thống 
kê của biện pháp rửa hậu môn ở trẻ bệnh đối 
với tình trạng Graham dương tính trên nhóm 
thành viên ≤ 10 tuổi sống chung nhà với trẻ (p 
< 0,03), chưa phát hiện mối liên quan nào về 
các thực hành này và tỷ lệ nhiễm trong nhóm 
> 10 tuổi. Một lần nữa, bản chất logic, khoa 
học trong chu trình phát triển của E. 
vermicularis lại được khẳng định. Các trẻ nhỏ 
thường sinh hoạt, tiếp xúc với nhau và với các 
nguồn ô nhiễm mầm bệnh thải ra từ trẻ bệnh 
nhiều hơn như cùng lê la trên sàn nhà, chơi 
chung đồ chơi. Bên cạnh đó, ý thức vệ sinh 
chưa cao, điều kiện vệ sinh chưa đảm bảo, nên 
các hành vi của trẻ nhỏ thường tạo thuận lợi 
cho mầm bệnh xâm nhập. Đối với trẻ lớn và 
người lớn, vấn đề vệ sinh chắc hẳn tốt hơn, do 
đó có vẻ độc lập hơn đối với thực hành rửa 
hậu môn ở trẻ. 
Sự phân bố tính gia đình theo đặc điểm sinh 
hoạt của gia đình trẻ bệnh 
Bảng 7 cho thấy có sự khác biệt về mặt thống 
kê của việc giặt chăn gối, rửa đồ chơi, cắt móng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 25
tay trong khảo sát đơn biến tuy nhiên những yếu 
tố này đều bị triệt tiêu trong kết quả đa biến. Các 
yếu tố ngủ chung với trẻ, quét nhà trước khi lau 
là thói quen hầu như tuyệt đối của người dân 
Việt Nam. Vì vậy, việc xử lý số liệu chắc hẳn bị 
tác động bởi sai số do cơ hội và được thể hiện 
qua độ rộng của các khoảng tin cậy. Ngoài ra, 
với tập quán quét nhà đơn thuần hoặc quét nhà 
trước khi lau chiếm đa số, khả năng phát tán 
mầm bệnh vào không khí dường như không bị 
ảnh hưởng bởi cấu trúc nền nhà. Phải chăng đây 
là lý do mà cấu trúc nền nhà không liên quan 
đến tính gia đình trong đánh giá này? 
Nếu mức độ thường xuyên trong giặt chăn 
gối, rửa đồ chơi, cắt móng tay thật sự không liên 
quan đến khả năng lây nhiễm cho các thành viên 
trong nhà, thiết nghĩ, phương thức nhiễm do hít 
trứng từ không khí cần được lưu ý hơn đối với 
trẻ lớn và người lớn sinh hoạt trong cùng không 
gian với trẻ. 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ học mẫu giáo 
tại xã Tân An Hội là 23,8%, tỷ lệ này vẫn chưa 
thay đổi so với những năm trước đây, chứng 
tỏ việc kiểm soát giun kim khá phức tạp. Tỷ lệ 
nhiễm của gia đình trẻ bệnh khá cao 29,5%, 
với 39,4% gia đình có hơn phân nửa số thành 
viên bị nhiễm, thành viên ≤ 10 tuổi nhiễm 
nhiều hơn người > 10 tuổi. Thói quen mút tay, 
cắn móng tay ở các thành viên ≤ 10 tuổi cũng 
như > 10 tuổi trong gia đình trẻ bệnh làm tăng 
khả năng nhiễm giun kim lần lượt là 9,85 và 
6,1 lần. Người chăm sóc trẻ mẫu giáo bị nhiễm 
giun kim là mẹ sẽ làm giảm tỷ lệ nhiễm cho 
các thành viên trong gia đình. Việc vệ sinh 
hậu môn cho trẻ mẫu giáo bị nhiễm giun kim 
có liên quan đến khả năng nhiễm ở các thành 
viên ≤ 10 tuổi nhưng không ảnh hưởng đến tỷ 
lệ nhiễm ở các thành viên > 10 tuổi. 
KIẾN NGHỊ 
Các trường mẫu giáo nên chủ động tổ chức 
giáo dục tuyên truyền hàng năm cho phụ huynh 
về kiến thức và thực hành phòng ngừa nhiễm 
giun kim. Nên cung cấp thông tin qua các 
phương tiện truyền thông đại chúng về bệnh 
giun kim nhằm đưa kiến thức phòng ngừa giun 
kim trở thành kiến thức phổ biến cho người dân, 
từng bước loại trừ bệnh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
1. Cook GC (1990), “Parasitic disease in clinical practice”, Springer – 
Verlag, London. 
2. Giang Thùy Dương (2005-2006), “Tình hình nhiễm giun kim ở 
một số nhà trẻ, mẫu giáo phường Tân An, TP. Buôn Mê Thuột và 
xã EaDrơng, huyện CưMgar, tỉnh Daklak”, Luận văn tốt nghiệp, 
Khoa y dược, Trường Đại học Tây Nguyên, Buôn Mê Thuột. 
3. Lương Thúy Vân, Nguyễn Đức Chỉnh & Trần Công Trưởng 
(2007 – 2008), “Hiệu quả của Mebendazole đơn liều trong việc kiểm 
soát nhiễm giun kim ở trẻ học mẫu giáo tại huyện Củ Chi, 
TP.HCM”, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ y khoa, trường Đại học 
Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP.HCM. 
4. Nguyễn Văn Dũng và Nguyễn Xuân Tuế (1996), “Tình hình 
nhiễm giun kim ở trẻ em TP. Buôn Mê Thuột lứa tuổi từ 1-10”, Đại 
học Tây Nguyên, Buôn Mê Thuột. 
5. Nhữ Thị Hoa, Hồ Quốc Cường, Nguyễn Trương Tường Duy 
và Trần Xuân Mai, “Hiệu quả của giáo dục sức khỏe trong 
kiểm soát nhiễm giun kim ở trẻ mẫu giáo tại huyện Củ Chi 
TP.HCM từ 9/2008 đến 5/2009”, Hội nghị khoa học công nghệ 
kỹ thuật trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 2010, Y học 
TP.HCM, Phụ bản tập 14 (2/2010), tr.206 – 211. 
6. Phạm Thị Hiển và cộng sự, "Điều tra tỷ lệ nhiễm giun kim 
trên trẻ em ở ngoại cảnh tại trường mầm non Đại học Y Thái 
Nguyên bước đầu áp dụng các biện pháp can thiệp và đánh 
giá kết quả”, Nội san Khoa học - Công nghệ Y Dược miền núi 
1999, tuyển tập công trình NCKH chuyên đề ký sinh trùng, 
Đại học Y Hà Nội, (1), tr.118 - 25. 
7. Phạm Thị Hương Liên, Hoàng Tân Dân, Lê Thanh Phương, 
Đặng Hồng Sáu và La Tô Hòa (1997 – 2003), “Nghiên cứu tình 
hình nhiễm giun đường ruột ở trẻ em trường mầm non Việt – 
Bun, Hà Nội và đánh giá hiệu quả của Nasoko (Mebendazole) 
trong điều trị giun đường ruột”, Tạp chí y học thực hành, (477), 
tr.95 – 99. 
8. Trần Thị Thanh Tâm và Nguyễn Thị Thảo Hiền (1994), “Phân 
tích dịch tễ học tỷ lệ nhiễm giun kim tại hai trường mầm non Linh 
Xuân – Q. Thủ Đức (ngoại thành TP.HCM)”, Luận văn tốt 
nghiệp bác sĩ đa khoa, Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ 
y tế TP.HCM. 
9. Trương Quang Ánh và Ngô Châm (2000), “Tình hình nhiễm 
giun ở nhà trẻ Hoa Mai TP Huế”, Bộ môn Ký sinh trùng, Đại 
học Y Huế, tr.61 - 67. 
Ngày nhận bài báo: 02/01/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/01/2018 
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2018