Tổng quan nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với mặt hàng sữa bột

Tài liệu Tổng quan nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với mặt hàng sữa bột: CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI MẶT HÀNG SỮA BỘT 1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Đời sống ngày càng cao, nhu cầu sử dụng sữa hàng ngày trong mỗi gia đình trở thành thiết yếu. Vì vậy, thị trường sữa ngày càng có thêm nhiều sản phẩm mới đa dạng về nhãn hiệu và chất lượng. Tuy nhiên, với hàng loạt nhãn hiệu sữa đang có mặt trên thị trường như hiện nay người tiêu dùng không biết lựa chọn sao cho đảm bảo về chất lượng và công dụng của từng mặt hàng sữa mang lại. Đặc biệt là khi ngày nay với nhiều dòng sản phẩm sữa được chào bán trên thị trường rất phong phú, đa dạng về các thể loại: sữa nước, sữa bột, sữa chua…Không chỉ dừng lại ở đây mà chất lượng sản phẩm, tức là hàng giả, hàng nhái tràn lan trên thị trường khiến cho người tiêu dùng không khỏi lo lắng khi quyết định đi mua sữa cho con. Hơn nữa, sữa là một loại sản phẩm đặc biệt hơn các loại sản phẩm khác bởi đây chính là nguồn cung cấp dinh dưỡng chính cho các thế hệ tương lai của đất nước. Nếu ngay...

doc53 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1041 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tổng quan nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với mặt hàng sữa bột, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI MẶT HÀNG SỮA BỘT 1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Đời sống ngày càng cao, nhu cầu sử dụng sữa hàng ngày trong mỗi gia đình trở thành thiết yếu. Vì vậy, thị trường sữa ngày càng có thêm nhiều sản phẩm mới đa dạng về nhãn hiệu và chất lượng. Tuy nhiên, với hàng loạt nhãn hiệu sữa đang có mặt trên thị trường như hiện nay người tiêu dùng không biết lựa chọn sao cho đảm bảo về chất lượng và công dụng của từng mặt hàng sữa mang lại. Đặc biệt là khi ngày nay với nhiều dòng sản phẩm sữa được chào bán trên thị trường rất phong phú, đa dạng về các thể loại: sữa nước, sữa bột, sữa chua…Không chỉ dừng lại ở đây mà chất lượng sản phẩm, tức là hàng giả, hàng nhái tràn lan trên thị trường khiến cho người tiêu dùng không khỏi lo lắng khi quyết định đi mua sữa cho con. Hơn nữa, sữa là một loại sản phẩm đặc biệt hơn các loại sản phẩm khác bởi đây chính là nguồn cung cấp dinh dưỡng chính cho các thế hệ tương lai của đất nước. Nếu ngay từ đầu các bé được sử dụng đúng loại sản phẩm, đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm thì quá trình phát triển trí não, tăng trưởng của bé sẽ diễn ra tốt hơn ai hết. Nhưng nếu sản phẩm không được đảm bảo thì ngay từ đầu khi các bé hấp thụ sản phẩm sẽ không những không phát triển bình thường mà có khi còn làm chậm hay giảm một số chức năng vốn có. Vì vậy, điều này là rất quan trọng cần phải có sự can thiệp của nhà nước là rất lớn, từ diễn biến thị trường trên thực tế mà nhà nước sẽ có những chính sách áp dụng phù hợp với ngành sữa Việt Nam. 1.2 Xác lập vấn đề nghiên cứu Như đã đề cập ở trên, tình hình quản lý thị trường sữa bột trên địa bàn Hà Nội đang là một bài toán khá nan giải. Vấn đề nghiên cứu ở đây là nghiên cứu thực trạng thị trường và quản lý thị trường sữa bột tại Hà Nội của nhà nước. Trên cở sở phân tích thực trạng đề ra các biện pháp để quản lý thị trường sữa bột tại Hà Nội một cách hiệu quả. Do đó, chúng em đã lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với mặt hàng sữa bột trên địa bàn Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu khoa học. 1.3 Mục tiêu nghiên cứu Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về sữa bột và quản lý thị trường sữa bột của nhà nước. Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và thực trạng thị trường sữa bột trên địa bàn Hà Nội, phát hiện ra những mặt hạn chế trong quản lý thị trường sữa bột trên địa bàn Hà Nội của nhà nước và đưa ra các giải pháp quản lý thị trường sữa bột hữu hiệu. 1.4 Các câu hỏi đặt ra cho nghiên cứu Tình hình thị trường sữa bột trên địa bàn Hà Nội như thế nào? Tình hình quản lý nhà nước về thị trường sữa bột trên địa bàn Hà Nội ra sao? Khi kinh doanh sữa bột cần chú ý gì? Vấn đề đặt ra lớn nhất cho thị trường sữa bột là gì? Thuận lợi, khó khăn trong quản lý nhà nước trên thị trường sữa bột? Có thể đưa ra những giải pháp nào để cải thiện thị trường sữa bột hiện nay và đề ra hững biện pháp gì để nâng cao quản lý nhà nước trên thị trường sữa bột trong tương lai? 1.5 Phạm vi nghiên cứu: +Phạm vi không gian: Do hạn chế về không gian, chúng em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài này với phạm vi trên địa bàn Hà Nội hiện nay. + Phạm vi thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng thị trường sữa bột, quản lý nhà nước đối với thị trường sữa bột trên địa bàn Hà Nội trong khoảng thời gian 5 năm từ năm 2006 đến năm 2010. + Phạm vi nội dung: Nội dung nghiên cứu là thực trạng thị trường sữa bột hiện nay trên địa bàn Hà Nội và quản lý nhà nước về thị trường sữa, nhấn mạnh vấn đề quản lý nhà nước về thị trường sữa bột, chủ yếu bằng nội dung chính sách quản lý thị trường, tổ chức liên quan tới việc thực thi, kiểm soát thị trường. 1.6 Ý nghĩa của đề tài Trên cơ sở phân tích tình hình thực trạng thị trường sữa bột trên địa bàn Hà Nội và việc thực hiện vấn đề quản lý thị trường sữa nói chung, sữa bột nói riêng của nhà nước, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thị trường sữa bột trên địa bàn Hà Nội. Từ đó đưa ra những giải pháp, khuyến nghị để cải thiên, nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước hơn nữa. Cụ thể, qua đề tài nghiên cứu, người tiêu dùng cũng phần nào thấy được đặc điểm và vai trò của mặt hàng sữa bột như thế nào, và từ đó đưa ra những lựa chọn tiêu dùng thông thái, để tránh bị mua những hàng lởm, không đúng chất lượng. Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp kinh doanh sữa cũng vậy, các nhà kinh doanh sẽ nắm bắt thêm được các tình hình luật pháp quản lý thị trường sữa ra sao, và từ đó họ có cái nhìn tổng quan về ngành mình đang kinh doanh, để đưa ra những chiến lược cạnh tranh lành mạnh trên thị trường mình đang kinh doanh, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng, để đạt lợi nhuận tối đa.Về phía quản lý của nhà nước, thì qua đề tài nghiên cứu có thể thấy cái nhìn tổng quát nhất về thị trường sữa từ đó đưa ra các chính sách, văn bản quản lý sao cho phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp kinh doanh, và có những chế tài quản lý chặt chẽ về những vi phạm của nhà cung ứng sữa. 1.7 Kết cấu của đề tài nghiên cứu Ngoài các phần như tóm lược, phụ lục, danh mục bảng biểu, danh mục từ viết tắt, kết luận… đề tài bao gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với mặt hàng sữa bột. Chương 2: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước đối với mặt hàng sữa bột. Chương 3:phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với mặt hàng sữa bột trên địa bàn Hà Nội. Chương 4: Các kết luận và đề xuất giải pháp quản lý nhà nước đối với mặt hàng sữa bột trên địa bàn Hà Nội. CHƯƠNG II: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI MẶT HÀNG SỮA BỘT 2.1 Một số khái niệm 2.1.1 Khái niệm về mặt hàng sữa bột Sữa bột là loại sữa được làm khô trong chu trình chế biến để chuyển từ dạng nước thành dạng bột đồng thời khi chế biến còn được bổ sung thêm một số chất : canxi, DHA,AA,ARA, hỗn hợp prebitoric….và một số các chất phụ gia khác tùy theo tính chất của từng sản phẩm. ( theo tạp chí về thực phẩm) Các dạng sữa bột hiện nay : sữa bột nguyên kem, sữa bột tan nhanh, sữa bột gầy. + Sữa bột nguyên kem : Là sữa bột chứa từ 26% đến 42% hàm lượng chất béo. + Sữa bột tan nhanh: Là sữa bột chứa từ 1,5% đến 26% hàm lượng chất béo. + Sữa bột gầy :Là sữa bột chứa nhỏ hơn 1,5% hàm lượng chất béo. 2.1.2 Đặc điểm của mặt hàng sữa bột Trên thị trường Việt Nam hiện nay có hai nhóm sản phẩm là: sữa bột nguyên kem, sữa bột gầy.Nhóm nguyên liệu và vật liệu phụ trong thành phần sữa bột thường bao gồm: (1) độ tinh khiết cảu tất cả các loại nguyên liệu và vật liệu phụ phải đảm bảo yêu cầu đối với sản xuất thực phẩm, (2) chủng sữa tinh khiết,(3) các vitamin, (4) dầu thực vật,(5) đạm, ( 6) đường sữa, đường sacaroza, glucoza,lactoza, (7) tinh bột, (8) axit lacticDL, axit xitric, (9) muối khoáng, (10) nước uống, (11) các chất phụ gia khác tùy theo tính chất của từng sản phẩm. Để phân biệt được các loại sản phẩm sữa bột trên thị trường có rất nhiều cách, dưới đây là một số cách đơn giản: +) Tùy theo công dụng sản phẩm được chia ra các loại như sau: Loại sản phẩm dùng cho trẻ đẻ non và trẻ đến 3 tháng tuổi. Loại sản phẩm dùng cho trẻ từ 4 đến 12 tháng. Loại sản phẩm dùng cho trẻ từ 1 tới 3 tuổi. Loại sản phẩm dùng cho bà mẹ mang thai. Loại sản phẩm dùng cho người già. +) Tùy theo phương pháp chế biến sản phẩm được chia: Loại sản phẩm sữa bột không có phụ gia. Loại sản phẩm sữa bột có phụ gia. Loại sản phẩm dùng cho chế độ ăn kiêng. +) Tùy theo phương pháp chế biến và nhu cầu sử dụng sản phẩm sữa thì được chia làm các loại sau: Loại sản phẩm sữa bột dùng không cần đun sôi.(ăn trực tiếp). Loại sản phẩm cần phải đun sôi lại trước khi uống. Trên đây là một số cách để chúng ta dễ dàng nhận biết sản phẩm sữa bột. Sữa bột ngoài các đặc điểm trên thì sữa bột còn có thời gian bảo quản rất dài, các nhà sản xuất có thể tiết kiệm được một phần lớn cho chi phí vận chuyển sữa do sản phẩm có khối lượng giảm đi nhiều lần khi ta so sánh với nguyên liệu sữa tươi ban đầu. Sữa bột còn có một tính chất rất quan trọng là độ hòa tan của sản phẩm. 2.1.3 Vai trò của mặt hàng sữa bột Sữa là thức ăn tự nhiên có giá trị dinh dưỡng hoàn hảo được vắt từ vú động vật, sữa chứa hầu hết các chất dinh dưỡng cần thiết cho người như protein, gluxit, lipit, vitamin, Các muối khoáng. Những hợp chất này rất cần thiết cho khẩu phần thức ăn hằng ngày của con người. Do đó các sản phẩm từ sữa có một ý nghĩa quan trọng đối với dinh dưỡng của con người, nhất là đối với trẻ em, người già, và người bệnh. Từ sữa người ta có thể sản xuất ra nhiều loại thực phẩm khác nhau như sữa bột, sữa cô đặc, bơ, kem.. Đặc biệt là sữa bột không những được sử dụng tại gia đình để pha chế mà còn là nguyên liệu quan trọng trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau như trong sản xuất sữa tái chế và các sản phẩm chế biến từ sữa: như trong công nghiệp sản xuất bánh nướng, công nghiệp sản xuất bánh kẹo, chocolate, socola, xúc xích. 2.1.4 Chỉ tiêu đánh giá chất lượng sữa bột - Chỉ tiêu cảm quan:màu sắc, mùi vị, trạng thái, cụ thể được thể hiện trong bảng sau: Bảng 2.1 – Các chỉ tiêu cảm quan của sữa bột  Tên chỉ tiêu Đặc trưng của sữa bột 1. Màu sắc Từ màu trắng sữa đến màu kem nhạt 2. Mùi, vị Thơm, ngọt đặc trưng của sữa bột, không có mùi, vị lạ 3. Trạng thái Dạng bột, đồng nhất, không bị vón cục, không có tạp chất lạ (Nguồn: Theo cục vệ sinh an toàn thực phẩm) Chỉ tiêu vi sinh: tổng số vi khuẩn hiếu khí, số VSV gây bệnh như ecoli, salmonella,clostridium… - Chỉ tiêu hóa lý: độ ẩm, tỷ trọng, khả năng hòa tan, độ chua, kích thước hạt, hàm lượng các chất dinh duwongx như hàm lượng chất béo,lactose, vitamin, protein,.. - Khả năng hòa tan của sữa bột được xác định qua các chỉ tiêu: chỉ số hòa tan, độ thấm ướt, độ phân tán… - Chỉ số hòa tan: phương pháp chung xác định chỉ số hòa tan là cho 10g sữa bột gầy ( hoặc 13g sữa bột nguyên kem) vào 100ml nước ở 20 khuấy trộn trong một thời gian xác định, sau đó đem li tâm trên thiết bị chuẩn với số vòng quay và thời gian xác định. Sau quá trình li tâm, ta tách bỏ một thể tích xác định phần lỏng, tiếp cho một lượng nước cất vào ống ly tâm, lắc đều rồi đem ly tâm lần hai. Thể tích cặn thu được chính là chỉ số hào tan của sản phẩm sữa bột. Vậy chỉ số hòa tan càng lớn thì độ hòa tan càng thấp. - Độ thấm ướt: Là thời gian cần thiết tính bằng giây để làm ướt 10 g sữa gầy hoặc 13g sữa bột nguyên cream khi ta đổ sữa vào 100ml nước ở 20 . - Độ phân tán: Là tỉ lệ % sữa bột không tan, thông thường người ta thường cho 10g sữa bột gầy hoặc 13g sữa bột nguyên cream vào 100ml nước ở 20 , khuấy đều trong 20 giây rồi cho hỗn hợp vào bình thử. 2.1.5 Quản lý nhà nước về mặt hàng sữa bột Quản lý có thể hiểu với ý nghĩa thông thường, phổ biến, với phạm vi rất rộng là hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức của chủ thể vào đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và các hành vi của con người, nhằm duy trì tính ổn định và sự phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã định. QLNN là hoạt động có tổ chức và bằng pháp quyền của bộ máy nhà nước (công quyền) để điều chỉnh các quá trình xã hội, hành vi của công dân và mọi tổ chức xã hội (chính trị- kinh tế- xã hội), giữ gìn trật tự xã hội (thể chế chính trị) và phát triển xã hội theo những mục tiêu đã định. Quản lý nhà nước về thương mại: là một khoa học, có đối tượng nghiên cứu là các mối quan hệ tương tác giữa các thực thể có liên quan tới hoạt động thương mại và quản lý hoạt động thương mại của một nước, ngoài ra còn nghiên cứu tính quy luật của các quan hệ tác động và xu hướng sử dụng các công cụ, phương pháp quản lý của các cơ quan quyền lực của nhà nước đối với lĩnh vực thương mại. Quản lý nhà nước về mặt hàng sữa bột: là hoạt động có tổ chức của nhà nước thông qua các văn bản pháp quy, các công cụ, chính sách, nhà nước sẽ tác động đến thị trường sữa bột trên cả nước nhằm định hướng, dẫn dắt các chủ thể sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng để thực hiện tốt các vấn đề về sản xuất và cung cấp sữa . 2.2 Một số lý thuyết liên quan đến Quản lý Nhà nước đối với mặt hàng sữa bột 2.2.1 . Quản lý Nhà nước về giá Niêm yết công khai, cấm độc quyền, bán phá giá. Từ ngày 1/7/2002, Pháp lệnh giá đã được UBTV Quốc hội khoá X thông qua và Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ( ngày 8/5), sẽ có hiệu lực thi hành. Pháp lệnh quy định quản lý Nhà nước về giá và hoạt động về giá của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài sản xuất kinh doanh tại Việt Nam. Pháp lệnh gồm 3 nội dung cơ bản: điều hành giá của Nhà nước; hoạt động về giá của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh; quản lý Nhà nước về giá. - Nhà nước giữ vai trò bình ổn giá thị trường, định giá, hiệp thương giá; kiểm soát giá độc quyền. Khi giá thị trường của hàng hoá, dịch vụ quan trọng, thiết yếu có biến động bất thường, Nhà nước thực hiện các biện pháp bình ổn giá: điều chỉnh cung cầu hàng hoá sản xuất trong nước và hàng hoá XNK, hàng hoá giữa các vùng, các địa phương; mua vào hoặc bán ra hàng hoá dự trữ; kiểm soát hàng tồn kho; quy định giá tối đa, tối thiểu, khung giá; kiểm soát các yếu tố hình thành giá. - Nhà nước áp dụng các biện pháp kiểm soát giá độc quyền, chống bán phá giá. Các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh có quyền tự quyết định giá mua, giá bán hàng hoá, dịch vụ không thuộc danh mục Nhà nước định giá; được quyền khiếu nại về các quyết định giá của cơ quan Nhà nước làm thiệt hại lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phải niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ tại cửa hàng, nơi giao dịch mua bán, cung ứng dịch vụ và phải bán đúng giá niêm yết. Nhà nước nghiêm cấm việc liên kết độc quyền về giá; bán phá giá hàng hoá, dịch vụ; bịa đặt, loan tin không có căn cứ về việc tăng hoặc hạ giá; định giá sai; tăng hoặc giảm giá giả tạo bằng cách thay đổi số lượng, chất lượng, địa điểm giao nhận hàng; lợi dụng thiên tai, địch họa để đầu cơ tăng giá, ép giá. - Pháp lệnh quy định, cơ quan có thẩm quyền quản lý Nhà nước về giá có quyền: đình chỉ việc thực hiện giá bán hàng, dịch vụ do tổ chức, cá nhân liên kết độc quyền về giá quy định. Trường hợp cần điều chỉnh giá thì tổ chức, cá nhân phải lập phương án giá trình cơ quan có thẩm quyền quản lý Nhà nước về giá xem xét, quyết định. Các hành vi không bị coi là bán phá giá là: hạ giá bán hàng tươi sống, hàng tồn kho do chất lượng giảm, lạc hậu về hình thức, hàng theo mùa vụ; hàng để khuyến mại theo quy định của pháp luật. 2.2.2. Quản lý nhà nước về chất lượng Trước hết phải thấy rằng quản lý nhà nước về chất lượng là hoạt động tổng hợp mang tính kỹ thuật, kinh tế và xã hội, có mục tiêu, biến đổi theo thời gian và thông qua các cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức. Mục tiêu quản lý chất lượng của Nhà nước Việt Nam là “để đảm bảo nâng cao chất lượng hàng hóa, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động, bảo vệ môi trường, thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ, tăng cường năng lực quản lý nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác kỹ thuật, kinh tế và thương mại quốc tế” (Pháp lệnh Chất lượng Hàng hóa 1999). Để thực hiện những mục tiêu nói trên, các biện pháp sau đây được tiến hành: Ban hành và áp dụng tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa; Kiểm tra và chứng nhận chất lượng hàng hóa, áp dụng và chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng; công nhận năng lực kỹ thuật và quản lý của các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực chất lượng. thanh tra và xử lý các vi phạm về chất lượng. Những biện pháp quản lý của nhà nước về chất lượng này được thể hiện trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chất lượng. Điều đó phù hợp với xu hướng chung của quản lý nhà nước bằng pháp luật. 2.3 Tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam về QLNN đối với mặt hàng sữa bột Trong quá trình nghiên cứu và tìm tài liệu phục vụ đề tài chúng tôi thấy chưa có một công trình nào nghiên cứu trực tiếp về quản lý nhà nước đối với thị trường mặt hàng sữa bột mà chỉ có những công trình liên quan đến đề tài của chúng tôi đó là quản lý nhà nước về thương mại đối với hàng hóa nói chung. Cụ thể là: Đề tài thứ nhất: Hoàn thiện nội dung quản lý nhà nước về thương mại hàng hóa trên địa bàn Hà Nội đến năm 2020 Là đề tài thuộc danh mục luận án tiến sỹ kinh tế. Gồm có 3 chương lớn: Chương 1: Lý luận nội dung quản lý nhà nước về thương mại hàng hoá trên địa bàn tỉnh, thành phố Chương 2: Thực hiện nội dung quản lý nhà nước về thương mại hàng hoá trên địa bàn HN giai đoạn 2001 – 2007 Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện nội dung quản lý NN về thương mại hàng hoá trên địa bàn HN đến năm 2020 Đề tài thứ hai: Tác giả là các chuyên gia kinh tế. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác Quản lý Nhà nước về Thương mại. Bài viết gồm 3 chương : Chương I : Một số vấn đề lý luận về quản lí Nhà nước đối với lĩnh vực Thương mại ở nước ta. Chương II: Thực trạng công tác quản lí Nhà nước về Thương mại . Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLNN về Thương mại ở nước ta hiện nay. Nghị quyết đại hội, đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ : "Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô Nhà nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị kinh doanh, nhằm phát huy những tác động tích cực to lớn đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường". Đề tài thứ 3: Theo luận văn tốt nghiệp: Một số biện pháp chống gian lận thương mại qua giá trong hoạt động nhập khẩu tại chi cục Hải quan Gia Thụy- Gia Lâm- Hà Nội Về mặt lý luận các công trình trên đã hệ thống lại và nói rõ những lý luận cơ bản QLNN về thương mại, về thực tiễn các đề tài đó đi sâu tìm hiểu và phân tích thực trạng tình hình thương mại nói chung, phát hiện những tồn tại, nguyên nhân và đề xuất những giải pháp thích hợp để giải quyết những vấn đề còn tồn tại. Đó là những thành công của các nghiên cứu trước. Sự khác biệt của đề tài: Bước vào năm 2009 đứng trước thực tiễn khủng hoảng của nền kinh tế thế giới, thị trường Việt Nam nói chung và thị trường Hà Nội nói riêng trở thành vấn đề mang tính thời sự hết sức nóng bỏng vì Hà Nội là một trong hai thị trường có khối lượng tiêu thụ sữa lớn. Xuất phát từ tính cấp thiết ấy chúng em mạnh dạn nghiên cứu sang vấn đề mới mẻ mang tính thực tiễn đó là tập trung vào vấn đề QLNN về thương mại đối với mặt hàng sữa bột trên địa bàn Hà Nội. Đó là sự khác biệt về phạm vi, không gian nghiên cứu. Trên cơ sở kế thừa những lý luận của công trình đi trước, chúng em đã giải quyết vấn đề theo một hướng đi mới. Nếu như các đề tài trước tập trung giải quyết những bài toán nghiên cứu thực trạng sau đó tìm nguyên nhân tồn tại, đề xuất giải pháp thì đề tài chúng em đưa ra với tiêu đề “Quản lý nhà nước đối với mặt hàng sữa bột trên địa bàn Hà Nội” là đi tiếp cận các văn bản, thông tư đã ban hành, xem xét những nhân tố, tác nhân tác động tới vấn đề quản lý cũng như vấn đề thực thi theo pháp luật của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh mặt hàng sữa bột trên địa bàn Hà Nội. Từ đó đưa ra các kết luận đánh giá quá trình, điểm còn tồn tại, thiếu sót, có những kiến nghị phù hợp phục vụ cho việc phát triển vấn đề QLNN về thương mại đối với thị trường mặt hàng sữa bột. Đó chính là sự khác biệt trong cách tiếp cận đề tài của chúng tôi, đề tài của chúng em không trùng với bất cứ đề tài nào của các nghiên cứu đi trước. 2.4 Phân định nội dung nghiên cứu quản lý nhà nước đối với mặt hàng sữa bột 2.4.1. Nội dung Quản lý nhà nước về mặt hàng sữa bột 2.4.1.1. Quản lý nhà nước đối với việc nhập khẩu sữa bột Hàng năm, căn cứ nhu cầu sữa bột của nền kinh tế quốc dân và nguồn sữa sản xuất trong nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương xác định nhu cầu định hướng về sữa nhập khẩu của năm tiếp theo. Trên cơ sở nhu cầu định hướng về sữa nhập khẩu, Bộ Công Thương giao hạn mức nhập khẩu tối thiểu cả năm theo cơ cấu chủng loại cho từng thương nhân có Giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu sữa để làm thủ tục nhập khẩu với cơ quan hải quan. Căn cứ nhu cầu thị trường, thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu sữa quyết định khối lượng sữa nhập khẩu các loại để tiêu thụ tại thị trường trong nước nhưng không thấp hơn mức tối thiểu được giao. Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan kiểm tra, giám sát việc nhập khẩu sữa của các thương nhân, bảo đảm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và tiêu dùng của xã hội. Trong trường hợp cần thiết, Bộ Công Thương điều chỉnh mức nhập khẩu tối thiểu đã giao cho các thương nhân. 2.4.1.2. Quy định về thành lập quỹ bình ổn giá Thương nhân đầu mối có nghĩa vụ trích lập Quỹ Bình ổn giá để tham gia bình ổn giá theo quy định. Quỹ Bình ổn giá được lập để tại doanh nghiệp, được hạch toán riêng và chỉ sử dụng vào mục đích bình ổn giá. Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế hình thành, quản lý và sử dụng Quỹ Bình ổn giá. Theo đó, Bộ Tài chính tổ chức ngay các đoàn kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về thuế và pháp luật về giá đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh các mặt hàng thuộc danh mục bình ổn giá, đăng ký giá, kê khai giá, niêm yết giá tại các thành phố sau: xi măng, sắt thép, khí hoá lỏng, xăng dầu, phân bón, đường, sữa, thức ăn chăn nuôi, thuốc chữa bệnh cho người, cước vận tải bằng ôtô và hàng hoá dịch vụ thiết yếu khác thuộc danh mục bình ổn giá, đăng ký giá. Bộ Tài chính và cơ quan chức năng liên quan sẽ xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về thuế, pháp luật về giá. Đối với DN vi phạm, cơ quan này sẽ thực hiện công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng các hành vi vi phạm để nhân dân biết và giám sát kiểm tra, tránh bị lợi dụng. Riêng đối với mặt hàng thuốc phòng, chữa bệnh cho người, Bộ Tài chính đã có công văn gửi Bộ Y tế đề nghị tăng cường giám sát giá thuốc kê khai theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Như vậy, sữa cũng là một mặt hàng đang được bộ tài chính cân nhắc việc bình ổn giá. 2.4.1.3. Giá bán sữa bột Nguyên tắc quản lý giá bán sữa bột a) Giá bán sữa bột được thực hiện theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. b) Thương nhân đầu mối được quyền quyết định giá bán buôn; việc điều chỉnh giá bán lẻ sữa bột được thực hiện theo nguyên tắc, trình tự và có trách nhiệm tham gia bình ổn giá theo quy định của pháp luật hiện hành và được bù đắp lại những chi phí hợp lý khi tham gia bình ổn giá. c) Thời gian giữa hai (02) lần điều chỉnh giá liên tiếp tối thiểu là mười (10) ngày dương lịch đối với trường hợp tăng giá, tối đa là mười (10) ngày dương lịch đối với trường hợp giảm giá; khi điều chỉnh giá bán lẻ sữa bột, thương nhân đầu mối đồng thời phải gửi quyết định giá và phương án giá của mình đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; d) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khi nhận được quyết định giá và phương án giá của thương nhân đầu mối, có trách nhiệm giám sát để bảo đảm việc điều chỉnh giá của thương nhân đầu mối thực hiện đúng quy định của pháp luật; đ) Căn cứ tình hình kinh tế - xã hội, giá sữa thế giới trong từng thời kỳ, Thủ tướng Chính phủ quyết định điều chỉnh các quy định nêu trên. 2.4.1.4. Quản lý số lượng và chất lượng sữa bột 1. Chỉ được phép lưu thông sữa bột trên thị trường Việt Nam có chất lượng phù hợp với Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và Tiêu chuẩn công bố áp dụng. 2. Thương nhân kinh doanh sữa bột phải thực hiện các quy định hiện hành về quản lý chất lượng sũa trong quá trình nhập khẩu, sản xuất, pha chế, tồn trữ, vận chuyển và bán cho người tiêu dùng; chịu trách nhiệm về chất lượng sữa trong hệ thống phân phối thuộc mình quản lý. 3. Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm chỉ đạo việc kiểm định các thiết bị đo lường theo quy định hiện hành của pháp luật về đo lường và việc bảo đảm chất lượng theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và Tiêu chuẩn công bố áp dụng; phối hợp với các Bộ, ngành liên quan rà soát các tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sữa để điều chỉnh, bổ sung các chỉ tiêu chất lượng, phương pháp thử phù hợp với tiêu chuẩn của các nước trong khu vực và quốc tế. 2.4.1.5.Thanh tra ,kiểm tra xử lý các hoạt động kinh doanh sữa trên Hà Nội Thương nhân kinh doanh sữa phải chịu sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hoạt động kinh doanh sữa. Các Bộ ,cơ quan ngang bộ ,ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo chức năng ,nhiệm vụ của mình có trách nhiệm chỉ đạo ,tổ chức thanh tra ,kiểm tra việc chấp hành các quy định theo các nghị định của thủ tướng chính phủ về kinh doanh mặt hàng sữa và các văn bản khác ;ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm ,bảo đảm bình ổn thị trường sữa ,đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước đối với sữa bột Nhân tố môi trường vĩ mô -Các nhân tố được nói đến ở nhóm này là những nhóm nhân tố môi trường liên quan đến tình hình kinh tế, xã hội, chính trị - luật pháp, nhân khẩu học . . có sự tác động trực tiếp hay gián tiếp tạo nên sự biến động thị trường đối với mặt hàng sữa bột. Tình hình kinh tế trong nước và thế giới ảnh hưởng trực tiếp tới việc quản lý của nhà nước tới từng mặt hàng, không chỉ riêng gì mặt hàng sữa. Ngoài ra, sự phát triển của xã hội theo từng giai đoạn cũng kéo theo hệ thống quản lý thay đổi theo từng giai đoạn, ở mỗi một giai đoạn khác nhau thì nhà nước có những chính sách phù hợp khác nhau. Để từ đấy, nhà nước ban hành các văn bản luật pháp về các ngành nghề kinh doanh cho từng loại danh mục hàng hóa tương ứng. Nhân tố môi trường vi mô: Khi nói đến sự tác động của nhân tố này không thể không nhắc tới đó là chính doanh nghiệp kinh doanh sữa, điều kiện nội tại của ngành sữa, đội ngũ nhân viên từ phía các doanh nghiệp này. Các nhân tố ảnh hưởng được nói đến trong môi trường vi mô là những lực lượng tác động qua lại từ phía doanh nghiệp với các lực lượng khác như những người cung ứng, đối thủ cạnh tranh, khách hàng Trong môi trường các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng sữa, khi soạn thảo các chiến lược phải chú ý đến lợi ích của các nhóm trong nội bộ bản thân công ty. CHƯƠNG III :PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÁC KẾT QUẢ PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI MẶT HÀNG SỮA BỘT TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 3.1 Phương pháp hệ nghiên cứu: 3.1.1 Phương pháp thu thập số liệu Thu thập và tham khảo số liệu qua những kết quả điều tra trong các trang web, các đề tài nghiên cứu trong nước và thế giới có nội dung liên quan, các tài liệu của trường Đại Học Thương Mại. 3.1.2. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu Phương pháp thống kê : Để thực hiện tổng kết số liệu thì chúng em thông kê các số liệu thu thập được qua công tác thu thập số liệu thành dạng bảng, trong quá trình thông kê số liệu chúng em chú trọng việc chọn lọc nguồn tin cho chính xác và thống kê chính xác tránh sai lệch nhiều. Phương pháp so sánh đối chiếu : sau khi đã thống kê số liệu theo dạng bảng và sắp xếp phù hợp thì chúng em tiến hành so sánh đối chiếu số liệu qua các năm các thời kỳ cụ thể để làm nổi bật nên tốc độ tăng doanh số từ hoạt động cung cấp sữa bột của thành phố Hà Nội qua các năm và tốc độ tăng số người tham gia vào cung cấp sản phẩm này phục vụ tốt cho công tác dự báo…qua đó cho ta thấy được tầm quan trọng của sản phẩm sữa bột đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Phương pháp phân tích tổng hợp : Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để phân tích tổng hợp, ngoài ra còn sử dụng phương pháp logic và phương pháp triển khai, quy nạp trong qua trình phân tích lí luận và thực tiễn. 3.2 Đánh giá tổng quan tình hình và ảnh hưởng nhân tố môi trường đến QLNN đối với mặt hàng sữa bột trên địa bàn Hà Nội 3.2.1 Thực trạng thị trường sữa bột trên địa bàn Hà Nội 3.2.1.1 Tình hình cầu Tính đến thời điểm 2010, dân số Hà Nội mở rộng tăng lên một cách nhanh chóng, 6.472, 2 nghìn người (tính đến 31/12/2009 –tổng cục thống kê)thu nhập bình quân đầu người ở Hà Nội năm 2010 đạt 1000USD/người. (Tính đến 31/12/2009- tổng cục thống kê). Nhu cầu thị trường hàng hóa và dịch vụ nói chung là rất lớn ngoài những sản phẩm thiêt yếu hàng ngày, nhu cầu của con người bây giờ không phải là ‘ăn no mặc ấm” như trước nữa mà bây giờ phải là “ ăn ngon, mặc đẹp”. Đặc biệt là nhu cầu về các sản phẩm bổ sung thêm dưỡng chất ngoài các bữa chính. Trong những năm gàn đây nền kinh tế ngày một phát triển , chất lượng cuộc sống của người dân Hà Nội ngày càng đượ nâng cao. Do vậy, sản phẩm sữa không còn chỉ giành riêng cho trẻ em như trước nữa, mà bây giờ thành phần tiêu dùng sản phẩm này ở mọi lứa tuổi. Theo phiếu điều tra ý kiến người tiêu dùng đối với câu hỏi 1:” Bạn có biết đến sẩn phẩm sữa bột không?” có tới 98% người tiêu dùng trả lời rằng họ có biết sản phẩm sữa bột, 2% còn lại là chưa nghe thây.Điều này cho thấy sản phẩm sữa bột đã trở lên quen thuộc đối với người tiêu dùng. Như vậy sữa đang là vấn đề được đông đảo người ân quan tâm, đối với câu hỏi 2 “ bạn biết sản phẩm sữa bột qua phương tiện nào ?”. Phần lớn người tiêu dùng trả lời rằng biết qua bạn bè và người thân (45%), qua internet (25%), qua sách vở, báo chí, hay phương tiện truyền thông khác là 30%. Khi hỏi về địa điểm mua sữa, chúng em đã thu được ý kiến của người tiêu dùng thông qua bảng sau: Bảng 3.1: Địa điểm mua sữa của người tiêu dùng STT Địa điểm Số lượng(người) Tỷ lệ(%) 1 Siêu thị 30 30 2 Của hàng chuyên kinh doanh về sữa 10 10 3 Các của hàng bán tổng hợp, ở gần nhà, cơ quan làm việc 60 60 Tổng 100 100 ( Nguồn tổng hợp của nhóm nhiên cứu) Nhu cầu về sữa còn tiếp tục gia tăng và tiềm năng phát triển thị trường sữa việt Nam còn rất lớn. theo các chuyên gia kinh tế dự báo rằng, năm 2011 nhu cầu sữa bột của người dân Hà Nội có thể tăng 55 % so với năm 2010, lên mức khoảng 67 nghìn tấn. trong giai đoạn 2011- 2015 bình quân tiêu thụ hàng năm có thể rơi vào khoảng 85 nghìn tấn.Giai đoạn 2006- 2009, mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người đã tăng gấp rưỡi. đến năm 2010, chỉ tiêu này tiếp tục tăng 26.2 % so với năm 2009.Quy mô thị trường sữa. Quy mô tiêu thụ sữa của toàn thị trường vào năm này đạt 1.257 triệu lít quy đổi. Bình quân mức tăng trưởng tiêu thụ sữa toàn thị trườ ng giai đoạn 2001-2008 đạt 9,06%/năm. Trong thời gian qua, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện đã thúc đẩy thị trường sữa trong nước có sự tăng trưởng cao, với tốc độ bình quân khoảng 9,06%/năm từ năm 2000 đến nay. Tiêu thụ sữa bình quân đầu người tăng bình quân 7,85%/năm, từ 8,09 lít/người năm 2006 lên 14,81 lít/người năm 2010. Cụ thể, ta thấy được mức tiêu thụ sữa trên địa bàn Hà Nội trong khoảng thời gian gần đây như sau: Tiêu chí 2006 2007 2008 2009 2010 Dân số (triệu người) 5.824 6.164 6.233 6.301 6.37 TT sữa nội địa(triệu lít quy đổi) 47.116 75.324 79.22 92.94 94.34 TTbình quân(lit/người/năm) 8.09 12.22 12.71 14.75 14.81 Bảng 3. 2: Mức tiêu thụ sữa trên địa bàn Hà Nội trong một số năm . (Xử lý theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan) Xét trên toàn thị trường Việt Nam với hơn 86 triệu dân, tỷ lệ tăng hàng năm vào khoảng 1,2% nên mỗi năm có khoảng hơn 1 triệu trẻ em ra đời, với mức tăng GDP khoảng 6-8% mỗi năm và tỉ lệ Trẻ suy dinh dưỡng còn ở mức tương đối cao (khoảng 20%) sẽ là một thị trường tiềm năng để phát triển ngành sữa.Hơn nữa, như thống kê ở bảng trên, mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người tại Hà Nội năm 2010 là 14,8 lít/người/năm, là mức khá cao trên thị trường Việt Nam. Sữa hiện nay được tiêu thụ chủ yếu tại các thành phố lớn, khu vực thành thị có kinh tế phát triển, còn tại các vùng nông thôn thì rất thấp. Theo số liệu thống kê của Viện Dinh dưỡng thì người dân thành thị sử dụng lượng sữa bình quân hàng năm nhiều gấp 4 lần người dân nông thôn.Các vùng nông thôn càng nghèo, càng xa thì cơ hội được dùng các sản phẩm sữa càng ít. Ngay ở các vùng nông thôn thì mức tiêu thụ sữa của các xã nghèo chỉ bằng một phần năm mức tiêu thụ sữa ở xã không nghèo. Trong tương lai khi mức thu nhập bình quân tăng lên thì mức tiêu thụ sữa cũng sẽ gia tăng cả ở khu vực thành thị và nông thôn.Cơ cấu tiêu dùng đang có nhiều thay đổi. Năm 2007 sữa bột chiếm khoảng 27% tổng khối lượng sữa tiêu thụ trên địa bàn Hà Nội, năm 2010 là 32%.. Hiện nay trên thị trường Hà Nội có tới hơn 300 loại sản phẩm sữa do các công ty trong nước sản xuất và nhập khẩu, cạnh tranh nhau khá gay gắt. Các loại sản phẩm sữa có giá bán đắt nhất và cũng là các loại sữa được tiêu thụ mạnh nhất là sữa cho trẻ em, người lớn tuổi và phụ nữ mang thai.Theo nghiên cứu của các nhà khoa học cũng như từ lời khuyên của các nhà dinh dưỡng, bác sĩ cho thấy nhóm trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ phải được dùng sữa mẹ hoặc sữa công nghiệp sản xuất riêng cho nhóm tuổi này mà không nên thay thế bằng các loại sữa khác. Ví dụ, trẻ sơ sinh chỉ nên dùng sữa bột công thức dành cho trẻ từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi mà không nên uống trực tiếp sữa tươi, vì sữa bò tươi không giàu các vi chất dinh dưỡng như sữa mẹ hay sữa bột. Vì thế nếu cho trẻ chuyển sang dùng sữa tươi sớm, cơ thể trẻ sẽ nhanh chóng bị thiếu hụt những vi chất cần thiết, giúp phát triển thể chất như sắt.Bên cạnh đó hàm lượng sắt và phốtpho trong thành phần sữa tươi không thích hợp với hệ tiêu hóa còn non của trẻ sơ sinh. Mặt khác, trong giai đoạn tiến tới 12 tháng tuổi, bộ máy tiêu hóa của trẻ vẫn chưa đủ men để chuyển hóa các loại protein phức hợp có trong sữa bò tươi. Khi đó, chúng không chỉ gây “quá tải” cho dạ dày của trẻ mà nghiên cứu còn cho thấy chúng làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường (đặc biệt là trong những gia đình có tiền sử mắc bệnh này) đồng thời trẻ cũng dễ mắc các bệnh dị ứng như eczema và hen. Tóm lại, với nhu cầu ngày càng gia tăng như vậy, thị trường sữa Việt Nam nói chung và thị trường sữa ở Hà Nội nói riêng sẽ ngày một phát triển và các doanh nghiệp sẽ ngày một đa dạng hoá các loại sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng. 3.2. 1.2.Tình hình cung Theo Cục Quản lý cạnh tranh, sữa là một trong những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất và khá ổn định trong các ngành thực phẩm tại Việt Nam, với tỷ suất lợi nhuận tương đối cao. So với các nước trong khu vực, các đánh giá của một số công ty nghiên cứu thị trường cũng cho biết thị trường sữa bột Việt Nam tăng trưởng khá cao so với nhiều nước. Cũng như các thành phố lớn khác, đặc biệt là thị trường Hà Nội khả năng tiêu thụ các sản phẩm sữa là rất lớn để đáp ứng nhu cầu đó, các doanh nghiệp Việt Nam không ngừng gia tăng và mở rộng về thị trường và chủng loại thêm phong phú đa dạng. Để đáp ứng đủ nhu cầu của người tiêu dùng, thị trường sản xuất trong nước không thể cung cấp xuể, vì vậy ngoài việc kinh doanh các mặt hàng sản xuất trong nước thì các doanh nghiệp vẫn phải đảm bảo nhập khẩu đủ lượng sữa tiêu dùng. Ngoài ra, còn một lượng hàng khác được nhập qua đường hàng xách tay; một số doanh nghiệp cũng nhập khẩu một vài tấn đến vài container để phân phối bán lẻ, tuy nhiên những dạng kinh doanh này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trên thị trường. Kim ngạch nhập khẩu sữa bột liên tục tăng mạnh trong những năm qua. Năm 2007 có gần 7,1 triệu hộp sữa bột được nhập khẩu vào Viêt Nam,vào thị trường Hà Nội là 2.1 triệu hộp, đến năm 2008 đã tăng thêm 17,3% lên trên 3,23 triệu hộp… Đánh giá về tiềm năng phát triển của thị trường, Cục Quản lý cạnh tranh cho rằng, với tốc độ tăng dân số khoảng 1,2%/năm; GDP tăng trưởng 6-8%/năm và tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng còn ở mức cao, khoảng 20%,… là những yếu tố thuận lợi cho sự phát triển thị trường sữa.Hơn nữa,Với việc trở thành thành viên WTO và AFTA, Việt Nam cũng đã cam kết hạ mức thuế suất thuế nhập khẩu sản phẩm và nguyên liệu sữa. Thuế giá trị gia tăng cho các sản phẩm sữa bột tại Việt Nam hiện cũng ở mức trung bình so với các nước trong khu vực. Đây cũng là điều kiện có lợi cho việc phát triển thị trường sữa bột Việt Nam. Theo đánh giá của các công ty sữa, các chuyên gia marketing và chuyên gia thị trường thì hiện tại trên 85% giá trị của thị trường sữa bột, đặc biệt là sữa bột dành cho trẻ em thuộc về các hãng sữa ngoại.Trong đó dẫn đầu là các hãng Abbott, Mead Johnson, và FrieslandCampina chiếm thị phần lần lượt vào khoảng 26,8%, 13,9%, và 26,7%. Tiếp sau đó là các hãng sữa ngoại khác như Dumex, Nestlé… Đại diện cho doanh nghiệp sữa trong nước có Vinamilk chiếm thị phần khoảng 12,6%. Theo nhóm thực hiện báo cáo thì những con số này chưa chính xác vì trên thị trường ngoài các hãng, doanh nghiệp lớn kể trên có sự góp mặt của một số hãng sữa khác cả trong và ngoài nước tuy rằng thị phần không lớn. Biểu đồ 3.1: Thị phần của một số hãng sữa lớn trên thị trường sữa bột (Thông tin ghi nhận từ các buổi trao đổi, phỏng vấn với đại diện công ty Vinamilk do Cục QLCT tổ chức.) Trên thị trường sữa Việt Nam hiện nay có rất nhiều hãng sữa cung cấp, ngoài sữa nội, thì trên thị trường Hà Nội còn có rất nhiều hãng sữa ngoại, nguồn cung sản phẩm sữa ngày một đa dạng và phong phú. Cụ thể dưới đây là một số hãng cung cấp trên thị trường sữa Việt Nam Bảng 3.3: Thị phần của một số hãng sữa theo giá trị và sản lượng bán tại 6 thành phố lớn trong tháng 9 năm 2009. STT Tên hãng % Theo sản lượng % Theo giá trị 1 Abbott 42.4 28.2 2 Dutch Lady 18.7 25.3 3 Mead Johnson 9.7 7.6 4 Vinamilk 8.6 15.5 5 Nestle 2.9 3 6 Fonterra brands 4.8 5.0 7 Dumex 4.6 3.3 8 Nutifood 3.1 5.6 9 Arlafood 0.9 0.7 (Thông tin do các doanh nghiệp sữa cung cấp tại các buổi trao đổi, làm việc do Cục QLCT tổ chức.) Theo nhận định của các chuyên gia marketing và chuyên gia thị trường ngành sữa thì hiện nay các sản phẩm sữa bột trên phân đoạn thị trường sữa bột cao cấp không nhiều, tập trung chủ yếu trên các phân đoạn thị trường trung cấp và bình dân. Và mức giá bán hiện tại giữa các nhóm sản phẩm sữa bột trên các phân đoạn thị trường này chênh lệch nhau vào khoảng 20% hoặc hơn.(Ý kiến thu thập được trong quá trình trao đổi, phỏng vấn giữa nhóm nghiên cứu với các chuyên gia marketing, chuyên gia phát triển thị trường tại các hãng sữa.).Theo báo cáo kim ngạch nhập khẩu sữa của Tổng cục Hải quan, mặt hàng sữa nguyên liệu và sữa thành phẩm nhập khẩu trong các năm 2008, 2009 và 2010 gồm hai mã chính là 0401 và 0402. Xem xét giá trị nhập khẩu, có thể thấy nhập khẩu sữa tăng mạnh từ 2009 USD đến 2010. Nếu chỉ tính riêng cho sữa và sản phẩm từ sữa thuộc hai mã nêu trên năm 2009 đạt 391.293.521 USD, năm 2010 đạt 422.045.443 (tăng7.85 % so với năm 2009) (Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan)Hiện nay, ngoài các các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất, chế biến sữa, các công ty sữa trực tiếp nhập khẩu các loại nguyên liệu phục vụ cho việc sản xuất, chế biến của mình, còn có nhiều doanh nghiệp không trực tiếp sản xuất, chế biến các sản phẩm sữa cũng tham gia nhập khẩu các loại nguyên liệu sữa để bán lại hoặc làm phụ gia cho việc sản xuất các loại sản phẩm khác không phải là sữa.Theo thống kê của của Tổng cục Hải quan, trong giai đoạn 2007 – 2010 có gần 250 doanh nghiệp tham gia nhập khẩu sữa nguyên liệu và sữa thành phẩm. Trong số này, tổng số các doanh nghiệp nhập khẩu các sản phẩm sữa thành phẩm và sữa nguyên liệu để phục vụ sản xuất chỉ chiếm khoảng 50%. Còn lại là các doanh nghiệp nhập khẩu sữa nguyên liệu để bán lại. Biểu đồ 3.2: Kim ngạch nhập khẩu của top 10 nước xuất khẩu sữa nhiều nhất vào Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2009. (Báo cáo ngành hàng Việt Nam: Sữa – quý 1/2009, Trung tâm thông tin phát triển NNNT – Bộ NN&PTNT.) Trong hai tháng đầu năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu sữa của Hà Lan vào Việt Nam là 9,43 triệu USD, chiếm 21,27% tổng kim nhập khẩu sữa của Việt Nam từ thế giới. Thứ hai trong số này là New Zealand với kim ngạch 7,8 triệu USD.Tuy nhiên hai nước này lại có kim ngạch xuất khẩu sữa vào Việt Nam trong hai tháng đầu năm 2009 giảm so với hai tháng đầu năm 2008, mức giảm lần lượt vào khoảng 7-10% đối với Hà Lan, 78,42% với New Zealand. Ngoài ra còn có Úc giảm 0,59%, Ba Lan giảm 70,34%, và Pháp giảm 36,94% so cùng kỳ năm 2008. Nguyên nhân của sự sụt giảm này một phần là do khủng khoảng kinh tế năm 2008, bên cạnh đó còn do ảnh hưởng của thông tin về sữa nhiễm melamine ảnh hưởng đến tâm lý người tiêu dùng, làm cho nhu cầu tiêu dùng của người dân có dấu hiệu chững lại và sụt giảm nên các doanh nghiệp nhập khẩu đã hạn chế nhập khẩu cả các sản phẩm sữa thành phẩm và sữa nguyên liệu. Bảng 3.4: Danh sách và tỉ lệ phần trăm về sản lượng nhập khẩu mặt hàng sữa bột nguyên liệu của một số doanh nghiệp các năm 2008, 2009 và năm 2010 . Đơn vị :% STT Tên doanh nghiệp 2008 2009 2010 1 CTCP sữa VN-Vinamilk 52.9 46.4 50 2 CTTNHHFriesland campina 34.0 29.8 30 3 CTCP sữa Hà Nội 2.2 1.5 2 4 CTCPTP- Đồng Tâm 0.1 1.2 1.8 5 CTTNHH Nestle Việt Nam 3.8 1.1 1.2 6 CTCP Đại Tân Việt 1.9 9.9 7.5 7 CTTNHH Thế hệ mới 1.6 3.2 2.5 8 CTTNHH Than An 1.8 2.9 2 9 CTTNHH TM và CNTP Hoàng Lâm 0.7 2.4 1.6 10 CTTNHH DT-PT-NN Hà Nội 0.9 1.6 1.4 ( Theo số liệu của Tổng cục Hải Quan.) Với sức cầu mạnh mẽ, để đáp ứng được nhu cầu đó, các hãng kinh doanh sữa không thể không nhập thêm sản phẩm,tỷ trọng nhập khẩu sữa ngoại cũng ngày một gia tăng.Tóm lại tình hình cung sản phảm sữa trên địa bàn Hà Nội cũng rất phong phú và đa dạng cả về sản phẩm nội với sản phẩm ngoại. 3.2.1.3.Tình hình giá cả và sự biến đổi trên thị trường sữa bột Mức giá bình quân trên toàn thị trường của nhóm sản phẩm sữa bột, đặc biệt là sữa bột dành cho trẻ em liên tục tăng trong thời gian qua. Biểu đồ: 3.3.Mức giá bình quân chung trên thị trường sữa bột trong 2008-2010. ( Theo nguồn nhóm thực hiện thu thập) Năm 2008, mức giá bình quân chung của nhóm sản phẩm sữa bột trên thị trường là 155,729 triệu đồng/tấn.Năm 2009 mức giá này tăng lên 187,956 triệu đồng/tấn, tăng 20,7% so với năm 2008. Năm 2010, mức giá bình quân của nhóm sản phẩm sữa bột trên thị trường là 239,782 triệu đồng/tấn, tăng 27,5% so với năm 2009 và 53.9% so với năm 2008. Như vậy chỉ sau hai năm mức giá bình quân chung của nhóm sản phẩm sữa bột đã tăng hơn 80%. Nghịch lý tăng giá bán, sản lượng tăng theo.Tâm lý sính ngoại, tin tưởng vào sản phẩm giá cao, trung thành với nhãn sữa… trở thành yếu tố thuận lợi để các hãng sữa cân nhắc việc tăng giá thu lợi nhuận. Hiện nay, thị trường sữa bột Hà Nội hiện diện sự thống trị của một vài hãng sữa lớn.Bốn hãng hàng đầu đã chiếm gần 80% thị phần của ngành này. Lớn nhất là Abbott với 37,9% thị phần tại thị trường sữa bột Hà Nội, theo số liệu của năm 2009. Tiếp đến, Friesland Campina (Dutch Lady) chiếm 16,5%; Vinamilk chiếm 14,7% Dumex chiếm 8,1%. . Theo Cục Quản lý cạnh tranh, các rào cản về tài chính, công nghệ, tập quán người tiêu dùng và độc quyền phân phối… đã góp phần làm cho nguy cơ xảy ra các vấn đề cạnh tranh cao hơn, đặc biệt là quảng cáo sai sự thật, gièm pha, nói xấu đối thủ, tiếp cận với bác sỹ, y tá, bà mẹ mang thai để quảng cáo… Từ đầu năm 2011, nhiều hãng sữa đã tăng giá bán của các sản phẩm thêm từ 5-15. kể từ 1/3 tới đây hàng loạt hãng sẽ điều chỉnh giá mặt hàng này lên mức từ 8 - 20%. Tuy nhiên theo ghi nhận của chúng tôi ở các cửa hàng sữa tại Hà Nội trong tối (23/2/2011), nhiều đại lý trên địa bàn đã tăng giá thêm 10% - 12% ở một số nhãn hàng như Ensure, Similac, Friso… Quả thực trong nhiều ngày gần đây, người tiêu dùng rất lo lắng về việc giá sữa bỗng tăng lên một cách chóng mặt.Công ty 3A, đơn vị phân phối các sản phẩm sữa Abbott chưa chính thức điều chỉnh giá bán, nhưng đại diện doanh nghiệp trên cho biết, mức giá mới tăng khoảng 12% sẽ được áp dụng từ ngày 1.3.2011 do tăng tỷ giá USD. Riêng sản phẩm sữa bột Cô gái Hà Lan (Dutch Lady) dự kiến mức tăng từ 13-15%. Thêm vào đó quyết định tăng thuế đối với các nguyên liệu sản xuất sữa nhập khẩu từ các nước không thuộc ASEAN cũng là yếu tố cộng hưởng khiến giá sữa tăng thêm. Trong đó, Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) là đơn vị điều chỉnh giá đầu tiên trong năm 2011, với việc tăng giá sữa bột các loại lên trung bình 12% kể từ ngày 1/1/2011.Cụ thể, giá sữa bột Dielac Alpha Step 1 của công ty này từ mức 72.050 đồng/hộp 400g tăng lên 80.740 đồng/hộp; sữa bột Dielac Alpha Step 2 từ 70.620 đồng/hộp 400g, giá bán mới là 79.090 đồng/hộp; sữa bột Dielac Alpha 123 loại 900g tăng thêm 16.000 đồng/hộp hiện được bán ra là 153.000 đồng/hộp…Sau khi điều chỉnh, sản phẩm Enfa Mama A+ Vanilla, Enfa Mama A+ Chocolate có giá bán mới là 139.000 đồng/hộp 400g…Đến đầu tháng 2/2011, công ty sữa FrieslandCampina Việt Nam cũng chính thức nâng giá bán các sản phẩm sữa Friso với mức tăng từ 5-10%. Riêng sản phẩm sữa bột Cô gái Hà Lan (Dutch Lady) mức tăng là từ 13-15%.Nguyên nhân khiến các hãng sữa buộc phải tăng giá bán được cho là ngày 11/2/2011 tỷ giá USD/VND được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tới 9,3%. Điều này đã gây áp lực rất lớn đối với doanh nghiệp và hàng hóa nhập khẩu.Một nguyên nhân nữa khiến giá sữa tăng là ngày 1/1/2011, việc Bộ Tài chính quyết định tăng thuế nhập khẩu sữa từ các nước không thuộc ASEAN thêm 5% (từ mức 5% lên 10%), cũng đã tác động mạnh đến giá các loại sữa nguyên liệu cũng như sữa thành phẩm nhập khẩu.Giá bán sữa bột Friso, Ensure, Similac đã được một số đại lý lớn tại Hà Nội tăng thêm 10% từ ngày 15/2, sau khi nhận thông báo tăng giá của các hãng. Giới kinh doanh sữa bột tại Hà Nội cho biết vừa nhận được thông báo kèm báo giá tăng 10% đối với nhãn hiệu Friso (của công ty TNHH Friesland Campina Vietnam) và Ensure, Similac của hãng Abbott (do công ty dược phẩm 3A nhập khẩu và phân phối).. Đặc biệt trên thị trường sữa, với nhu cầu hiện nay thì người tiêu dùng rất muốn nhà nước điều chỉnh mức giá sao cho phù hợp tránh trường hợp các doanh nghiệp tự tăng giá quá cao, gây bức xúc cho người tiêu dùng. 3.2.2 Tổng quan tình QLNN đối với mặt hang sữa bột trên địa bàn HN 3.2.2.1 Công tác xây dựng, sửa đổi và bổ sung, ban hành các văn bản Sau những đợt tăng giá sữa dồn dập hồi đầu năm, Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) cho biết sẽ gấp rút sửa đổi Thông tư 104 nhằm khắc phục những bất cập trong việc quản lý giá sữa và dự kiến sẽ ban hành trong tháng 7-2010. Tuy nhiên, tháng 7 đã trôi qua, thông tư mới vẫn chưa được ban hành. Như vậy, cơ quan chức năng đã lỗi hẹn với người tiêu dùng, trong khi đó, các DN sữa lại tiếp tục tăng giá bán.Nhận xét về các đợt tăng giá, đại diện Cục Quản lý giá cho biết, Thông tư 104 quy định 2 lần tăng giá cách nhau tối thiểu 15 ngày và DN dưới 50% vốn chủ sở hữu nhà nước không cần đăng ký, kê khai giá. Từ đầu năm 2010 tới nay, các DN kinh doanh sữa mỗi lần chỉ tăng giá khoảng 5% đến 10% nên Cục không can thiệp để bình ổn giá được. Cục Quản lý giá đã trình Thông tư sửa đổi từ tháng 3-2010, nhưng có một vài khó khăn nên chưa thể ban hành. Sau mỗi đợt tăng giá sữa, câu chuyện quản lý giá một lần nữa lại được dư luận đặt ra. Để quản lý mặt hàng thiết yếu này, bên cạnh sự đồng tình, hưởng ứng của người tiêu dùng trong việc ủng hộ những DN kinh doanh chân chính, rất cần sự vào cuộc kịp thời từ phía cơ quan quản lý. Chỉ khi nào Thông tư quản lý giá các mặt hàng thiết yếu với những quy định chặt chẽ, rõ ràng được ban hành và được áp dụng hiệu quả trong thực tế thì điệp khúc "tăng giá sữa" mới không còn cơ hội tái diễn.Bộ Tài chính vừa liên tiếp có 03 văn bản về việc quản lý, bình ổn giá mặt hàng sữa.Yêu cầu rà soát các yếu tố hình thành giá khi các doanh nghiệp kinh doanh sữa thuộc danh sách đăng ký giá tại địa phương, kiên quyết yêu cầu doanh nghiệp không tăng giá khi các yếu tố hình thành giá không thay đổi. Cụ thể nội dung 03 văn bản như sau: Công văn số 18038 /BTC-QLG ngày 31/12/2010 gửi Sở Tài chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc thực hiện bình ổn giá sữa của các doanh nghiệp sữa trên địa bàn tỉnh, thành phố. Công văn nêu rõ: Trong thời gian gần đây trên các thông tin đại chúng có thông tin về việc một số doanh nghiệp kinh doanh sữa sẽ điều chỉnh tăng giá sữa bắt đầu từ ngày 1/1/2011. Theo thông tin của một số cơ quan chức năng thì trong thời gian gần đây các yếu tố đầu vào cơ bản sản xuất sữa không tăng như giá sữa nguyên liệu nhập khẩu có xu hướng giảm và giá sữa bột thành phẩm nhập khẩu không tăng, mặt khác Ngân hàng Nhà nước không điều chỉnh tỷ giá giữa đồng Việt Nam với đồng USD, do vậy việc các doanh nghiệp kinh doanh sữa điều chỉnh tăng giá sữa là chưa có cơ sở. Để thực hiện Chỉ thị số 2164/CT-TTg ngày 30/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm cấn đối cung cầu hàng hoá, dịch vụ, bình ổn giá cả, thị trường trong dịp Tết Nguyên đán Tân Mão, Quí I/2011; Chỉ thị số 05/CT-BTC ngày 22/12/2010 của Bộ Tài chính về việc bình ổn giá trong dịp Tết Nguyên đán Tân Mão, quý I năm 2011. Bộ Tài chính đề nghị Sở Tài chính chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát các yếu tố hình thành giá khi các doanh nghiệp kinh doanh sữa thuộc danh sách đăng ký giá tại địa phương, kiên quyết yêu cầu doanh nghiệp không tăng giá khi các yếu tố hình thành giá không thay đổi. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc niêm yết giá và bán hàng giá niêm yết đối với các đại lý, cửa hàng bán lẻ sữa bột dành cho trẻ em dưới 6 tuổi. Kèm theo đó, Bộ Tài chính có Công văn số 18039 /BTC-QLG ngày 31/12/2010 gửi các công ty sữa đăng kí giá tại Bộ Tài chính về việc thực hiện bình ổn giá sữa. Công văn nêu rõ: Trong thời gian gần đây trên các thông tin đại chúng có thông tin về việc một số doanh nghiệp kinh doanh sữa sẽ điều chỉnh tăng giá sữa bắt đầu từ ngày 1/1/2011. Theo thông tin của một số cơ quan chức năng thì trong thời gian gần đây các yếu tố đầu vào cơ bản sản xuất sữa không tăng như: giá sữa nguyên liệu nhập khẩu có xu hướng giảm và giá sữa bột thành phẩm nhập khẩu không tăng, mặt khác Ngân hàng Nhà nước không điều chỉnh tỷ giá giữa đồng Việt Nam với đồng USD, do vậy việc các doanh nghiệp kinh doanh sữa điều chỉnh tăng giá sữa hiện nay là chưa có cơ sở.  Thực hiện Chỉ thị số 2164/CT-TTg ngày 30/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm cấn đối cung cầu hàng hoá, dịch vụ, bình ổn giá cả, thị trường trong dịp Tết Nguyên đán Tân Mão, Quí I/2011; Chỉ thị số 05/CT-BTC ngày 22/12/2010 của Bộ Tài chính về việc bình ổn giá trong dịp Tết Nguyên đán Tân Mão, quý I năm 2011. Bộ Tài chính yêu cầu doanh nghiệp không điều chỉnh tăng giá khi các yếu tố hình thành giá không thay đổi.Thay vì quy định “doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc diện phải đăng ký giá là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty cổ phần, công ty TNHH có trên 50% vốn sở hữu nhà nước trong vốn điều lệ doanh nghiệp”, Thông tư 122 mở rộng đối tượng phải đăng ký giá là các “doanh nghiệp, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình và cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam.Theo đó, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền công bố áp dụng các biện pháp bình ổn giá theo quy định của pháp luật khi giá thị trường trong nước của hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ thực hiện bình ổn giá có biến động bất thường xảy ra thuộc ít nhất một trong các trường hượp sau.Thứ nhất, giá tăng cao hơn so với mức tăng giá của các yếu tố đầu vào, hoặc cao hơn so với giá vốn hàng nhập khẩu do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh tính toán các yếu tố hình thành giá không đúng với các chế độ chính sách, định mức kinh tế-kỹ thuật và quy chế tính giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Giá giảm thấp hơn không hợp lý so với chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm được tính toán theo các chế độ chính sách, định mức kinh tế-kỹ thuật và quy chế tính giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.Trường hợp thứ hai là giá tăng hoặc giảm không có căn cứ, trong khi các yếu tố hình thành giá không có biến động trong các trường hợp xảy ra thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, địch hoạ, khủng hoảng kinh tế-tài chính, mất cân đối cung-cầu tạm thời hoặc do các tin đồn thất thiệt không có căn cứ vè việc tăng giá hoặc giảm giá.Trường hợp thứ ba, giá tăng hoặc giảm không hợp lý do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh lạm dụng vị thế độc quyền, thống lĩnh thị trường, liên kết độc quyền về giá theo quy định của luật cạnh tranh và pháp luật cso liên quan.Về chế tài xử phạt của các đơn vị vi phạm cũng sẽ được áp dụng “mạnh tay” hơn. Một biện pháp hành chính có thể được áp dụng là đình chỉ thực hiện mức giá hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh đã quyết định không hợp lý so với quy định hiện hành và yêu cầu thực hiện mức giá cũ liền kề trước khi có biến động bất thường. Nặng hơn là mức phạt cảnh cáo, phạt tiền theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá và các quy định của pháp luật liên quan, thu phần chênh lệch giá do các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh tăng giá bất hợp lý vào ngân sách nhà nước.Mức xử mạnh nhất là tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, các loại giấy phép kinh doanh của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh được cấp có thời hạn hoặc không có thời hạn theo quy điịnh của pháp luậtĐối với mặt hàng sữa, theo Thông tư 122, mặt hàng thực hiện đăng ký giá là sữa pha chế theo công thức dạng bột dành cho trẻ em dưới 6 tuổi. Tên gọi mới này được thay thế cho tên gọi cũ ,Thông tư 122/2010/TT-BTC sẽ có hiệu lực từ 1/10/2010 thay thế cho thông tư 104/2008/TT-BTC về quản lý giá sữa bột. Thông tư 122/2010/TT-BTC đưa ra những quy định chặt chẽ hơn nhằm hạn chế tình trạng tăng giá bất hợp lý của các công ty nhập khẩu, kinh doanh sữa bột từ nước ngoài. Các công ty này chủ yếu là của Hoa Kỳ, EU, Úc… nên việc đại sứ các nước này lên tiếng, bảo vệ quyền lợi cho các công ty nói trên đã có thể dự đoán từ trước.Theo Thông tư 122 của Bộ Tài chính, tất cả nhà sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu sữa đều phải đăng ký và kê khai giá. Bộ Tài chính hy vọng với sự ra đời của thông tư mới, lần đầu tiên sẽ có chế tài buộc các hãng sữa chứng minh tính hợp lý của giá bán trên thị trường.Theo Bộ Công thương, từ đầu năm tới nay, sữa đã có 4 lần tăng giá. Thị trường sữa hiện đang có dấu hiệu bị thao túng vì có khi giá thế giới không tăng, thậm chí giảm nhưng giá sữa trong nước vẫn tăng. Mặt khác, việc các hãng sữa tăng giá đồng loạt cho thấy dấu hiệu liên kết của một số nhà nhập khẩu.Vì vậy nhằm hạn chế tình trạng các hãng sữa bột nhập ngoại tăng giá một các tùy tiện, Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 112/2010, thay thế Thông tư 104/2008, quy định tất cả các mặt hàng sữa bột nhập khẩu cho trẻ em dưới 6 tuổi phải đăng ký và kê khai giá với cơ quan quản lý giá. Và trong khi chờ thông tư mới có hiệu lực, một số hãng sữa ngoại lại điều chỉnh tăng giá. 3.2.2.2 Tổ chức thực thi và thực hiện QLNN đối với mặt hàng sữa bột trên địa bàn HN - Tình hình vi phạm: sữa không đảm bảo tiêu chuẩn. Sau khi tổng hợp chung các chỉ tiêu được kiểm nghiệm, tỷ lệ mẫu sữa đạt yêu cầu là 80%, số mẫu không đạt chiếm 20%. Năm 2008, tỷ lệ mẫu sữa lưu thông trên thị trường không đạt tiêu chuẩn công bố về hàm lượng đạm là 50%. Trong đó: Số mẫu có hàm lượng đạm rất thấp (<10 %) chiếm 30 %; Số mẫu có hàm lượng đạm cực thấp (< 2 %) chiếm 20 %) Theo kết quả thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm về sữa 6 tháng đầu năm 2009 mà Cục An toàn vệ sinh thực phẩm vừa công bố ngày 15/7. Cục đã lấy mẫu trên 14 tỉnh, thành phố. Tổng số cơ sở được thanh tra là 2.050 cơ sở, bao gồm 35 cơ sở sản xuất, 2.015 cơ sở kinh doanh. Theo đó, số cơ sở có vi phạm về điều kiện VSATTP là 1.491 cơ sở (73,02 %), tập trung chủ yếu vào các cơ sở kinh doanh theo quy mô nhỏ thuộc quyền quản lý của tuyến huyện, với hành vi vi phạm phổ biến do cơ sở chưa có giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP. Với 279 mẫu sữa được kiểm nghiệm về các chỉ tiêu hóa, lý, vi sinh, tập trung chủ yếu vào các loại sữa bột, kết quả cho thấy: Đối với hàm lượng protid: Số mẫu đạt chuẩn là 157/211 (chiếm 74,41 %); số mẫu không đạt chuẩn là 53/210 (chiếm 25,24%). Đối với hàm lượng lipit: Số mẫu đạt chuẩn là 97/121 (chiếm 80,16 %); số mẫu không đạt chuẩn là 24/121 (chiếm 19,84 %). Đối với chỉ tiêu vi sinh, số mẫu đạt chuẩn là 66/68 (chiếm 97,06 %). Sữa không đạt chuẩn trên chủ yếu tập trung vào các sản phẩm sữa sản xuất trong nước do một số doanh nghiệp mua nguyên liệu từ nước ngoài về sang bao đóng gói tại Việt Nam, song trong quá trình sản xuất đã không tuân thủ đúng tiêu chuẩn đã công bố và đưa ra thị trường những sản phẩm không đảm bảo chất lượng. Đối với sữa thành phẩm nhập khẩu, qua kiểm tra nhận thấy hầu hết sản phẩm nhập khẩu đều đảm bảo chất lượng như đã công bố. Tại Hải Phòng, Sở Y tế đã lấy 28 mẫu sữa nhập khẩu để kiểm nghiệm về hàm lượng đạm và lipit, tỷ lệ đạt 100 %. Trong khi đó sữa đóng gói trong nước, qua kiểm nghiệm 22 mẫu, có 6 mẫu không đạt về hàm lượng đạm, lipit chiếm 27,27%. Trong quá trình thanh tra, việc xử lý các vi phạm về sữa kém chất lượng đã được các địa phương thực hiện một các kiên quyết, đặc biệt là đối với các sản phẩm sữa không đảm bảo chất lượng, sản phẩm không rõ nguồn gốc, quá hạn sử dụng đều phải đình chỉ lưu hành. Có 19 cơ sở vi phạm trên địa bàn Hà Nội, TP HCM, Bắc Giang, Tiền Giang, Nghệ An đã bị phạt tiền với tổng số tiền là 91,1 triệu đồng và 56 cơ sở bị buộc đình chỉ lưu hành sản phẩm, phải thu hồi, tiêu hủy hoặc tái chế do không đảm bảo chất lượng hoặc quá hạn sử dụng hoặc không rõ nguồn gốc. - Liên quan đến quản lý nhập khẩu Theo báo cáo giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội: “lượng sữa ở Việt Nam chủ yếu là do nhập khẩu, năm 2008 sữa nhập khẩu chiếm 72% (trong đó 50% là sữa bột nhập để hoàn nguyên) sữa tươi sản xuất trong nước chỉ chiếm 28%”. Như vậy, bà con nông dân chăn nuôi bò sữa không thể cạnh tranh được, do quy mô nhỏ bé bao giờ cũng đi liền với giá thành cao; mặt khác, mặt hàng sữa kém chất lượng bị thu giữ có xu hướng ngày càng tăng, nếu năm 2004 có 967 hộp, năm 2007 có 21.998 hộp thì đến năm 2008 là 71.728 hộp; sữa có hàm lượng protein thấp, không đúng tiêu chuẩn công bố, ảnh hưởng lớn đến chi tiêu, niềm tin của người tiêu dùng. Trong đó các đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là trẻ em, người già, người bệnh. - Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm Thực phẩm không an toàn, không đảm bảo vệ sinh không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe nhân dân, đến lợi ích của người tiêu dùng, mà còn tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội và di truyền giống nòi, thực sự đang là nỗi băn khoăn lo lắng của toàn xã hội. Thực tế công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm tuy đã có rất nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của nhân dân, các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm mới chỉ quan tâm tập trung  khi có dịch bệnh xảy ra, hoặc trong các đợt phát động phong trào tháng hành động về VSATTP, chưa thực sự thực hiện chức trách của mình một cách thường xuyên, liên tục. Một bộ phận lớn thực phẩm kém chất lượng đều nhập qua con đường tiểu ngạch, nhưng giải pháp hạn chế, ngăn ngừa chưa có tính thuyết phục cao. Việc xây dựng hệ thống quản lý, thanh tra, kiểm tra và quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước, cũng như công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức về VSATTP cho người dân, đặc biệt là nhân dân vùng nông thôn và quy định vai trò, trách nhiệm đối với cộng đồng của các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm chưa được quan tâm đúng mức. Điều lo lắng là các cơ sở kiểm nghiệm VSATTP của ta hiện nay: cán bộ vừa thiếu vừa yếu; thiếu trang thiết bị, thiếu hóa chất… nên rất khó để có thể phát hiện được thực phẩm kém chất lượng  kịp thời, chính  xác. Gần đây một số vấn đề liên quan đến quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm, sự khác biệt giữa các kết quả phân tích kiểm tra chất lượng sản phẩm vừa gây không ít khó khăn cho người sản xuất vừa tạo thêm lo lắng cho người tiêu dùng trong khi chúng ta đang cố gắng tạo những ưu thế nhất với cương vị một thành viên bình đẳng của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong khi các cơ quan chức năng còn chưa làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát và nhiều nhà sản xuất còn chưa tuân thủ những quy định về VSATTP thì người tiêu dùng phải tự trang bị kiến thức về VSATTP, khi lựa chọn thực phẩm cần quan tâm đến thương hiệu, thời hạn sử dụng, các chỉ tiêu dinh dưỡng và chỉ tiêu liên quan đến VSATTP ghi trên nhãn hàng. Luật ATTP đã được Quốc hội thông qua gồm có 11 chương và 72 điều, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2011, sẽ là hành lang pháp lý phòng ngừa ngăn chặn và khắc phục sự cố về ATTP. Thực chất để giải  quyết tốt vấn đề này thì cần phải có những biện pháp đồng bộ từ mọi người chúng ta, từ người quản lý, người sản xuất, đến người tiêu dùng đều phải tuân thủ nguyên tắc thực hiện sản xuất, tiêu dùng vì mục tiêu giữ gìn sức khỏe cho thế hệ hôm nay và cả thế hệ con cháu chúng ta ngày mai. 3.2.2.3 công tác kiểm tra, giám sát đối với mặt hàng sữa bột trên địa bàn HN Kiểm tra giám sát sữa thiếu đạm. * Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng đã gửi văn bản cảnh báo đến Bộ Y tế, Bộ Khoa học - công nghệ và Bộ Công thương từ tháng 10-2008, nhưng phải đến đầu tháng 2-2009, sau khi báo chí lên tiếng, những kết quả kiểm tra từ năm 2008 mới được công bố.Việc công bố kết quả kiểm tra mẫu sữa tùy thuộc những người thực hiện kiểm tra. Trong trường hợp người chủ trì là Sở Y tế, họ có thể xem xét tính chính xác của kết quả kiểm nghiệm trước khi công bố. Nếu xét thấy kết quả đảm bảo về tính chính xác có thể công bố thông tin, nhưng nếu hàm lượng dinh dưỡng trong sản phẩm không thấp hơn mức công bố nhiều, họ chỉ cần mời cơ sở đến để yêu cầu khắc phục. Trong thời gian bảy ngày mà cơ sở chưa khắc phục thì có thể xử phạt tùy theo mức độ vi phạm. Trường hợp người làm kiểm nghiệm vì mục đích nghiên cứu thì công bố hay không là quyền của nhà nghiên cứu. Vấn đề ở đây chỉ còn là Bộ Y tế chưa trả lời cảnh báo của Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng.Nhận được kiến nghị của công dân thì phải trả lời cho họ, nếu xử lý kiến nghị rồi thì cũng phải thông báo cho họ biết là xử lý như thế nào. Như trong luật quy định là 15 ngày phải trả lời. Theo chúng tôi, một trong những lý do dẫn đến kết quả quản lý vệ sinh thực phẩm như hiện nay là lương thấp nên cán bộ không quan tâm thực hiện. Rất may Quốc hội đã có dự kiến cuối năm nay thảo luận về luật này, mổ xẻ tất cả vấn đề, hi vọng năm 2010 vấn đề vệ sinh thực phẩm sẽ được cải thiện. Rõ ràng vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong vấn đề quản lý chất lượng hàng hóa, dịch vụ rất quan trọng. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước không chỉ là các đợt thanh tra diện rộng, thanh tra chuyên đề vào dịp tết, trung thu... Những hoạt động đó rất quan trọng nhưng nếu chỉ làm có tính chất phong trào thì với những người sản xuất không chân chính họ sẵn sàng có biện pháp đối phó. Và trong nhiều trường hợp, hiệu quả phát hiện, xử lý vi phạm sẽ rất hạn chế. Cho nên cần phải đẩy mạnh thanh tra đột xuất, không báo trước, tăng cường thanh tra trên thị trường. * Không chỉ hạn chế trong việc hậu kiểm, người tiêu dùng cũng không hài lòng với những phản ứng chậm chạp của các cơ quan quản lý nhà nước khi vụ việc đã được phát hiện. Nói riêng với trường hợp sữa không đảm bảo hàm lượng đạm, là do phản ứng của cơ quan quản lý nhà nước chậm. Một khi có hiện tượng không bình thường về chất lượng đối với một sản phẩm là mặt hàng thiết yếu của người dân, ảnh hưởng đến sức khỏe, đến sự phát triển nòi giống thì cơ quan quản lý nhà nước phải vào cuộc ngay lập tức và phải nhanh chóng kiểm tra, thanh tra. Ban chỉ đạo 127 TƯ (chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại- PV) vừa có văn bản số 18/BCĐ-QLTT (ngày 24/3) kiến nghị lên Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân chuyển trách nhiệm chính trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát mặt hàng sữa cho Bộ Y tế và Ban chỉ đạo quốc gia về Vệ sinh an toàn thực phẩm chủ trì. 3.2.3 Phân tích ảnh hưởng của nhân tố môi trường đến quản lý nhà nước đối với mặt hàng sữa bột trên địa bàn Hà Nội Quản lý Nhà nước chịu ảnh hưởng của nhân tố bên ngoài và nhân tố bên trong. Môi trường bên ngoài gồm môi trường vĩ mô, môi trường ngành và môi trường vĩ mô. Còn môi trường vi mô chỉ đề cập đến những nhân tố ảnh hưởng bên trong bản thân doanh nghiệp như cách quản lý như thế nào, phân tích khách hàng, đối thủ cạnh tranh, thị trường lao động… Vì vậy,Để phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến quản lý Nhà nước đối với sữa bột ta cần đi phân tích tác động của các nhân tố môi trường bên ngoài tới sự quản lý của Nhà nước lên các Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh mặt hàng sữa bột trên địa bàn quận Hà Nội. 3.2.3.1 Môi trường vĩ mô Hoạt động của quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau.Tuỳ theo thời gian,không gian và nội dung của các nhân tố mà ảnh hưởng được biểu thị ở góc độ khác nhau.Mục tiêu cơ bản là nhận biết được các nhân tố này,nhận biết được diễn biến và ảnh hưởng của chúng đến doanh nghiệp. Những nhân tố vĩ mô dẫn đến sự thay đổi trong lĩnh vực kinh doanh và quản lý của doanh nghiệp tác động lên mặt hàng sữa bột bao gồm các nhân tố sau: - Môi trường kinh tế: Năm 2009 tốc độ tăng trưởng kinh tế có chiều hướng được khôi phục. Mức lạm phát năm 2009 không cao . Mức sống của đại bộ phận dân Việt Nam còn thấp.Theo số liệu thống kê, thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam năm 2009 là khoảng 18,7 triệu đồng. Người thành thị thu nhập bình quân cao hơn người nông thôn 2,04 lần. Thu nhập bình quân của đồng bào thiểu số chỉ bằng 40% so với trung bình cả nước. Giá 1kg sữa tươi tiệt trùng bằng 3kg gạo, vì vậy người dân nghèo chưa có tiền uống sữa. Năm 2009, tăng trưởng kinh tế của Hà Nội đạt 6,7%. Thu nhập bình quân đầu người cũng tăng, khiến nhu cầu tiêu dùng hàng hóa ngày một gia tăng, đặc biệt là những mặt hàng bổ sung dưỡng chất như mặt hàng sữa. - Môi trường công nghệ: Thay đổi công nghệ tác động lên nhiều bộ phận của xã hội, cụ thể hơn là tác động lên bộ máy quản lý của các Doanh nghiệp kinh doanh sữa bột. Công nghệ bao gồm : Các thể chế, Các hoạt động liên quan đến việc sáng tạo ra các kiến thức mới, Thay đổi công nghệ tác động lên rào cản nhập và xuất, định hình lại cấu trúc ngành. Vì mục đích lợi nhuận, các điểm thu mua chỉ được thiết lập khi có đủ số lượng bò, đủ lượng sữa để đặt bồn và không quá xa nhà máy để giảm chi phí vận chuyển và an toàn vệ sinh sữa. Phương thức thu mua sữa giữa các Công ty với người chăn nuôi chưa thật bình đẳng và rõ ràng, khiến người chăn nuôi luôn có cảm giác phần thiệt thuộc về mình. Hơn nữa, với sự phát triển của Hà Nội, thì sự tiếp nhận công nghệ là chuyện sớm hay muộn mà thôi. - Môi trường văn hóa ,xã hội : Việt Nam không phải là nước có truyền thống sản xuất sữa, vì vậy đại bộ phận đan chúng chưa có thói quen tiêu dùng sữa.Các thay đổi và các điều kiện công nghệ, chính trị-luật pháp, kinh tế và nhân khẩu phần nào ảnh hưởng đến suy nghĩ của chính những người tiêu dùng trong việc mua sữa để nâng cao đời sống cho những người thân. - Môi trường nhân khẩu học : Phân đoạn nhân khẩu học trong môi trường vĩ mô liên quan đến: Dân số : Dân số Việt Nam đang dần tăng lên theo mỗi năm, hiện nay dân số đã lên đến trên 86 triệu người. Trên thực tế, hiện mới chỉ có 10% dân số tiêu thụ 78% các sản phẩm từ sữa (chủ yếu là trẻ em ở Hà Nội và TPHCM) với mức tiêu thụ bình quân là 9 kg/người/năm.phân bố địa lý: Như trên, thị trường chủ yếu tiêu thụ sữa vẫn là các thành phố lớn, do nhu cầu của người dân ở từng vùng miền là khác nhau, vì thế các Doanh nghiệp, đại lý bán buôn bán lẻ vẫn tập trung nhiều ở thành phố, thị xã, những nơi đông dân có tri thức cao- so với miền núi, nơi vùng sâu vùng xa. Cộng đồng các dân tộc : Việt Nam có 54 dân tộc, trong số đó dân tộc Kinh chiếm nhiều nhất (87%), thường các dân tộc còn lại, các dân tộc thiểu số ít có nhu cầu tiêu dùng sữa hơn.Phân phối thu nhập : Thu nhập bình quân của người dân Việt Nam hiện nay vào khoảng 1000$/ năm, đó là con số ít ỏi so với các nước phát triển. Trên thực tế, sự phân phối thu nhập của người dân là không đều, gắn với sự phân bố địa lý, dân cư. Thu nhập của người dân ở thành thị cao hơn so với ở nông thôn, miền núi; do vậy nhu cầu tiêu dùng sữa của họ cũng khác nhau. - Môi trường chính trị - luật pháp : Các nhân tố chính trị và luật pháp cũng có tác động lớn đến mức độ của các cơ hội và đe dọa từ môi trường. Điều chủ yếu là cách thức tương tác giữa các doanh nghiệp & chính phủ. Việc thay đổi liên tục, phân đoạn này sẽ gây ảnh hưởng đáng kể đến cạnh tranh. Các chính sách mới có liên quan của quản lý nhà nước. Các doanh nghiệp phải phân tích cẩn thận các triết lý, các chính sách liên quan mới của quản lý nhà nước. Luật chống độc quyền, luật thuế, các ngành lựa chọn để điều chỉnh hay ưu tiên, luật lao động, là những lĩnh vực trong đó các chính sách quản lý Nhà nước có thể tác động đến hoạt động và khả năng sinh lợi của ngành hay của các doanh nghiệp: *Chính phủ ban hành các đạo luật nhằm ngăn ngừa một số hành vi dẫn đến độc quyền như các doanh nghiệp cấu kết với nhau để nâng giá bán sản phẩm hay hạn chế một số cơ cấu thị trường nhất định. Các nước có thị trường phát triển thường dùng biện pháp này để điều tiết những doanh nghiệp lớn, chiếm thị phần rất cao trong khoảng thời gian dài. * Khuyến khích cạnh tranh: chính phủ thi hành các chính sách khuyến khích cạnh tranh bằng cách phá bỏ những rào cản để các doanh nghiệp mới dễ xâm nhập thị trường hơn hoặc khuyến khích sự hình thành của các doanh nghiệp * Điều tiết việc định giá của các doanh nghiệp độc quyền: trái với các điều luật chống độc quyền trong đó quy định các hành vi doanh nghiệp không được làm, chính phủ có thể đề ra các quy định cưỡng chế doanh nghiệp phải định giá như thế nào. Đây là biện pháp phổ biến để kiểm soát các công ty thuộc sở hữu nhà nước. * Kiểm soát giá cả đối với doanh nghiệp độc quyền: chính phủ quy định giá trần để doanh nghiệp độc quyền bán sản phẩm ở mức giá của thị trường cạnh tranh nhằm đạt mức sản lượng hiệu quả. Tuy nhiên biện pháp này có một khó khăn cơ bản là chính phủ rất khó xác định mức giá của thị trường cạnh tranh và do vậy có thể dẫn đến tình trạng khan hiếm hàng hóa khi mức giá trần quá bất hợp lý. * Đánh thuế: việc sử dụng chính sách thuế có thể làm giảm bớt lợi nhuận siêu ngạch của doanh nghiệp độc quyền, phân phối lại của cải xã hội. Thế nhưng trong thị trường độc quyền gánh nặng thuế nói chung sẽ dồn vào người tiêu dùng nhiều hơn và vì thế cần phải được áp dụng một cách hết sức thận trọng.Trên phạm vi toàn cầu các công ty cũng phải đối mặt với hàng loạt các vấn đề đáng quan tâm về chính trị pháp luật.Các chính sách thương mại, rào cản bảo hộ: Hàng rào thuế quan, hàng rào phi thuế quan, hạn ngạch thương mại, giấy phép xuất nhập khẩu, các hàng rào kỹ thuật … nhằm hạn chế sự xuất - nhập khẩu ồ ạt không trong khuôn phép của Nhà nước. 3.2.3.2 Môi trường vi mô - Những người cung ứng : Nghiên cứu cho thấy, trước sự thay đổi khí hậu, vấn đề cung ứng của ngành sữa cũng gặp nhiều vấn đề :Khoảng nhiệt độ tối ưu đối với bò sữa là 20 – 22 độ C, cứ mỗi một độ tăng lên trên với mức tối ưu này thì năng suất sữa sẽ giảm khoảng 2%. Người ta dự đoán rằng cùng với hiện tượng ấm lên của trái đất, thời tiết cũng khắc nghiệt hơn, thiên tai xảy ra nhiều hơn và nhiệt độ trung bình sẽ cao hơn, đây là tin xấu cho những người chăn nuôi gia súc ở Việt Nam và toàn thế giới. Trái đất ấm lên sẽ làm giảm lượng cỏ, cây bụi và những loại cây thức ăn gia súc khác ở nhiều vùng và đồng thời cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sinh lý của bò sữa. Điều này tác động đến khả năng cung cấp nguyên liệu cho sản xuất của doanh nghiệp. Cạnh tranh giữa những người cung ứng cũng làm thay đổi giá sữa và chất lượng sữa nhằm tối đa hóa lợi nhuận . Quản lý Nhà nước cần triệt để kiểm soát ,thanh tra chất lượng sữa cung ứng. - Những người môi giới : Người môi giới tạo mối quan hệ giữa nhà cung ứng và các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đi lên, tiêu thụ và phổ biến hàng hóa của doanh nghiệp trong giới khách hàng. Người môi giới thường gồm: những người môi giới thương mại, các công ty chuyên tổ chức lưu thông hàng hóa, các tổ chức dịch vụ và các tổ chức tài chính tín dụng.Những người môi giới thương mại: là những công ty kinh doanh hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm khách hàng và/hay trực tiếp bán sản phẩm cho họ. Nguồn môi giới thương mại có thể đảm bảo cho người đặt hàng những điều kiện thuận tiện về địa điểm, thời gian và thủ tục mua hàng với chi phí ít hơn so với trường hợp nếu công ty tự làm. Những người môi giới thương mại tạo được những điều kiện thuận tiện về đặc điểm bằng cách tích trữ xe đạp ở ngay những nơi có khách hàng. Điều kiện thuận lợi về thời gian được tạo ra nhờ trưng bày và đảm bảo luôn có xe đạp vào những thời kỳ mà người tiêu dùng muốn mua chúng. - Các tổ chức dịch vụ: là những công ty nghiên cứu marketing, những công ty quảng cáo, những tổ chức của các phương tiện quảng cáo và các công ty tư vấn marketing giúp cho công ty sản xuất định hướng chính xác hơn và đưa hàng của mình đến những thị trường thích hợp đối với họ.Công ty sản xuất phải quyết định xem mình có cần sử dụng dịch vụ của các tổ chức đó không hay tự đảm nhiệm lấy tất cả các công việc cần thiết. Sau khi quyết định sử dụng các dịch vụ mất tiền, công ty phải lựa chọn kỹ lưỡng những người cung ứng dịch vụ, bởi vì các công ty chuyên doanh khác nhau về khả năng sáng tạo của mình, chất lượng hoàn thành công việc, khối lượng dịch vụ cung ứng và giá cả. - Khách hàng : Thị trường người tiêu dùng : gồm những người và hộ dân mua hàng hoá để sử dụng cho cá nhân. Hiện nay, thị hiếu của khách hàng càng ngày càng cao, nhất là về vấn đề an toàn vệ sinh thưc phẩm. Nhu cầu tiêu dùng sữa giảm do giá các mặt hàng sữa tăng cao. Cần nắm bắt suy nghĩ và đứng trên phương diện là khách hàng mà doanh nghiệp cần biết phải làm gì để kích thích khách mua hàng. Thị trường các nhà sản xuất: các tổ chức mua hàng hoá và dịch vụ để sử dụng chúng trong quá trình sản xuất.Thị trường nhà bán buôn trung gian: tổ chức mua hàng và dịch vụ để sau đó bán lại kiếm lời - Đối thủ cạnh tranh: Trên thực tế thị trường sữa bột trong nước, cạnh tranh giữa các hãng sữa là không tránh khỏi. Giá sữa tăng cao do có sự góp mặt của các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay, đáng lẽ giá sữa tại thị trường nội địa phải có mối liên hệ chặt chẽ với giá sữa nguyên liệu trên thị trường thế giới, nhưng có những thời điểm giá nguyên liệu sữa trên thế giới giảm thì giá sữa bột tại Việt Nam vẫn tiếp tục tăng cao. Cục Quản lý cạnh tranh cho rằng, bên cạnh việc giám sát chặt chẽ hành vi kinh doanh của các doanh nghiệp sữa trên thị trường vẫn rất cần tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về sữa nội, sữa ngoại. CHƯƠNG 4: CÁC KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI MẶT HÀNG SỮA BỘT TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 4.1 Các kết luận qua nghiên cứu thực trạng quản lý Nhà nước đối với mặt hàng sữa trên địa bàn Hà Nội 4.1.1 Thành công trong sự quản lý của Nhà nước - Kiểm soát nhập khẩu nguyên liệu sản xuất sữa bột : ở Việt Nam hiện nay, có khoảng 80% nguyên liệu dành cho sản xuất mặt hàng sữa là được nhập khẩu ở các thị trường nước ngoài, vì thế, Nhà nước dùng nhiều biện pháp như tăng thuế nhập khẩu, ban hành các thông tư áp dụng biện pháp bình ổn giá . .. nhằm giảm nhập khẩu, bên cạnh đó, đưa ra các chính sách nhằm khuyến khích đầu tư và phát triển thị trường sữa bột trong nước. - Ban hành các thông tư với nội dung, phải đăng ký kê khai giá với cơ quan quản lý giá với các loại sữa bột nhập khẩu cho trẻ em. Việc đăng ký giá được thực hiện trước khi các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh bán mặt hàng này ra thị trường lần đầu và trước khi điều chỉnh giá bán nhằm hạn chế tình trạng tăng giá bất hợp lý của một số mặt hàng thuộc diện bình ổn giá, trong đó có sữa bột, bởi trên thực tế, giá sữa bột nhập khẩu tại Việt Nam đang ở mức cao. Việc ban hành Thông tư này nhằm hạn chế tình trạng tăng giá bất hợp lý của các công ty nhập khẩu, kinh doanh sữa bột. Bên cạnh đó, hiện Bộ Tài chính đang lên danh sách các doanh nghiệp thuộc diện phải đăng ký giá bán để công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Doanh nghiệp cũng phải giải thích rõ các quy trình từ cơ cấu giá bán, quy trình bán sản phẩm ra thị trường... để trên căn cứ đó cơ quan chức năng sẽ tiến hành kiểm tra và xử lý kịp thời các hiện tượng tăng giá bất hợp lý hay liên kết độc quyền về giá. - Kiểm tra, thanh tra chất lượng sữa bột trên địa bàn cả nước Các cơ sở y tế theo sự quản lý của Nhà nước đã có sự kiểm tra ,kiểm nghiệm đột xuất chất lượng của mặt hàng sữa bột trong những siêu thị , đại lý cung cấp sữa bột nhằm có những đánh giá chính xác nhất đối với loại mặt hàng đang được ưa chuộng này. Đối với các loại sữa chất lượng kém, phát hiện doanh nghiệp vi phạm sẽ xử lý triệt để và công khai cho người tiêu dùng biết. 4.1.2 Các mặt hạn chế và những nguyên nhân Những vấn đề còn chưa được giải quyết trong sự quản lý của Nhà nước đối với mặt hàng sữa bột trên địa bàn Hà Nội : - Chỉ kiểm tra chất lượng sữa với mẫu nhỏ tại một số siêu thị và thương hiệu,cơ sở nhỏ : Lý do là kinh phí chỉ đủ mua và kiểm nghiệm từng ấy mẫu. Số lượng mẫu không đủ đại diện nên có thể gặp trường hợp mẫu hàng giả, hàng nhái, hàng đã ngưng sản xuất mà doanh nghiệp chưa kịp thu hồi hoặc thu hồi còn sót, do vậy chỉ sử dụng kết quả kiểm nghiệm làm cơ sở để cung cấp cho các cơ quan quản lý nhằm thúc đẩy các cơ quan này tiến hành những bước cần thiết trong việc quản lý chất lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường cũng như có những bước kiểm tra và xử lý cần thiết đối với những đơn vị có dấu hiệu vị phạm chất lượng hàng hoá. - Trên thực tế, việc chất lượng sữa không tốt cho sức khỏe người tiêu dùng cũng đã phải chịu những hậu quả của nó ( chất lượng đạm kém, không đảm bảo, có hại với trẻ em… ). Bộ Y tế và Công thương đã họp và thống nhất đề xuất trình Thủ tướng ban hành chỉ thị để chỉ đạo việc phối hợp xử lý các sản phẩm hàng hoá không rõ nguồn gốc, bao gồm dược phẩm, mỹ phẩm, dược liệu, một số nhóm hàng thực phẩm có nguy cơ cao. - Các cơ quan chức năng thờ ơ : Sau những bản báo cáo kết quả kiểm tra các mẫu sữa bột trên thị trường gửi cho Bộ Y tế, Bộ công thương, Bộ khoa học và công nghệ, những mong các cơ quan quản lý Nhà nước quan tâm nhưng sau thời gian dài không có cơ quan chức năng xem xét thì Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam phải tự công bố những thông tin cần thiết cho người tiêu dùng. - Giá sữa vẫn tăng cao gây lao đao cho người tiêu dùng : Mặc dù Nhà nước có can thiệp vào vấn đề tăng giá sữa nhằm mục đích bảo vệ cho người tiêu dùng, thì sự quản lý vẫn chưa được kiểm soát và thực hiện triệt để. Vẫn có những kẽ hở cho doanh nghiệp có thể “lách luật” và giá sữa cứ thể tiếp tục tăng. Đối với nghành sữa để xuất khẩu, việc Ngân hàng nhà nước điều chỉnh tỷ giá USD/VND lên 2% nhằm nâng cao tỷ suất lợi nhuận cho doanh nghiệp sẽ đẩy mức chi phí đầu vào của các ngành sữa lên cao. Điều này cũng đồng thời tạo cơ hội để các công ty sữa đẩy giá bán lẻ của mình và mức tăng thường cao hơn mức tỷ giá điều chỉnh. Trên thực tế, mỗi lần điều chỉnh giá bán lẻ, các hãng sữa chỉ tăng khoảng 5-7% vẫn dưới mức 20% như quy định. Từ đầu năm, các hãng sữa bột cũng đã vin vào cớ tỷ giá biến động để liên tục đẩy giá sữa bán lẻ của mình lên. Người tiêu dùng vẫn là người chịu thiệt thòi nhất khi có những biến động về giá. 4.2 Triển vọng và dự báo QLNN về thị trường sữa bột 4.2.1 Triển vọng quản lý nhà nước và giá sữa Việc cơ quan quản lý nhà nước không chứng minh được giá sữa tại VN cao hơn là do gian lận đang khiến người tiêu dùng VN một lần nữa phải cắn răng chấp nhận các đợt tăng giá sữa liên tiếp. Dư luận có thể không thôi nghi ngờ về việc các doanh nghiệp sữa đang bắt tay nhau để liên tục tạo ra mặt bằng giá mới nhưng nếu cơ quan quản lý nhà nước, có trách nhiệm, không điều tra để chứng minh được cáo buộc này thì về mặt luật pháp đúng là không thể xử lý được họ. Song rất cần phải nhìn lại, quản lý nhà nước đã làm gì trong câu chuyện về giá sữa? Giá cả là vấn đề của cung-cầu và thị trường, điều đó đúng. Năm 2011, nền kinh tế sẽ phục hồi nhưng những tồn tại vốn có của nền kinh tế chúng ta chưa khắc phục được ngay như: Cơ cấu kinh tế, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sử dụng vốn, kết cấu hạ tầng… vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây lạm phát cao và bất ổn cho kinh tế vĩ mô. Do vậy công tác điều hành, kiểm soát giá của UBND tỉnh đến các địa phương ngay từ những tháng đầu năm phải thật sự quyết liệt. Do đó, công tác điều hành kiểm soát giá cả, bình ổn thị trường trên địa bàn tỉnh trong năm 2011 sẽ thực hiện theo 7 nhóm giải pháp chính, gồm: Đổi mới cơ chế quản lý giá theo hướng thị trường, tôn trọng quyền tự định giá và cạnh tranh giá của các tổ chức, cá nhân kinh doanh theo Pháp lệnh giá và Quyết định 64 của UBND tỉnh quy định quản lý Nhà nước về giá. Chủ động thực hiện tốt công tác dự báo thị trường. Đây được xem là khâu quan trọng nhất tháo gỡ những vướng mắc về tình hình giá cả bất ổn thời gian qua và giúp doanh nghiệp lẫn người dân nắm bắt diễn biến thị trường tốt hơn. Tiếp tục chủ động thực hiện tốt lộ trình điều chỉnh giá theo cơ chế thị trường của Chính phủ đối với một số hàng hóa, dịch vụ Nhà nước còn định giá. Tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra giá trên địa bàn tỉnh. Kiểm soát các yếu tố hình thành giá, đăng ký giá, niêm yết giá, bán giá theo niêm yết. Kiên quyết ngừng việc đăng ký giá khi có mức tăng giá không hợp lý.. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, xử lý nghiêm hành vi đầu cơ, găm hàng, tăng giá bất hợp lý, gian lận thương mại, kiểm soát chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Với sự quán triệt đó hi vọng giá sữa trên thị trường Việt Nam nói chung và thị trường Hà Nội nói riêng trong năm 2011 sẽ được kiểm soát ít nhất mức tăng không cao hơn mức tăng của giá sữa thị trường thế giới để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng. 4.2.2 Quan điểm của QLNN về thị trường sữa bột. Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và giao Bộ Công thương giữ vai trò chịu trách nhiệm trước Chính phủ việc thực hiện quản lý Nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong luật cũng cần quy định rõ cụ thể hơn về trách nhiệm của các Bộ trong việc phối hợp với Bộ Công thương vì phạm vi, quyền lợi người tiêu dùng rất rộng. Từ việc mua bán, giao dịch những hàng hóa thiết yếu đến các dịch vụ khác v.v...Để luật đi vào cuộc sống, Chính phủ cần quy định việc công bố giá các loại hàng hóa dịch vụ sát với tình hình diễn biến thực tế trên thị trường để người tiêu dùng mới có cơ sở so sánh khi mua hàng hóa và dịch vụ.Cùng quan điểm, đại biểu khác cho rằng tại Điều 25 quy định về việc yêu cầu cơ quan quản lý Nhà nước bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cần có những quy định với thủ tục đơn giản khả thi nhất cho người dân, tránh những quy định rườm rà, tốn kém, đi lại mất nhiều thời gian khi họ cần được bảo vệ liên quan sản phẩm tiêu dùng trong đó mặt hàng sữa bột. Thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tập trung rà soát các yếu tố hình thành giá sữa. Tổng cục Hải quan cửa khẩu tiến hành tham vấn giá nhập khẩu mặt hàng sản phẩm sữa bột cho trẻ em dưới 6 tuổi, tránh việc khai giá cao hơn mặt bằng giá sản phẩm cùng loại tại nước xuất khẩu và các nước trong khu vực để kiểm soát tình trạng tăng giá nhập khẩu đầu vào làm tăng giá bán trong nước của các doanh nghiệp phân phối sữa. Để cơ quan quản lý có thể can thiệp trong lĩnh vực quản lý giá sữa, dứt khoát buộc doanh nghiệp niêm yết giá. Lẽ ra trong nền kinh tế hiện nay, nhà nước đều phải có biện pháp can thiệp. Muốn can thiệp trong lĩnh vực quản lý giá, dứt khoát buộc doanh nghiệp niêm yết giá. Đến lúc đó mới có căn cứ để kiểm soát, yêu cầu doanh nghiệp phải bán theo giá niêm yết. Còn bây giờ không có quy định buộc niêm yết giá thì không thể có căn cứ để kiểm soát doanh nghiệp có giảm hay không giảm, giảm nhiều hay giảm ít, giảm mức nào là hợp lý. Quan điểm: Phải cân bằng lợi ích giữa người sản xuất, người chăn nuôi, doanh nghiệp chế biến sữa và người tiêu dùng. Nghĩ tới quan điểm rất đúng của nhà nước ta là sự hợp tác giữa bốn nhà. Nhưng nếu cứ đề ra như thế mà không có những ràng buộc cụ thể để mối quan hệ này được thực thi thì không mang lại kết quả gì. Thực tế cho thấy lợi ích của người nào thì người đó chạy theo vun vén cho mình. Điều này càng thể hiện rõ trong điều kiện nền kinh tế không bình thường. Quan điểm của Cục an toàn thực phẩm: Sữa bột nguyên liệu không thuộc quản lý của cục an toàn thực phẩm. Nhà quản lý cho rằng sữa bột nhập khẩu chỉ được phép lưu hành khi đạt được các yêu cầu: công bố tiêu chuẩn chất lượng và có đầy đủ hồ sơ nhập khẩu như hóa đơn, tờ khai hải  quan, phiếu kiểm nghiệm xem có đảm bảo chất lượng như đã công bố, giấy chứng nhận lưu hành tự do ở nước sở tại, công văn đề nghị cho phép lưu hành... Sau khi Bộ Y tế chỉ đạo thanh tra, sữa bột không nhãn mác không còn được bày bán công khai mà bán ngấm ngầm. Chứ hàng tấn sữa thì ngay lập tức mất đi đâu được. Chống lại nó chỉ có cách nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, chỉ nên mua sữa của các hãng có uy tín, xem đầy đủ tám yêu cầu trong nhãn mác về địa chỉ cơ sở sản xuất, đóng gói, thành phần và hàm lượng dinh dưỡng, niêm phong ở nắp hộp... Người tiêu dùng cũng đừng ham rẻ mà mua những loại sữa kém chất lượng này. Quan điểm của Sở Thương mại TP. Hà Nội: Không đủ chuyên môn, phải có sự phối hợp giữa các nghành Sữa là mặt hàng ảnh hưởng đến sức khỏe con người, mọi đối tượng đều sử dụng. Vì thế không nên chỉ kiểm tra mang tính đối phó mà phải làm thường xuyên. Sở Thương mại là cơ quan quản lý nhà nước về thương mại, có trách nhiệm kiểm tra kiểm soát các hàng hóa lưu thông trên thị trường, do thanh tra thương mại và quản lý thị trường làm. Tuy nhiên kiểm tra về chất lượng sữa, vệ sinh an toàn thực phẩm thì sở không đủ nghiệp vụ, chuyên môn để làm một mình, vì thế rất cần sự phối hợp của các ngành khác, nhất là bên y tế. Quản điểm của Chi cục Quản lý thị trường TP.Hà Nội - đội chuyên chống hàng giả: Điều kiện vệ sinh kém nhưng không xử phạt được. Các vi phạm của các cơ sở sản xuất, điểm kinh doanh sữa thì nhiều như: sữa giả nguồn gốc xuất xứ (hàng ghi nhập của Trung Quốc nhưng thực chất là đóng gói ở VN);  kinh doanh không phép, không công bố chất lượng, không bao bì nhãn mác; hàng vi phạm qui chế ghi nhãn hàng hóa (không ghi địa chỉ sản xuất, không hạn sử dụng hoặc hạn sử dụng không đúng, có công bố thành phần trên bao bì nhưng thực tế kiểm nghiệm chất lượng  lại không đạt...). Họ đã từng kiểm tra một số cơ sở thấy điều kiện vệ sinh rất kém, nơi sản xuất cũng là nơi sinh hoạt của gia đình, người trộn sữa bằng tay không..., nhưng thẩm quyền xử phạt vệ sinh theo qui định thuộc về cơ quan y tế chứ không phải họ. 4.3 Các giải pháp, kiến nghị về quản lý nhà nước đối với mặt hàng sữa trên địa bàn Hà Nội 4.3.1 Một số đề xuất đối với nhà quản lý các cấp trên địa bàn Hà Nội Nhà nước cần thành lập ban chỉ đạo sản xuất sữa bột các cấp từ thành phố đến cấp xã, phường; Chi cục BVTV cử cán bộ kỹ thuật chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát nông dân chăn nuôi bò sữa ở tất cả các vùng sản xuất sữa. Siết chặt hơn nữa công tác giám sát sản xuất, tiêu thụ sữa, giám sát chặt chẽ các cơ sở đã được cấp giấy chứng nhận (áp dụng quy trình sản xuất, nguồn gốc, sản lượng, địa chỉ cung ứng sữa…), phối hợp các cơ quan chức năng xử lý nghiêm, công khai các cơ sở vi phạm, tuyên truyền và khen thưởng những cơ sở làm tốt. Kiểm tra đột xuất và ngẫu nhiên nhiều cửa hàng kinh doanh. Có sự phân cấp rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan quản lý theo các cấp tránh tình trạng trùng lặp. Tránh tình trạng bỏ ngỏ thị trường do trông chờ, ỷ lại, không có trách nhiệm. 4.3.2 Giải pháp đối với doanh nghiệp kinh doanh sữa trên địa bàn Hà Nội Trước khi mở cửa hàng kinh doanh phải đăng ký kinh doanh sữa theo các quy định của Nhà Nước. Đảm bảo việc kinh doanh là hợp pháp theo quy định của pháp luật. Có giấy phép kinh doanh do Cục quản lý thị trường cấp để đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp và của hàng. Kiên quyết chỉ kinh doanh các loại sữa đảm bảo chất lượng, không bán sữa lậu. Chỉ nhập sữa của các HTX, hộ sản xuất đã đạt tiêu chuẩn về sản xuất sữa, không nhập sữa mà không rõ nguồn gốc. Chọn lựa các cơ sở cung cấp sữa uy tín, đảm bảo thời gian giao hàng đúng hạn, đúng chủng loại đảm bảo chất lượng. Từ đó xây dựng lên một thương hiệu uy tín của cửa hàng được nhiều người biết đến. 4.3.3 Giải pháp đối với người tiêu dùng Người tiêu dùng là những người trực tiếp tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra. Để quản lý tốt thị trường cũng cần phải có cách tác động đến người tiêu dùng. Do đặc điểm thị trường Hà Nội hiện nay còn tồn tại rất nhiều chợ cóc, chợ tạm ở khắp nơi, nó len lỏi trong từng hẻm, từng góc phố. Do thói quen mua sắm hàng ngày của người dân là tiện đâu mua đó. Thói quen này gây không ít khó khăn cho hoạt động quản lý t hị trường. Chính vì vậy mà, để đảm bảo chất lương tiêu dùng thì không có cách nào khác là thay đổi ý thức tiêu dùng, định hướng cho người tiêu dùng thấy được việc sử dụng các loại sản phẩm không đảm bảo sẽ có ảnh hưởng rất lớn tơi sau này, nhất là đối với các loại sữa dành cho trẻ em. Do đó, người tiêu dùng nên học cách để là người tiêu dùng thông thái. Tài liệu tham khảo: 1.Đặng Đình Đào và Hoàng Đức Thân( chủ biên) (2001), giáo trình kinh tế thương mại, NXB thống kê, Hà Nội. 2.Thân Danh Phúc và Hà Văn Sự,Bài giảng Quản lý nhà nước và thương mại, Trường ĐH Thương mại, Hà Nội. 3.Kinh tế vĩ mô, Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXB Giáo dục, 1997. 4. Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Thanh Thủy (2010), Đồ án Công nghệ: Công nghệ chế biến sữa bột, ĐH Bách khoa, Đà Nẵng. 5.Ban kỹ thuật tiêu chuẩn TCVN/TC/F12 sữa và sản phẩm sữa (2002), Tiêu chuẩn Việt Nam 7084:2002,Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Bộ khoa học và Công nghệ, Hà Nội. 6.. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_nckh_hoan_chinh_7438.doc
Tài liệu liên quan