Đề tài Phát triển nghiệp vụ Tái bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI)

Tài liệu Đề tài Phát triển nghiệp vụ Tái bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI): MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng II.1.1: Cơ cấu sản phẩm của Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện 33 Bảng II.1.2: Cơ cấu doanh thu qua các năm 2005 – 2006 36 Bảng II.2.1: Tình hình doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển của các công ty năm 2007 46 Bảng II.3.1: Tình hình doanh thu nghiệp vụ tại PTI 50 Bảng II.4.1: tổng kết doanh thu phí nhượng tái nghiệp vụ TBH hàng hoá 59 Bảng II.4.2: Phân bổ tổn thất theo các hợp đồng nghiệp vụ nhượng TBH hàng hoá ở PTI từ năm 2004-2008 60 Bảng II.4.3: Tình hình tổn thất tính theo doanh thu phí tại công ty PTI 61 Bảng II.4.4: Thống kê doanh thu phí nhận tái 62 Bảng II.4.5: Phân bổ tổn thất theo các hợp đồng nghiệp vụ nhượng TBH hàng hoá ở PTI từ năm 2004-2008 62 Bảng II.4.6: Tỷ lệ tổn thất tính theo doanh thu phí nghiệp vụ nhận TBH hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển tại PTI 63 Bảng II.5.1: Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu phí nhận TBH 65 Bảng II.5.2: Thống kê đơn vị tổn thất nghiệp vụ nhận và nhượng tá...

doc75 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1020 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phát triển nghiệp vụ Tái bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng II.1.1: Cơ cấu sản phẩm của Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện 33 Bảng II.1.2: Cơ cấu doanh thu qua các năm 2005 – 2006 36 Bảng II.2.1: Tình hình doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển của các công ty năm 2007 46 Bảng II.3.1: Tình hình doanh thu nghiệp vụ tại PTI 50 Bảng II.4.1: tổng kết doanh thu phí nhượng tái nghiệp vụ TBH hàng hoá 59 Bảng II.4.2: Phân bổ tổn thất theo các hợp đồng nghiệp vụ nhượng TBH hàng hoá ở PTI từ năm 2004-2008 60 Bảng II.4.3: Tình hình tổn thất tính theo doanh thu phí tại công ty PTI 61 Bảng II.4.4: Thống kê doanh thu phí nhận tái 62 Bảng II.4.5: Phân bổ tổn thất theo các hợp đồng nghiệp vụ nhượng TBH hàng hoá ở PTI từ năm 2004-2008 62 Bảng II.4.6: Tỷ lệ tổn thất tính theo doanh thu phí nghiệp vụ nhận TBH hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển tại PTI 63 Bảng II.5.1: Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu phí nhận TBH 65 Bảng II.5.2: Thống kê đơn vị tổn thất nghiệp vụ nhận và nhượng tái 66 LỜI MỞ ĐẦU Năm 2007, sau nhiều năm tham gia đàm phán, Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức kinh tế thế giới WTO, mở ra giai đoạn phát triển mới cho nền kinh tế nước nhà nói chung và ngành bảo hiểm nói riêng. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt này, cơ hội sẽ chia đều cho mọi thành viên chứ không phải là các công ty nước ngoài chiếm ưu thế.Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường bảo hiểm khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO chính là cơ hội để sàng lọc và chỉ những DN thực sự “khoẻ” mới đủ sức để trụ vững và phát triển. " Sự hiện diện của nhiều công ty nước ngoài đã giúp thay đổi cách thức quản lý cũng như tiếp cận thị trường của ngành bảo hiểm. Thị trường được tái cấu trúc lại theo hướng tốt hơn về mặt pháp luật trở nên minh bạch hơn... Điều đặc biệt là các công ty trong nước cũng bắt đầu niêm yết tại các thị trường chứng khoán nước ngoài để khẳng định vị trí của mình. Đối với dịch vụ bảo hiểm hàng hoá vận chuyển, tỷ trọng hàng hoá xuất nhập khẩu mua bảo hiểm còn quá khiêm tốn so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Các cam kết về dịch vụ bảo hiểm của Việt Nam cũng chưa có tác động đáng kể đối với dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu". Việc trở thành thành viên của WTO không chỉ tạo ra những thay đổi to lớn đối với mỗi doanh nghiệp bảo hiểm, mà riêng đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển, điều này cũng khiến thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam có những biến động nhất định. Song song với việc thực hiện các cam kết về thuế, chúng ta cũng triến khai một loạt các cam kết liên quan khác. Về quyền kinh doanh xuất nhập khẩu: Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng hóa như doanh nghiệp Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ các mặt hàng thuộc danh mục "thương mại nhà nước" Có thể khẳng định, sau 2 năm gia nhập WTO, mặc dù còn nhiều khó khăn trước mắt, nhưng nền kinh tế Việt nam đã vượt qua được những thách thức, rút ra được những bài học bổ ích để từng bước phát triển bền vững. Với xuất phát điểm là một nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, ở trình độ thấp và có quy mô nhỏ so với kinh tế thế giới, các biến động phức tạp và khó lường trước của nền kinh tế thế giới thời gian qua đã có tác động không nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, so với nhiều nước trong khu vực, chúng ta vẫn đạt được những chỉ tiêu kinh tế đáng khích lệ. Hoạt động xuất nhập khẩu vẫn tiếp tục khởi sắc, duy trì tăng trưởng cao, năm 2008 dự kiến xuất khẩu xấp xỉ 63 tỉ USD, tăng trên 29,5% so với 2007, nhập khẩu ước đạt 79,9 tỉ USD, tăng 27,5% so với 2007. 10 mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có kim ngạch trên 1 tỉ USD như: Dệt may, cà phê, cao su, thủy sản, dầu thô, giầy dép, điện tử và linh kiện điện tử, sản phẩm gỗ và nhóm sản phẩm cơ khí, tiếp tục được giữ vững; đồng thời mặt hàng dây điện và cáp điện cũng có khả năng trở thành thành viên của «câu lạc bộ 1 tỉ USD» này. Môi trường kinh doanh được cải thiện một cách rõ rệt, minh bạch hơn nhờ thực thi các cam kết về minh bạch hóa chính sách, không phân biệt đối xử, giảm bớt rào cản trong tiếp cận thị trường và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Nhận thức của người dân và các doanh nghiệp về việc tham gia WTO đã có sự chuyển biến tích cực. Việt Nam trở thành nơi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vào một số ngành như điện tử, tin học, dệt may, luyện và cán thép, ngân hàng, tài chính bảo hiểm, bất động sản ... Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu năm 2008, nhưng GDP vẫn đạt mức tăng trưởng khoảng 6,5%, tuy có giảm hơn so với năm 2007, thu hút đầu tư nước ngoài tăng rất mạnh trong năm 2007, năm 2008, số vốn đăng kí đạt gần 64 tỉ USD. Tất cả những thay đổi trên đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Là một công ty dù đã được thành lập hơn 10 năm, nhưng so với các công ty lâu năm trên thị trưởng như Bảo Việt, PJICO…và các công ty nước ngoài, khả năng tài chính của Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện hết sức quan tâm và đã thực hiện nghiệp vụ tái bảo hiểm để đảm bảo ổn định kinh doanh. Trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều vần đề cần nghiên cứu và làm rõ để giải quyết vướng mắc ở các khâu nghiệp vụ. Với vốn kiến thức còn hạn chế của một sinh viên sắp ra trường và niềm yêu thích với nghiệp vụ Tái bảo hiểm, trong thời gian thực tập ở Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện, em xin mạnh dạn đề xuất đề tài: “Phát triển nghiệp vụ Tái bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI)”. Bài viết được chia thành ba chương: CHƯƠNG I: Lý luận chung về nghiệp vụ TBH hàng hóa xuât nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. CHƯƠNG II: Hoạt động kinh doanh TBH nghiệp vụ Bảo hiểm Hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện trong giai đoạn 2004-2008. CHƯƠNG III. Một số kiến nghị nhằm phát triển nghiệp vụ TBH hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Mặc dù hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Kính mong sự đóng góp ý kiến, nhận xét của thầy cô giáo, các cán bộ và các bạn để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo – Ths. Bùi Quỳnh Anh và ban lãnh đạo và tập thể các cán bộ công ty PTI, đặc biệt là các cán bộ TBH/Trưởng nhóm nghiệp vụ bộ phòng Tái bảo hiểm đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. CHƯƠNG I: Lý luận chung về nghiệp vụ TBH hàng hóa xuât nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. 1.1. Khái quát về Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Việc các quốc gia Châu Âu thông qua các cuộc viễn chinh tới Châu Á và Châu Mỹ nhằm tìm ra những tuyến đường thương mại mới vào thế kỷ 15 và 16 đã tạo ra “Cuộc cách mạng thương mại”. Chính điều này đã cho phép các quốc gia hùng mạnh ở Châu Âu xây dựng một mạng lưới thương mại quốc tế mới nhằm tìm kiếm nguồn tài nguyên mang lại sự giàu có. Để đáp ứng nhu cầu này, nhiều học thuyết kinh tế mới và thực tiễn đã xuất hiện, trong đó có ý tưởng về quỹ chung và rủi ro đồng loạt. Trong thời kỳ này, thương mại gặp rất nhiều rủi ro kinh doanh làm giảm lợi nhuận của những thương gia. Nguyên nhân là do trong cả đội tàu, một số tàu có thể bị chìm do bão tố, cạn kiệt nguồn cung cấp hoặc đội thuỷ thủ chết vì bệnh tật, lạc đường, bị chìm do quá tải, hoặc bị mọt ăn thủng. Những người tham gia đầu tư vào những chuyến như kể trên cảm thấy cần thiết phải cùng nhau chia sẻ rủi ro tránh tình trạng một số nhà đầu tư mất trắng toàn bộ chuyến hàng do một hiện tượng khá phổ biến: tàu bị mất tích. Có 2 hình thức hay được sử dụng là: Cách thứ nhất là Hình thức cổ phần, theo đó các chủ hàng tập hợp lại, cùng sở hữu cổ phần của chuyến hàng. Khi tổn thất xảy ra tất cả cùng phải gánh chịu. Cách thứ hai là Bảo hiểm, một hệ thống theo đó chủ tàu hay chủ hàng (có thể là một cá nhân hay một công ty) trả một số tiền mặt cho công ty bảo hiểm nếu họ thoả thuận sẽ bồi thường khi con tàu đã nêu trên không hoàn thành một chuyến đi cụ thể nào đó. Những công ty bảo hiểm này đã tạo lập một quỹ chung dùng để thanh toán cho người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất. Có thể nói, bảo hiểm hàng hải là loại hình bảo hiểm lâu đời nhất. Một trong những đơn bảo hiểm hàng hải đầu tiên mà người ta tìm thấy là đơn bảo hiểm cấp vào năm 1347 tại Genoa (Italia) cho tàu Santaclara đi đến quần đảo Magioca thuộc Tây Ban Nha. Người ta cho rằng bảo hiểm hàng hải ra đời bắt đầu từ những người cho vay nặng lãi sống ở miền Bắc Italia. Những người này thường cho chủ tàu vay nợ với điều kiện là nếu tàu đi trót lọt thì chủ tàu phải trả một khoản lãi rất nặng. Ngược lại, nếu tàu bị đắm, mất hết thì được xoá nợ. Lối cho vay này gọi là vay “được ăn cả ngã về không” hay cho vay kiêm bảo hiểm. Bảo hiểm hàng hải là bảo hiểm những rủi ro trên biển hoặc những rủi ro trên bộ, trên sông liên quan đến hành trình đường biển, gây tổn thất cho các đối tượng bảo hiểm chuyên chở trên biển. Bảo hiểm sau đó phát triển sang Anh. Nước Anh là nước có nền ngoại thương phát triển nên bảo hiểm cũng phát triển sớm và đầy đủ hơn. Ngay từ thế kỷ 17 Anh đã có mẫu đơn bảo hiểm tàu và hàng (Lloyd’s SG Form) vẫn được áp dụng cho đến ngày nay. Ở Mỹ công ty bảo hiểm hàng hải đầu tiên là the Insurance Company of North American, được thành lập vào năm 1792, bảo hiểm cho các tàu (clipper) và hàng hoá chuyên chở của Mỹ. Theo thời gian, bảo hiểm hàng hải phát triển thành một hỗn hợp các đơn bảo hiểm tài sản mở rộng đối với các rủi ro trên đất liền (bảo hiểm hàng nội địa) và rủi ro trên biển (bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển). Bảo hiểm hàng hải được chia thành 3 loại chính là: Bảo hiểm thân tàu: Bảo hiểm thân tàu là bảo hiểm những thiệt hại vật chất xảy ra đốí với vỏ tàu, máy móc và các thiết bị trên tàu đồng thời bảo hiểm cước phí, các chi phí hoạt động của tàu và một phần trách nhiệm mà chủ tàu phải chịu trong trường hợp hai tàu đâm va nhau. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu: là bảo hiểm những thiệt hại phát sinh từ trách nhiệm của chủ tàu trong quá trình sở hữu, kinh doanh khai thác tàu biển gây ra đối với hàng hoá họ chịu trách nhiệm trông coi; tử vong hay bị thương của hành khách, thuỷ thủ và người bốc dỡ; thiệt hại đối với đê chắn sóng, cầu, cảng, cáp ngầm dưới biển; và gần đây nhất là cả những tổn thất gây ra do ô nhiễm. Bảo hiểm hàng hoá: được các chủ hàng sử dụng khi vận chuyển hàng theo đường biển hoặc đường hàng không trong thương mại quốc tế. 1.1.2. Sự cần thiết khách quan Vận chuyển bằng đường biển là phương thức vận chuyển lâu đời nhất của loài người. Mặc dù vai trò lịch sử của vận chuyển hàng hoá bằng đường biển ở một mức độ nào đó đã suy giảm do sự ra đời của các phương tiện vận chuyển hữu hiệu khác như ôtô hay máy bay, nhưng nó vẫn đóng vai trò hết sức quan trọng do có những ưu thế vượt trội như: Có thể vận chuyển được nhiều chủng loại hàng hoá như các loại hàng hoá siêu trường, siêu trọng (nguyên liệu thô: than đá, dầu, … hoặc các phương tiện vận tải, máy móc…) với khối lượng lớn, mà các phương tiện vận tải khác như: đường bộ, đường hàng không… không thể đảm nhận được. Các tuyến vận chuyển đường biển rộng lớn nên trên một tuyến có thể tổ chức được nhiều chuyến tàu trong cùng một lúc cho cả hai chiều. Việc xây dựng và bảo quản các tuyến đường biển dựa trên cơ sở lợi dụng điều kiện thiên nhiên của biển, do đó không phải đầu tư nhiều về vốn, nguyên, vật liệu, sức lao động. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho giá thành vận chuyển bằng đường biển thấp hơn so với các phương tiện khác. Vận chuyển bằng đường biển góp phần phát triển tốt mối quan hệ kinh tế với các nước, thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại của nhà nước; góp phần tăng thu ngoại tệ… Tuy nhiên, vận chuyển đường biển cũng có một số nhược điểm cố hữu sau: Vận chuyển bằng đường biển gặp rất nhiều yếu tố rủi ro. Các rủi ro này có thể do các yếu tố tự nhiên, yếu tố kỹ thuật hay yếu tố xã hội, con người. Do yếu tố tự nhiên: Vận chuyển bằng đường biển phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Thời tiết, khí hậu trên biển đều ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình vận chuyển bằng đường biển. Nhửng rủi ro do thiên tai bất ngờ như bão, sóng thần, lốc… có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Yếu tố tự nhiên diễn ra không theo một quy luật nhất định nào. Vì vậy, mặc dù khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và có thể dự báo thời tiết, nhưng rủi ro vẫn có thể xảy ra. Do yếu tố kỹ thuật: Trong hoạt động của mình, con người ngày càng sử dụng nhiều hơn các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại. Nhưng dù máy móc hiện đại chính xác đến đâu cũng không tránh khỏi trục trặc về kỹ thuật, đó là trục trặc của chính con tàu, kỹ thuật dự báo thời tiết, các tín hiệu điều khiển từ đất liền… từ đó gây ra đổ vỡ, mất mát hàng hoá trong quá trình XNK. Do yếu tố xã hội, con người: Hàng hoá có thể bị mất trộm, mất cắp, bị cướp, hoặc bị thiệt hại do chiến tranh… Tốc độ của tàu biển còn chậm, hành trình trên biển có thời gian dài, nên xác suất rủi ro tai nạn trên biển càng cao nhưng việc ứng cứu rủi ro, tai nạn rất khó khăn. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, mỗi chuyến tàu thường có giá trị rất lớn bao gồm giá trị tàu và hàng hoá chở trên tàu. Vì vậy, nếu rủi ro xảy ra sẽ gây tổn thất rất lớn về tài sản, trách nhiệm và con người. Trong quá trình vận chuyển, hàng hoá được chủ phương tiện chịu trách nhiệm chính. Nhưng trách nhiệm này rất hạn chế về thời gian, phạm vi và mức độ tuỳ theo điều kiện giao hàng và vận chuyển. Từ năm 1921, Dự thảo luật có tên Hague đã được soạn thảo nhằm điều chỉnh các hoạt động vận chuyển trên biển. Bộ luật này chính thức được áp dụng vào năm 1924 sau khi được nhiều nước thông qua tại Hội nghị Brussel (Bỉ) cũng trong năm này. Năm 1968, Uỷ ban Hàng hải Quốc tế đã sửa đổi Bộ luật này và lấy tên mới là Hague -Visby. Theo đó, trách nhiệm của người vận chuyển đối với tổn thất chỉ giới hạn ở mức 666.7 SDR một đơn vị hàng hoá, tương đương 2 SDR một kilogram hàng hoá bị mất hoặc hư hỏng, mặc dù họ được miễn trách nhiệm trong trường hợp hiểm hoạ tự nhiên, trộm cắp. Trong thực tế, đòi bồi thường từ các công ty vận chuyển rất phức tạp và tốn chi phí. Trong hầu hết các trường hợp, các các công ty này đều đến từ nước ngoài, thậm chí từ châu lục khác, do vậy, tư vấn về luật hàng hải từ các chuyên gia là điều cần thiết. Tất cả những phân tích nêu trên cho thấy, bảo hiểm là rất cần thiết cho vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. 1.1.3. Đặc điểm cơ bản Quá trình xuất nhập khẩu (XNK) hàng hoá có nhiều bên liên quan, được thực hiện thông qua ba loại hợp đồng: Hợp đồng mua bán: giữa người mua và người bán trong đó thể hiện sự chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá từ người bán sang người mua. Hợp đồng vận chuyển. Hợp đồng bảo hiểm. Hai loại hợp đồng sau cùng tuỳ theo điều kiện giao hàng được áp dụng là FOB hay CIF mà xác định các bên liên quan. Nếu sử dụng điều kiện FOB, dịch vụ vận chuyển và mua bảo hiểm cho hàng hoá do người mua đảm nhận với người vận chuyển và công ty bảo hiểm. Còn trong điều kiện CIF, các dịch vụ này sẽ do người bán đảm nhận. Hàng hoá XNK thường được vận chuyển qua biên giới quốc gia, chịu sự kiểm soát của hải quan, kiểm dịch… theo quy định của từng nước và phải được mua bảo hiểm theo tập quán thương mại quốc tế. Hàng hoá XNK thường được vận chuyển bằng nhiều loại phương tiện khác nhau theo phương thức vận chuyển đa phương tiện. 1.2. Tái bảo hiểm Hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 1.2.1. Khái niệm chung về TBH Bảo hiểm là một phạm trù kinh tế. Đặc trưng của nó là việc thành lập mang tính chất tập thể một quỹ dự trữ tài chính thông qua sự vận dụng các quy luật thống kê và nguyên tắc cân đối cũng như việc phân phối mang tính chất riêng rẽ quỹ đó để đáp ứng những nhu cầu có thể dự đoán được trong tương lai phát sinh ra từ những sự cố bất ngờ gây thiệt hại hay xảy ra. Như vậy khái niệm bảo hiểm chứa đựng hai yếu tố cơ bản sau: Tính tập thể của việc thành lập quỹ dự trữ, có nghĩa là mỗi thành viên tham gia bảo hiểm đều phải đóng góp một khoản tiền nhất định (Phí bảo hiểm). Phí này được tính dựa trên quy luật thống kê (bao gồm thống kê tổn thất và mức độ trung bình của các tổn thất, thống kê các đơn vị rủi ro) và nguyên tắc cân đối (có nghĩa là tổng số phí thu được phải bằng tổng số tiền chi trả bồi thường). Tính riêng rẽ của việc phân phối quỹ dự trữ, có nghĩa là chỉ phân phối quỹ cho những thành viên khi có rủi ro bất ngờ gây thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra. Những rủi ro bất ngờ này về tổng thể phải dự đoán được và hay xảy ra. Trên đây cũng là những yếu tố cơ bản cần phải chú ý khi tiến hành việc lập, quản lý và phân phối quỹ tiền tệ thông qua hình thức bảo hiểm. Dựa theo các rủi ro được bảo hiểm, các ngành kinh tế khác nhau và các quá trình tiến hành bảo hiểm được chia thành nhiều loại và được tổ chức thành một hệ thống độc lập của nền kinh tế quốc dân (ở nhiều nước nó còn được gọi là ngành kinh tế bảo hiểm). Một trong những loại hình đó là Tái bảo hiểm (TBH). Tái bảo hiểm là một hình thức bảo hiểm lại những rủi ro đã được bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm (công ty bảo hiểm gốc) tại một hay nhiều công ty bảo hiểm khác nhau (công ty TBH). Nói cách khác, TBH là bảo hiểm cho người bảo hiểm. Đối với các nước có nền kinh tế tập trung như Việt Nam, TBH là một lĩnh vực đặc biệt của hệ thống bảo hiểm nhà nước và đồng thời cũng là một bộ phận của ngành kinh tế đối ngoại, mà chủ yếu là các quan hệ tài chính đối ngoại. Cũng như đối với các loại hình bảo hiểm khác, việc tiến hành nghiệp vụ TBH đòi hỏi phải có các điều kiện sau: Số lượng rủi ro phải đủ lớn để quy luật số đông phát huy được tác dụng qua đó, yếu tố ngẫu nhiên được loại trừ. Mức độ tổn thất có thể xảy ra từ các rủi ro được bảo hiểm không được phép chênh lệch quá lớn, cũng như không được phép có nhiều tổn thất quá lớn xảy ra trong số hợp đồng bảo hiểm (Tình trạng này dẫn đến sự không đồng nhất trong hợp đồng bảo hiểm). Khả năng thường xuyên xảy ra tổn thất (Nếu không có điều kiện này thì không phát sinh nhu cầu bảo hiểm). Nhiệm vụ chủ yếu của TBH là phân chia các rủi ro đã được bảo hiểm của các công ty bảo hiểm gốc cho một tập thể những công ty TBH và thông quá đó sẽ tận dụng được một cách tối ưu các quy luật thống kê. Với nhiệm vụ trên, TBH ổn định kinh doanh cho các công ty bảo hiểm gốc và tạo điều kiện cho các công ty này có thể nhận bảo hiểm cho những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của mình.. Ví dụ sau đây sẽ minh họa cho điều đó: Một công ty bảo hiểm A chỉ có khả năng thanh toán tiền bồi thường tối đa là $1 triệu, muốn bảo hiểm cho một chiêc tàu chở một khối lượng hàng hóa lớn trị giá $10 triệu. Nếu giả sử không có TBH thì công ty A không thể ký hợp đồng bảo hiểm với chủ tàu đó được, vì khi không may có tổn thất toàn bộ xảy ra thì công ty A sẽ bị phá sản. Nhưng do có hình thức TBH nên công ty bảo hiểm A vẫn ký được hợp đồng bảo hiểm với chủ tàu bảo hiểm cho con tàu trị giá $10 triệu đó. Sau khi ký hợp đồng, công ty bảo hiểm A dùng phương pháp TBH phân tán bớt mức trách nhiệm mà mình phải gánh chịu. Trong trường hợp này, công ty bảo hiểm A chỉ giữ lại 10%, còn 90% của $10 triệu công ty bảo hiểm A chuyển cho các công ty TBH khác, ví dụ như 50% cho công ty TBH B và 40% cho công ty TBH C. Thông qua ví dụ trên chúng ta thấy được vai trò và nhiệm vụ của TBH. Ở đây cần phải phân biệt sự khác nhau của TBH và Đồng bảo hiểm. Mặc dù có điểm giống nhau giữa TBH và đồng bảo hiểm là cùng có nhiều công ty bảo hiểm tham gia bảo hiểm cho cùng một đơn vị rủi ro, nhưng giữa chúng có nhiều điểm khác nhau. Đó là: Ký hợp đồng: - Trong TBH: Công ty bảo hiểm gốc đứng ra ký hợp đồng bảo hiểm với người tham gia và sau đó phân chia trách nhiệm cho các công ty TBH theo sự thỏa thuận giữa họ và các công ty TBH. - Trong đồng bảo hiểm: Việc ký hợp đồng do nhiều công ty bảo hiểm tiến hành, mỗi một công ty tham gia đồng bảo hiểm đều phải ký tên vào giấy chứng nhận bảo hiểm. Trả tiền bồi thường: - Trong TBH: Khi tổn thất xảy ra, trước hết công ty bảo hiểm gốc phải đứng ra bồi thường cho người được bảo hiểm, sau đó mới đòi lại công ty TBH. Ở đây người được không có quan hệ trực tiếp với công ty TBH. - Trong đồng bảo hiểm: Khi tổn thất xảy ra các công ty tham gia đồng bảo hiểm có trách nhiệm trả tiền bồi thường trực tiếp cho người được bảo hiểm theo tỷ lệ mà mình tham gia. Do có sự phiền phức trong việc ký hợp đồng và trả tiền bồi thường trên và cùng với sự phát triển của nghiệp vụ TBH, đồng bảo hiểm đã dần mất đi ý nghĩa của nó. Mặc dù vậy, hiện nay trên thị trường London đồng bảo hiểm trong lĩnh vực hàng hải vẫn còn phổ biến. Tùy theo góc độ quan sát của công ty bảo hiểm gốc hay công ty TBH mà người ta phân chia TBH ra thành 2 phần riêng biệt. Đó là chuyển TBH và nhận TBH: Chuyển TBH hay còn gọi là TBH đi: có nghĩa là một công ty bảo hiểm gốc phân tán rủi ro cho các công ty TBH. Trong trường hợp này, công ty bảo hiểm gốc phải chuyển phí cho các công ty TBH và nhận được từ họ yếu tố đảm bảo và ổn định kinh doanh của mình. Nhận TBH hay còn gọi là TBH nhận: là một công ty TBH nhận một phần rủi ro đã được bảo hiểm từ một công ty bảo hiểm gốc khác. Trong trường hợp này, công ty TBH được hưởng số phí từ công ty bảo hiểm gốc nhằm mục đích kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm. Theo ví dụ đã nêu thì quá trình phân tán rủi ro của công ty bảo hiểm A cho các công ty TBH B và C được gọi là TBH đi, nếu đứng ở góc độ của công ty bảo hiểm A; nhưng được gọi là TBH nhận, nếu đứng ở góc độ của các công ty bảo hiểm B và C. Ngoài ra, TBH còn bao gồm cả hình thức TBH tiếp hay còn gọi là chuyển nhượng TBH, có nghĩa là một công ty TBH phân chia tiếp phần trách nhiệm của minh đã nhận từ một công ty bảo hiểm gốc cho các công ty TBH khác. 1.2.2. Vai trò của Tái bảo hiểm Hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển Đối với công ty nhượng TBH Nói chung, TBH không làm thay đổi bản chất vốn có của phạm vi bảo hiểm. Trong dài hạn, nó không thể khiến công việc kinh doanh xấu trở thành tốt, nhưng nó thực sự cung cấp những sự trợ giúp đắc lực cho nhà nhượng tái. Nhận bảo hiểm cho những rủi ro vượt quá khả năng giữ lại – bảo hiểm hàng không, bảo hiểm dầu khí…Sau khi thu xếp TBH, công ty nhượng có thể nhận những hợp đồng có giới hạn bảo hiểm lớn hơn những vẫn duy trì được những độ rủi ro trong phạm vi quản lý được. Bằng cách tái đi một phần của mọi hợp đồng hoặc chỉ tái đi những hợp đồng lớn, mức tổn thất giữ lại ròng tính theo từng đơn bảo hiểm hay toàn bộ số đơn có thể được tính toán phù hợp với thặng dư vốn của công ty bảo hiểm. Giữ lại $2 tr. Chuyển nhượng $48 tr. Một phần rủi ro chuyển cho Rủi ro chuyển cho Công ty TBH Công ty bảo hiểm Chấp nhận USD 48 tr. TBH Bảo hiểm RỦI RO $ 50 tr. Người được bảo hiểm Tạo ra sự ổn định trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm: Theo thời gian, TBH giúp ổn định kết quả tài chính và hoạt động khai thác của công ty nhượng TBH. Đồng thời bảo vệ nguồn vốn thặng dư trước các cú sốc gây ra do các tổn thất lớn không được dự đoán trước. TBH cũng được thu xếp nhằm giữ lại các các tổn thất nhỏ, dễ dự đoán và chia sẻ những tổn thất lớn, bất ngờ cho các công ty bảo hiểm và TBH trên toàn thị trường. Ngoài ra, TBH còn giúp bảo vệ công ty khỏi các rủi ro tích tụ lớn hơn dự đoán cũng từ một hay nhiều thảm hoạ. Nhờ vậy, hiệu quả khai thác và hiệu quả tài chính của các tổn thất lớn hoặc của số lớn các tổn thất có thể được phân bổ qua nhiều năm. Điều này làm giảm khả năng kết quả tài chính của công ty bảo hiểm gốc bị ảnh hưởng. Tăng cường khả năng tài chính: Khả năng tài chính của công ty Bảo hiểm trước trách nhiệm bảo hiểm công ty đảm nhận được đánh giá qua khả năng chi trả bồi thường. Trong quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm, các quốc gia đều kiểm soát khả năng chi trả bồi thường của các công ty bảo hiểm thông qua quy định biên khả năng thành toán không được phép thấp hơn một tỷ lệ nào đó. Tỷ lệ này gọi là “Biên khả năng thanh toán tối thiểu”. Tiếp cận kinh nghiệm và dịch vụ của các công ty TBH, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển, định giá và khai thác sản phẩm cũng như trong việc quản lý tổn thất. Rất nhiều nhà TBH chuyên nghiệp có những hiểu biết sâu rộng và khả năng cung cấp các dịch vụ tài chính cho các công ty nhượng. Những dịch vụ này bao gồm các trợ giúp và tư vấn về khai thác, tiếp thị, định giá, ngăn ngừa tổn thất, giải quyết tổn thất, dự phòng, định phí, đầu tư và các vấn đề khác về nhân sự. Để bảo vệ lợi ích của chính họ, các công ty nhận tái buộc phải xem xét một cách rất thận trọng các hoạt động kinh doanh của công ty nhượng tái, từ đó đưa ra những tư vấn nhất định nào đó. Thông thường, công ty nhận tái có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc đánh giá các hợp đồng có mức trách nhiệm lớn và giải quyết các tổn thất lớn hoặc ít gặp. Ngoài ra, nhờ có quan hệ với số lượng lớn các công ty nhượng tái tương đối đồng đều, công ty nhận tái có khả năng đưa ra cái nhìn tổng thể về một số các vấn đề tổng quát cũng như các xu hướng chung trên thị trường. Ngoài các công ty nhận tái thì các trung gian TBH cũng cung cấp những dịch vụ tương tự cho khách hàng của mình. Đối với công ty nhận TBH Thông qua các nghiệp vụ TBH, công ty nhận thiết lập mối quan hệ vững chắc với các bạn hàng nhằm tăng doanh thu, đặc biệt là doanh thu về ngoại tệ. Đồng thời, xét trong mối quan hệ tổng thể với bảo hiểm gốc thì TBH thực chất là sự phân tán rủi ro đối với các công ty nhận TBH. Đối với xã hội Đảm bảo tính ổn định và sự chắc chắn cho quá trình kinh doanh và sản xuất của các đơn vị kinh tế. Đảm bảo kinh doanh cho công ty bảo hiểm có nghĩa là đảm bảo được sự kinh doanh và sản xuất của các đơn vị kinh tế, từ đó tạo điều kiện tốt cho họ phát triển kinh doanh. Đảm bảo tính ổn định của ngân sách ngoại tệ nhà nước. Đối với nghiệp vụ TBH nhận, công ty bảo hiểm xuất khẩu dịch vụ bảo hiểm nhằm ổn định kinh doanh cho các công ty bảo hiểm khác. Vì vậy chức năng của TBH nhận giống với chức năng của bảo hiểm đối ngoại là kinh doanh dịch vụ bảo hiểm nhằm tăng thu ngoại tệ. Tăng thu nhập quốc dân. Nhờ có TBH, hoạt động sản xuất kinh doanh được mở rộng, tạo việc làm, từ đó, nâng cao đời sống của nhân dân. 1.2.3. Hợp đồng TBH Định nghĩa: Theo Quyết định số 100/QĐ – BTC ban hành ngày 28/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Hợp đồng TBH là Hợp đồng bảo hiểm do doanh nghiệp nhận TBH phát hành để bồi thường cho doanh nghiệp nhượng tái đối với những tổn thất của một hay nhiều Hợp đồng bảo hiểm do doanh nghiệp nhượng tái phát hành. Theo định nghĩa trên, hợp đồng TBH có ba đặc điểm là: Nhà TBH cam kết bồi thường cho công ty nhượng mà bản thân công ty nhượng là một thành viên của hợp đồng bảo hiểm. Tái bảo hiểm có thể cung cấp một sự bồi thường toàn bộ hoặc chỉ một phần đối với những trách nhiệm mà công ty nhượng có thể phải gánh chịu theo hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng TBH là một hợp đồng riêng biệt giữa nhà TBH và công ty nhượng mà trong đó Người được bảo hiểm không phải là một bên tham gia của hợp đồng. Phân loại Hợp đồng TBH tuỳ ý lựa chọn Đây là một hình thức TBH cơ bản và cổ điển nhất. Danh từ “Tuỳ ý lựa chọn” có liên quan đến ý niệm là trong loại TBH này, công ty nhượng có toàn quyền lựa chọn rủi ro cần phải TBH và ngược lại, nhà TBH có quyền nhận hay từ chối rủi ro đó. Mỗi dịch vụ đem nhượng theo cơ sở tuỳ ý lựa chọn là một hợp đồng TBH tách biệt bao gồm toàn bộ hay một phần rủi ro mà công ty nhượng muốn nhượng cho thị trường TBH. Vào thời điểm khi kết thúc một thoả thuận thương mại nào đó thì các bên tham gia vào thoả thuận đó thường quan tâm đến việc quy định thật chính xác các chi tiết cần thiết của thoả thuận lần tới, các mục đích, nghĩa vụ của các bên đối với nhau và đặt ra các điều kiện cần thiết để ràng buộc những nghĩa vụ và quyền lợi ấy và như vậy, chỉ có hình thức TBH tuỳ ý lựa chọn là phù hợp nhất, vì nó có thể cho phép nhà TBH có được một ý niệm đúng về những rủi ro mà mình phải gánh chịu trước khi tham gia hợp đồng. Thủ tục tiến hành: Trước hết công ty nhượng thông báo TBH một dịch vụ dưới hình thức một phiếu đề nghị trong đó có ghi các đặc điểm chính của rủi ro được TBH như: Tên và địa chỉ của người được bảo hiểm, Tính chất của rủi ro được bảo hiểm, Ngày bắt đầu và chấm dứt thời gian bảo hiểm, Số tiền bảo hiểm, phí bảo hểm, phần giữ lại của công ty nhượng, Tỷ lệ thủ tục phí TBH… Sau khi nhận phiếu đề nghị, nhà tái bảo hiểm có thể yêu cầu thêm những chi tiết khác để đánh giá rủi ro mà mình sẽ nhận để có ý kiến nhận toàn bộ hay một phần nào đó hay bằng một số tiền cố định hoặc khước từ. Để đảm bảo tính thời gian, việc xác nhận có thể thực hiện qua điện thoại hay email, nhưng sau đó vẫn phải xác nhận bằng văn bản để đảm bảo tính pháp lý của hợp đồng. Tại thời điểm hợp đồng gốc hết hiệu lực, dịch vụ TBH này cũng tự động chấm dứt. Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm gốc được tái tục thì nhà tái bảo hiểm có quyền tiếp tục nhận hay từ chối không tham gia nữa. Mặt khác, bất kỳ thay đổi về nội dung, điều kiện hay giá phí so với thoả thuận ban đầu, đều phải được thông báo và chấp nhận của nhà TBH. Ưu điểm: Giúp công ty nhượng, nhất là các công ty bảo hiểm của các quốc gia đang phát triển còn non trẻ và ít kinh nghiệm hoàn thành việc nhận bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro ở địa phương mà có giá trị bảo hiểm lớn, vượt khả năng tài chính thông thường của mình bằng việc sử dụng chuyên môn và khả năng của thị trường bảo hiểm quốc tế. Giúp công ty nhượng có điều kiện lựa chọn để duy trì kim ngạch bảo hiểm của mình được cân đối, tức là giúp cho công ty nhượng có thể loại bỏ được những rủi ro đặc biệt lớn hoặc nguy hiểm mà một khi tổn thất thuộc đơn vị rủi ro này xảy ra có thể làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của mình trong năm kế hoạch ở một nghiệp vụ bảo hiểm riêng biệt. Giúp công ty nhượng chủ động trong việc chấp nhận những rủi ro mà không được chấp nhận trong các hợp đồng TBH bắt buộc truyền thống của mình như: rủi ro về động đất, ngập lụt, đình công, chiến tranh hoặc những rủi ro tương tự khác… Tạo điều kiện cho công ty nhượng có thể nhờ vào hình thức TBH tuỳ ý lựa chọn trước khi tận dụng khả năng các hợp đồng TBH bắt buộc của họ, tức là có điều kiện để cải thiện sự thăng bằng của các hình thức TBH bắt buộc, cải thiện vận may rủi trong việc đạt được những lợi ích tối đa theo các điều kiện quy định trong các hợp đồng TBH đó của họ (ví dụ: điều kiện về chia lãi, thủ tục phí TBH tính theo thang luỹ tiến, thủ tục phí TBH theo lãi…). Nhược điểm: Công ty nhượng phải thông báo đầy đủ chi tiết của nghiệp vụ bảo hiểm gốc; có nghĩa là khi áp dụng hình thức này nhiều lần thì nhà TBH thường xuyên tiếp xúc và biết được ý đồ của công ty nhượng dẫn đến có thể lộ những thông tin có lợi cho sự cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm gốc. Không đảm bảo thời gian tính trong việc phân tán rủi ro TBH, tức là công ty nhượng khi nhận bảo hiểm cho một rủi ro nào đó thường không có sự đảm bảo chắc chắn của thị trường TBH, dẫn đến mất cơ hội khai thác hoặc mất uy tín do chậm trễ trả lời người được bảo hiểm. Chi phí hành chính, thủ tục giấy tờ tốn kém làm giảm thu nhập kinh doanh. Thường xuyên phải đàm phán tái tục hợp đồng TBH trước khi ký kết bảo hiểm gốc với khách hàng. Trong trường hợp khi khả năng tiêế nhận rủi ro của thị trường TBH quốc tế đã gần tới mức tối đa, hoặc khi phí bảo hiểm gốc quá thấp so với phí trung bình của thị trường thì hình thức này chỉ có thể thực hiện được với mức phí cao hơn phí bảo hiểm gốc hoặc giảm bớt thủ tục phí TBH. Trong trường hợp này, mức sai biệt sẽ do công ty nhượng gánh chịu hoặc giảm bớt trách nhiệm cam kết trong bảo hiểm gốc. Hợp đồng TBH cố định Đây là sự thoả thuận giữa công ty nhượng và nhà TBH mà trong đó công ty nhượng tự bắt buộc phải nhượng đi tất cả các đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc mà hai bên đã quy định trước trong hợp đồng cho tới một hạn mức trách nhiệm ngang với số tiền hạn mức tối đa đã được thoả thuận từ trước. Ngược lại, nhà TBH cũng tự bắt buộc phải chấp nhận toàn bộ các đơn vị rủi ro đó. Thủ tục tiến hành Theo hình thức này, công ty nhượng và các nhà TBH đầu năm n ghiệp vụ phải thoả thuận trước về đơn vị rủi ro, các nghiệp vụ cần tái, đặc biệt thoả thuận hạn mức trách nhiệm của các bên. Ký kết Hợp đồng TBH và liên tục theo dõi quá trình thực hiện Hợp đồng. Nếu có vấn đề vướng mắc hoặc không rõ hoặc bổ sung thêm những vấn đề cần thiét để thực hiện Hợp đòng thì các bên lại phải tiến hành thoả thuận lại. Ưu điểm: Công ty nhượng chủ động hơn trong khai thác bảo hiểm gốc, tức là có toàn quyền chấp nhận và định giá phí bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro mà người đượ bảo hiểm yêu cầu mà không phải tham khảo ý kiến của nhà TBH. Nhà TBH sẽ hoàn toàn chia sẻ những may rủi với công ty nhượng và chấp nhận thanh toán cho tổn thất thuộc phạm vi hợp đồng đã thoả thuận. Nhà TBH cũng sẽ không bị ràng buộc bởi những hành động sơ xuất của công ty nhượng đi ngược lại với quyền lợi của họ. Với loại hợp đồng này, nhà TBH có điều kiện thu được số phí lớn nhất, phù hợp với nguyên tắc “Quy luật số đông” giúp cho nhà TBH thực hiện tốt vai trò kinh tế quốc dân của họ về đẩy mạnh những tiến bộ kỹ thuật của ngành bảo hiểm bằng việc chấp nhận những rủi ro mới và các dạng bảo hiểm mới. Nhược điểm: Nếu công ty nhượng chủ quan trong quá trình đánh giá, quản lý rủi ro hoạt động bh gốc sẽ ảnh hưởng lớn đến việc xác định phí bh thì về lâu dài cũng sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ với các nhà TBH. Công ty nhượng buộc phải tái đi những nghiệp vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, ngay cả nếu đó là nghiệp vụ công ty có lợi thế nhất định, có thể giữ lại nhiều hơn. Hợp đồng TBH lựa chọn bắt buộc Trong hình thức TBH này, công ty nhượng không bắt buộc phải nhượng tất cả những dịch vụ mà mình nhận bh, nhừng nhà TBH lại buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà công ty nhượng đưa vào thoả thuận này với điều kiện là những dịch vụ đó phải phù hợp với nội dung và điều khoản đã quy ước của Hợp đồng TBH thoả thuận. Trong hình thức TBH lựa chọn bắt buộc vẫn có điều kiện được đặt ra là nội dung của hình thức TBH này không có nghĩa chỉ có những rủi ro có khả năng dễ xảy ra tổn thất nhất thì đưa vào hợp đồng. Do vậy, công ty nhượng không thể lợi dụng hình thức TBH này để lựa chọn rủi ro nhằm đẩy phần bất lợi cho nhà TBH. Để phòng ngừa trường hợp này, nhà TBH phải nắm vững ý đồ của công ty nhượng, xem xét kỹ các rủi ro mà công ty nhượng đem TBH và thường xuyên theo dõi diễn biến những Hợp đồng mà mình đã ký kết. Ưu điểm: Do không có quyền từ chối rủi ro không mong muốn, nhà TBH có nguồn thu phí TBH lớn hơn so với hình thức TBH tuỳ ý lựa chọn. Công ty nhượng có điều kiện đem chào TBH từng phần mức vượt quá khả năng giữ lại của mình cho một hay một số ít các nhà TBH, thay vì phải đem phân chia tất cả cho nhà TBH như ở hình thức bắt buộc. Nhược điểm: Để chào tái phần vượt quá như nói ở trên, công ty nhượng chỉ có thể thực hiện bằng cách chào cho các nhà TBH có tiềm lực thật lớn vì họ là những nhà TBH có khả năng nhận các rủi ro có giá trị bảo hiểm cao. Trường hợp công ty nhượng có nhiều đơn vị rủi ro cần phải đem TBH thì chi phí hành chính cho việc áp dụng hình thức TBH này sẽ rất tốn kém vì những rủi ro cần TBH đó thường đòi hỏi các điều kiện TBH khác nhau, công tác tính toán phí và sổ sách kế toán sẽ phức tạp và khó khăn hơn. Phương pháp TBH Mỗi TBH này cũng được chia thành 2 phương pháp cơ bản là TBH theo Số tiền bảo hiểm (TBH tỷ lệ) TBH theo Mức bồi thường (TBH phi tỷ lệ) Phi tỷ lệ Vượt mức tỷ lệ bồi thường Vượt mức bồi thường Số thành Mức dôi Tỷ lệ Vượt mức bồi thường Số thành Phi tỷ lệ Tỷ lệ Cố định Tạm thời TBH a1) TBH theo Số tiền bảo hiểm TBH mức dôi TBH mức dôi là phương pháp TBH trong đó, mức giữ lại (MGL) được ấn định theo số tuyệt đối và mức tái bảo hiểm là mức chênh lệch giữa giá trị bảo hiểm và MGL của công ty nhượng và được giới hạn bằng một số tiền tối đa do hai bên thoả thuận. Trường hợp áp dụng: TBH mức dôi là dạng TBH tỷ lệ cổ xưa và phổ biến nhất, thường được sử dụng khi khối lượng dịch vụ gồm nhiều rủi ro có những số tiền rất chênh lệch được bảo hiểm; do đó, thường được áp dụng đối với các nghiệp vụ bảo hiểm cháy, tai nạn thân thể và nhân thọ, bảo hiểm vận chuyển, trộm cắp, tín dụng… Ưu điểm: Công ty nhượng có điều kiện giữ lại một khối lượng kim ngạch bảo hiểm lớn và do đó có mức phí thu nhập lớn không cần phải TBH. Giúp công ty nhượng đảm bảo được sự cân bằng trong kinh doanh do có thể nhận bảo hiểm những dịch vụ có giá trị khác nhau nhưng vẫn đảm bảo MGL ổn định. Nhược điểm: Chi phí hành chính tốn kém. Sử dụng nhiều nhân lực. Trường hợp tổn thất rơi nhiều vào những rủi ro dưới MGL có thể làm ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của công ty. TBH số thành Trong phương pháp TBH này, tỷ lệ TBH và tỷ lệ MGL của công ty nhượng được ấn định bằng một số tương đối (tỷ lệ phần trăm) nhất định; do đó, số phí được hưởng và số tiền bồi thường phải trả của nhà TH và công ty nhượng được phân chia tương xứng theo tỷ lệ ấn định đó. Trường hợp áp dụng: Khi mới bắt đầu triển khai một nghiệp vụ mới mà họ chưa có kinh nghiệm và thiếu tư liệu thống kê, phân tích khả năng tiến triển của loại nghiệp vụ đó. Phương pháp TBH này có thể giảm nhẹ khả năng nguy hiểm của công ty nhượng đối với các hợp có sự tích luỹ của một số lớn các vụ bồi thường tổn thất nhỏ hoặc trung bình mà gây ra bởi cùng một sự cố. Do đó, phương pháp này được dùng nhiều hơn cả trong các nghiệp vụ bảo hiểm về trách nhiệm dân sự, xe ôtô, mưa đá, giông bão và bảo hiểm vận chuyển. Ưu điểm: Là dạng TBH giản đơn, dễ xử lý, chi phí hành chính và quản lý đơn giản, ít tốn kém. Đối với nhà TBH, dạng TBH này có tính cân đối và dễ chấp nhận hơn so với dạng TBH mức dôi, có khả năng phân tán rủi ro tốt hơn so với các loại TBH khác. Nhà TBH có điều kiện tham gia vào mọi đơn vị rủi ro mà công ty nhượng nhận bảo hiểm; đồng thời công ty nhượng có thể yên tâm nhận mọi rủi ro mà có giá trị nằm trong phạm vi hạn mức khống chế tối đa đã quy ước vì mọi rủi ro này đều được chia sẻ cho nhà TBH cùng hưởng và chịu chung vận may rủi của công ty nhượng. Thủ tục phí TBH của dạng này cao nhất, ngoài ra điều kiện về tạm giữ phí TBH cũng có tỷ lệ cao, nhờ vậy, công ty nhượng có điều kiện sử dụng vốn nhàn rỗi để đầu tư vào các việc khác. Nhược điểm: Công ty nhượng phải đem TBH toàn bộ các đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc theo một tỷ lệ định trước, kể cả những rủi ro rất nhỏ mà bản thân công ty nhượng đủ khả năng và điều kiện tự giữ lại được. Mặc dù với dạng TBH số thành, công ty nhượng có thuận lợi hơn so với dạng TBH mức dôi trong việc thực hiện bảo hiểm với khả năng phân tán rủi ro tốt và linh hoạt, nhưng công ty nhượng không chủ động trong việc khống chế tỷ lệ bồi thường đối với MGL của mình, đồng thời không có khả năng để giảm hệ số biến thiên của phần lớn tổn thất thuộc MGL. TBH kết hợp số thành - mức dôi Trường hợp áp dụng: Đối với những công ty mới thành lập, phương pháp này rất phù hợp và thường được áp dụng. Bởi vì những ở công ty này khối lượng dịch vụ chưa đủ ổn định để tránh trường hợp rủi ro lớn xảy ra. Ngoài ra, công ty mới thành lập chưa thể có đủ số tiền dự trữ để đương đầu với những biến thiên về tổn thất theo các chu kỳ khác nhau. Ưu điểm: Công ty nhượng đảm bảo khả năng gia tăng về nhận trách nhiệm bảo hiểm một cách tự động mà không ảnh hưởng đến MGL của bản thân công ty (không phải gia tăng MGL). Hợp đồng cơ sở (số thành) ổn định hơn và phân tán TBH dễ dàng hơn. Nhược điểm: Thủ tục và chi phí điều hành phức tạp hơn sử dụng hợp đồng số thành thuần tuý. Phần đem TBH vào hợp đồng mức dôi cần phải có bảng thông báo TBH. Thủ tục phí TBH thu được của phần đưa vào hợp đồng mức dôi thấp hơn so với thủ tục phí TBH đưa vào hợp đồng số thành (vì tỷ trọng giữa phí và trách nhiệm thấp). a2) TBH theo Mức bồi thường TBH vượt mức bồi thường Là hình thức TBH trong đó công ty nhượng tái bảo hiểm lựa chọn một số tiền cố định để giữ lại trên một rủi ro riêng biệt hoặc cho một loại hình nghiệp vụ. Trường hợp áp dụng: Thu xếp TBH với công ty nhận TBH đối với bất kỳ khiếu nại nào có thể vượt quá MGL theo số tiền cố định đó lên tới một số tiền đã được xác định trước. Ưu điểm: Theo dõi, lưu trữ hồ sơ đơn giản; do đó, chi phí hành chính ít tốn kém. Công ty nhượng TBH kiểm soát được lượng phí TBH. Thích hợp cho những rủi ro có số tiền bảo hiểm lớn hoặc tỷ lệ tổn thất xấu, điều kiện điều khoản quá cạnh tranh (như trong bảo hiểm hàng hải, hàng không…) mà không được bảo vệ theo hợp đồng cố định. Bảo vệ kết quả của hợp đồng cố định. Phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường (sự phát triển của công ty bảo hiểm nội bộ). Nhược điểm: Phụ thuộc vào nhà nhận TBH (tỷ lệ phí). Chịu rủi ro cao (nếu các tổn thất nhỏ lẻ thuộc MGL xảy ra với tần suất cao. Khó cạnh tranh với dạng hợp đồng cố định phi tỷ lệ. TBH vượt tỷ lệ bồi thường Đây là dạng TBH phi tỷ lệ mà nhà TBH chỉ có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp khi kết quả toàn bộ nghiệp vụ của công ty nhượng có một tỷ lệ bồi thường vượt quá một tỷ lệ hoặc một mức tiền ấn định trước. Trường hợp áp dụng: Chủ yếu được thu xếp để bảo vệ cho những loại nghiệp vụ có tính chất tổn thất bất thường do thiên tai gây ra như: chấy, mưa đá, bão tuyết trong bảo hiểm nông nghiệp… và dùng để bổ sung cho các dạng TBH tỷ lệ của công ty nhượng. Ưu điểm: Giúp công ty nhượng tự bảo vệ khỏi một sự gia tăng đột biến của tỷ lệ bồi thường trong một ngành bảo hiểm hay một dạng dịch vụ bảo hiểm nhất định nào đó trong một khoảng thời gian quy định, bất luận tình trạng đó do nguyên nhân nào gây ra. Nhược điểm: Trong thực tiễn, dạng TBH này ít thông dụng vì việc tính toán phí TBH rất phức tạp và thiếu chính xác. TBH kết hợp Hình thức TBH phi tỷ lệ có thể được ứng dụng ở nhiều dạng khác nhau, thường được sử dụng kết hợp với các dạng TBH tỷ lệ để xây dựng chương trình TBH của công ty nhượng. Những hình thức áp dụng chủ yếu là: TBH kết hợp mức dôi và vượt mức bồi thường: Là hình thức khá phổ biến, nhằm bảo vệ chung cho quyền lợi của công ty nhượng và nhà TBH của hợp đồng TBH theo tỷ lệ. Sơ đồ: Hợp đồng TBH vượt mức bồi thường bảo vệ cho quyền lợi chung Mức tự bồi thường của công ty nhượng theo hợp đồng số thành Mức tự bồi thường của nhà TBH theo hợp đồng số thành TBH kết hợp mức dôi và vượt mức bồi thường: Bảo vệ cho quyền lợi của công ty nhượng. Sơ đồ: Hợp đồng TBH vượt mức bồi thường bảo vệ cho công ty nhượng Hợp đồng TBH theo tỷ lệ Mức tự bồi thường của công ty nhượng Bảo vệ cho quyền lợi của nhà TBH Sơ đồ: Mức giữ lại của công ty nhượng Hợp đồng TBH vượt mức bồi thường bảo vệ quyền lợi của nhà TBH thuộc hợp đồng TBH tỷ lệ Mức tự bồi thường của nhà TBH theo hợp đồng TBH tỷ lệ Những điều khoản cơ bản trong Hợp đồng TBH Hoa hồng TBH Là một khoản tiền, được biểu thị bằng một tỷ lệ phần trăm của số phí đem TBH, mà nhà TBH trả cho tông ty nhượng khi nhà TBH tham gia nhận hợp đồng TBH của công ty nhượng. Đặc điểm: Thủ tục phí TBH chỉ áp dụng đối với dạng TBH theo số tiền bảo hiểm. Đây là khoản để chi phí cho việc điều hành dịch vụ của công ty nhượng, được điều chỉnh trên cơ sở tính toán tỷ lệ bồi thường ước tính của dịch vụ, và/hoặc tổng phí thu. Hoa hồng TBH phụ thuộc nhiều vào kết quả hợp đồng, tỷ lệ bồi thường… Phân loại: Để tính toán tỷ lệ thủ tục phí TBH phù hợp, cần xem xét các yếu tố: Hình thức TBH và phương thức chào TBH. Phí TBH trên cơ sở phí toàn phần hay có mức khấu trừ (phí gộp, phí thuần, môi giới…). Các điều khoản thoả thuận giảm giá đặc biệt trong phí bảo hiểm gốc. Chi phí hành chính và quản lý của công ty nhượng nhiều hay ít. Thông kê kết quả bồi thường hàng năm. Phí nhàn rỗi được công ty nhượng sử dụng để đầu tư ra sao? Hoa hồng TBH có 3 loại chính: Hoa hồng cố định: Là một khoản tiền nhà TBH trả cho công ty nhượng được biểu thị bằng một tỷ lệ phần trăm cố định của số phí TBH. Hoa hồng theo thang luỹ tiến. Dựa trên sự thoả thuận của hai bên, hoa hồng được điều chỉnh tăng giảm theo thang luỹ tiến. Cơ sở để tính là lấy mức hoa hồng cố định làm chuẩn; từ đó, quy định mức tăng giảm theo tỷ lệ bồi thường. Thang luỹ tiến được khống chế ở mức tối đa và tối thiểu. Kết quả bồi thường càng thấp thì hoa hồng TBH càng cao và ngược lại. Các bước cơ bản để tính hoa hồng theo thang luỹ tiến: Đưa ra một mức hoa hồng ước tính: Mức hoa hồng thực tế sẽ không thể xác định được ngay cho đến khi tỷ lệ tổn thất được tính vào cuối năm. Công ty nhận TBH sẽ đồng ý trả một khoản hoa hồng tạm thời ở mức tối thiêu để đảm bảo cho các chi phí khai thác dịch vụ của công ty nhượng tái. Xác định tỷ lệ bồi thường: Tổn thất phải trả Phí thực thu Tỷ lệ bồi thường = Trong đó: Tổn thất phải trả = Tổn thất + Chi phí liên quan mà nhà TBH phải trả trong năm kế hoạch (+lỗ/lãi của năm trước chuyển sang-nếu có) (+) Khoản dự phòng cho những tổn thất chưa giải quyết tính ở cuối năm kế hoạch (dư cuối kỳ) (-) Khoản dự phòng cho những tổn thất chưa giải quyết tính ở đầu năm kế hoạch (dư đầu kỳ) Phí thực thu = Số phí thu trong năm kế hoạch (+) Phí dự trữ cho những rủi ro còn phải đảm bảo tính ở thời điểm đầu năm kế hoạch (dư đầu kỳ) (-) Phí dự trữ cho những rủi ro còn phải đảm bảo tính ở thời điểm cuối năm kế hoạch (dư cuối kỳ) Tỷ lệ bồi thường Thủ tục phí TBH 75% và hơn 20% 73% 21% 71% 22% 69% 23% 67% 24% 65% 25% 63% 26% 61% 27% 59% 28% 57% 29% 55% và dưới 30% Hoa hồng TBH theo lãi: Trong năm nghiệp vụ nếu hợp đồng TBH có lãi thì công ty nhận tái sẽ phải chi trả cho công ty gốc một mức hoa hồng lãi như được quy định trong hợp đồng. Mức hoa hồng này được xác định dựa trên sự thoả thuận giữa hai công ty và dựa trên kết quả lãi lỗ của hợp đồng mà công ty nhượng tái thống kê vào cuối năm nghiệp vụ như sau: Thu: - Khoản dự trữ cho những rủi ro còn phải đảm bảo từ năm tài chính trước chuyển sang. - Phần dự trữ cho những vụ tổn thất đang còn chờ giải quyết từ năm tài chính trước mang sang. - Phí TBH thu nhập trong năm hiện tại. Chi: - Khoản dự trữ cho những rủi ro còn phải đảm bảo vào cuối năm tài chính hiện tại; - Phần dự trữ cho các tổn thất đang chờ giải quyết vào cuối năm tài chính hiện tại. - Các vụ tổn thất đã được thanh toán trong năm tài chính. - Các khoản thủ tục phí TBH đã trả. - x% ( 2.5% - 5%) chi phí hành chính của nhà TBH. - Lỗ từ các năm tài chính trước chuyển sang (nếu có). - Chi phí khác (thuế…) Chênh lệch giữa hai phần này nếu dương sẽ được tính là hợp đồng có lãi và ngược lại. Phí TBH hợp đồng phi tỷ lệ (Phí đặt cọc) Hợp đồng TBH phi tỷ lệ là loại hợp đồng bảo vệ; do đó, công ty nhượng phải đóng phí cho giới hạn trách nhiệm mình mua bảo vệ. Phí TBH bảo vệ: Khác với hợp đồng TBH tỷ lệ, công ty nhượng TBH phải đóng một khoản phí TBH thống nhất ngay từ khi thu xếp hợp đồng. Khoản phí ấy thường được quy định bằng một tỷ lệ của Phí bảo hiểm gốc thực tế (GNPI)của các dịch vụ được bảo vệ. Do Phí bảo hiểm gốc thực tế chỉ là số ước nên đầu năm các bên tạm tính phí TBH tối thiểu để đặt cọc. Phí đặt cọc tối thiểu thường được đóng làm nhiều lần trong năm (4 lần) do công ty nhượng TBH chưa thu được phí BH gốc. Tỷ lệ điều chỉnh: là tỷ lệ phí TBH phải đóng cho nhà nhận TBH tính trên Phí bảo hiểm gốc thực tế của các dịch vụ được bảo vệ. Cuối thời hạn của hợp đồng, công ty nhượng TBH phải xác định và thông báo cho nhà nhận TBH tổng doanh thu phí thu được cho các dịch vụ đã được bảo vệ bằng hợp đồng được thu xếp. Nhà nhận TBH sẽ tính toán Phí TBH điều chỉnh và yêu cầu Phí đóng thêm nếu Phí TBH thực tế cao hơn Phí TBH đặt cọc tối thiểu. Khi đó: Phí đóng thêm = GNPI * Tỷ lệ phí điều chỉnh – Phí đặt cọc tối thiểu. Điều khoản Tái lập trách nhiệm Mặc dù là hợp đồng TBH bảo vệ nhưng nhà nhận TBH sẽ không bảo vệ cho nhà nhượng TBH một cách vô hạn. Một số lần trách nhiệm sẽ được ấn định mà hợp đồng này sẽ bảo vệ (gọi là số lần tái lập trách nhiệm) bằng điều khoản “Tái lập trách nhiệm hợp đồng”. Điều khoản này quy định số lần tái lập trách nhiệm (TLTN) và phí tái lập trách nhiệm được tính toán như thế nào. Số lần tái lập trách nhiệm: là số lần tổng mức trách nhiệm của hợp đồng sẽ gánh chịu nếu có tổn thất lớn xảy ra. Tổng trách nhiệm tối đa của nhà nhận TBH sẽ tương đương: Giới hạn trách nhiệm của hợp đồng * (Số lần Tái lập trách nhiệm + 1) Phí tái lập trách nhiệm được tính bằng: Thời gian còn lại của HĐ Thời gian có hiệu lực của HĐ Số tiền cần được tái lập Giới hạn trách nhiệm của HĐ Số tiền TLTN * * Phí tạm giữ Đây là điều kiện thường được đặt ra theo quy định của luật lệ sở tại của công ty nhượng được coi là một sự bảo lãnh cho nhà TBH hoàn thành trách nhiệm của họ theo hợp đồng. Phí tạm giữ còn là một khoản dự phòng riêng giúp cho công ty nhượng có thuận lợi trong việc giải quyết bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm gốc trước khi quyết toán đòi bồi thường của nhà TBH, bởi vì việc thanh toán TBH thường được lập theo một thời điểm nhất định (theo tháng, quý hay nửa năm). Ngoài ra, đối với một số nước, việc tạm giữ lại một khoản phí TBH của nhà TBH là một điều kiện quan trọng trong việc thực hiện thanh toán cân đối của những dịch vụ TBH chuyển ra nước ngoài và cũng là mối quan hệ giữa sự bảo lãnh của nhà TBH và khả năng thanh toán của công ty nhượng. Thông thường, trong thực tế khoản dự phòng này được tính bằng một tỷ lệ phần trăm cố định của tổng doanh thu phí (khoảng 35% - 40%). Phí tạm giữ của năm nghiệp vụ bảo hiểm này sẽ được hoàn trả lại cho nhà TBH vào thời điểm tương ứng của năm kế tiếp và được tính thêm một khoản lãi xuất nhất định (3% - 5%). Trong trường hợp nếu nhà TBH rủt lui không tiếp tục tham gia TBH cho hợp đồng năm tiếp theo nữa, trách nhiệm của nhà TBH sẽ được giải quyết theo một trong hai cách sau: Hoặc tiếp tục chịu trách nhiệm đối với những rủi ro còn hiệu lực cho tới khi chấm dứt toàn bộ những rủi ro được bảo hiểm trong năm nghiệp vụ bảo hiểm đó. Hoặc thoả thuận chuyển giao toàn bộ trách nhiệm còn tồn tại sang cho nhà TBH mới tham gia cho năm tới. Bồi thường tạm giữ Là khoản tiền mà công ty nhượng tính toán trên cơ sở những vụ tổn thất đã xảy ra nhưng chưa được giải quyết trong năm. Khoản này công ty nhượng sẽ giữ lại không thanh toán cho nhà TBH vào thời điểm quyết toán của năm tài chính mà dùng để thanh toán cho các vụ tổn thất đó trong kỳ thanh toán kế tiếp. Thông thường mức tạm giữ bồi thường là 100% tổng số tiền ước tính. Khoản này sẽ được hoàn trả cho nhà TBH vào kỳ tương ứng của năm kế tiếp. Điều khoản ứng dụng về bồi thường tạm giữ cũng tương tụ như điều khoản về phí tạm giữ, bao gồm những điểm chính sau: Khoản tạm giữ này là tiền mặt hoặc bằng chứng khoán có giá trị ngang tiền mặt. Lãi suất do công ty nhượng thoả thuận. Khoản bồi thường phải thanh toán ngay, thường không được đối trừ trong khoản bồi thường tạm giữ này, nhưng trong trường hợp thanh toán TBH thực hiện theo quý, công ty nhượng có thể thoả thuận đồng ý đối trừ các khoản bồi thường phải thanh toán ngay trong bản quyết toán theo quý. Quản lý Hợp đồng Hợp đồng là thoả ước được ký kết giữa công ty nhượng và nhà TBH. Những đạo luật về các hợp đồng bảo hiểm của hầu hết các nước đều chỉ tuyên bố không áp dụng cho ngành TBH hoặc giả nếu có đề cập đến TBH thì lại không quy định các chi tiết. Nhìn chung, các hợp đồng TBH được chi phối bởi luật chung về hình thức hợp đồng và cá quy tắc áp dụng cho các hợp đồng bảo hiểm nói riêng. Do đó, những quy định của Luật hợp đồng liên quan đến những vấn đề như ý định tạo ra một mối quan hệ pháp lý, việc chào bán và chấp nhận, sự cân nhắc xem xét, khả năng tham gia vào hợp đồng, tính hợp pháp, sự chuyển nhượng và các vấn đề khác áp dụng nói chung cho hình thức, kết cấu, thực hiện và tính hiệu lực của hợp đồng TBH. Ngoài ra, hợp đồng TBH còn phụ thuộc bởi những quy tắc đặc biệt chi phối hợp đồng bảo hiểm, cụ thể: Phải có quyền lợi được bảo hiểm. Hợp đồng là một thoả ước tín nhiệm tuyệt đối. Hợp đồng là một thoả ước bồi thường. Sau khi hợp đồng được ký kết, các bên phải tiếp tục theo dõi biểu phí và tình hình tổn thất. Nếu mức phí có thay đổi thì phải được báo cho nhà TBH được biết. Tổn thất xảy ra nếu thuộc phạm vi bảo hiểm cũng phải báo cho nhà TBH để thực hiện nghĩa vụ bồi thường theo trách nhiệm hợp đồng. Tổn thất có thể được phân bổ theo: Cơ sở “Rủi ro có hiệu lực” (Risks attaching basis). Trong TBH tỷ lệ hoặc phi tỷ lệ, cá nhà nhận TBH chịu trách nhiệm đối với các tổn thất phát sinh theo đơn bảo hiểm gốc được cấp hoặc được tái tục trong thời hạn TBH với điều kiện ngày bắt đầu hiệu lực của đơn bảo hiểm gốc phải nằm trong thời hạn của hợp đồng TBH. Theo cơ sở “Tổn thất xảy ra” (Loses Occuring basis): Với hợp đồng thu xếp trên cơ sở “Tổn thất xảy ra”, công ty TBH phải chịu trách nhiệm đối với tất cả các khiếu nại có ngày xảy ra tổn thất nằm trong phạm vi thời hạn của hợp đồng TBH, mà không cần quan tâm đến ngày bắt đầu hiệu lực của đơn bảo hiểm gốc có khiếu nại phát sinh. CHƯƠNG II: Hoạt động kinh doanh TBH nghiệp vụ Bảo hiểm Hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện trong giai đoạn 2004-2008 2.1 .Vài nét về PTI 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Tên đơn vị: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (Tên viết tắt: PTI) Tên Tiếng Anh: Posts & Tel. Joint-Stock Insurance Company Trụ sở chính: Tầng 8 Tòa nhà 4A - Láng Hạ - Ba Đình - Hà Nội Ngành nghề kinh doanh chính: Bảo hiểm gốc, Nhận và nhượng tái liên quan đến các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ; Giám định, điều tra, tính toán, phân bổ tổn thất, đại lý giám định, xét giải quyết bồi thường và đòi người thứ ba. Sau Nghị Định 100CP năm 1993 của Chính Phủ về kinh doanh bảo hiểm, hàng loạt Công ty bảo hiểm ra đới chấm dứt tình trạng độc quyền trên thị trường. Hoà chung với xu thế phát triển đó, Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI) đã được thành lập ngày 01/08/1998 do Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội cấp giấy phép thành lập số 3633/GP-UP và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/09/1998, với phạm vi kinh doanh tập trung chủ yếu vào mảng bảo hiểm phi hàng hải và TBH phi nhân thọ trong nước và quốc tế. Thành viên sáng lập Công ty PTI có 07 thành viên sáng lập, đều là những Công ty có uy tín và tiềm lực tài chính vững mạnh, gồm: Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT); Tổng Công ty Xây dựng Hà Nội (HANCORP); Tổng Công ty Xuất nhập khẩu Xây dựng Việt Nam (VINCONEX); Tổng Công ty CP TBH Quốc gia Việt Nam (VINARE); Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Quốc tế (VIBank); Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh (BAOMINH). Quan hệ hợp tác Ngay từ khi mới đi vào hoạt động, Công ty đã thiết lập quan hệ hợp tác chặt chẽ với các đối tác mang tính chiến lược ở trong và ngoài nước có kinh nghiệm và uy tín lâu năm. Về hoạt động TBH phải kể đến những nhà nhận tái của thị trường Châu Âu và Châu Á như: Công ty TBH SwissRe Thụy Sĩ, MunichRe Đức, Sumitomo Nhật Bản, Tổng Công ty CP TBH Quốc gia Việt Nam (VINARE), CCR, Tokyo Marine, Hannover Re. Tất cả những công ty này đều có khả năng tài chính được xếp hạng A (theo AM Best) hoặc AA (theo Standard and Poor). Không chỉ trực tiếp thu xếp hợp động nhận, nhượng tái với các công ty trên, Công ty còn thực hiện hoạt động TBH thông qua các Công ty Môi giới hàng đầu như: Marsh, AON, Grass Savoye Willis, Arthur J.Gallangher…Sớm nhận thức được vai trò của Công tác giám định - giải quyết bồi thường “không chỉ thuần tuý là một mắt xích trong quy trình nghiệp vụ bảo hiểm, mà còn là biện pháp tốt nhất để nâng cao uy tín và năng lực kinh doanh của Công ty trên thị trường bảo hiểm”, không chỉ tiến hành giám định độc lập trong tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm cơ bản, Công ty còn hợp tác với những nhà giám định chuyên nghiệp, có tên tuổi như: Crawfort, McLauren, Cunningham Lindsey. Phạm vi kinh doanh Được phép của Bộ Tài chính, Công ty PTI đang triển khai gần 50 sản phẩm bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Bảng II.1.1: Cơ cấu sản phẩm của Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện Đơn vị tính: triệu đồng TT Nghiệp vụ 2007 2008 Giá trị % Giá trị % Thu phí BH gốc 100 100 Trong đó 1 Bảo hiểm Y tế và Tai nạn con người 16.336 6,15% 19.812 7,.05% 2 Bảo hiểm tài sản và thiệt hại 119.383 44,95% 110.256 39,21% 3 Bảo hiểm vận chuyển hàng hoá 21.712 8,18% 24.735 8,80% 4 Bảo hiểm trách nhiệm chung 1.769 0,67% 1.757 6,62% 5 Bảo hiểm xe cơ giới 94.689 35,65% 112.594 40,04% 6 Bảo hiểm cháy 11.662 4,39% 11.993 4,27% 7 Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh 31 0,01% 46 0.02% (Nguồn: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện) Mặc dù mới chỉ có 10 năm kinh nghiệm, nhưng Công ty đã khẳng định được vị thế của mình trên thị trường bảo hiểm Việt Nam ở vị trí thứ 5 trong tổng số 28 công ty bảo hiểm phi nhân thọ toàn thị trường tính đến hết năm 2008. Các sản phẩm bảo hiểm thế mạnh của Công ty là: bảo hiểm thiết bị điện tử, bảo hiểm xây dựng – lắp đặt, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm hàng hóa. Thời gian qua, Công ty đã khai thác được nhiều hợp đồng bảo hiểm lớn trong lĩnh vực bảo hiểm xây dựng lắp đặt, trong đó có các dự án đầu tư xây dựng các nhà máy, cầu, đường giao thông có giá trị hàng trăm, nghìn tỷ đồng như: Dự án xây dựng nhà máy xi măng Cẩm Phả (tổng giá trị hợp đồng: 3118 tỷ đồng); dự án xây dựng cầu Thanh Trì, Dự án Xi măng Hạ Long, … Cơ cấu bộ máy tổ chức Công ty Cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện được tổ chức và hoạt động tuân thủ theo: Luật Doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực ngày 01/07/2006 và Luật kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực từ ngày 01/04/2001. Điều lệ Công ty được Đại hội Cổ đông lần IV ngày 30/11/2007 nhất trí thông qua. Đại hội đồng Cổ đông Đại hội đồng Cổ đông là cơ quan quyền lực cao nhất của Công ty. Đại hội đồng cổ đông quyết định tổ chức lại và giải thể Công ty, quyết định định hướng phát triển của Công ty, bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên Hội đồng Quản trị, thành viên Ban Kiểm soát. Hội đồng Quản trị Hội đồng Quản trị là cơ quan quản trị cao nhất của Công ty, có đầy đủ quyền hạn để thay mặt ĐHĐCĐ quyết định các vấn đề liên quan đến mục tiêu và lợi ích của Công ty, ngoại trừ các vấn đề thuộc quyền hạn của Đại hội đồng Cổ đông. Hội đồng Quản trị do Đại hội đồng Cổ đông bầu ra. Ban Tổng Giám đốc Ban Tổng Giám đốc bao gồm Tổng Giám đốc và các Phó Tổng Giám đốc do HĐQT quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm. Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của Công ty và là người điều hành cao nhất mọi hoạt động kinh doanh hàng ngày của Công ty. Ban kiểm soát Ban Kiểm soát do Đại hội đồng Cổ đông bầu ra, là tổ chức thay mặt cổ đông để kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh, quản trị và điều hành của Công ty. Nhìn chung, phần lớn những cán bộ chủ chốt của Công ty đều là những người có trình độ chuyên môn cao, có nhiều kinh nghiệm trong ngành bảo hiểm hoặc các lĩnh vực liên quan như tài chính, kỹ thuật, kế toán…Chính vì vậy, họ là những nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa, đưa ra những quyết sách đúng đắn đưa công ty hoạt động ngày càng phát triển. Chức năng các phòng ban Khối nghiệp vụ bao gồm: Phòng Bảo hiểm Tài sản Kỹ Thuật, Phòng Bảo hiểm hàng hải, Phòng Bảo hiểm Xe Cơ giới, Phòng Bảo hiểm con người, Phòng Quản lý Đại lý, Phòng TBH, có chức năng tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc trong việc quản lý, chỉ đạo công tác chuyên môn nghiệp vụ thống nhất toàn công ty. Khối Kinh tế bao gồm: Phòng Tài chính – Kế toán, Phòng Kế hoạch – Đầu tư, có chức năng kinh doanh, tham mưu và giúp Ban Giám đốc Công ty quản lý, chỉ đạo các công tác liên quan đến Kế toán Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư tài chính theo đúng pháp luật. Khối Quản lý bao gồm các phòng: Phòng Tổng hợp, Phòng Tổ chức Cán bộ, Phòng Công nghệ thông tin, có chức năng tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc Công ty trong việc quản lý, chỉ đạo các phòng ban trực thuộc và các công việc chuyên môn. Mạng lưới chi nhánh: bao gồm Hội sở giao dịch Hà Nội và 21 chi nhánh bao phủ khắp cả nước. Ngày 18/04/2005, bên cạnh 21 Chi nhánh đang hoạt động, Hội sở Giao dịch Hà Nội (PTI Hà Nội), theo Thông báo số 4522/TC/BH của Bộ Tài chính, đã được thành lập, hoàn thành việc tách toàn bộ khối trực tiếp khai thác kinh doanh bảo hiểm của PTI Hà Nội và 21 Chi nhánh và khối quản lý vĩ mô do Văn phòng Công ty chịu trách nhiệm. 2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh trong 3 năm vừa qua 2.1.2.1.Kết quả kinh doanh bảo hiểm gốc Với kinh nghiệm hơn 10 hoạt động trên thị trường, tuy thị phần còn nhỏ nhưng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện đã có bước phát triển mạnh mẽ, tiếp tục giữ vững vị thế của mình trong suốt thời gian qua Bảo hiểm Con người Nghiệp vụ này của PTI đứng thứ tư sau Bảo Việt (60.4%), Bảo Minh (20.1%), PJICO (7.02%), chiếm khoảng 2.5% thị phần doanh thu phí nghiệp vụ con người trên toàn thị trường. Doanh thu từ nghiệp vụ này đạt khoảng 20-25 tỷ trong 3 năm qua, chiếm 10% tổng doanh thu bảo hiểm gốc của Công ty, với tỷ lệ tăng trưởng đạt bình quân trên 20%/năm. Bảng II.1.2: Cơ cấu doanh thu qua các năm 2005 – 2006 (Đơn vị: triệu đồng) TT Nghiệp vụ 2007 2008 Giá trị % Giá trị % Thu phí BH gốc 100 100 Trong đó 1 Bảo hiểm Y tế và Tai nạn con người  16.336  6,15%  19.812  7,.05% 2 Bảo hiểm tài sản và thiệt hại  119.383  44,95%  110.256  39,21% 3 Bảo hiểm vận chuyển hàng hoá  21.712  8,18%  24.735  8,80% 4 Bảo hiểm trách nhiệm chung  1.769  0,67%  1.757  6,62% 5 Bảo hiểm xe cơ giới  94.689  35,65%  112.594  40,04% 6 Bảo hiểm cháy  11.662  4,39%  11.993  4,27% 7 Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh  31  0,01%  46  0.02% (Nguồn: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện) Tỷ lệ chi trả bồi thường cho nghiệp vụ này dao động ở mức 45%-65% phí bảo hiểm, xấp xỉ mức bồi thường toàn thị trường. Trong những năm tới, Công ty dự định sẽ phát triển mảng nghiệp vụ này như một sản phẩm bổ sung hữu hiệu, với mức tăng trưởng khoảng 25%/năm. Bảo hiểm tài sản kỹ thuật Với lợi thế những khai thác được những hợp đồng từ chủ sở hữu là Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) nên những năm qua, nghiệp vụ bảo hiểm Tài sản - Kỹ thuật luôn là sản phẩm thế mạnh và là niềm tự hào của PTI, chiếm trên 50% tổng doanh thu bảo hiểm gốc toàn công ty, luôn đứng đầu thị trường với 80% thị phần về nghiệp vụ này. Từ năm 2006, VNPT bắt đầu tiến hành đấu thầu bảo hiểm cạnh tranh khiến cho doanh thu từ sản phẩm này của Công ty phần nào bị ảnh hưởng. Mặc dù, môi trường kinh doanh khó khăn, đây vẫn là sản phẩm bảo hiểm hiệu quả với tỷ lệ bồi thường thấp, chỉ chiếm khoảng 20% doanh thu. Bảo hiểm hàng hải Cùng với bảo hiểm Tài sản kỹ thuật, đây cũng là sản phẩm mà Công ty triển khai ngay từ ngày đầu thành lập, do vậy sản phẩm của PTI khá đa dạng, gồm 3 loại hình: bảo hiểm hàng nhập khẩu, bảo hiểm hàng xuất khẩu, bảo hiểm hàng vận chuyển nội địa trong đó doanh thu bảo hiểm hàng nhập là chủ yếu, chiếm từ 60-70%. Trong giai đoạn 2004-2007, đặc biệt là trong năm 2007 do nguồn vốn FDI và ODA đạt mức kỷ lục từ trước đến nay dẫn đến nhu cầu đầu tư trong nước tăng cao và kim ngạch xuất khẩu cũng đạt mức cao chưa từng có, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá của PTI có tốc độ tăng trưởng bình quân trên 20%, chiếm khoảng 10% doanh thu bảo hiểm gốc, chiếm bình quân 5.2% thị phần bảo hiểm hàng hoá của toàn thị trường. Tình hình hoàn toàn xoay chuyển trong năm 2008 khi mà khủng hoảng tiền tệ lan rộng trên khắp thế giới, nguồn vốn đầu tư bị rút khỏi thị trường, nhu cầu đầu tư trong nước giảm mạnh, nhu cầu tiêu dùng thế giới và nội địa giảm mạnh, tác động mạnh đến tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trong năm vừa qua, doanh thu bảo hiểm hàng hoá của PTI đạt 18 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng giảm sút so với mức 20% của những năm trước, chỉ đạt 17.2%. Mặc dù vậy, tiềm năng phát triển cho nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải cho Công ty trên thị trường Việt Nam vẫn còn rất lớn. Theo nhận định mới đây của Thủ tướng Chính phủ, nền kinh tế Việt Nam sẽ bắt đầu hồi phục vào tháng 5 năm nay, với vị thế là nền kinh tế mới nổi, là địa điểm hấp dẫn đầu tư nước ngoài đứng thứ 6 thế giới, thị khả năng phát triển kinh tế của đất nước vẫn còn rất lớn. Mặt khác, vẫn còn tồn tại thói quen nhập hàng theo giá CIF và xuất hàng theo giá FOB còn phổ biến ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam. Nếu từ bỏ được tập quán này, theo dự báo, nếu các đơn vị xuất nhập khẩu ở Việt Nam mua bảo hiểm hàng hoá trong nước cho 50% số hàng nhập khẩu tại Việt Nam mỗi năm hơn 20 triệu USD. Như vậy, có thể thấy thị trường bảo hiểm hàng hoá vận chuyển tại Việt Nam nói chung và PTI nói riêng còn nhiều tiềm năng để phát triển. Với chủ trương kinh doanh an toàn và hiệu quả, trong những năm triển khai, PTI luôn chú trọng chương trình Quản trị rủi ro, do vậy tỷ lệ tổn thất bình quân trên dưới 30% thấp hơn hẳn so với mức 50% của toàn thị trường. Trên thực tế, doanh nghiệp cũng đã bắt đầu triển khai bảo hiểm tàu biển đến nay đã được 1 năm góp phần tăng doanh thu và thị phần của PTI trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm Xe cơ giới Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển chung của Công ty, nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới của Công ty cũng tăng trưởng mạnh. Mức tăng trưởng qua 3 năm gần đây đạt lần lượt 19.8%, 30.5%, 26.7%. Tỷ lệ bồi thường giai đoạn này khoảng 30-33% doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, khá thấp so với tỷ lệ bồi thường của thị trường là khoảng 50-60%. Trong giai đoạn 2003-2005, tăng trưởng doanh thu rất ấn tượng: 52.3%, 95.7%, 70.6%. Tuy nhiên trong những năm gần đây, nghiệp vụ xe cơ giới gặp nhiều khó khăn. Năm 2006, tốc độ tăng trưởng phí bảo hiểm chỉ đạt 19.8% so với năm 2005. Nguyên nhân là do tai nạn gia tăng dẫn đến tỷ lệ chi bồi thường tăng (chiếm tỷ trọng 61.72% doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới). Nguyên nhân là do tai nạn gia tăng dẫn đến tỷ lệ bồi thường tăng cao lên tới 61.72% doanh thu của nghiệp vụ này, cao hơn cả tỷ lệ bồi thường bình quân của thị trường. Năm 2007, nhờ chủ trưởng bắt buộc đội mũ bảo hiểm và tăng cường tuyên truyền an toàn giao thông của Chính phủ, số vụ tai nạn và mức độ nghiêm trọng của từng vụ giảm xuống rõ rệt nên tình hình kinh doanh nghiệp vụ này được cải thiện. Tuy nhiên, vào năm 2008 vừa qua, trận mưa lụt lịch sử xảy ra ở Hà Nội và các tỉnh phía Bắc hay triều cường ở Thành phố Hồ Chí Minh đã làm tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tăng đột biến. Với hơn 100 xe tham gia bảo hiểm gặp tổn thất, Công ty đã phải bồi thường với số tiền tổng cộng là 2 tỷ đồng. Trước cuộc cạnh tranh giành thị phần, các công ty liên tục hạ phí. Công ty PTI mới đây đã giảm 10% phí bảo hiểm của sản phẩm “Phúc lưu hành” xuống còn 67 nghìn đồng/năm, là sản phẩm có mức phí thấp nhất toàn thị trường. Sự cạnh tranh khốc liệt trong ngành bảo hiểm với việc mở rộng điều kiện, điều khoản và giảm phí bảo hiểm. Gần đây, Công ty Liberty của Mỹ đã cho ra đời sản phẩm AutoCare mang tính đột phá với đặc tính vượt trội như: mức phí tương đối cao nhưng chú trọng vào chất lượng. Ngoài ra, cạnh tranh nguồn nhân lực dẫn tới sự thiếu hụt đội ngũ cán bộ khai thác, giám định bồi thường cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm này. Cơ cấu sản phẩm của nghiệp vụ: Trong các sản phẩm của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm vật chất xe có doanh thu cao nhất (trên 70% doanh thu nghiệp bảo hiểm xe cơ giới qua các năm); kế tiếp đến bảo hiểm Trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba và hành khách trên xe chiếm từ 19.5% đến 25.6% doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới; bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe chiếm không quá 4%; bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với hàng hoá trên xe có doanh thu nhỏ nhất (không quá 1.1% doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới qua các năm). 2.1.2.2. Kết quả kinh doanh TBH Hoạt động nhượng TBH Theo quy định của Chính phủ tại điều2.3, mục VI, Thông tư của Bộ Tài chính số 155/2007/TT-BTC ngày20-12-2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27-3-2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được phép giữ lại mức trách nhiệm tối đa trên mỗi rủi ro hoặc trên mỗi tổn thất riêng lẻ không quá 10% tổng số nguồn vốn chủ sở hữu. Phần trách nhiệm vượt quá tỷ lệ nói trên phải nhượng TBH. Do vậy, trong những ngày đầu mới thành lập, vốn điều lệ chỉ vào khoảng 67 tỷ đồng thì mức giữ lại của Công ty không đáng kể, dẫn đến doanh thu phí nhận tái bị ảnh hưởng theo. Doanh thu phí nhận tái trong thời gian này chủ yếu từ các hợp đồng TBH cố định thiết bị điện tử cấp cho các đơn vị thuộc VNPT. Các hợp đồng bảo hiểm thiết bị của PTI cung cấp cho VNPT trong thời gian qua có tỷ lệ phí bảo hiểm khá cao và tỷ lệ tổn thất thấp. Trong năm 2007, vốn điều lệ được tăng lên 300 tỷ đồng và dự định năm tới tăng lên 500 tỷ đồng, chắc chắn năng lực của Công ty sẽ được cải thiện đáng kể. Thống kê phí bảo hiểm tăng đều qua các năm, trong khi tỷ lệ tổn thất dao động ở mức dưới 20% là nguyên nhân giúp PTI có rất nhiều thuận lợi trong việc đàm phán các hợp đồng nhượng TBH cố định. Sau 2 năm đầu thu xếp hợp đồng qua VinaRe và 1 năm thu xếp qua môi giới, từ năm 2001, PTI đã thu xếp hợp đồng TBH cố định trực tiếp với các nhà nhận TBH trong và ngoài nước. Việc thu xếp hợp đồng trực tiếp giúp cho PTI tạo dựng được mối quan hệ mật thiết với các nhà nhận TBH, tận dụng được sự hỗ trợ về kỹ thuật nghiệp vụ đào tạo, đồng thời tăng thu hoa hồng nhượng TBH. Từ năm 2003, PTI đã tiến hành chào hợp đồng TBH cố định cho các Công ty bảo hiểm trong nước. Việc này tạo điều kiện thuận lợi trong việc trao đổi thông tin giữa các công ty, tăng khả năng đàm phán các điều kiện, điều khoản với các công ty nước ngoài. Với đặc thù các rủi ro trong ngành mang tính an toàn cao, rủi ro nằm rải rác nên sau khi TBH, lượng phí giữ lại cũng tương đối lớn. Các dịch vụ nhượng TBH tạm thời cũng nhận được sự hỗ trợ khá lớn từ các Công ty bảo hiểm trong nước cũng như các công ty TBH nước ngoài. Hầu hết các dịch vụ yều cầu bản chào phí của nhà đứng đầu nhận TBH để đảm bảo yêu cầu chào phí cạnh tranh đều nhận được đúng hạn, điều kiện điều khoản tương tự như của các công ty trên thị trường. Một số dịch vụ khác đều có thể thu xếp TBH tại thị trường trong nước, tận dụng tối đa giới hạn trách nhiệm các hợp đồng TBH của các công ty. Hoạt động nhận TBH Việc nhận TBH theo cả hai hình thức cố định và tạm thời, về bản chất ban đầu chỉ là sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các công ty bảo hiểm trong nước nhằm tăng khả năng thu xếp TBH cho các dịch vụ lớn. Tuy nhiên, khi yêu cầu doanh thu phí bảo hiểm của các Công ty ngày càng cao thì nhận TBH, trên thực tế, lại là một nguồn thu phí khá lớn. Đối với PTI, doanh thu nhận TBH tăng qua các năm từ 2006-2008 lần lượt là 24 tỷ, 30 tỷ và 35 tỷ, đóng góp một tỷ trọng không nhỏ trong tổng doanh thu phí của toàn Công ty. Kết quả kinh doanh TBH nói chung của PTI trong thời gian qua so với mặt bằng của thị trường bảo hiểm VN và quốc tế đạt ở mức khá tốt, tỷ lệ bồi thường nhận TBH bình quân ở mức dưới 40% doanh thu nhận TBH. Việc tăng doanh thu nhận TBH qua các năm là do việc hợp tác tốt đối với các Công ty bảo hiểm gốc. Trên thực tế, doanh thu nhận TBH chủ yếu tập trung ở các dịch vụ nhận TBH tạm thời. Tỷ trọng doanh thu từ các hợp đồng nhận TBH cố định ngày càng giảm do mức giới hạn hợp đồng cố định của các Công ty bảo hiểm ngày càng tăng trong khi tỷ lệ nhận của PTI lại bị giới hạn bởi mức giữ lại (do vốn chủ sở hữu thấp). Do vậy, các hợp đồng nhận TBH cố định từ các Công ty bảo hiểm trong nước bị hạn chế rất nhiều. Với mức giữ lại thấp như hiện nay, tỷ lệ tham gia của PTI vào các hợp đồng cố định của các công ty bảo hiểm trong nước chiếm tỷ lệ khoảng 1-3% tổng trách nhiệm hợp đồng, lượng phí thu được thông qua các hợp đồng này là không nhiều. Các dịch vụ đem lại lượng phí nhiều nhất tập trung chủ yếu ở hai loại hình: bảo hiểm thân tàu-P&I và bảo hiểm kỹ thuật (đặc biệt là các công trình lớn). Với nghiệp vụ thân tàu và P&I, tỷ lệ tham gia của PTI là khá thấp, tuy nhiên, nghiệp vụ này có lợi thế là lượng dịch vụ nhiều và tỷ lệ phí cao, vì vậy, mặc dù tỷ lệ tham gia của PTI bị giới hạn rất nhiều bởi mức giữ lại nhưng lượng phí nhận được từ loại hình này là khá cao. Đối với các dịch vụ thuộc nghiệp vụ Kỹ thuật, lượng phí thu được là khá lớn do PTI tận dụng được tổng giới hạn trách nhiệm của hợp đồng TBH cố định. 2.1.2.3. Hoạt động đầu tư Để duy trì tính thanh khoản cao và phát triển các dịch vụ bảo hiểm qua hệ thống mạng lưới của các Ngân hàng, hoạt động đầu tư của Công ty tập trung vào việc gửi tiền tại các tổ chức tín dụng. Tính đến 30/09/2007, tổng số tiền Công ty dùng cho hoạt động đầu tư khoảng ,7 tỷ đồng, trong đó tiền gửi tại ngân hàng là 272,6 tỷ, đầu tư bất động sản 49,2 tỷ đồng và góp vốn vào các doanh nghiệp khác 19,9 tỷ đồng. Về hoạt động đầu tư bất động sản Công ty đã mua hai khu đất tại hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Những khu đất này đều ở trung tâm thành phố với vị trí đẹp, phù hợp cho việc xây dựng văn phòng cao cấp cho thuê, trong đó: − Khu đất tại 26 Phố Láng Hạ, Đống Đa, Hà Nội, trong đó PTI sở hữu 50%, 50% còn lại thuộc sở hữu của Công ty Cổ phần Du lịch Bưu điện. − Khu đất tại 216 Võ Thị Sáu, quận 3, thành phố Hồ Chí có vị trí thuận lợi với ba mặt tiền là đường Võ Thị Sáu, đường Trần Quốc Toản và đường Trần Quốc Thảo. Về hoạt động đầu tư góp vốn Hiện nay, PTI đã triển khai đầu tư vào một số Công ty trong ngành có tiềm năng phát triển như: Công ty Cổ phần Viễn thông - Tin học - Điện tử (KASATI), Công ty Cổ phần Đầu tư Bưu chính Viễn thông (SAICOM)... và Tổng Công ty TBH Quốc gia Việt Nam. Trong thời gian tới, Công ty sẽ đẩy mạnh hoạt động đầu tư tài chính và bất động sản, giảm dần tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm để tăng hiệu quả sử dụng vốn. Nhìn vào cơ cấu doanh thu của PTI, thu từ kinh doanh bảo hiểm gốc giữ tỷ trọng lớn, đây cũng là nghiệp vụ truyền thống của PTI. 2.1.3. Phương hướng và giải pháp phát triển trong thời gian tới Xác định rõ mục tiêu chiến lược: Nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng: Với phương châm “Trao niềm tin tận tay khách hàng", PTI cam kết cung cấp cho khách hàng các sản phẩm bảo hiểm đa dạng với chất lượng cao Nâng cao năng lực cạnh tranh, kinh doanh có hiệu quả, tăng trưởng đi đôi với phát triển bền vững Giữ vững và phát triển thị trường trong ngành Bưu chính viễn thông. Hợp tác - Cạnh tranh - Bình đẳng. Kiểm soát rủi ro, kiểm soát chi phí Đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư. Hoạch định chiến lược kinh doanh tổng hợp Chiến lược về sản phẩm và dịch vụ Đẩy mạnh đa dạng hóa sản phẩm, thiết kế sản phẩm mới và sửa đổi bổ sung các sản phẩm hiện có nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Cải tiến chất lượng dịch vụ bằng việc xây dựng tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001-2000. Đa dạng hóa đầu tư tài chính thông qua các hình thức đầu tư bất động sản, chứng khoán, góp vốn kinh doanh theo hướng đẩm bảo an toàn, hiệu quả. Chiến lược thị trường Khai thác triệt để thế mạnh đối với các sản phẩm PTI hiện đang cung cấp đặc biệt là sản phẩm bảo hiểm thiết bị điện tử nhằm duy trì và nâng cao vị trí và thị phần của PTI trên thị trường bảo hiểm. Xây dựng và phát triển hệ thống phân phối sản phẩm bảo hiểm qua kênh phân phối của mạng lưới Bưu cục Bưu chính Việt Nam. Phát triển nguồn nhân lực Xây dựng đội ngũ nhân viên trình độ cao, kỹ năng tốt nhằm đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của khách hàng và các thay đổi của thị trường. Nâng cao trình độ và kinh nghiệm của bộ máy lãnh đạo. Giải pháp thực hiện chiến lược đã đặt ra Nâng cao khả năng tài chính và năng lực cạnh tranh, mở rộng đầu tư đẩy nhanh tiến trình hội nhập. Xây dựng mô hình tổ chức phù hợp nhằm nâng cao tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Đào tào đội ngũ nhân viên và lãnh đạo nhằm phát huy tối đa nội lực. Cân đối dòng tiền, đảm bảo khả năng thanh toán và đa dạng hóa nguồn đầu tư sinh lời. Đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Hợp tác chặt chẽ với các đối tác trong và ngoài nước nhằm trao đổi kinh nghiệm và tiếp thu công nghệ mới. 2.2. Tổng quan về Thị trường Bảo hiểm và TBH Hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Việt Nam 2.2.1. Tình hình XNK của Việt Nam trong những năm gần đây: Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế, phát triển nền kinh tế hướng ra xuất khẩu. Từ một nước thiếu thốn mọi mặt hàng tiêu dùng trong nước, Việt Nam tiến tới không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa, mà còn có thể xuất khẩu nhiều mặt hàng ra thị trường nước ngoài.. Đáng chú ý, năm 2000 kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người của nước ta đạt 180 Đôla/năm, đưa nước ta trở thành quốc gia có nền ngoại thương phát triển bình thường. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế, hoạt động nhập khẩu cũng hết sức khả quan. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu có sự chuyển biến theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất, giảm dần tỷ trọng hàng tiêu dùng. Trong giai đoạn 2001 – 2008 vừa qua, có nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Yếu tố khách quan do những biến động kinh tế, chính trị trên thế giới, Trung Quốc gia nhập WTO, khủng hoảng tài chính thế giới. Trong khi đó, yếu tố chủ quan phải kể đến như sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO, các Hiệp định thương mại ký kết với Mỹ, mục tiêu chung của xuất nhập khẩu giai đoạn 2006-2010. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu không ổn định. Năm 2001, tăng trưởng xuất nhập khẩu chỉ đạt 3.7% do kinh tế thế giới biến động sau sự kiện 11/9 tại Mỹ. Từ năm 2002, tình hình được cải thiện và có mức tăng trưởng bứt phá vào năm 2004 – 2005. Sau khi có dấu hiệu suy giảm nhẹ vào năm 2005, tình hình xuất nhập khẩu vẫn khá khả quan, đạt mức cao kỷ lục vào năm 2008 , hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vượt qua nhiều biến động về thị trường, giá cả, khó khăn của những rào cản thương mại, tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu…, đạt 28.9%, so với mức tăng trưởng bình quân hàng năm trong giai đoạn này là 20,5%. Có thể nói, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, mặc dù có những khó khăn nhất định, đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, hình thành nhiều ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu, tạo việc làm cho người lao động, tạo cơ sở và khuyến khích các nước hợp tác kinh tế và đầu tư vào Việt Nam. Hoạt động xuất nhập khẩu từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. 2.2.2. Thực trạng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam. Lịch sử bảo hiểm hàng hóa XNK của Việt Nam đã có từ lâu. Ngay từ khi thành lập, ngày 15/1/1965, Công ty bảo hiểm Việt Nam nay là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam đã được giao nhiệm vụ bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu của nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cho đến nay, hoạt động bảo hiểm cho hàng hóa XNK do các công ty bảo hiểm Việt Nam tiến hành vẫn còn ở mức rất hạn chế, tốc độ tăng trưởng không cao, có giai đoạn theo chiều hướng giảm xuống, tỷ lệ tổn thất lớn. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam tính đến hết năm 2008, tổng doanh thu thị trường bảo hiểm hàng hoá Việt nam đạt gần 972 tỷ đồng tăng gần 36.6% so với cùng kỳ năm trước. Tuy có mức tăng trưởng cao, nhưng các nhà bảo hiểm Việt Nam mới chỉ bảo hiểm được 5% kim ngạch hàng xuất khẩu và 33% kim ngạch hàng nhập khẩu. Đây là con số nhỏ bé không phản ánh đúng tiềm năng XNK của nước ta. Bảng II.2.1: Tình hình doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển của các công ty năm 2007 Tên doanh nghiệp Doanh thu (Tỷ đồng) Thị phần (%) Bảo Việt 190.97 27.75 Bảo Minh 143.58 20.86 PIJCO 79.12 11.49 Bảo Long 65.68 9.54 PVI 54.9 7.98 UIC 39.36 5.72 PTI 35.86 5.21 VNI 31.98 4.65 Các công ty khác 46.85 6.81 Tổng cộng 688.31 100 (Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam) Tổng số tiền đã giải quyết bồi thường là 370 tỷ đồng chiếm 38% doanh thu. Các công ty có tỷ lệ bồi thường cao là: Bảo Minh (166%), UIC (112%), ABIC (80%). Các vụ tổn thất lớn trong năm là hàng hoá chở trên các tàu: Đức Trí, Việt Trung, Capital, New Hangzhou. Các mặt hàng nhạy cảm như bột mì, khô đậu nành, phân bón … vẫn có tỷ lệ bồi thường rất cao do bảo hiểm rủi ro thiếu hụt qua cân. Các doanh nghiệp vẫn chạy đua nhau để có doanh thu mặc dù họ đều biết bảo hiểm cho mặt hàng này gần như chắc chắn là lỗ. Một số ít doanh nghiệp đã nhìn nhận được vấn đề và chấp nhận, không tiếp tục khai thác các mặt hàng này nữa. 2.2.3. Thực trạng trên là do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất: Hoạt động XNK của nước ta chủ yếu áp dụng phương thức xuất khẩu theo điều kiện giao hàng FOB và nhập khẩu theo điều kiện giao hàng CIF. Với các phương thức XNK trên đã hạn chế khả năng ký kết của các công ty bảo hiểm Việt Nam. Theo Incoterms 2000 có tất thảy 13 điều kiện mua bán, áp dụng chung cho hoạt động thương mại quốc tế, trong đó hai điều kiện giao hàng FOB và CIF thường được các bên tham gia sử dụng. Điều kiện giao hàng FOB quy trình người mua chịu mọi phí tổn và để đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập khẩu sẽ mua bảo hiểm, đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Điều kiện giao hàng CIF cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng đã qua khỏi lan can tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải trả cước vận chuyển và ký hợp đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua những rủi ro đối với hàng hóa có thể xảy ra trong quá trình vận chuyển. Đơn bảo hiểm này được phía xuất khẩu ký hậu và chuyển giao cho phía nhập khẩu. Như vậy, đối với hoạt động nhập khẩu nếu nhập theo điều kiện CIF, quyền vận tải và quyền bảo hiểm thuộc phía nước ngoài. Với các quyền đó, đối tác nước ngoài tùy ý thuê tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường họ ký hợp đồng với các công ty của nước mình. Các công ty bảo hiểm nước ngoài vì thế có điều kiện phát triển hơn. Hai là: Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn hạn chế, chưa mang tầm quốc tế. Ngoại trừ Bảo Việt thành lập năm 1965 có vốn lớn, các công ty bảo hiểm khác đều vừa mới được thành lập sau Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993, với mức vốn kinh doanh chưa tới 80 tỷ đồng, gần đây mới tăng lên 300 tỷ đồng, trong khi đó, nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài ra đời cách đây hàng trăm năm, vốn kinh doanh hàng tỷ Đôla Mỹ. Thêm vào đó, trình độ cán bộ làm công tác bảo hiểm nói chung còn bất cập so với đòi hỏi của thị trường mà còn non yếu so với mặt bằng thế giới. Theo đánh giá khách quan, các nhà XNK nước ngoài chưa thực sự yên tâm khi mua bảo hiểm của Việt Nam và điều này làm giảm sức thuyết phục khi các nhà đàm phán ngoại thương yêu cầu đối tác nước ngoài trao cho ta quyền mua bảo hiểm. Trong năm 2008, mặc dù Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam đã khuyến cáo thu phí tàu già, chú ý mất trộm đối với hàng nguyên liệu, thức ăn gia súc, phân bón, gỗ tròn chở trên xà lan… nhưng kết quả thực hiện còn thấp, nhiều doanh nghiệp vì giành dịch vụ vẫn chấp nhận rủi ro trên. Ngày 15/9/2008, tại Hội nghị CEO 16 DNBH đã thống nhất ký vào Bản thoả thuận hàng hoá (sửa đổi) với mục đích nhằm cải tiến và hạn chế những bất cập trong bảo hiểm hàng hoá và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. 2.3. Những thuận lợi và khó khăn của Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện trong hoạt động kinh doanh TBH Hàng hóa xuất nhập khẩu 2.3.1. Thuận lợi Từ thị trường bảo hiểm Nhìn chung, kinh ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam qua các năm đều đạt tốc độ tăng trưởng khá. Mặc dù năm 2008, khủng hoảng tài chính lan rộng, nhưng tình hình xuất nhập khẩu cũng rất khả quan, thậm chí còn có mức tăng trưởng cao nhất trong giai đoạn 5 năm trở lại đây. Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện có tốc độ phát triển nhanh và còn rất nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Theo thống kê, doanh thu phí bảo hiểm hiện nay chỉ chiếm 1,6% tổng GDP của Việt Nam và dự kiến năm 2005 đạt khoảng 2,5%. Trong khi đó, các nước trong khu vực doanh thu phí bảo hiểm đạt khoảng 5-6% tổng GDP của quốc gia. Ngoài ra, với chiến lược hội nhập của nền kinh tế Việt Nam thì việc tham gia bảo hiểm của các DN đã không còn là khái niệm xa lạ. Người Việt mới chỉ đầu tư bảo hiểm cho mình 300 USD/người/năm trong khi người Singapore chi tới 1.200 USD/người/năm và người Nhật là 3.000 USD/người/năm. Thái Lan hiện có hơn 70 công ty bảo hiểm nội địa. Indonesia và Philipines mỗi nước có hơn 100 công ty. Ở Việt Nam người mua bảo hiểm và DN bảo hiểm còn rất thấp. Thị trường bảo hiểm còn rất màu mỡ và các công ty đều có thị phần nếu biết khai thác phân khúc thị trường cho mình. Ngoài ra, thị trường bảo hiểm cũng được kích thích bởi các chính sách của chính phủ. Chúng ta đã có Luật kinh doanh bảo hiểm. Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm đến 2010 với nhiều cơ chế mở đã được Thủ tướng chính phủ thông qua từ năm 2004. Theo đó, các thành phần kinh tế được phép tham gia kinh doanh bảo hiểm để tạo một kênh huy động vốn nội địa cho quốc gia và góp phần vào tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam. Nhà nước cũng có chính sách mở rộng về việc huy động toàn diện nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế, trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân hàng và bảo hiểm. Từ Công ty Được thành lập bởi sự góp vốn của các công ty có tên tuổi, trong đó có VNPT, nên mặc dù đã cổ phần hoá, nhưng công ty vẫn nhận được sự ưu đãi hết sức to lớn về vốn, các chương trình đào tạo cán bộ TBH/Trưởng nhóm nghiệp vụ bộ, cũng như tham gia ký kết các hợp đồng. Mặc dù, ngoài những hợp đồng trong ngành, công ty đang đẩy mạnh mở rộng phạm vi khai thác ra những công ty ngoài ngành. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng vai trò của các hợp đồng khai thác trong ngành, đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử, đã luôn luôn là thế mạnh và giúp công ty ổn định trong những năm đầu thành lập và vươn lên cạnh tranh với các công ty khác như hiện nay. 2.3.2. Khó khăn Thị trường trong nước cạnh tranh gay gắt Một mặt, cạnh tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước thông qua hình thức hạ phí, tăng hoa hồng và mở rộng phạm vi bảo hiểm trái với thông lệ quốc tế. Chỉ tính riêng trong năm 2004, mức phí bảo hiểm bình quân đã hạ tới 40%, đặc biệt có những mặt hàng phí bảo hiểm giảm tới 70-80%. Trong khi đó, hoa hồng đã tăng từ 3 đến 4 lần mức quy định của Bộ Tài chính. Một số công ty bảo hiểm đã mở rộng điều kiện thái quá, trái với thông lệ bảo hiểm quốc tế như không thu phí tàu già, nhận bảo hiểm cả thiếu hàng trong container nguyên kẹp chì mà những rủi ro này chủ yếu thuộc trách nhiệm của người bán hàng. Để khắc phục tình trạng này, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam đề ra phí sàn đối với một số mặt hàng chủ lực do tỷ lệ bồi thường các mặt hàng này quá cao (từ 150% đến 200%), nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm mới ra đời hoặc có thị phần thấp vẫn cố tình hạ phí đề giành dịch vụ, dẫn đến sự lộn xộn và bất ổn của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Mặt khác, trên thị trường còn diễn ra cạnh tranh giữa các công ty trong nước với các công ty nước ngoài có tiềm lực tài chính vững mạnh, có uy tín và trình độ quản lý chuyên nghiệp. Chất lượng khai thác Bảo hiểm gốc không được cải thiện Bảng II.3.1: Tình hình doanh thu nghiệp vụ tại PTI (Đơn vị: Tỷ đồng) Nghiệp vụ 2004 2005 2006 2007 2008 1. Tài sản- kỹ thuật 117,22 132,58 121,86 117,1 134,67 2. Hàng hải 22,083 21,591 27 26,2 30,13 3. Phi hàng hải 67,013 110,83 131,8 161,5 180,467 (Nguồn: Phòng Hàng hải công ty PTI) Trong vòng 5 năm, doanh thu phí gốc nghiệp vụ hàng hải (chỉ riêng năm 2008 thực hiện thêm bảo hiểm thân tàu, còn 4 năm trước đó chỉ có bảo hiểm hàng hoá), tốc độ tăng trưởng doanh thu phí không ổn định, lần lượt là 97,77%; 122,27%; 97,04%; 115%. Như vậy là trong 4 năm có tới 2 năm tốc độ tăng trưởng âm, đấy là còn chưa kể tốc độ tăng trưởng năm 2008 tuy dương nhưng đã bao gồm doanh thu phí của cả nghiệp vụ thân tàu. Tỷ trọng hàng hoá được bảo hiểm bởi PTI phần lớn cũng là các hàng hoá của các công ty trong ngành, chủ yếu là các thiết bị điện tử. Tình hình tổn thất tuy được cải thiện nhưng vẫn còn khá cao. Thị trường TBH gánh chịu hậu quả nặng nề của các thảm hoạ thiên nhiên Trong những năm gần đây, tình hình ô nhiễm tại các quốc gia đang phát triển, cùng với sự nóng lên của Trái Đất đang làm gia tăng tần suất và cường độ các đợt nắng nóng, lũ lụt, hạn hán và bão. Đáng chú ý năm 2005 thế giới và đặc biệt là nước Mỹ phải gánh chịu những thảm họa thiên tai khủng khiếp nhất trong lịch sử: bão Katrina, bảo Rita. Thiệt hại mà các công ty bảo hiểm phải bồi thường do hai cơn bão này gây ra ước tính khoảng 60 tỷ đô la Mỹ trong đó hai công ty tái bảo hiểm lớn là Munich Re và Swiss Re khoảng 3 tỷ đô la Mỹ. Các Công ty xếp hạng uy tín trên thế giới Standard & Poor đã tuyên bố đặt thị trường tái bảo hiểm trong tình trạng diễn biến xấu, một số công ty tái bảo hiểm có thể sẽ bị xuống hạng. Trước tình hình này, Swiss Re và Munich Re đều tuyên bố điều chỉnh mức phí và điều kiện tái bảo hiểm cho phù hợp với nguy cơ gia tăng tần suất và mức độ nghiêm trọng của thảm họa thiên tai trên toàn cầu. Phí tái bảo hiểm của các loại hình bảo hiểm khác, đặc biệt là bảo hiểm gián đoạn kinh doanh cũng gia tăng. Năm 2006 thị trường bảo hiểm thế giới có triển vọng khả quan hơn, ít xảy ra các tổn thất thiên tai lớn. Tuy nhiên, các nhà bảo hiểm/ tái bảo hiểm đứng đầu chưa sẵn sàng “buông lỏng” những tiêu chuẩn, yêu cầu trong khai thác và cung cấp năng lực, những bước đi mà các nhà cung cấp trên thị trường đã đạt được sau thời gian “thắt chặt”. Xu hướng tập trung và tích tụ vốn, năng lực bảo hiểm và tái bảo hiểm vào một số công ty bảo hiểm/ tái bảo hiểm đứng đầu (hiện tại 5 tập đoàn tái bảo hiểm đứng đầu kiểm soát khoảng 60% thị phần tái bảo hiểm) cộng với chính sách không buông lỏng kiểm soát kỹ thuật khai thác vẫn tiếp tục diễn biến trong năm 2006. Hệ thống tin học còn hạn chế 2.5. Quy trình TBH tại PTI 2.4.1. Sự cần thiết của Quy trình Quy trình Tái bảo hiểm được áp dụng đối với cả hoạt động nhận và nhượng TBH của công ty PTI. Quy trình này được lập ra phù hợp với: Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 19/12/2000 và các văn bản hướng dẫn, sửa đổi, nghị định thông tư hướng dẫn kèm theo; Hợp đồng TBH cố định hàng năm của PTI; Hướng dẫn TBH do Công ty ban hành hàng năm. Mục đích của Quy trình này là quy định thống nhất trình tự, thủ tục công việc phải thực hiện trong hoạt động nhận và nhượng TBH của Công ty. 2.4.2. Nội dung Quy trình TBH 2.4.2.1. Quy trình nhượng TBH Nhượng TBH tạm thời Sơ đồ nhượng TBH tạm thời Trách nhiệm Nội dung thực hiện Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH Thu thập và xử lý thông tin Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH/Công ty tư vấn Thu xếp TBH Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH Thông báo cho phòng nghiệp vụ Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH/Lãnh đạo khối/Tổng giám đốc Thực hiện hợp đồng TBH Thực hiện thanh toán TBH Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH Thống kê, đánh giá hợp đồng TBH Cán bộ TBH Lưu hồ sơ, dữ liệu chung Thu thập và xử lý thông tin Cán bộ TBH và Trưởng nhóm nghiệp vụ tiếp nhận TBH tạm thời từ phòng nghiệp vụ đối với đơn bảo hiểm chuẩn bị tái tục hoặc khai thác mới. Đồng thời theo dõi các thông tin thông báo TBH tạm thời, bao gồm: Bản tóm tắt điều kiện bảo hiểm, Thông tin về rủi ro, tổn thất trong quá khứ. Chào/ Thu xếp TBH Đối với đơn bảo hiểm có điều kiện, điều khoản bảo hiểm trong phạm vi hợp đồng TBH cố định, cán bộ TBH và Trưởng nhóm nghiệp vụ thu xếp đơn bảo hiểm vào hợp đồng cố định. Phần vượt quá sẽ phải lập phương án để thu xếp TBH tạm thời. Cán bộ TBH và Trưởng nhóm nghiệp vụ lập bản chào TBH với nội dung gồm: Tên người được bảo hiểm Đối tượng, đặc điểm và vị trí/hành trình của đối tượng được bảo hiểm Ngành, nghề sản xuất kinh doanh của người được bảo hiểm Loại hình bảo hiểm, STBH, tỷ lệ phí, mức khấu trừ, điều kiện bảo hiểm… Tỷ lệ chào và hoa hồng TBH Các thông tin liên quan khác: Bản đánh giá rủi ro, tổn thất trong quá khứ… Bản xác nhận của công ty nhận TBH sẽ được trình lên Lãnh đạo phòng TBH/Lãnh đạo khối/TGĐ xin ý kiến chỉ đạo trước khi gửi bản xác nhận lại cho các công ty nhận TBH tham gia. Thông báo TBH cho phòng nghiệp vụ: Sau khi hoàn thành thu xếp TBH, cán bộ nghiệp vụ/ Trưởng nhóm nghiệp vụ/ Lãnh đạo phòng TBH phải thông báo cho phòng nghiệp vụ để cấp đơn/ sử đổi bổ sung, chào phí hoặc từ chối/điều chỉnh chính thức cho khách hàng. Thực hiện hợp đồng Đối với dịch vụ thuộc hợp đồng cố định, ngay sau khi có thông tin từ phòng nghiệp vụ, cán bộ TBH/ Trưởng nhóm nghiệp vụ tiến hành kiểm tra tính toán, phân bổ trách nhiệm vào hợp đồng TBH cố định. Đối với dịch vụ TBH tạm thời, cán bộ TBH/Trưởng nhóm nghiệp vụ đối chiếu, điều chỉnh thông tin và phát hành các chứng từ thanh toán cho từng nhà nhận TBH. Lưu chuyển chứng từ: Sau khi chứng từ được ký duyệt, hồ sơ được quản lý như sau: Chuyển cho công ty nhận TBH: Hợp đồng TBH tạm thời hoặc sửa đổi bổ sung, Bản chứng từ thanh toán. Chuyển cho phòng Tài chính kế toán bản chứng từ thanh toán TBH của PTI, và xác nhận thanh toán của công ty nhận TBH hoặc môi giới. Cập nhật thông tin phần mềm. Nhượng TBH cố định Trách nhiệm Nội dung thực hiện Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH Thu thập và xử lý thông tin Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH/Công ty tư vấn Lập phương án TBH Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH/Lãnh đạo khối/Tổng giám đốc/Hội đồng quản trị Chưa đạt Bảo vệ phương án TBH Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH Chào TBH Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH Thu xếp TBH Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH/Lãnh đạo khối/Tổng giám đốc Ký kết hợp đồng TBH Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH/Lãnh đạo khối/Tổng giám đốc Thực hiện hợp đồng TBH Thực hiện thanh toán TH Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH Thống kê, đánh giá hợp đồng TBH Cán bộ TBH Lưu hồ sơ, dữ liệu chung Thu thập và xử lý thông tin Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nghiệp vụ thu thập thông tin từ phòng nghiệp vụ trước khi thu xếp hoặc tái tục hợp đồng cố định, bao gồm: Ước tính doanh thu và tỷ lệ tổn thất; Khả năng đáp ứng của hợp đồng TBH cố định. Sau đó thống kê lập các bảng số liệu sau: Thống kê đơn bảo hiểm 3 năm gần nhất. Thống kê tổn thất 3 năm gần nhất theo số tiền bồi thường và số tiền bảo hiểm. Thống kê tích tụ rủi ro. Ước tính phí bảo hiểm/tổn thất năm nghiệp vụ. Kết quả hợp đồng TBH cố định. Trả lời các câu hỏi điều tra của công ty TBH. Lập phương án TBH cố định Dự thảo phương án TBH khác nhau cho năm tới, nêu rõ: Hình thức TBH; Mức giữ lại; Hoa hồng TBH, hoa hồng theo lãi (hợp đồng tỷ lệ); Phí TBH tối đa, tối thiểu, điều chỉnh (hợp đồng tỷ lệ); Các sửa đổi về điều kiện cần thiết theo yêu cầu của bảo hiểm gốc; Lựa chọn môi giới/nhà TBH; Tỷ lệ chào TBH dự kiến. Bảo vệ phương án TBH Lãnh đạo công ty, lãnh đạo phòng TBH và các phòng nghiệp vụ thống nhất phương án TBH tối ưu, trình lên Hội đồng quản trị phê duyệt trước khi tiến hành chào TBH. Chào/Thu xếp TBH Sau khi phương án TBH đã được phê duyệt, Phòng TBH tiến hành chào TBH (qua môi giới hoặc trực tiếp): Soạn thảo bản chào gửi cho công ty TBH đứng đầu hoặc môi giới. Sau khi được xác nhận bởi công ty TBH, phòng TBH sẽ gửi lại xác nhận về tỷ lệ tham gia, hoa hồng, điều kiện, điều khoản… Sau khi hoàn tất việc thu xếp TBH, cán bộ TBH/Trưởng nhóm nghiệp vụ/Lãnh đạo phòng TBH lập báo cáo thu xếp TBH hợp đồng TBH cố định trình lên Lãnh đạo khối/TGĐ. Ký kết hợp đồng TBH cố định Sau khi hoàn tất chào TBH, cán bộ TBH/Trưởng nhóm nghiệp vụ yêu cầu môi giới hoặc công ty nhận TBH gửi hợp đồng TBH, bao gồm: Bản tóm tắt hợp đồng; Bản chi tiết hợp đồng; Sửa đổi bổ sung (nếu có). Thực hiện hợp đồng Định kỳ cán bộ TBH/Trưởng nhóm nghiệp vụ lập bảng kê và chứng từ thanh toán và trình lên lãnh đạo phòng TBH, lãnh đạo khối/Tông giám đốc. Chứng từ thanh toán gồm: Bảng kê phí TBH Bảng kê phí sửa đổi; Bảng kê thu bồi thường; Chứng từ thanh toán. Theo quy định của hợp đồng TBH cố định, thông thường 24 tháng sau khi kết thúc thời hạn hợp đồng, Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nghiệp vụ bộ TBH tập hợp thông tin lập chứng từ thanh toán hoa hồng theo lãi hợp đồng TBH cố định. Thu đòi bồi thường TBH Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nghiệp vụ thu thập thông tin tổn thất và kiểm tra xem dịch vụ này có được TBH hay không, cơ cấu TBH thế nào (trách nhiệm của PTI, trách nhiệm các hợp đồng TBH), tổn thất thuộc diện thông báo tái định kỳ hay thông báo ngay. Nếu là thông báo ngay, áp dụng đối với: Tất cả các dịch vụ thuộc diện thông báo TBH trước khi cấp đơn. Các dịch vụ không thuộc diện trên nhưng số tiền bồi thường tổn thất ước tính lớn hơn mức thông báo tổn thất trả ngay theo quy định của hợp đồng TBH cố định. Tiến hành thông báo cho các nhà nhận TBH ngay khi nhận được thông tin. Lập chứng từ thanh toán TBH tạm thời, chuyển trưởng nhóm nghiệp vụ xem xét trình lãnh đạo phòng TBH và lãnh đạo khối/Tổng giám đốc ký duyệt. Nếu là thông báo định kỳ: Lập bảng kê thu đòi bồi thường tổn thất hợp đồng TBH cố định, chứng từ thanh toán TBH hợp đồng cố định. Phân bổ thu đòi ngưòi thứ ba Việc thực hiện thu đòi người thứ ba do phòng nghiệp vụ thực hiện, sau khi hoàn thành việc thu đòi phòng nghiệp vụ thông báo cho phòng TBH để tiến hành hoàn trả cho các nhà TBH liên quan theo tỷ lệ trách nhiệm tương ứng. Thực hiẹn thanh toán nhượng TBH Thống kê, đánh giá hợp đồng: Thống kê đơn, tổn thất, tích tụ rủi ro trong 3 năm gần nhất; Ước tính phí bảo hiểm/tổn thất năm nghiệp vụ này và năm nghiệp vụ tới. 2.4.2.2. Quy trình nhận TBH Thu thập và xử lý thông tin Cán bộ TBH thu thập thông tin qua bản chào TBH từ công ty nhượng (nhượng lại) TBH hoặc môi giới TBH và tiến hành xem xét đánh giá. Trình phương án nhận TBH Cán bộ TBH lập tờ trình nhận TBH, đề xuất khả năng nhận. Nếu nhận thì nên rõ tỷ lệ là nhận, điều kiện, khả năng xử lý phần nhận TBH. Tờ trình được chuyển qua Trưởng nhóm nghiệp vụ xem xét và trình lên Lãnh đạo phòng TBH/Lãnh đạo khối/Tổng giám đốc duyệt. Sau khi tở trình được phê duyệt, Lãnh đạo phòng TBH/Trưởng nhóm nghiệp vụ/Cán bộ TBH xác nhận chính thức với công ty nhượng TBH hoặc môi giới. Ký kết và thực hiện hợp đồng Khi nhận được bản hợp đồng TBH và chứng từ thanh toán phí TBH tạm thời, Cán bộ TBH tiến hành kiểm tra đối chiếu các điều khoản và tính toán sai lệch trong bản chứng từ thanh toán phí TBH với bản chào rồi báo cho Công ty chào TBH sửa đổi. Hồ sơ chứng từ được trình lên Lãnh đạo phòng TBH và Lãnh đạo khối/Tổng giám đốc ký kết. Sau khi chứng từ được ký duyệt, Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nghiệp vụ thực hiện lưu chuyển quản lý hồ sơ. Bồi thường nhận TBH tạm thời Khi nhận được thông báo tổn thất từ công ty chào TBH, Cán bộ TBH có trách nhiệm tập hợp đầy đủ hồ sơ liên quan đến tổn thất, lập bản xác nhận thanh toán tổn thất trình lên Lãnh đạo phòng TBH và Lãnh đạo khối/Tổng giám đốc ký kết, và thực hiện lưu chuyển chứng từ. Trách nhiệm Nội dung thực hiện Cán bộ TBH Từ chối Thu thập và xử lý thông tin Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH/Lãnh đạo khối/Tổng giám đốc Không đạt Trình phương án nhận TBH Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH/Lãnh đạo khối/Tổng giám đốc Xác nhận hợp đồng nhận TBH Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nhân viên/Lãnh đạo phòng TBH/Lãnh đạo khối/Tổng giám đốc Ký, thực hiện hợp đồng nhận TBH Thực hiện thanh toán TBH Cán bộ TBH/Trưởng nhóm nghiệp vụ Thống kê, đánh giá hợp đồng TBH Cán bộ TBH Lưu hồ sơ, dữ liệu chung 2.6. Hoạt động kinh doanh Nghiệp vụ TBH Hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại PTI Hoạt động nhượng tái: Cơ cấu hợp đồng 2006 - 2007: Thu xếp TBH 20% cho VinaRe. Năm 1996, VinaRe được thành lập với vai trò là công ty TBH chuyên nghiệp duy nhất trên thị trường Việt Nam. Ngay sau đó, Bộ Tài chính đã ban hành quy định bắt buộc các công ty bảo hiểm trong nước khi thực hiện các dịch vụ TBH phải thu xếp tái 20% cho VinaRe, coi đây như là một đầu mối thống nhất thu xếp các dịch vụ TBH trong nước ra thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, từ năm 2006 để đáp ứng các cam kết chuẩn bị gia nhập tổ chức kinh tế thế giới WTO, quy định này đã được bãi bỏ nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty bảo hiểm và TBH. Tuy vậy, một số công ty, trong đó có PTI, nhằm duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài vẫn tự nguyện tái 20% của một số dịch vụ cho VinaRe. Để bảo vệ mức giữ lại trong Hợp đồng cố định hàng năm, công ty tiến hành: Thu xếp hợp đồng số thành với tỷ lệ 70/30 giới hạn trách nhiệm hợp đồng 150.000 USD, theo đó mức giữ lại thuần của PTI là 105.000 USD. Thu xếp Hợp đồng Mức dôi với mức giữ lại gộp là 150.000 USD và tổng giới hạn hợp đồng là 3.000.000 USD (20 lines). Phần trách nhiệm vượt quá, thu xếp TBH tạm thời ra thị trường với các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA6171.DOC
Tài liệu liên quan