Tiến bộ ghép tạng ở Việt Nam: Từ giấc mơ đến hiện thực

Tài liệu Tiến bộ ghép tạng ở Việt Nam: Từ giấc mơ đến hiện thực: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 4 * 2016 Tổng Quan 1 TIẾN BỘ GHÉP TẠNG Ở VIỆT NAM: TỪ GIẤC MƠ ĐẾN HIỆN THỰC Phạm Gia Khánh* Ghép tạng là một trong 10 thành tựu lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ 20, nó được đánh giá như là sự phát minh về máy bay, truyền hình, máy tính, năng lượng hạt nhân, internet, cấu trúc AND... Ghép tạng được đánh giá cao vì đòi hỏi sự phát triển đồng bộ của các chuyên ngành trong lĩnh vực y- dược. Đã có 6 công trình được giải thưởng Nobel liên quan đến ghép tạng đã chứng minh cho điều này. Nhờ có ghép tạng mỗi năm trên thế giới đã có hàng chục nghìn người được cứu sống. Ghép tạng ở Việt Nam được các nhà y học trong nước quan tâm rất sớm, từ cuối thập niên 60 thế kỷ trước, nhưng do hoàn cảnh chiến tranh và nhiều khó khăn khác nên ghép tạng trên người ở Việt nam chưa thể tiến hành được. Ghép tạng vẫn là ước mơ của nhiều thế hệ thầy thuốc Việt nam trong nhiều thập niên. Điều đó khiến ghép tạng của chúng ta đi sau thế...

pdf5 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 58 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiến bộ ghép tạng ở Việt Nam: Từ giấc mơ đến hiện thực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 4 * 2016 Tổng Quan 1 TIẾN BỘ GHÉP TẠNG Ở VIỆT NAM: TỪ GIẤC MƠ ĐẾN HIỆN THỰC Phạm Gia Khánh* Ghép tạng là một trong 10 thành tựu lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ 20, nó được đánh giá như là sự phát minh về máy bay, truyền hình, máy tính, năng lượng hạt nhân, internet, cấu trúc AND... Ghép tạng được đánh giá cao vì đòi hỏi sự phát triển đồng bộ của các chuyên ngành trong lĩnh vực y- dược. Đã có 6 công trình được giải thưởng Nobel liên quan đến ghép tạng đã chứng minh cho điều này. Nhờ có ghép tạng mỗi năm trên thế giới đã có hàng chục nghìn người được cứu sống. Ghép tạng ở Việt Nam được các nhà y học trong nước quan tâm rất sớm, từ cuối thập niên 60 thế kỷ trước, nhưng do hoàn cảnh chiến tranh và nhiều khó khăn khác nên ghép tạng trên người ở Việt nam chưa thể tiến hành được. Ghép tạng vẫn là ước mơ của nhiều thế hệ thầy thuốc Việt nam trong nhiều thập niên. Điều đó khiến ghép tạng của chúng ta đi sau thế giới gần nửa thế kỷ và sau các nước trong khu vực khoảng 20 năm. Quá trình phát triển ghép tạng Việt nam có thể chia 2 giai đoạn: từ 1992 đến 2009 là giai đoạn ghép tạng lấy từ người cho sống và từ 2010: Ghép tạng lấy từ người cho sống và chết não. GHÉP TẠNG Ở VIỆT NAM TỪ 1992- 2009: LẤY TẠNG TỪ NGƯỜI CHO SỐNG Cũng như các nước trên thế giới, ghép tạng ở Việt nam bắt đầu bằng ghép thận. Đến đầu năm 1990 vấn đề ghép thận ở trong nước trở thành cấp bách do nhu cầu ghép thận rất lớn, thêm vào đó có một sự cố phẫu thuật làm cho nhu cầu ghép thận càng trở nên cấp bách. Đó là một bệnh nhân nữ 26 tuổi có một thận duy nhất bị cất bỏ do chẩn đoán nhầm là u nang buồng trứng. Bệnh nhân được sang Cu ba ghép thận nhưng không thành công. Ghép thận ở thời điểm này thật vô cùng khó khăn vì đất nước vừa ra khỏi tình trạng bao cấp. Cơ sở hạ tầng bệnh viện thì xuống cấp, các trang thiết bị y tế thì thiếu thốn và lạc hậu. Song do tính cấp thiết của ghép thận với sự quyết tâm cao của Bộ y tế; để sớm thực hiện ghép thận trên người, ngày 2/2/1991 Bộ Y tế đã ra quyết định thành lập Ban chỉ đạo ghép thận Quốc gia gồm các nhà y học hàng đầu trong cả nước do GS. Phạm Song, Bộ trưởng bộ Y tế làm trưởng ban. Đồng thời Bộ Y tế cử 10 chuyên gia sang Cu ba học ghép thận và một đề tài nghiên cứu cấp nhà nước về ghép thận của bộ KH&CN do Học viện Quân y chủ trì được tiến hành. Nhờ chuẩn bị kỹ càng với quyết tâm cao, ngày 4/6/1992 ca ghép thận đầu tiên ở Việt nam đã thực hiện thành công trong điều kiện vô vàn khó khăn tại bệnh viện 103 với sự giúp đỡ của GS. Chu Shu Lee (Đài Loan) và sự tham gia của các chuyên gia y học đầu ngành trong cả nước, đánh dấu một mốc mới trong lịch sử phát triển của ngành ngoại khoa và y học Việt nam. Sau ca ghép này, ghép thận lần lượt được triển khai ở nhiều bệnh viện trong cả nước: Bệnh viện Chợ Rẫy (12/1992), Việt Đức (8/2000), Huế (7/2001), Nhân dân Gia Định (1/2002), BV 115 (2/2004), Nhi TƯ (5/2004), Nhi Đồng II thành phố Hồ chí Minh (6/2004), Bạch Mai (10/2005), Đà nẵng (3/2006), Kiên Giang (4/2007), bệnh viện 198 (10/2008), bệnh viện Xanh- Pôn (12/2013) và bệnh viện Nghệ An. Mặc dầu có nhiều bệnh viện ghép như vậy nhưng số bệnh nhân được ghép hàng năm còn rất khiêm tốn, tính đến cuối năm 2009 (17 năm sau ghép ca đầu tiên) cả nước mới ghép được hơn 300 ca. Ngay sau khi ghép thận thành công các thầy thuốc Việt nam đã có ý tưởng ghép gan, mặc dầu ghép gan ở thời điểm này có rất nhiều khó khăn, khó khăn về hạ tầng cơ sơ, trang thiết bị, vật tư thuốc men, tài chính và cả sự đồng thuận của xã * Học viện Quân y Tác giả liên lạc: GS. TS. Phạm Gia Khánh, ĐT: 0989255773, email: khanhhvqy1@yahoo.com Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 4 * 2016 2 hội (vì ghép gan là kỹ thuật khó nhất trong ghép tạng và khó hơn rất nhiều so với ghép thận). Để thực hiện ý tưởng này hai đề tài nghiên cứu cấp nhà nước về ghép gan đã được triển khai. Nhờ chuẩn bị chu đáo, ngày 31/1/2004 ca ghép gan trên người đầu tiên đã thực hiện thành công tại Học Viện quân y. Sau đó ghép gan được thực hiện tại các bệnh viện: Bệnh viện nhi TƯ (7/2005), Nhi Đồng II TP. Hồ chí Minh (12/2005), Việt Đức (11/2007) và bệnh viên Chợ Rẫy (2012). Do chưa lấy tạng từ người cho chết não, nên ghép gan trong giai đoạn này chủ yếu thực hiện ở trẻ em với số lượng còn ít: 18 trường hợp, chỉ có 1 trường hợp là người lớn. Như vậy đến cuối thập niên của thế kỷ 21 chúng ta đã làm chủ được các kỹ thuật ghép thận và gan từ người cho sống. Đây là một thành tựu đáng ghi nhận của ngành ngoại khoa và y học nước nhà. Những thành tựu này đã giúp chúng ta bắt đầu tiếp cận được với trình độ ghép tạng thế giới, nghĩa là chúng ta đã giải quyết được một số vấn đề cơ bản của ghép tạng. Với thành tích này, cụm công trình ghép tạng đã được nhận giải thưởng Hồ chí Minh năm 2005, giải thưởng cao nhất về khoa học và công nghệ mà Đảng và Nhà nước trao tặng. Song sự thực ở thời điểm năm 2009 chúng ta còn lạc hậu so với thế giới khoảng nửa thế kỷ và chậm hơn các nước trong khu vực hơn 20 năm, vì ở thời điểm này chúng ta chưa thực hiện được ghép tạng từ người cho chết não, do đó chúng ta không thể ghép các tạng khác như ghép tim, ghép phổi và một vấn đề quan trọng nữa là không giải quyết được một cản trở lớn nhất của ghép tạng là thiếu nguồn cho tạng. GHÉP TẠNG Ở VIỆT NAM TỪ 2010: GHÉP TẠNG TỪ NGƯỜI CHO CHẾT NÃO Năm 2010 là bước ngoặt phát triển của ghép tạng Việt nam nhờ thực hiện thành công nhiều công trình nghiên cứu về ghép tạng từ người cho chết não. Ghép tạng từ người cho chết não đầu tiên ở Việt nam được thực hiện thành công tại bệnh viện Chợ Rẫy ngày 11/2/2010. Hai quả thận của người hiến tạng được ghép cho 2 bệnh nhân. Sau đó ghép tạng từ người cho chết não liên tiếp được thực hiện ở các bệnh viện: Ngày 22/5/2010 bệnh viện Việt Đức đã tiến hành ghép gan và thận từ người cho chết não. Đây là ca ghép gan từ người cho chết não đầu tiên ở Việt nam và cũng là ca lấy đa tạng để ghép cho nhiều bệnh nhân. Ngày 17/6/2010, một ngày đáng ghi nhớ trong lịch sử ghép tạng ở Việt nam: Ca ghép tim đâu tiên ở Việt nam đã thực hiện thành công tại Học viện Quân y với sự giúp đỡ của chuyên gia Đài loan. Tiếp theo ngày 2/3/2011 ca ghép tim thứ hai thực hiện thành công tại bệnh viện TƯ Huế không có sự giúp đỡ của nước ngoài. Đặc biệt ngày 1/3/2014 bệnh viện 103 đã tự lập ghép tụy và thận thành công trên người đầu tiên ở Việt nam. Đây là ca ghép tụy đầu tiên và cũng là ca ghép đa tạng (cùng một lúc ghép nhiều tạng trên một người bệnh) đầu tiên ở Việt Nam. Từ đó ghép tạng đã trở thành thường quy. Riêng bệnh viên Việt Đức trong hơn 3 năm qua (từ 2010 đến 3/2014) đã lấy tạng của 21 bệnh nhân chết não ghép cho 41 ca thận, 13 ca gan, và 7 ca tim. Điều này đã cho thấy sự tiến bộ vượt bậc và tiềm lực ghép tạng của bệnh viện. Điều lưu ý cần nói trong các phẫu thuật này là thời gian phẫu thuật của mỗi loại ghép, thời gian sống thêm sau ghép 1 năm và 5 năm tương đương như các ca ghép trên thế giới. Phần lớn các bệnh nhân sau ghép đã trở về với cuộc sống bình thường, có bệnh nhân nữ sinh con. Ca ghép thận sống lâu nhất đã bước sang năm thứ 23 và ca ghép gan đầu tiêu bước sang năm thứ 12. Như vậy những kết quả nổi bật của ghép tạng trong 5 năm qua là: 1- Chúng ta đã giải quyết được những vấn đề về chết não như: chẩn đoán chết não, hồi sức chết não để lấy tạng ghép, chỉ định lấy các tạng ghép của bệnh nhân chết não, các kỹ thuật lấy và bảo quản tạng ghép ở người chết não Điều Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 4 * 2016 Tổng Quan 3 này đã giúp chúng ta thực hiện được ghép tạng mà không thể lấy từ người cho sống như ghép tim, ghép tụy, ghép phổi, ghép đa tạng... và một điều quan trọng là góp phần giải quyết được vấn đề khó khăn nhất của ghép tạng là thiếu nguồn cho tạng. Như vậy luật chết não đã được đưa vào cuộc sống sau hơn 3 năm từ khi luật đã được Quốc hội thông qua (12/12/2006). 2- Đã thực hiện thành công ghép tim và ghép tụy trên người, điều mà mọi người mong đợi nhất đã thành hiện thực, đã mở ra một hướng mới điều trị bệnh nhân bị bệnh tim và tụy giai đoạn cuối ở Việt nam. 3- Có khả năng lấy đa tạng để ghép cho nhiều bệnh nhân (4 bệnh nhân) và ghép đa tạng (cùng một lúc ghép 2 tạng trên một người bệnh). Như vậy chúng ta đã làm chủ các kỹ thuật ghép thận, gan tim và tụy từ người cho sống và chết não. Đây là một bằng chứng rõ ràng về sự tiến bộ vượt bậc ghép tạng ở trong nước. 4- Ghép tạng đã trở thành thường quy đưa số lượng ghép hàng năm tăng nhanh. Trong hơn 5 năm (từ 2010 đến 5/2015) cả nước đã ghép được gần 1000 trường hợp, trong đó có gần 900 ca thận, 31ca gan, 11 ca tim, và 1 ca tụy, nhiều hơn ba lần số ghép trong 18 năm trước. Đặc biệt có 35 bệnh nhân chết não đã hiến tạng ghép cho 100 bệnh nhân bao gồm 67 ghép thận, 21 ghép gan, 11 ghép tim và 1 ghép tụy. Ở bệnh viện Việt Đức có thời điểm trong 4 tuần đã tiến hành lấy đa tạng của 3 bệnh nhân chết não để ghép cho 11 bệnh nhân bao gồm 6 ca thận, 3 ca gan và 2 ca tim. 5- Tỷ lệ tai biến, biến chứng của phẫu thuật và thời gian sống sau mổ tương đương với các nước trên thế giới. 6- Đã thành lập “Trung tâm điều phối ghép tạng quốc gia” có trụ sở tại bệnh viên Việt Đức và đã bắt đầu hoạt động. Điều này có một ý nghĩa quan trọng vì tạo mối gắn kết giữa các trung tâm ghép tạng trong cả nước, nâng cao hiệu quả lấy tạng từ người cho chết não. 7-Đã thành lập “Hội Vận động hiến mô và bộ phận cơ thể người” và “Hội ghép tạng Việt nam” góp phần quan trọng cho sự phát triển ghép tạng trong nước. Những thành tựu quan trọng của ghép tạng trong hơn 3 năm qua đã tạo đà cho chúng ta phấn đấu đến cuối năm 2015 sẽ thực hiện các kỹ thuật khác của ghép tạng như ghép phổi, ghép khối tim- phổi và ghép tạng từ người cho chết tim (tim ngừng đập). Các kỹ thuật này đã nằm trong các đề tài nghiên cứu cấp nhà nước (KC.10). Và đến khi đó ghép tạng ở Việt nam mới thực sự theo kịp với ghép tạng thế giới. MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ GHÉP TẠNG VIỆT NAM Bài học về những ca ghép tạng đầu tiên - Muốn phát triển kỹ thuật cao cần phải có đầu tư khoa học công nghệ đúng mức. Không có khoa học công nghệ không thể có các thành tựu ghép tạng như ngày nay. Các kết quả đầu tiên về ghép các tạng đều là các sản phẩm khoa học của các đề tài nghiên cứu cấp nhà nước. - Phải tự tin, dám nghĩ, dám làm, chủ động, sáng tạo vượt qua mọi khó khăn. - Trong công tác chuẩn bị phải hết sức cụ thể, chu đáo về mọi măt: con người, hạ tầng cơ sở, phương tiện thiết bị, thuốc men, tổ chức - Biết đoàn kết, hợp tác giữa các nhà khoa học, các đơn vị trong nước và quốc tế. Nguyên nhân thành công - Các thầy thuốc VN đã nhận thức sâu sắc nhiệm vụ của mình trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, điều này đã tạo nên sức mạnh vượt qua muôn vàn khó khăn về tinh thần và vật chất trong ghép tạng ở Việt nam. Chính điều này đã rút ngắn thời gian tụt hậu của ghép tạng Việt nam so với thế giới. - Tinh thần say mê, hăng say trong học tập và nghiên cứu để tiếp thu đầy đủ những tri thức về ghép tạng. - Có tinh thần đoàn kết và hợp tác trong nghiên cứu và điều trị để khắc phục các khó Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 4 * 2016 4 khăn về nhân lực và trang thiết bị trong ghép tạng ở các bệnh viện. - Có sự động viên, giúp đỡ to lớn của nhà nước, trực tiếp là Bộ Y tế và bộ Khoa học và công nghệ. - Có sự giúp đỡ tận tình của bạn bè quốc tế. Triển vọng và thuận lợi ghép tạng ở Việt nam Có nhiều lý do để tin rằng ghép tạng ở Việt nam sẽ phát triển trong thời gian tới: -Về con người: Có đội ngũ cán bộ được đào tạo bài bản ở nước ngoài và có chút ít kinh nghiệm thực tế qua các ca ghép trong nước, đã làm chủ được các kỹ thuật cơ bản của ghép tạng. Đặc biệt nhiều người rất tâm huyết trong lĩnh vực ghép tạng - Các trang thiết bị phục vụ cho ghép tạng khá đầy đủ và đồng bộ. Nền y học Việt nam có nhiều tiến bộ làm nền tảng cho sự phát triển của ghép tạng - Hạ tầng cơ sở của nhiều bệnh viện đã được nâng cấp đáp ứng được nhu cầu khắt khe của ghép tạng - Đã có luật và các văn bản hướng dẫn dưới luật liên quan đến ghép tạng. - Đời sống kinh tế xã hội của người dân ngày càng nâng cao. Bảo hiểm y tế đã quan tâm đến ghép tạng và chi trả cao hơn. - Nhu cầu ghép tạng ở trong nước rất lớn, Theo Nguyễn Tiến Quyết, hiện trong nước có 10.000 bệnh nhân phải lọc máu chu kỳ vì suy thận mạn, khoảng 21.000 người tử vong vì viêm gan B,C và ung thư gan/ năm. Những cản trở về ghép tạng ở Việt nam - Cũng như các nước trên thế giới, cản trở lớn nhất của ghép tạng ở Việt nam hiện nay là thiếu người hiến tạng, đặc biệt là người cho chết não. Chúng ta đã có luật hiến tạng từ người cho chết não đã được quốc hội thông qua từ năm 2006. Song đến nay số người hiến tạng chết náo rất ít, chưa đến 50 người; điều này do ảnh hưởng của tâm lý, tôn giáo, tín ngưỡng trong nhân dân. Để làm tốt vấn đề này cần phải làm tốt công tác truyền thông, tích cực tuyên truyền vân động để người dân hiểu biết và ủng hộ. Mạt khác phải có chế độ, chính sách phù hợp và thỏa đáng đối với người hiến tạng. - Mặc dầu chi phí cho ghép tạng ở VN ở mức thấp nhất so với các nước trên thế giới (ít hơn khoảng 1/3-1/2 lần) song chi phí cho ghép tạng vẫn còn cao (khoảng 300 triệu đồng cho một ca ghép thận, 1 tỷ cho ghép tim và 1,5 tỷ cho ghép gan), trong khi thu nhập của người dân còn thấp. Đặc biệt phần lớn những người có nhu cầu ghép tạng lại là người nghèo. Bảo hiểm y tế cho ghép tạng còn hạn chế. - Sự bất cập về mặt tổ chức phục vụ cho ghép tạng: Nhiều bệnh viện đã tiến hành ghép tạng nhưng chưa có một khoa hoặc một cơ quan, bộ phận nào chuyên trách về ghép tạng trong bệnh viện. Mỗi một lần ghép là sự tham gia nhất thời của các khoa liên quan. Vì không có một bộ phận riêng chuyên trách về ghép nên việc ghép không được quan tâm thường xuyên. - Thêm vào đó, các bệnh viện có khả năng ghép tạng là các bệnh viện có khả năng thực hiện nhiều kỹ thuật công nghệ cao nên thường bị quá tải trong khám và chữa bệnh. Điều này cũng làm khó khăn cho công việc ghép tạng vì thiếu nhân lực và thời gian. Lợi ích và tác dụng của ghép tạng Ghép tạng là biện pháp duy nhất cứu sống bệnh nhân bị bệnh giai đoạn cuối và nâng cao chất lượng cuộc sống người bệnh. Trong những năm qua đã có hàng nghìn người trong nước đã dược cứu sống nhờ ghép tạng. - Ghép tạng đã nâng cao trình độ chuyên môn, tinh thần phục vụ, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật, tinh thần đoàn kết hợp tác của các cán bộ, nhân viên y tế. - Có ý nghĩa lớn về mặt kinh tế, xã hội và nhân văn. - Ghép tạng là động lực thúc đẩy các chuyên ngành trong lĩnh vực y dược trong nước phát Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 4 * 2016 Tổng Quan 5 triển, đưa nền y học nước nhà phát triển nhanh theo kịp với trình độ y học thế giới. Ghép tạng là một kỹ thuật công nghệ cao, chỉ thực hiện được ở nước có nền y học tiến tiến, điều này đã giải thích tại sao ghép tạng ở Việt nam lại đi sau thế giới gần nửa thế kỷ và sau các nước trong khu vực khoảng 20 năm. Song chính điều này đã cho thấy sự cố gắng phi thường của các thầy thuốc Việt nam. Họ đã vượt qua muôn vàn khó khăn để dạt được đỉnh cao của y học, rút ngăn thời gian tụt hậu để đến ngày hôm nay đưa ghép tạng việt nam tiếp cân được với trình độ ghép tạng thế giới, thực hiện được ước mơ của bao thế hệ thầy thuốc trước đây.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftien_bo_ghep_tang_o_viet_nam_tu_giac_mo_den_hien_thuc.pdf
Tài liệu liên quan