Tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến thiếu vitamin D ở thai phụ tam cá nguyệt đầu đến khám tại bệnh viện Hùng Vương (2016)

Tài liệu Tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến thiếu vitamin D ở thai phụ tam cá nguyệt đầu đến khám tại bệnh viện Hùng Vương (2016): Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 54 TỈ LỆ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THIẾU VITAMIN D Ở THAI PHỤ TAM CÁ NGUYỆT ĐẦU ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG (2016) Võ Minh Tuấn *, Lý Thanh Xuân ** TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ thiếu vitamin D và các yếu tố liên quan ở thai phụ tam cá nguyệt đầu đến khám tại Bệnh viện Hùng Vương. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 11/2015 đến 3/2016. Đối tượng nghiên cứu là các thai phụ ở tam cá nguyệt đầu được chọn ngẫu nhiên đơn phòng khám thai BV Hùng Vương. Thiếu vitamin D được định nghĩa là nồng độ 25(OH)D trong máu  20 ng/mL (hay 50 nmol/L). Chúng tôi xử dụng cùng mẫu máu thường qui trong tam cá nguyệt 1 để phối hợp định lượng 25(OH)D. Thông tin khác được thu thập qua phỏng vấn sản phụ tại chỗ theo bảng câu hỏi soạn sẵn. Kết quả: Khảo sát 386 mẫu, tỷ lệ thiếu vitamin D là 31,09%. Thiếu vitamin D ở thai...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến thiếu vitamin D ở thai phụ tam cá nguyệt đầu đến khám tại bệnh viện Hùng Vương (2016), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 54 TỈ LỆ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THIẾU VITAMIN D Ở THAI PHỤ TAM CÁ NGUYỆT ĐẦU ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG (2016) Võ Minh Tuấn *, Lý Thanh Xuân ** TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ thiếu vitamin D và các yếu tố liên quan ở thai phụ tam cá nguyệt đầu đến khám tại Bệnh viện Hùng Vương. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 11/2015 đến 3/2016. Đối tượng nghiên cứu là các thai phụ ở tam cá nguyệt đầu được chọn ngẫu nhiên đơn phòng khám thai BV Hùng Vương. Thiếu vitamin D được định nghĩa là nồng độ 25(OH)D trong máu  20 ng/mL (hay 50 nmol/L). Chúng tôi xử dụng cùng mẫu máu thường qui trong tam cá nguyệt 1 để phối hợp định lượng 25(OH)D. Thông tin khác được thu thập qua phỏng vấn sản phụ tại chỗ theo bảng câu hỏi soạn sẵn. Kết quả: Khảo sát 386 mẫu, tỷ lệ thiếu vitamin D là 31,09%. Thiếu vitamin D ở thai phụ liên quan có ý nghĩa thống kê với một số yếu tố như: Sản phụ 20 – 25 tuổi so với nhóm vị thành niên (PR= 0,5), không phải người Kinh (PR=2,01) tình trạng kinh tế nghèo (PR=2,60), sản phụ mang thai trên 2 lần (PR=0,45), thai hành nhiều (PR=1,68), có tăng cân trong tam cá nguyệt đầu (PR=0,70), làm việc ngoài trời (PR=0,58). Kết luận: Nhân viên y tế cần hướng dẫn thai phụ ngay từ lần khám thai đầu tiên để phòng chống và hạn chế tối đa thiếu vitamin D trong thai kỳ, mục đích giảm nguy cơ cho thai phụ và thai nhi. Từ khóa: thai phụ, thiếu vitamin D. ABSTRACT THE PREVALENCE AND RISK FACTORS OF VITAMIN D DEFICIENCY IN THE FIRST TRIMESTER OF PREGNANT WOMEN AT HUNG VUONG HOSPITAL Vo Minh Tuan, Ly Thanh Xuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 1 - 2017: 54 - 60 Objective: To determine the prevalence and risk factors of vitamin D deficiency in the first trimester of pregnant women at Hung Vuong Hospital. Methods: A cross-sectional study was conducted from 11/2015 to 3/2016. Pregnant women at 1st trimester were randomly selected at the antenatall clinic’s Hung Vuong Hospital. Vitamin D deficiency was defined that the concentration of 25(OH)D was lower than 20mg/ml (or 50mol/L). In a single blood draw, we combined the test of 25(OH)D with the routine tests in 1st trimesters. Subject’s other information was obtained by face-to-face interviewing using a structured questionnaire. Results: Among 386 samples, there were 186 cases with vitamin D deficiency (31.09%). The Vitamin D deficiency was significantly related to: pregnancies at 26-35 years old vs. teen (PR* = 0.5), others vs. Kinh ethnic (PR* = 2.01), low economic status (PR* = 2.60), nulliparous vs multifarious (PR* = 0.45), pregnant fatigue (PR* = 1.68), gain weight at first trimester (PR* = 0.70), working outdoors (PR* = 0.58). Conclusion: Pregnant women should be guided by medical staff at the first prenatal visit to minimize the shortage of vitamin D. It is the good way to reduce risk factors for mother and their fetuses. Keywords: pregnant women, vitamin D deficiency. * PGS.TS.BS. BM. Sản, ĐHYD Tp. HCM ** BS CKII-Bệnh viện Hùng Vương Tác giả liên lạc Võ Minh Tuấn ĐT: 0909727199 Email: drvo_obgyn@yahoo.com.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 55 ĐẶT VẤN ĐỀ Vitamin D là một vitamin tan trong dầu có nhiều trong sữa, trái cây, dầu cá và bổ sung từ chế độ ăn. Nó cũng được tổng hợp trong nội bào của da khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Về mặt hóa học vitamin D là một steroid làm thay đổi nhiều chức năng sinh học trong cơ thể, các nhà nghiên cứu đã xác định được 37 cơ quan đích đối với vitamin D(18), trong đó có nhau thai. Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã đưa ra kết luận tỷ lệ thiếu vitamin D ở sản phụ thay đổi rất nhiều từ 18,9 – 89%(8,9,23,19). Tình trạng thiếu vitamin D liên quan đến các yếu tố như chủng tộc(3), màu da(3), mùa(9,4), thời gian chiếu sáng trong ngày(9,19,21), thói quen ăn mặc hay văn hóa, tuổi(21), giới tính(15), BMI, bệnh tim mạch(14). Ở nước ta, tình trạng thiếu vitamin D cũng khá cao nhưng chưa được quan tâm đúng mức. Theo nghiên cứu của Hồ Phạm Thục Lan và cộng sự năm 2011, tại các quận thuộc Thành phố Hồ Chí Minh tỉ lệ thiếu vitamin D ở nữ gấp 2 lần nam(1). Nghiên cứu cắt ngang thực hiện năm 2012 của tác giả Nguyễn Văn Tuấn ở thành thị và nông thôn miền Bắc Việt Nam cũng đưa ra tỉ lệ thiếu vitamin D ở nữ cao hơn nam giới (30% và 16%)(17). Thiếu vitamin D là yếu tố nguy cơ của một số bệnh như loãng xương, nhức xương, yếu cơ, tiểu đường, tim mạch, ung thưở tất cả phụ nữ. Ngoài ra trong thai kỳ, thiếu vitamin D làm gia tăng nguy cơ tiền sản giật(20), đái tháo đường, cao huyết áp(1). Tình trạng thiếu hụt vitamin D ở nữ giới không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của chính bản thân còn ảnh hưởng đến thai nhi khi mang thai. Cụ thể việc thiếu vitamin D trong thai kỳ làm cho trẻ có khả năng bị hen suyễn, viêm tai giữa dị ứng(7), tiểu đường(6), viêm đường hô hấp dưới cấp(13), và thiếu hụt khối xương(1). Ngược lại nếu được cung cấp vitamin D đầy đủ sẽ giảm được tới 36% rủi ro đái tháo đường thai kỳ, cao huyết áp và tiền sản giật ở phụ nữ mang thai(5), ngoài ra còn có tác dụng giảm căn bệnh canxi thấp bất thường và còi xương ở trẻ nhỏ(12). Việc bổ sung và điều trị thiếu vitamin D đơn giản và hiệu quả cao. Do đó việc phòng ngừa, tư vấn cho các đối tượng nguy cơ cao và phát hiện sớm để bổ sung và điều trị sớm là hết sức cần thiết. Với tỷ lệ thiếu vitamin D ở thai phụ khá cao theo các nghiên cứu ở các nước trên thế giới, việc nghiên cứu tần suất thiếu vitamin D ở nước ta thật sự là điều cần quan tâm. Một số nghiên cứu về thiếu vitamin D đã được thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh trên các đối tượng đái tháo đường týp 2, Parkinson, bệnh nhân loãng xương trên 60 tuổi, nhưng chưa có nghiên cứu nào ở khu vực phía Nam về thiếu vitamin D ở thai phụ. Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến thiếu vitamin D ở thai phụ tam cá nguyệt đầu đếm khám tại bệnh viện Hùng Vương” với câu hỏi nghiên cứu: Tỷ lệ thiếu vitamin D ở thai phụ tam cá nguyệt đầu là bao nhiêu? Các yếu tố nào liên quan đến tình trạng thiếu vitamin D trong thai kỳ? Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu chính Xác định tỉ lệ thiếu vitamin D ở thai phụ tam cá nguyệt đầu đến khám tại Bệnh viện Hùng Vương trong khoảng thời gian từ 11/2015 đến 03/2016. Mục tiêu phụ Khảo sát các yếu tố liên quan đến thiếu vitamin D ở thai phụ tam cá nguyệt đầu. ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang. Dân số nghiên cứu Dân số đích Phụ nữ mang thai. Dân số chọn mẫu Thai phụ mang thai tam cá nguyệt đầu, tuổi thai từ 11,5 tuần đến 13 tuần, đến khám tại BV Hùng Vương, đồng ý tham gia nghiên cứu. Tình trạng sức khỏe và tinh thần có khả năng trả lời Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 56 được bảng phỏng vấn. Tiêu chuẩn loại trừ Không thể trả lời được phỏng vấn do những hạn chế về sức khỏe và tâm lý (câm điếc, không hiểu ngôn ngữ, tâm thần). Bệnh nhân cường tuyến cận giáp, suy gan, còi xương, bệnh lao, bệnh Crohn, lupus. Cỡ mẫu Tính cỡ mẫu theo công thức ước tính một tỷ lệ trong quần thể   2 2 α/21 1 d pp n    Z = 1.96. ; P = 0.5; đ cỡ mẫu lớn nhất. d = 0.05. n = 384 Phương pháp nhận bệnh và thu thập số liệu Ngẫu nhiên đơn theo thời gian. Từ 07g00 đến 16g00 vào thứ 2, thứ 4, và thứ 6 trong tuần từ 06/11/2015 đến 01/03/2016, chọn ngẫu nhiên 10 sản phụ/một ngày. Chọn sản phụ đầu tiên hoàn thành quy trình khám bệnh đầu tiên trong ngày, sau đó xác định đối tượng phỏng vấn tiếp theo sau mỗi 30 phút từ lúc kết thúc phỏng vấn đối tượng trước đó, thời gian phỏng vấn mỗi đối tượng là 10 phút. Chọn ngẫu nhiên trong tổng cộng 7 phòng khám tại khoa Khám thai. Chúng tôi chọn sản phụ được chẩn đoán xác định có thai từ 11,5 đến 13 tuần dựa vào siêu âm ba tháng đầu đầu tiên ở phòng khám số 1, sau đó sản phụ tiếp theo sau ở phòng khám số 2, lần lượt ở các phòng khám kế tiếp, rồi trở lại phòng khám số 1. Trong trường hợp đối tượng thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu tiếp theo không đồng ý tham gia phỏng vấn, chúng tôi sẽ chọn số thứ tự khám bệnh ngay sau đó ở cùng phòng khám cho đến khi đủ mẫu. Nếu đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu, sẽ ký đồng thuận. Chúng tôi trực tiếp phỏng vấn, dựa vào bảng câu hỏi đã thiết kế sẵn, thăm khám đối tượng để khảo sát các yếu tố liên quan. Sau đó, đối tượng sẽ được phát tờ bướm và lấy máu xét nghiệm 25(OH)D. Nếu phát hiện có thiếu vitamin D, sản phụ sẽ gọi điện thoại mời lại phòng tư vấn để tư vấn và tiến hành điều trị. KẾT QUẢ Tỉ lệ thiếu vitamin D: Bảng 1. Phân độ thiếu vitamin D Chẩn đoán Tổng số (N = 386) Tỉ lệ(%) KTC 95% Đủ 266 68,91 64,03 – 73,50 Thiếu 120 31,09 26,45 – 35,73 Thiếu ít 112 29,02 24,53 – 33,82 Thiếu nhiều 8 2,07 0,90 – 4,04 Nghiên cứu của chúng tôi xác định được tỉ lệ thiếu vitamin D ở thai phụ tam cá nguyệt đầu là 31,9%, chiếm khoảng 1/3 mẫu nghiên cứu. Bảng 2. Tỷ lệ thiếu vitamin D ở sản phụ qua các nghiên cứu Tác giả Địa điểm Tỷ lệ thiếu vitamin D(%) Đối tượng nghiên cứu Hồ Phạm Thục Lan (10) Việt Nam (2010) 46 Nữ Nguyễn Văn Tuấn Việt Nam (2012) 30 Nữ Mukamel (16) Ấn Độ (2001) 43 Thai phụ Sachan (20) Israel (2005) 37 Thai phụ Farrant HJ (8) Ấn Độ (2009) 66 Thai phụ Holmes (11) Anh (2009) 96 Thai phụ 12 tuần Bowyer (4) Úc (2009) 33 Phụ nữ mang thai Xiang (21) Trung Quốc (2013) 83,6 Thai phụ 12 tuần – 40 tuần Sunmin Park (19) Hàn Quốc (2014) 88,9 Thai phụ 12 tuần – 14 tuần Zhou (23) Trung Quốc (2014) 18,9 Sản phụ 16 tuần – 20 tuần Xiao (22) Trung Quốc (2015) 78,7 Thai phụ 3 tháng giữa Chúng tôi Việt Nam (2016) 31,9 Thai phụ 3 tháng đầu Qua bảng so sánh trên, ta thấy tỷ lệ thiếu vitamin D ở nhóm phụ nữ mang thai của nghiên cứu chúng tôi ở mức trung bình, có tỷ lệ gần tương đương các nghiên cứu của Bowyer và Shachan. Qua các tỉ lệ của một số nghiên cứu ta thấy có nhiều điểm khác biệt về tuổi thai, chủng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 57 tộc, địa lý nhưng đều có điểm chung là tỉ lệ thiếu vitamin D ở sản phụ cao. Tình trạng thiếu vitamin D không chỉ phổ biến ở các nước ôn đới(3), mà còn rất phổ biến ở các nước nhiệt đới như Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi và của Hồ Phạm Thục Lan (khảo sát trong cộng đồng phía Nam) hay theo Nguyễn Văn Tuấn (thực hiện ở Hà Nội) cho thấy tỉ lệ thiếu vitamin D ở phụ nữ tại Việt Nam khá cao, đây là vấn đề sức khỏe sinh sản ảnh hưởng đến phụ nữ mang thai và phụ nữ không mang thai. Điều này đã được phản ánh bởi nhiều nghiên cứu ngoài nước nhưng vẫn chưa được y tế và người dân quan tâm, có lẽ vì sự ảnh hưởng của thiếu vitamin D không trực tiếp nguy hiểm đến tính mạng và con đường ảnh hưởng của nó qua thai nhi phải qua một thời gian dài sau sinh mới nhận biết được. Tuy nhiên so với nghiên cứu của Xiao(22) và Holmes(11) thì tỉ lệ của chúng tôi thấp hơn nhiều có thể do nghiên cứu của Xiao và Holmes tiến hành ở Trung quốc và Anh là những nước có thời gian chiếu sáng trong năm ít hơn so với thời gian chiếu sáng ở Việt Nam. Nghiên cứu của F.Xiang(21) tiến hành ở Trung Quốc thì tỷ lệ thiếu vitamin D gấp hơn hai lần so với nghiên cứu của chúng tôi. Do thành phố Guiyang nằm ở vùng cao nguyên Yunnan – Guihou ở phía Bắc vĩ độ 26,50, ở đó số lượng ngày có mây trung bình là 235,1 ngày và số giờ trung bình chiếu sáng chỉ có 1142,3. Cường độ UV có thể đạt tối đa cấp độ 4 vào buổi trưa và bị giới hạn về lượng thời gian. Mức độ UV thông thường thấp hơn trung bình so với những ngày có nắng. Ngược lại, thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vĩ độ 10011’ – 10038’ vĩ độ Bắc và 106022’ – 106054’ kinh độ Đông. Theo nghiên cứu của Sunmin Park(19) tỉ lệ thiếu vitamin D gấp ba lần trong nghiên cứu của chúng tôi, nhưng tương đương nghiên cứu của Xiang. Có thể lý giải tỉ lệ này vì Hàn Quốc có điều kiện khí hậu và thời gian chiếu sáng gần giống với thành phố Guiyang Trung Quốc. Qua đó cho thấy, thời gian chiếu sáng cũng đóng vai trò quan trọng với tỉ lệ thiếu vitamin D ở sản phụ. Phân tích yếu tố liên quan Bảng 3. Phân tích hồi qui đa biến các yếu tố liên quan với thiếu vitamin D Đặc điểm Không thiếu Vit D (N=266) Thiếu Vit D (N=120) PR * KTC95% P * Nhóm tuổi 19 tuổi 3(37,50) 5(62,50) 1 20 – 25 tuổi 77(63,64) 44(36,36) 0,50 0,26 – 0,92 0,03 26 – 35 tuổi 164(72,89) 61(27,11) 0,41 0,22 – 0,75 0,01 > 35 tuổi 22(68,75) 10(31,25) 0,45 0,20 – 1,02 0,06 Dân tộc Kinh 259(70,00) 111(30,00) 1 Khác 7(43,75) 9(56,25) 2,01 1,28 – 3,14 0,01 Tình trạng kinh tế Trung bình 212(69,74) 92(30,26) 1 Nghèo 2(25,00) 6(75,00) 2,60 1,66 – 4,05 0,01 Khá giả 52(70,27) 22(29,73) 0,99 0,69 – 1,45 0,98 Số lần mang thai Lần 1 102(63,75) 58(36,25) 1 Lần 2 102(67,55) 49(32,45) 0,83 0,60 – 1,16 0,28 > Lần 2 62(82,67) 13(17,33) 0,45 0,27 – 0,79 0,01 BMI trước mang thai Trung bình 191(67,49) 92(32,51) 1 Nhẹ cân 50(66,67) 25(33,33) 0,95 0,68 – 1,333 0,75 Thừa cân 25(89,29) 3(10,71) 0,31 0,12 – 0,82 0,02 Lên cân trong thai kỳ Không 59(63,44) 34(36,56) 1 Giảm 45(54,22) 38(45,78) 1,22 0,87 – 1,71 0,28 Tăng 162(77,14) 48(22,86) 0,70 0,49 – 0,98 0,04 Thai hành Không 261(69,05) 117(30,95) 1 Có 5(62,50) 3(37,50) 1,68 1,14 – 2,52 0,01 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 58 Đặc điểm Không thiếu Vit D (N=266) Thiếu Vit D (N=120) PR * KTC95% P * Môi trường làm việc Trong nhà 210(71,67) 83(28,33) 1 Ngoài trời 56(60,22) 37(39,78) 0,58 0,44 – 0,78 0,01 Tiếp xúc ánh sáng Không 101(63,13) 59(36,88) 1 Có 165(73,01) 61(26,99) 0,85 0,64 – 1,13 0,25 Thói quen uống sữa Không 103(64,38) 57(35,63) 1 Có 163(72,12) 63(27,88) 0,86 0,64 – 1,56 0,32 Thói quen thoa kem chống nắng Không 256(70,14) 109(29,86) 1 Có 10(47,62) 11(52,38) 1,36 0,86 – 2,13 0,19 (*) Hồi qui đa biến Nhằm kiểm soát các yếu tố gây nhiễu, chúng tôi đưa các yếu tố có ý nghĩa trong phân tích đơn biến. Tổng cộng 11 biến, các biến này đều có P < 0,25 trong phân tích đơn biến. Tuổi trung bình của sản phụ là 28, 45 ± 5,05 tuổi (18 – 44 tuổi). Đa số sản phụ có độ tuổi 26 – 35 chiếm tỉ lệ 58%, nhóm sản phụ dưới 19 tuổi và trên 35 tuổi chiếm tỉ lệ thấp (2,07 % và 8, 29%). Kết quả này giống với tác giả Xiao(22) và Zhou(23) cũng đồng thuận với chúng tôi khi kết luận có mối liên quan giữa độ tuổi và thiếu vitamin D. Cụ thể tuổi của sản phụ càng cao thì nguy cơ thiếu vitamin D càng giảm. Sản phụ không phải người Kinh có nguy cơ thiếu vitamin D tăng gấp 2,10 lần, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê PR* = 2,10; KTC95%: 1,28 – 3,14; P < 0,05. Nghiên cứu của Bodnar cũng ghi nhận sản phụ da trắng không phải Bồ Đào Nha có tỉ lệ thiếu vitamin D thấp hơn sản phụ da đen không phải Bồ Đào Nha với P < 0,01 (25,8% so với 73,5%)(3). Theo Lucy Bowyer sản phụ theo đạo Hồi có che mặt nguy cơ thiếu vitamin D tăng 21 lần so với sản phụ không che mặt(4). Chúng tôi tìm thấy có mối liên quan giữa thiếu vitamin D và tình trạng BMI trước mang thai của sản phụ. Kết quả này khác với nghiên cứu của Xiang(21) và Zhou(23) khi cho rằng không có mối liên quan giữa BMI trước mang thai và nguy cơ thiếu vitamin D. Tình trạng kinh tế là một yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê với thiếu vitamin D. Tình trạng kinh tế nghèo tăng nguy cơ thiếu vitamin D lên 2,6 lần so với nhóm tình trạng kinh tế trung bình. Khi so sánh với các nghiên cứu trên thế giới, kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu tại Mỹ(3) và tại Qatar(2). Trong nghiên cứu của Bodnar(3), nhóm sản phụ có thu nhập bình quân < 10000 USD/năm có tỷ lệ thiếu vitamin D cao hơn nhóm có thu nhập >10000 USD/năm (P<0,05). Hay trong nghiên cứu của Addulbari(2), nhóm có thu nhập 5000 - 10000 QR thiếu vitamin D nhiều hơn nhóm thu nhập > 10000 QR (P<0,05). Nhóm sản phụ làm việc ngoài trời giảm nguy cơ thiếu vitamin D so với nhóm sản phụ làm việc trong nhà. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, P<0,05. Kết quả của chúng tôi giống với nghiên cứu của Abdulbari(2) và Xiang(21). Xiang và Abdulbari lý giải do đối tượng nghiên cứu làm việc trong nhà, ít có hoạt động ngoài trời, ít tiếp xúc ánh sáng mặt trời, lượng vitamin D được tổng hợp ở da không đủ cho thai phụ. Đáng ngạc nhiên là tỷ lệ thiếu vitamin D ở nhóm mang thai nhiều lần thấp hơn nhóm mang thai lần đầu. Cụ thể sản phụ mang thai lần 3 giảm nguy cơ thiếu vitamin D 55% so với sản phụ mang thai lần 1, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Kết quả này khác với Bodnar(3) khi cho rằng tỉ lệ thiếu vitamin D tăng theo số lần mang thai của sản phụ. Sản phụ bị thai hành tăng nguy cơ thiếu vitamin D vitamin D gấp 2 lần so với sản phụ không bị thai hành với P<0,05. Thai hành là một triệu chứng phổ biến khi mang thai, sản phụ buồn nôn hay nôn ói ở nhiều mức độ khác nhau do gia tăng các hormone thai kỳ, rất dễ dẫn đến tình trạng mất nước, giảm cân, cũng như thiếu hụt dinh dưỡng và vi chất của cơ thể. Nghiên cứu cho thấy nhóm sản phụ tăng cân trong thai kỳ chiếm đa số, Chúng tôi tìm thấy có Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 59 mối liên quan giữa yếu tố lên cân trong thai kỳ và thiếu vitamin D, cụ thể sản phụ càng lên cân thì tỉ lệ thiếu vitamin D càng giảm và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với P<0,05. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu trên 386 phụ nữ có thai trong tam cá nguyệt đầu tại Bệnh viện Hùng Vương từ tháng 11/2015 đến tháng 03/2016, số liệu nghiên cứu chỉ ra: 1. Tỷ lệ thiếu vitamin D ở thai phụ tam cá nguyệt đầu là 31,09% (KTC 95% 26,45 – 35,73). 2. Một số yếu tố liên quan đến thiếu vitamin D ở thai phụ tam cá nguyệt đầu: sản phụ 20 – 25 tuổi và 26 – 35 tuổi so với sản phụ vị thành niên (PR* = 0,5; KTC 95% 0,26 – 0,92 và PR* = 0,41; KTC 95% 0,22 – 0,75), không phải người Kinh (PR* = 2,01; KTC 95% 1,28 – 3,14), tình trạng kinh tế nghèo (PR* = 2,60; KTC 95% 1,28 – 3,14), sản phụ mang thai trên 2 lần (PR* = 0,45; KTC 95% 0,27 – 0,79), sản phụ bị thai hành (PR* = 1,68 ; KTC 95% 1,14 – 2,52), tăng cân trong tam cá nguyệt đầu (PR* = 0,70; KTC 95% 0,49 – 0,98), làm việc ngoài trời (PR* = 0,58; KTC 95% 0,44 – 0,78). KIẾN NGHỊ 1. Phụ nữ nên chuẩn bị thể trạng tốt trước khi mang thai, cũng như thay đổi thói quen ngại tiếp xúc ánh sáng mặt trời, tạo điều kiện hấp thu vitamin D vào buổi sáng trong thời gian từ nhà đến nơi làm việc. 2. Tất cả các thai phụ đều có lợi từ việc bổ sung vitamin D khi mang thai và giai đoạn sau khi sinh. Việc bổ sung được thực hiện đơn giản them bằng cách phơi nắng đúng cách. Các nhân viên y tế nên hướng dẫn thai phụ ngay từ lần khám thai đầu tiên để hạn chế tối đa thiếu vitamin D trong thai kỳ, mục đích giảm nguy cơ cho thai phụ và thai nhi. 3. Cần có thuốc chuyên vitamin D trong các bệnh viện sản phụ khoa vì hàm lượng vitamin D trong viên tổng hợp rất thấp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aghajafari F, Nagulesapillai T, Ronksley PE, Tough SC, O’Beirne M, Rabi DM (2013). Association between maternal serum 25-hydroxyvitamin D level and pregnancy and neonatal outcomes: systematic review and meta-analysis of observational studies. BMJ, 346:f1169. 2. Bener A, Al-Hamaq AO, Saleh NM (2013). Association between vitamin D in sufficiency and adverse pregnancy outcome: global comparisons. Int J Womens Health,5:523 – 531. 3. Bodnar LM, Krohn MA, Simhan HN (2009). Maternal Vitamin D Deficiency Is Associated with Bacterrial Vaginosis in the First Trimester of Pregnancy. J Nutr, 139(6): 1157 – 1161. 4. Bowyer L, Catling - Paull C, Diamond T, Homer C, Davis G, Craig ME (2009). Vitamin D, PTH and calcium levels in pregnant women and their neonates. Clin Endocrinol (Oxf), 70(3): 372–377. 5. Chief Medical Officers for the United Kingdom (2012). Vitamin D - advice on supplements for at risk groups. Cardiff, Belfast, Edinburgh, London: Welsh Government, Department of Health, Social Services and Public Safety, The Scottish Government, Department of Health; ( uk/Resource/0038/ 00386921.pdf). 6. Cooper C, Fall C, Egger P, Hobbs R, Eastell R, Barker D (1997). Growth in infancy and bone mass in later life. Ann Rheum Dis 56:17–21. 7. Erkkola M, Kaila M, Nwaru BI, et al (2009). Maternal vitamin D intake during pregnancy is inversely associated with asthma and allergic rhinitis in 5-year-old children. Clin Exp Allergy 39:875–882. 8. Farrant HJ, Krishnaveni GV, Hill JC, Boucher BJ, Fisher DJ, Noonan K, et al (2009). Vitamin D insufficiency is common in Indian mothers but is not associated with gestational diabetes or variation in newborn size. European Journal of Clinical Nutrition, 63:646–652. 9. Gallagher JC (2012). Vitamin D Deficiency and Muscle Strength: Are They Related ?. J. Clin. Endocrunol, Metab, 2012 97:4366 – 4369. 10. Hồ Phạm Thục Lan, Đinh Huy Thạch, Lại Quốc Thái, Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Đình Nguyên (2010) Thiếu vitamin D trong cộng đồng: thực trạng và yếu tố nguy cơ. Tạp chí Thời sự Y học số 46, tr 3 – 10. 11. Holmes VA, Barnes MS, Alexander HD, Mc Faul P, Wallace JM (2009). Vitamin D deficiency and insufficiency in pregnant women: a longitudinal study. Br J Nutr, 102: 876-81. 12. Javaid MK, Crozier SR, Harvey NC, Gale CR, Dennison EM, Boucher BJ, et al (2006). Maternal vitamin D status during pregnancy and childhood bone mass at age 9 years: a longitudinal study. Lancet, 367:36–43. 13. Kaya GA, Salihoglu O, Balci H, Nuhoglu A (2009). Association of subclinical vitamin D deficiency in newborns with acute lower respiratory infection and their mothers. Eur J Clin Nutr 63:473–477. 14. Krause R, Buhring M, Hopfenmuller W, Holick MF, Sharma AM (1998). Utraviolet B and blood pressure. Lancet, 352(9129),709 – 10. 15. Lauretani F, Frondini C, Davoli ML, Martini E, Pellicciotti F, Zagatti A, Giordano A, Zurlo A, Pioli G (2012). Vitamin D supplementation is required to normalize serum level of 25OH-vitamin D in older adults: an observational study of 974 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 60 hip fracture inpatients. J Endocrinol Invest, 2012 Nov;35(10):921 – 4. 16. Mukamel MN, Weisman Y, Somech R, et al (2001). Vitamin D deficiency and insufficiency in Orthodox and non-Orthodox Jewish mothers in Israel. Israel Medical Association Journal,3,419-421. 17. Nguyen HT, von Schoultz B, Nguyen TV, Dzung DN, Duc PT, Thuy VT, Hirschberg AL (2012). Vitamin D deficiency in northern Vietnam: Prevalence, rish factors and associations with bone mineral density. Bone, 2012 Dec;51(6):1029 – 34. 18. Norman AW (2008). A vitamin D nutritional cornucopia: new insights concerning the serum 25-hydroxyvitamin D status of the US populatio. Am J Clin Nutr 88:1455–1456. 19. Park S, Yoon HK, Ryu HM, Han YJ, et al (2014). Maternal vitamin D Deficiency in Early Pregnancy Is Not Associated with Gestational Diabetes Melitus Development or Pregnancy Outcomes in Korean Pregnant Women in a Prospective Study. J Nutr Sci Vitaminol,60, 269-275. 20. Sachan A, Gupta R, Das V, et al (2005). High prevalence of vitamin D deficiency among pregnant women and their newborns in northern India. American Journal of Clinical Nutrition, 81, 1060 – 1064. 21. Xiang F, Jiang J, Li H, Yuan J, Yang R, Wang Q and Zhang Y (2013). High prevalence of vitamin D in sufficiency in pregnant woman working indoors and residing in Guiyang, China. J.Endocrinol invest, 36:503– 507. 22. Xiao JP, Zang J, Pei JJ, Xu F, Zhu Y, Liao XP (2015). Low Maternal Vitamin D status during the Second Trimester of Pregnancy: A cross sectional study in Wuxi, China. PloS One, 10(2):e0117748. 23. Zhou J, Su L, Liu M, Liu Y, Cao X, Wang Z and Xiao H (2014). Association between 25-hydroxyvitamin D levels and pregnancy outcomes: a prospective observational study in southern China. Eurpopean Journal of Clinical Nutrition,1-6. Ngày nhận bài báo: 21/11/2016 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2016 Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf054_0745_2168793.pdf
Tài liệu liên quan