Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 195
 TỈ LỆ RỐI LOẠN LO ÂU VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN 
Ở BỆNH NHÂN MẮC BỆNH KHÔNG LÂY NHIỄM 
TẠI PHÒNG KHÁM BÁC SĨ GIA ĐÌNH 
Đặng Thị Hiền*, Lê Thanh Toàn* 
Đặt vấn đề: Rối loạn lo âu là nguyên nhân đứng thứ hai về gánh nặng bệnh tật trong nhóm bệnh không lây 
nhiễm. Tỉ lệ rối loạn lo âu ở những bệnh nhân mắc bệnh không lây nhiễm là rất cao, đặc biệt ở những bệnh nhân 
mắc bệnh tim mạch, bệnh phổi mạn tính và bệnh đái tháo đường. Rối loạn lo âu đã và đang ảnh hưởng đến hiệu 
quả điều trị, chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, cụ thể là bệnh nhân khám bệnh, theo dõi bệnh tại các phòng 
khám ngoại trú. 
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm mục tiêu xác định tỉ lệ rối loạn lo âu và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân mắc 
bệnh không lây nhiễm tại phòng khám bác sĩ gia đình, nơi bệnh nhân đến khám và tái khám bệnh ngoại trú 
thường xuyên theo lịch. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiêng cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên những bệnh nhân 
mắc bệnh không lây nhiễm đến khám tại phòng khám bác sĩ gia đình Bệnh viện quận 2, thành phố Hồ Chí Minh 
từ tháng 03 / năm 2017 đến tháng 07 /năm 2017. Những người tham gia được phỏng vấn trực tiếp thông qua 
bảng câu hỏi về sức khoẻ bệnh nhân, thang đo rối loạn lo âu Zung. Phân tích dữ liệu được thực hiện bằng 
Stata/IC phiên bản 13.0. 
Kết quả: Trong số 238 người tham gia nghiên cứu, rối loạn lo âu (n = 110, 46,2%). Phân tích hai chiều cho 
thấy có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê (P <0,05) giữa rối loạn lo âu và các yếu tố như có mâu thuẫn (PR=1,78; 
KTC 95% 1,27 – 2,25; P=0,047), số bệnh mắc (PR=1,24; P=0,027; KTC 95% 1,03 – 1,51), có lo lắng về bệnh 
(PR=2,16; KTC 95% 1,67 – 2,80; P<0,001), sợ bênh nặng/sợ chết (PR=1,89; P<0,001; KTC 95% 1,47 – 2,43), sợ 
không đủ tiền chữa bệnh (PR=2,08; KTC 95% 1,66 – 2,60; P<0,001), sợ không có người chăm sóc (PR=2,23; 
P=0,001; KTC 95% 1,96 – 2,62), có mất ngủ (PR=1,41; P=0,028; KTC 95% 1,02 – 1,96). 
Kết luận: Tỉ lệ rối loạn lo âu ở bệnh nhân mắc bệnh không lây nhiễm đến khám tại Phòng khám Bác sĩ Gia 
đình BV Quận 2 năm 2017 là 46,2%. Trong đó, rối loạn lo âu mức độ nhẹ (chiếm 96,4%), rối loạn lo âu mức độ 
vừa (chiếm 3,6%) và không có rối loạn lo âu mức độ nặng. 
Từ khóa: rối loạn lo âu, bệnh không lây nhiễm, bác sĩ gia đình 
ABSTRACT 
RATE OF ANXIETY DISORDER AND RELATIVE FACTORS IN PATIENTS 
WITH NON-COMMUNICABLE DISEASES IN FAMILY OUTPATIENT SETTING 
Dang Thi Hien, Le Thanh Toan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 189 - 193 
Background: anxiety disorder is the second cause of disease burden among non-communicable diseases. The 
rate of anxiety disorder in patients with non-communicable diseases are very high, especially, the patients with 
cardiovascular diseases, chronic pulmonary diseases and mellitus diabetes. Anxiety disorder has impacted on the 
outcome of treatment, quality of life, especially, on patients in outpatient settings. 
Aims: The aims of this study were to estimate the rate of anxiety disorder and relative factors in patients with 
non-communicable diseases in family outpatient settings, where patients come to get treatment and follow up 
their condition regularly. 
* Đại Học Y Dược, TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: TS. Lê Thanh Toàn ĐT: 0906638689 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 196
Materials and method: We conducted cross-study and analyzed 238 patients with non-communicable 
disease visiting family physicians from March 2017 to July 2017 in district hospital 2. All the participants were 
interviewed by questionnaire and Zung scale scoring. The statistical data was analyzed by Stata/IC 13.0. 
Result: Of the 238 who participated in the study, anxiety disorders (n = 110, 46.2%). Bivariate analysis 
showed significant negative association (P < 0.05) between anxiety disorders and factors such as conflicting (PR = 
1.78; KTC 95% 1.27-2.25; P = 0.047), the number of diseases (PR = 1.24; P = 0.027; KTC 95% 1.03-1.51), worry 
about the disease (PR = 2.16; KTC 95% 1.67-2.80; P 0.001), become more serious /fear of death (PR = 1.89; P 
0.001 <; KTC 95% 1.47-2.43), fear of not enough money (PR = 2.08; CI 95% of 1.66-2.60; P< 0.001), the fear of 
not having health care (PR = 2.23; P = 0.001; KTC 95% 1.96-2.62), insomnia (PR = 1.41; P = 0.028; KTC 95% 
1.02-1.96). 
Conclusion: The rate of anxiety disorders is 46.2% found in patients with non-communicable diseases, 
visiting family outpatient setting in district hospital 2. In it, mild form - 96.4%, medium - 3.6% and serious 
forms were not registered. 
Key words: anxiety disorder, non-communicable disease, family doctor 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế Giới, 
năm 2008 trong tổng số 57 triệu trường hợp tử 
vong toàn cầu có 36 triệu trường hợp là do bệnh 
không lây nhiễm(18). Gánh nặng bệnh không lây 
nhiễm lớn nhất ở các nước thu nhập trung bình 
và thấp, chiếm gần 80% số tử vong do bệnh 
không lây nhiễm trên toàn cầu, đặc biệt tại khu 
vực Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương(1). Rối 
loạn lo âu là nguyên nhân đứng thứ hai về gánh 
nặng bệnh tật trong nhóm bệnh không lây 
nhiễm. Nguy cơ rối loạn lo âu những bệnh nhân 
mắc bệnh không lây nhiễm có cao hơn 19,1% so 
với những người không có bệnh không lây 
nhiễm(16). Hiện nay có rất ít nghiên cứu về rối 
loạn lo âu được tiến hành trên bệnh nhân ngoại 
trú, đặc biệt tại Việt Nam. Một nghiên cứu cắt 
ngang của Nianquan Sun và cộng sự tại các bệnh 
viện Trung Quốc năm 2013 với 893 người từ 18-
84 tuổi cho thấy tỉ lệ bệnh nhân đái tháo đường 
có các triệu chứng lo âu là 43,6%(12). Một nghiên 
cứu trước đó vào năm 2011 của Rajput và cộng 
sự được thực hiện tại Ấn Độ với cỡ mẫu nhỏ hơn 
(400 bệnh nhân) cho thấy tỉ lệ bệnh nhân đái 
tháo đường có lo lắng là 27,6% cao hơn có ý 
nghĩa thống kê (p=0,001) nhóm chứng là những 
người khỏe mạnh (12,7%)(11). 
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi 
thực hiện nghiên cứu này nhằm tìm hiểu về tỉ lệ 
rối loạn lo âu và các yếu tố liên quan ở bệnh 
nhân mắc bệnh không lây nhiễm đến khám tại 
phòng khám bác sĩ gia đình, bệnh viện quận 2, 
TP.HCM, năm 2017. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiêng cứu mô tả cắt ngang có phân tích 
trên những bệnh nhân mắc bệnh không lây 
nhiễm đến khám tại phòng khám bác sĩ gia đình 
bệnh viện quận 2, thành phố Hồ Chí Minh từ 
tháng 03 / năm 2017 đến tháng 07 /năm 2017. 
Những đối tượng tham gia được phỏng vấn trực 
tiếp bằng bảng câu hỏi về sức khoẻ bệnh nhân 
và thang đo rối loạn lo âu Zung. Thời gian mắc 
bệnh các bệnh không lây nhiễm tối thiểu 6 tháng 
được chẩn đoán tại phòng khám bác sĩ gia đình 
hoặc có hồ sơ theo dõi sức khỏe ở cơ sở y tế khác. 
Phân tích dữ liệu được thực hiện bằng Stata/IC 
phiên bản 13.0. 
KẾT QUẢ 
Trong số 238 người tham gia nghiên cứu, 
rối loạn lo âu có 110 (46,2%) bệnh nhân. Phân 
tích hai chiều cho thấy có mối liên hệ tiêu cực 
đáng kể (P<0,05) giữa rối loạn lo âu và các yếu 
tố như có mâu thuẫn (PR=1,78; KTC 95% 1,27–
2,25; P=0,047), số bệnh mắc (PR=1,24; P=0,027; 
KTC 95% 1,03–1,51), có lo lắng về bệnh 
(PR=2,16; KTC 95% 1,67–2,80; P<0,001), sợ 
bênh nặng/sợ chết (PR=1,89; P<0,001; KTC 95% 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 197
1,47 – 2,43), sợ không đủ tiền chữa bệnh 
(PR=2,08; KTC 95% 1,66 – 2,60; P<0,001), sợ 
không có người chăm sóc (PR=2,23; P=0,001; 
KTC 95% 1,96 – 2,62), có mất ngủ (PR=1,41; 
P=0,028; KTC 95% 1,02 – 1,96). 
Bảng 1. Tình trạng bệnh tật 
Đặc tính mẫu Tần số Tỉ lệ (%) 
Mắc bệnh dưới 10 năm 167 70,2 
Bệnh tim mạch 199 83,6 
Đái tháo đường 66 27,7 
Đặc tính mẫu Tần số Tỉ lệ (%) 
Bệnh ung thư 1 0,4 
Bệnh hô hấp mạn tính 10 4,2 
Bệnh khác 124 52,1 
Số bệnh mắc: 1 
 2 
 3 
 ≥4 
102 
111 
24 
1 
42,9 
46,6 
10,1 
0,4 
Bảng 2. Mối liên quan rối loạn lo âu và các yếu tố sức khỏe 
Đặc tính mẫu Rối loạn lo âu 
Giá trị P 
PR (KTC 95%) Có Không 
Thời gian mắc bệnh 
<10 năm 
≥10 năm 
75 (44,9) 
35 (49,3) 
92 (55,1) 
36 (50,7) 
0,534 
0,91 (0,68 – 1,22) 
Bệnh tim mạch 
Có 
Không 
95 (48,0) 
15 (37,5) 
103 (52,0) 
25 (62,5) 
0,225 
1,28 (0,84 – 1,96) 
Đái tháo đường 
Có 
Không 
32 (48,5) 
78 (45,3) 
34 (51,5) 
94 (54,7) 
0,664 
1,07 (0,79 – 1,44) 
Ung thư 
Có 
Không 
1 (100) 
109 (46,0) 
0 (0,0) 
128 (54,0) 
0,462* 
2,17 (1,89 – 2,50) 
Bệnh đường hô hấp mạn tính 
Có 
Không 
4 (40,0) 
106 (46,9) 
6 (60,0) 
122 (53,5) 
0,756* 
0,86 (0,40 – 1,86) 
Số bệnh mắc 
1 
2 
3 
≥4 
40 (39,2) 
54 (48,6) 
16 (66,7) 
0 (0,0) 
62 (60,8) 
57 (51,4) 
8 (33,3) 
1 (100) 
0,027** 
1,24 (1,03 – 1,51) 
Lo lắng về bệnh: Có 
 Không 
57 (72,2) 
53 (33,3) 
22 (27,8) 
106 (66,7) 
<0,001 
2,16 (1,67 – 2,80) 
Bảng 3. Tỉ lệ rối loạn lo âu ở bệnh nhân mắc bệnh 
không lây nhiễm 
Đặc tính mẫu Tần số Tỉ lệ (%) 
Rối loạn lo âu 110 46,2 
Mức độ lo âu(n=238) 
Nhẹ 
Vừa 
Nặng 
106 
4 
0 
96,4 
3,6 
0,0 
BÀN LUẬN 
Từ kết quả nghiên cứu, ước tính có 46,2% 
đối tượng có rối loạn lo âu theo thang đo 
Zung. Còn theo nghiên cứu của Vaman 
Kulkarni và cộng sự tại Ấn Độ năm 2014(5), tỉ 
lệ này là 19,1% theo thang đo GAD – 7, với cỡ 
mẫu 282 người. Nguyên nhân của sự khác 
nhau này có thể giải thích là do địa điểm, đối 
tượng và phương pháp chọn mẫu khác nhau. 
Trong nghiên cứu trước, đối tượng nghiên cứu 
là những người từ 30 tuổi trở lên, còn hiện tại 
đối tượng chọn vào từ 18 tuổi, khoảng cách từ 
18 tuổi đến 30 tuổi có thể có những tác động 
ảnh hưởng tâm lý khác nhau. 
Trong tỉ lệ có rối loạn lo âu thì rối loạn lo âu 
mức độ nhẹ chiếm > 96% và không có rối loạn lo 
âu mức độ nặng, điều này có sự tương đồng với 
nghiên cứu trước đó. có thể thấy rối loạn lo âu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 198
tuy chiếm tỉ lệ cao, nhưng phần lớn là rối loạn lo 
âu mức độ nhẹ. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ nam nữ 
40,8% và 59,2%. Điều này cũng phù hợp với xu 
hướng chung về giới tính ở Việt Nam(6). Nghiên 
cứu của Vaman Kulkarni và cộng sự năm 2014 
tại Ấn Độ cho thấy tỉ lệ nam giới cao hơn nữ giới. 
Tuổi trung vị của đối tượng tham gia nghiên 
cứu là 62, với khoảng tứ phân vị là 55 – 70, cao 
hơn 9 tuổi so với nghiên cứu của Vaman 
Kulkarni và cộng sự(5). Trong nghiên cứu này, có 
55,0% tham gia nghiên cứu thuộc nhóm tuổi ≥60. 
Điều này phù hợp với bối cảnh Việt Nam trong 
giai đoạn đầu của quá trình già hóa dân số(9), 
tương tự kết quả của Vaman Kulkarni và cộng 
sự tại Ấn Độ (53,3%)(5). Đa số những người tham 
gia nghiên cứu được chẩn đoán bệnh tim mạch, 
bệnh đái tháo đường tuýp 2, bệnh phổi mạn 
tính, và một số bệnh lý thường gặp khác. 
Trình độ học vấn của đối tượng tham gia 
nghiên cứu rất đa dạng. Có đến 71 (chiếm 29,8%) 
đối tượng không được đi học, hoặc chỉ có thể 
biết đọc, biết viết hay thậm chí có thể mù chữ, 
thấp hơn 12% so với nghiên cứu của Vaman 
Kulkarni và cộng sự(5), sự khác biệt này có thể do 
đối tượng nghiên cứu và địa điểm nghiên cứu 
khác nhau. Trong nghiên cứu của Vaman 
Kulkarni và cộng sự(5), đối tượng được chọn ≥30 
tuổi và được tiến hành tại một bệnh viện huyện 
Mangalore, trong khi nghiên cứu chúng tôi đối 
tượng được chọn vào ≥18 tuổi và nghiên cứu ở 
bệnh viện quận của thành phố thuộc đô thị đặc 
biệt. Trình độ học vấn có thể có liên quan đến rất 
nhiều yếu tố, kể cả kinh tế. Nghề nghiệp trong 
quá khứ của họ: người có trình độ học vấn thấp 
thường có xu hướng làm những việc không có 
thu nhập ổn định, hay không có thu nhập từ hưu 
trí, họ cũng thường có sự hạn chế trong tiếp cận 
các dịch vụ y tế. 
Đôi tượng nghiên cứu hầu hết có tình trạng 
hôn nhân đã kết hôn. Đối tượng mất đi người 
bạn đời chủ yếu là nữ giới. Điều này có thể giải 
thích bởi tỉ suất chết thấp hơn ở nữ giới(14). Người 
bạn đời có vai trò quan trọng trong cuộc sống, hỗ 
trợ nhau không những về đời sống vật chất mà 
còn cả tinh thần. Mất đi người bạn đời, đồng 
nghĩa mất đi một nữa chỗ dựa về mặt tinh thần, 
và có thể kể cả vật chất, điều này phù hợp với 
kết quả của nghiên cứu của Vaman Kulkarni(5) và 
các nghiên cứu khác(11,13,19) cũng cho thấy RLLA 
có liên quan đến tình trạng hôn nhân. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 10 đối 
tượng có mâu thuẫn trong gia đình xã hội, kết 
quả này có ý nghĩa thống kê cho thấy mối liên 
quan giữa rối loạn lo âu và mâu thuẫn trong gia 
đình xã hội. Tỉ lệ rối loạn lo âu ở người có mâu 
thuẫn trong gia đình – xã hội cao gấp 1,78 lần so 
với đối tượng không có mâu thuẫn trong cuộc 
sống gia đình xã hội, điều này chưa được khảo 
sát bởi nghiên cứu trước đó của Vaman 
Kulkarni(5). 
Sự nghèo nàn về sức khỏe có thể ảnh hưởng 
đến tâm lý của đối tượng. Tỉ lệ đối tượng mắc 
nhiều hơn một bệnh ở thời điểm hiện tại trong 
nghiên cứu là khá cao, tương tự ở các nghiên 
cứu(12,19). Nhưng hầu hết các đối tượng nghiên 
cứu đều đang điều trị đều tại các cơ sở y tế. Điều 
này cho thấy sự quan tâm rất lớn đến sức khỏe 
của bản thân. Nguyên nhân lo lắng chủ yếu là sợ 
bệnh nặng/sợ chết, đối tượng sợ không có tiền 
chữa bệnh chiếm tỉ lệ không cao, điều này có thể 
giải thích do tác động của chương trình bảo hiểm 
y tế quốc gia khiến cho sự e ngại về chi phí khi 
khám bệnh chiếm tỉ lệ không cao. Một bộ phận 
nhỏ cho thấy có sự lo lắng không có người chăm 
sóc, điều này trở thành một gánh nặng tâm lý 
cho người bệnh. 
Mất ngủ là hiện tượng phổ biến ở BN, cũng 
không quá ngạc nhiên khi tỉ lệ mất ngủ trong 
nghiên cứu khá cao >60% và trong số đó tỉ lệ cao 
nhất là mất ngủ thường xuyên. Mất ngủ làm ảnh 
hưởng sức khỏe, gây ra hàng loạt các nguy cơ 
tim mạch, đái tháo đường, tâm sinh lý của đối 
tượng. Điều này tương ứng với các kết quả của 
nghiên cứu trước(8,12,18,19). Tần suất mất ngủ 
thường xuyên chiếm tỉ lệ cao, điều này có thể 
giải thích đối tượng mắc bệnh không lây nhiễm – 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 199
một bệnh có liên quan chặt chẽ đến tuổi 
tác(3,7,12,15), sự hoạt động của não và các tuyến yên 
yếu đi, sự duy trì giấc ngủ khó kiểm soát. 
Các mối liên quan giữa rối loạn lo âu và các 
bệnh lý trong nghiên cứu chưa có ý nghĩa thống 
kê. Tuy nhiên số nhóm bệnh mắc và rối loạn lo 
âu có mối liên quan có ý nghĩa thống kê và có 
tính khuynh hướng, cứ tăng thêm 1 nhóm bệnh 
thì tỉ lệ rối loạn lo âu tăng lên 1,24 lần. Điều này 
cũng tương tự nghiên cứu, có thể thấy rằng khi 
mắc thêm một bệnh nói chung thì ảnh hưởng 
không những tạo gánh nặng về chi phí điều trị 
mà còn đến đời sống sức khỏe tâm thần và nguy 
cơ biến chứng – bệnh nặng. 
KẾT LUẬN 
Tỉ lệ rối loạn lo âu ở bệnh nhân mắc bệnh 
không lây nhiễm đến khám tại Phòng khám Bác 
sĩ Gia đình Bệnh viện Quận 2 năm 2017 là 46,2% 
theo thang đo Zung. Trong đó, rối loạn lo âu 
mức độ nhẹ (chiếm 96,4%), rối loạn lo âu mức độ 
vừa (chiếm 3,6%) và không có lo âu mức độ 
nặng. 
Những đối tượng có mất ngủ, có mâu thuẫn 
gia đình, có lo lắng về bệnh, nguyên nhân lo lắng 
như sợ bệnh nặng/sợ chết, sợ không có tiền, sợ 
không có người chăm sóc và số bệnh mất có tỉ lệ 
rối loạn lo âu cao hơn nhóm đối tượng không có 
các yếu tố này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y tế Việt Nam (2015), Báo cáo chung tổng quan ngành y tế 
năm 2014 Tăng cường dự phòng và kiểm soát bệnh không lây 
nhiễm, tr.140. 
2. Grenier S, Potvin O, Hudon C, Boyer R, Preville M, Desjardins 
L, et al. (2012), Twelve-month prevalence and correlates of 
subthreshold and threshold anxiety in community-dwelling 
older adults with cardiovascular diseases. J Affect Disord, 136 
(3), pp. 724 - 732. 
3. Hội Y học dự phòng Việt Nam (2016), Bệnh không lây nhiễm: 
Gánh nặng, yếu tố nguy cơ và chiến lược phòng chống, 
du-phong/2016/01/81E21074/benh-khong-lay-nhiem-ganh-
nang-yeu-to-nguy-co-va-chien-luoc-phong-chong/ 
4. 
engthening_prevention_and_control_of_ncds_vietnam_recom
mendations_who.pdf 
5. Kulkarni V, Chinnakali P, Kanchan T, Rao A, Shenoy 
M, Papanna MK (2014), Psychiatric Co-morbidities among 
Patients with Select Non-communicable Diseases in a Coastal 
City of South India. International Journal of Preventive Medicine, 
5 (9), pp. 1139 - 1145. 
6. Lê Văn Dụy (2017), Dân số và cơ cấu dân số Việt Nam vào 
năm 2014 và 2019, Tổng cục dân số kế hoạch hóa gia đình, 
02/07/2017. 
7. Matsuda R, Kohno T, Kohsaka S, Fukuoka R, Maekawa Y, 
Sano M, et al. (2017), The prevalence of poor sleep quality and 
its association with depression and anxiety scores in patients 
admitted for cardiovascular disease: A cross-sectional 
designed study. Int J Cardiol, 228, pp. 977 - 982. 
8. Pelletier L, O'Donnell S, McRae L, Grenier J (2017), The 
burden of generalized anxiety disorder in Canada. Health 
Promot Chronic Dis Prev Can, 37 (2), pp. 54 - 62. 
9. Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (2011), Già hóa dân 
số và người cao tuổi ở Việt Nam- Thực trạng, dự báo và một 
số khuyến nghị chính sách, tr. 6. 
10. Rajput R, Gehlawat P, Gehlan D, Gupta R, Rajput M (2016), 
Prevalence and predictors of depression and anxiety in 
patients of diabetes mellitus in a tertiary care center. Indian J 
Endocrinol Metab, 20 (6), pp. 746 - 751. 
11. Smith K J, Beland M, Clyde M, Gariepy G, Page V, Badawi G, 
et al. (2013), Association of diabetes with anxiety: a systematic 
review and meta-analysis. J Psychosom Res, 74 (2), pp. 89 - 99. 
12. Sun N, Lou P, Shang Y, Zhang P, Wang J, Chang G, et al. 
(2016), Prevalence and determinants of depressive and anxiety 
symptoms in adults with type 2 diabetes in China: a cross-
sectional study. BMJ Open, 6 (8), e012540. 
13. Tổ chức Y tế Thế giới Tây Thái Bình Dương (2013) Bệnh 
không lây nhiễm, 
diseases/fs20130311/vi/, 2/7/2017. 
14. Tổng cục dân số (2009) Tổng điều tra dân số và Nhà ở năm 
2009, tr. 65 - 73. 
15. Tu HP, Lin CH, Hsieh HM, Jiang HJ, Wang PW, Huang CJ 
(2017), Prevalence of anxiety disorder in patients with type 2 
diabetes: a nationwide population-based study in Taiwan 
2000-2010. Psychiatr Q, 88 (1), pp. 75 - 91. 
16. Viện sức khỏe tâm thần (2011), Thang đánh giá lo âu Zung, 
thang-anh-gia-lo-au-zung-sas.html. 
17. World Health Organization (2011), Recommendations for 
strengthening Non Communication disease prevention and 
control in Viet Nam, p2. 
18. Zhang AZ, Wang QC, Huang KM, Huang JG, Zhou CH, Sun 
FQ, et al. (2016), Prevalence of depression and anxiety in 
patients with chronic digestive system diseases: A multicenter 
epidemiological study. World J Gastroenterol, 22 (42), pp. 9437 - 
9444. 
19. Zhou X, Li J, Gu W, Wang J, Zhu Y, Zhang G, et al. (2017), 
Prevalence and associated factors of anxiety and depression 
among patients with chronic respiratory diseases in eight 
general hospitals in Jiangsu Province of China: A cross-
sectional study. Psychiatry Res, 251, pp. 48 - 53. 
Ngày nhận bài báo: 16/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018