Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 45
TỈ LỆ MỔ LẤY THAI VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI KHOA SẢN 
BỆNH VIỆN ĐA KHOA KIÊN GIANG 
Huỳnh Thị Tập*, Tạ Thị Thanh Thủy** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Tỉ lệ mổ lấy thai có khuynh hướng tăng dần theo thời gian. Nhiều bằng chứng cho thấy khi tỉ lệ 
mổ lấy thai tăng trên 15% sẽ gia tăng tử suất và bệnh suất cho mẹ và trẻ sơ sinh. Tại Kiên Giang, báo cáo thống 
kê hằng năm tại khoa sản bệnh viện cho thấy tỉ lệ mổ lấy thai gia tăng qua các năm. Tuy nhiên, cho đến nay tại 
Kiên Giang chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này 
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ mổ lấy thai và các yếu tố liên quan tại khoa sản bệnh viện đa khoa tỉnh Kiên Giang 
sáu tháng đầu năm 2015. 
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện từ tháng 01 đến 
tháng 5/2015. Đối tượng chọn bệnh là những thai phụ vào sinh tại khoa Sản Bệnh Viện Đa Khoa Kiên Giang 
trong thời gian nghiên cứu, đồng ý tham gia và có đủ năng lực để trả lời những câu hỏi phỏng vấn. Số liệu được 
thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp vào ngày hậu sản/ hậu phẫu thứ hai. 
Kết quả: Trong thời gian nghiên cứu có 1130 sản phụ được chọn vào nghiên cứu. Kết quả cho thấy,có 378 
sản phụ được mổ lấy thai (MLT) chiếm tỉ lệ 33,4% và 752 sản phụ sinh thường ngã âm đạo chiếm tỉ lệ 66,6%. 
Những sản phụ được bác sĩ tư vấn trước sinh về MLT có tỉ lệ MLT cao hơn so những sản phụ được bác sĩ tư vấn 
trước sinh về sinh thường với PR=1,5 (KTC 95% 1,2-1,9 , p<0,001). 
Kết luận: Tỉ lệ MLT chung tại khoa sản bệnh viện Đa khoa Kiên Giang 6 tháng đầu năm 2015 là 33,4%. 
Những sản phụ được nhân viên y tế tư vấn MLT có tỉ lệ MLT bằng 1,5 lần so những sản phụ được tư vấn sinh 
thường (KTC 95% 1,2 -1,9). 
Từ khóa: Mổ lấy thai, tỉ lệ. 
ABSTRACT 
CESAREAN SECTION RATE AND ASSOCIATED FACTORS IN DEPARTMENT OF OBSTETRICS, 
KIEN GIANG GENERAL HOSPITAL 
Huynh Thi Tap, Ta Thi Thanh Thuy 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 5 - 2016: 45 - 50 
Background: Cesarean section rate has been increasing more and more. It is known that when C-section rate 
increasing 15%, maternal mortality and morbidity increasing as well. At Kien Giang hospital, yearly reports have 
shown a growing up potential of C-section rate for years. However, there is no any survey about this health 
problem at the hospital. 
Objective: To determine C-section rate and related factors at Obstetric Department – Kien Giang Polyclinic 
Hospital in first 6 months of the year 2015. 
Methods: A crossectional study was conducted at the hospital from January to May 2015. Pregnant women 
giving birth during this period were invited to participate in the study. In-person interviews were performed for 
all participants at the second day after delivery (either vaginal or c-section delivery). 
Results: 1130 pregnant women were enrolled in the study. Among them, c-section delivery was carried out 
* Trường Cao Đẳng Y Tế Kiên Giang ** Bệnh viện Phụ Sản Mekong, Thành phố Hồ Chí Minh. 
Tác giả liên lạc: Ths Huỳnh Thị Tập ĐT: 0973561927 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 46
on 378 cases (33.4%), and the rest were successful giving birth vaginally (66.6%). Logistic regression analysis 
revealed that women who were internally counseled toward C-section have had higher rate of C-section than those 
were not (PR 1.5 – 95% CI 1.2 – 1.9). 
Conclusion: C-section rate in first 6 month 2015 at Kien Giang hospital was 33.4%. 
Key words: C-section, rate. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong những năm gần đây xã hội ngày một 
văn minh, chất lượng cuộc sống được nâng cao, 
mỗi gia đình chỉ sinh 1 đến 2 con nên người ta 
càng quan tâm nhiều đến sức khỏe và thai nghén 
của mình. Họ nghĩ rằng, mổ lấy thai sẽ an toàn 
hơn cho mẹ và con, hoặc có quan niệm sinh con 
vào ngày giờ tốt trẻ sẽ sung sướng và giàu có, 
hoặc sợ đau đẻ, sợ tổn thương vùng sinh dục 
nên đã yêu cầu được mổ lấy thai. Theo nguyên 
tắc, mổ lấy thai chỉ được thực hiện trong những 
trường hợp thai kỳ nguy cơ cao và tiên lượng 
không thể sanh thường ngã âm đạo để bảo vệ 
sức khỏe bà mẹ và thai nhi(9). Khuyến cáo của Tổ 
chức y tế thế giới tỉ lệ mổ lấy thai không nên 
vượt quá 15%. Nhiều bằng chứng cho thấy khi tỉ 
lệ mổ lấy thai tăng trên 15% sẽ gia tăng tử suất 
và bệnh suất cho mẹ và trẻ sơ sinh Tại Kiên 
Giang, theo thống kê sơ bộ tại khoa sản bệnh 
viện cho thấy tỉ lệ mổ lấy thai gia tăng qua các 
năm. Năm 2011 tỉ lệ mổ lấy thai 34%, năm 2012 
là 35,2% và 35,5% vào năm 2013. Tuy nhiên, cho 
đến nay tại Kiên Giang chưa có đề tài nào nghiên 
cứu về vấn đề này 
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
nhằm xác định tỉ lệ mổ lấy thai năm 2015, 
đồng thời muốn tìm hiểu các yếu tố liên quan 
đến tỉ lệ mổ lấy thai gia tăng, đặc biệt là việc 
chọn lựa phương pháp sinh mổ của sản phụ. 
Từ đó, có kế hoạch tăng cường các biện pháp 
giáo dục sức khỏe góp phần làm giảm tỉ lệ mổ 
lấy thai theo yêu cầu nói riêng và xu hướng 
MLT gia tăng nói chung. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Dựa vào báo cáo hằng năm của bệnh viện 
với tỉ lệ mổ lấy thai năm 2011 là 34%, cho xác 
suất sai lầm loại I 0,05% và độ chính xác kết quả 
mong đợi d= 0,02, cỡ mẫu cần thiết cho nghiên 
cứu này là 1129. 
Nghiên cứu được thực hiện ở phòng sinh 
thường và phòng sinh dịch vụ của khoa sản 
bệnh viện Đa khoa tỉnh Kiên Giang theo thiết kế 
cắt ngang. Trong khoảng 4500 sản phụ vào sinh 
tại khoa sản trong thời gian nghiên cứu chọn lựa 
bằng phương pháp ngẫu nhiên hệ thống ra một 
mẫu gồm 1130 sản phụ đưa vào nghiên cứu. 
Các dữ liệu được thu thập bằng cách phỏng 
vấn trực tiếp mặt đối mặt dựa trên bộ câu hỏi 
soạn sẵn. Cuộc phỏng vấn diễn ra tại tại phòng 
hậu sản và hậu phẫu vào ngày thứ 2 sau sanh, 
chọn thời điểm yên tĩnh, dự kiến phỏng vấn 
trong khoảng 20 phút, lúc sản phụ không bận 
bịu chăm sóc con, không đang làm thủ thuật. 
Trong trường hợp đang phỏng vấn con của sản 
phụ quấy khóc, phỏng vấn viên phải ngừng 
phỏng vấn và giúp đỡ sản phụ chăm sóc bé cho 
đến khi ổn định mới được tiếp tục. 
Tiếp nhận phiếu điều tra và đánh số thứ tự 
ngay sau khi thu thập. Kiểm tra mức độ chính 
xác, mã hóa dữ liệu sang dạng số và nhập dữ 
liệu. Số liệu thu thập được làm sạch, mã hóa, 
nhập và xử lý kỹ lưỡng. 
Thống kê mô tả được thực hiện nhằm tìm tỉ 
lệ mong muốn. Thống kê phân tích tỉ số tỉ lệ hiện 
mắc (PR), khoảng tin cậy (KTC) 95% nhằm tìm 
mối tương quan giữa mổ lấy thai và các yếu tố 
được nghiên cứu. 
KÊT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Trong thời gian từ 01/2015 đến 5/2015, tại 
bệnh viện Đa khoa Kiên Giang có trên 4500 lượt 
sản phụ đến sinh tại khoa sản, qua đó 1130 sản 
phụ được chọn và đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Nhóm nghiên cứu có tuổi trung bình 27,2±5,9, 
nhiều nhất là nhóm tuổi 20-34 tuổi, ít nhất là 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 47
nhóm tuổi dưới 20. Đa số sản phụ trong mẫu 
nghiên cứu sống ở nông thôn chiếm tỉ lệ 65,8% 
và ở thành thị 34,2%. Về trình độ học vấn, có 
29,1% sản phụ ≤ cấp 1 và cấp 2 cấp 3 là 57,6%. Về 
tình trạng kinh tế có 92,3% sản phụ không thuộc 
diện hộ nghèo và cận nghèo, tuy nhiên đa số sản 
phụ không có nhà ở riêng mà sống cùng gia đình 
(54,1%) – đây cũng là nét đặc thù của những gia 
đình nông thôn tại miền Nam Việt Nam. 
Tỉ lệ sản phụ trong mẫu nghiên cứu chưa 
từng mang thai và đã từng mang thai tương 
đương nhau (51,6% / 48,4%). Đa số sản phụ có từ 
1-2 con (85,6%), sản phụ sinh con thứ 3 trở lên có 
tỉ lệ thấp 2,7%. Đa số sản phụ mang thai lần này 
là trong ý muốn chiếm tỉ lệ 87,5% và ngoài ý 
muốn có tỉ lệ thấp. Hầu hết sản phụ mang thai 
một cách tự nhiên 99%, chỉ có 1% sản phụ có thai 
sau điều trị hiếm muộn. Đa số sản phụ không 
gặp vấn đề gì trong thời gian mang thai này 
chiếm (96,4%). 
Trong lần mang thai này, trên 2/3 sản phụ có 
ý định chọn sinh thường và 14,6% sản phụ chọn 
mổ lấy thai. Lý do sản phụ chọn sinh thường là 
mau hồi phục sau sinh chiếm tỉ lệ cao nhất 
80,5%. Với những sản phụ chọn mổ lấy thai, lý 
do chiếm tỉ lệ cao nhất là mong muốn an toàn 
hơn cho mẹ và con (58,8%), vết mổ cũ (38,8%), và 
những lý do khác không đáng kể. Có 66,7% sản 
phụ được nhân viên y tế tư vấn về phương pháp 
sinh trong thai kỳ. Phương pháp sinh được tư 
vấn là chủ yếu là sinh thường chiếm tỉ lệ 75,7% 
và 24,3% là mổ lấy thai. 
Tỉ lệ sản phụ mổ lấy thai tại khoa sản bệnh 
viện đa khoa Kiên Giang: Nghiên cứu trên 
1130 sản phụ vào sinh tại khoa sản bệnh viện 
Đa khoa Kiên Giang có 752 sản phụ sinh 
thường chiếm tỉ lệ 66,6% và 378 sản phụ mổ 
lấy thai chiếm tỉ lệ 33,4%. 
Mối liên quan giữa các đặc điểm với mổ lấy 
thai của đối tượng nghiên cứu: Kết quả phân tích 
đơn biến cho thấy, có sự khác biệt có tính chất 
khuynh hướng giữa nhóm tuổi với MLT của sản 
phụ, tuổi sản phụ càng cao MLT càng tăng. Khi 
nhóm tuổi tăng lên một nhóm thì tỉ lệ MLT tăng 
lên 1,1 lần so với sản phụ có nhóm tuổi dưới 20 
tuổi (KTC 95% 1,03 - 1,3). Những sản phụ ở 
thành thị có tỉ lệ MLT bằng 1,2 lần so với những 
sản phụ ở nông thôn (KTC 95% 1,07 -1,4). Kết 
quả phân tích cũng cho thấy, những sản phụ 
sống riêng có tỉ lệ MLT gấp 1,4 lần so với sản 
phụ cùng gia đình (KTC 95% 1,2 - 1,6). Những 
sản phụ đã từng mang thai có tỉ lệ MLT gấp 1,3 
lần so với những sản phụ chưa từng mang thai 
(KTC 95% 1,1 - 1,5). Ở những sản phụ có gặp vấn 
đề có tỉ lệ MLT gấp 1,7 lần so với sản phụ không 
gặp vấn đề trong thời gian mang thai (KTC 95% 
1,2 - 2,2). So với những sản phụ có ý định lựa 
chọn sinh thường, những sản phụ lựa chọn MLT 
có tỉ lệ MLT cao hơn gấp 4,1 lần (KTC 95% 3,6 - 
4,6). Những sản phụ trong thời gian mang thai 
không được nhân viên y tế tư vấn phương pháp 
sinh có tỉ lệ MLT bằng 0,7 lần so với những sản 
phụ được tư vấn (KTC 95% 0,6 - 0,8). So với 
những sản phụ được nhân viên y tế tư vấn sinh 
thường thì những sản phụ được tư vấn MLT có 
tỉ lệ MLT gấp 5,2 lần (KTC 95% 4,3 - 6,2). Tuy 
nhiên những nhận định trên đây đều xuất phát 
từ kết quả phân tích đơn biến. Khi đưa tất cả 
những yếu tố trên hiệu chỉnh qua phân tích hồi 
qui đa biến số, chỉ còn một yếu tố liên quan đó là 
những sản phụ được nhân viên y tế tư vấn MLT 
trước đó có tỉ lệ MLT bằng 1,5 lần so với sinh 
thường KTC 95% từ 1,2 đến 1,9 và sự khác biệt 
này có ý nghĩa thống kê với (p<0,001) (Bảng 1) 
Bảng 1 - Mối liên quan giữa đặc điểm với mổ lấy thai 
của đối tượng nghiên cứu bằng mô hình hồi quy 
logistic 
Đặc tính PR (KTC 95%) P 
Nhóm tuổi 1,1(0,9 -1,2) 0,312 
Nơi ở 1,0 (0,9 -1,1) 0,704 
Điều kiện nhà ở 0,9(0,8 -1,1) 0,674 
Đã từng mang thai 0,9(0,8 -1,1) 0,608 
Có thai như thế nào 0,9(0,6 -1,6) 0,860 
Có gặp vấn đề trong lần mang thai 
này 
1,0(0,8 -1,4) 0,842 
Ý định lựa chọn phương pháp sinh 
của sản phụ 
1,1(0,8 -1,3) 0,525 
Phương pháp sinh được tư vấn 1,5(1,2 -1,9) <0,001 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 48
BÀN LUẬN 
Tỉ lệ sản phụ MLT tại khoa sản bệnh viện đa 
khoa Kiên Giang: kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi cho thấy, tỉ lệ MLT ở bệnh viện Đa khoa tỉnh 
Kiên Giang là tương đối cao 33,4%. Cao hơn 2 
lần so với mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế 
Giới (15%). Đồng thời, tỉ lệ này cũng cao hơn so 
với nghiên cứu của tác giả Ninh Văn Minh tại 
bệnh viện sản nhi Ninh Bình năm 2012 với tỉ lệ 
MLT là 23,1%(7), hoặc nghiên cứu của Chitrakan 
Charoenboon năm 2011 tại Thái Lan (23,6%)(1), 
hoặc khi so với tỉ lệ MLT trung bình của 9 nước 
Châu Á là 27,3%(4). Sự khác biệt này có thể do 
nghiên cứu của các tác giả đa phần là sử dụng 
nguồn thông tin thứ cấp từ hồ sơ bệnh án và sử 
dụng kỹ thuật chọn mẫu toàn bộ trong khi 
nghiên cứu của chúng tôi là thu thập số liệu từ 
phỏng vấn trực tiếp người bệnh. Đồng thời, điều 
kiện kinh tế xã hội, tập quán, tín ngưỡng ở mỗi 
khu vực, mỗi quốc gia góp phần tạo nên sự khác 
biệt về tỉ lệ MLT trong các nghiên cứu. 
Tuy nhiên, tỉ lệ MLT trong nghiên cứu của 
chúng tôi vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với một 
số nghiên cứu của các tác giả khác. Tác giả 
Nguyễn Thị Huệ khảo sát tình hình mổ lấy thai 
tại bệnh viện Nhật Tân tỉnh An Giang năm 2013 
tỉ lệ MLT là 50,4%(6). Sự khác biệt này có thể do: 
thứ nhất, nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị 
Huệ thực hiện hồi cứu mô tả trên 766 hồ sơ bệnh 
án của cả năm, trong khi nghiên cứu của chúng 
tôi chỉ thực hiện trong 5 tháng đầu năm. Quan 
sát số liệu lưu trữ của khoa sản trong những 
năm trước, chúng tôi nhận thấy, ở những tháng 
cuối năm số sản phụ vào sinh nhiều hơn so với 
những tháng đầu năm nên kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi đôi khi chưa phản ánh đúng so với 
thực tế; hai là, mặc dù An Giang là một tỉnh giáp 
ranh với Kiên Giang, nhưng lại là tỉnh đặc thù có 
đồng bào theo tôn giáo rất cao chiếm đến 70,31% 
tổng dân số của toàn tỉnh. Có thể do tính chất 
đặc thù này góp phần làm cho tỉ lệ MLT ở An 
Giang rất cao trên 50%. Thông thường thì những 
người theo tôn giáo, họ tin rằng sinh con vào 
ngày giờ tốt, hợp tuổi với cha mẹ thì con của họ 
sẽ được giàu có, sung sướng và hạnh phúc. Cho 
nên, chỉ có MLT mới có thể thực hiện được 
những ước muốn của họ. 
Tác giả Đặng Thị Hà, mô tả trên 3018 sản 
phụ trong 2 năm 2007-2009 tại Bệnh viện Đại học 
Y dược cơ sở 2 có tỉ lệ MLT là 43,2%(2). Điều này 
có thể do, trong nghiên cứu của tác giả Đặng Thị 
Hà thời gian nghiên cứu dài và cỡ mẫu đủ lớn 
nên tính đại diện cao hơn so với nghiên cứu của 
chúng tôi. Mặc khác, Bệnh viện Đại học Y dược 
cơ sở 2 là bệnh viện tư nhân nên chỉ định MLT 
có thể rộng rãi hơn so với bệnh viện nhà nước, 
đặc biệt là những trường hợp MLT vì những lý 
do xã hội khi sản phụ có yêu cầu. Thực tế, 
nghiên cứu của tác giả Rukiye Hobek Akarsu ở 
Thổ Nhĩ Kỳ đã chứng minh tỉ lệ MLT ở bệnh 
viện tư cao hơn 1,7 lần so với bệnh viện nhà 
nước(7). Có lẽ, những sản phụ thích sinh ở bệnh 
viện tư nhân hơn nơi mà những mong muốn của 
họ được dễ dàng được chấp nhận. 
Trái với nhận định trên, bệnh viện Phụ sản 
Từ Dũ là bệnh viện công lập nhưng tỉ lệ MLT 
theo nghiên cứu của tác giả Huỳnh Thị Thu 
Thủy năm 2008 lên đến 47,2%(6). Tỉ lệ này cao 
hơn so với bệnh viện Đại học Y dược cơ sở 2 và 
cao hơn rất nhiều so với nghiên cứu của chúng 
tôi. Điều này có thể do, bệnh viện Từ Dũ là một 
trong những bệnh viện đầu ngành về lĩnh vực 
sản phụ khoa ở khu vực phía Nam. Bên cạnh 
việc chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ ở 
thành phố Hồ Chí Minh mà còn là nơi tiếp nhận 
những trường hợp thai kỳ nguy cơ cao từ các 
tỉnh chuyển đến. Đồng thời, bệnh viện Từ Dũ 
cũng là nơi áp dụng thành công những kỹ thuật 
điều trị vô sinh, hiếm muộn như thụ tinh nhân 
tạo,... những tiến bộ về kỹ thuật này đã tăng tỉ lệ 
sinh đôi, sinh ba đây cũng là một trong những 
yếu tố góp phần gia tăng tỉ lệ MLT tại Từ Dũ. 
 Cùng thời gian nghiên cứu với chúng tôi, 
có nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Bình hồi 
cứu mô tả chọn mẫu toàn bộ trên 990 sản phụ 
vào sinh trong 6 tháng đầu năm 2012 ở bệnh 
viện Đa khoa Trung Ương Thái Nguyên tỉ lệ 
MLT là 45,1%(7). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 49
Từ những phân tích trên cho chúng ta thấy, 
các nghiên cứu có thể khác nhau về phương 
pháp, thời gian và địa lý nhưng điều có chung 
một đặc điểm là phản ánh sự gia tăng tỉ lệ MLT 
trong giai đoạn hiện nay ở các bệnh viện. Nhiều 
nghiên cứu đã chứng minh rằng, khi tỉ lệ MLT 
tăng từ 20% trở lên không làm giảm tử suất và 
bệnh suất cho bà mẹ và trẻ sơ sinh. Vì sức khoẻ 
của bà mẹ và thai nhi, thái độ tốt nhất của người 
thầy thuốc và của cả sản phụ là phải quan niệm 
rằng không nên lạm dụng MLT. Thầy thuốc chỉ 
nên MLT khi tiên lượng sinh thường ngã âm đạo 
có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe bà mẹ và 
thai nhi. Có như vậy, mới có thể làm giảm tỉ lệ 
MLT đang gia tăng như hiện nay. 
Các yếu tố liên quan giữa các đặc điểm với 
MLT của sản phụ bằng mô hình đa biến: Mô 
hình phân tích đa biến cho thấy những sản phụ 
được bác sĩ tư vấn MLT có tỉ lệ MLT cao gấp 1,5 
so những sản phụ được bác sĩ tư vấn sinh 
thường. Kết quả này nói lên công tác tư vấn của 
bác sĩ trước khi sinh là vô cùng quan trọng. Thai 
phụ luôn xem trọng quyết định của bác sĩ điều 
trị vì họ tin rằng bác sĩ là những người có trình 
độ, chuyên môn sẽ lựa chọn cho họ phương 
pháp sinh an toàn nhất cho mẹ và con. 
Điểm mạnh và hạn chế của đề tài: nghiên 
cứu tìm tỉ lệ có cỡ mẫu 1130 là đủ lớn. Quá trình 
thu thập số liệu mặt đối mặt được thực hiện 
nghiêm túc, đồng thời công tác giám sát được 
thực hiện chặt chẽ giúp cho số liệu nghiên cứu 
được chính xác và đạt yêu cầu. Việc lấy mẫu 
được thực hiện chọn mẫu bằng phương pháp 
ngẫu nhiên hệ thống và thực hiện đúng các tiêu 
chí đề ra nên giá trị của đề tài có thể áp dụng 
được cho dân số chọn mẫu. 
Trong quá trình chọn mẫu có một vài khó 
khăn nhất định như: thông thường chúng tôi sẽ 
chọn và phỏng vấn sản phụ ngày thứ 2 sau sinh 
hoặc MLT. Tuy nhiên có những trường hợp mới 
sinh 1 ngày đã cho ra viện hoặc có những sản 
phụ trốn viện, những trường hợp này bắt buộc 
chúng tôi phải chọn người kế tiếp để đảm bảo 
đủ số mẫu cần thiết cho nghiên cứu.Tuy nhiên, tỉ 
lệ mất mẫu thấp chỉ có 11 trường hợp trong tổng 
số 1130 sản phụ (1,5%) nên sẽ không ảnh hưởng 
đến kết quả nghiên cứu. 
Nghiên cứu đã xác định tỉ lệ MLT và các yếu 
tố nào liên quan đến tỉ lệ MLT từ phía sản phụ từ 
đó có kế hoạch tăng cường các biện pháp can 
thiệp giáo dục sức khỏe góp phần làm giảm tỉ lệ 
MLT ở Kiên Giang từ phía sản phụ. Kết quả 
nghiên cứu cũng cho chúng ta thấy, tư vấn trước 
sinh là nguồn thông tin quan trọng đối với sản 
phụ. Khi quyết định chọn phương pháp sinh đa 
số sản phụ thường nghe theo lời tư vấn của bác 
sĩ sản khoa. Vì vậy, các bác sĩ cũng nên cân nhắc, 
xem xét lựa chọn phương pháp sinh phù hợp, 
đặc biệt là những trường hợp sản phụ có vết 
MLT cũ, nếu tiên lượng sản phụ có khả năng 
sinh thường ngã âm đạo thì nên có kế hoạch tư 
vấn, giúp đỡ, khuyến khích họ sinh thường. Đây 
là một trong những yếu tố quan trọng góp phần 
làm giảm tỉ lệ MLT nói chung. 
KẾT LUẬN 
Tỉ lệ MLT chung tại khoa sản bệnh viện Đa 
khoa Kiên Giang 6 tháng đầu năm 2015 là 33,4%. 
Những sản phụ được nhân viên y tế tư vấn MLT 
có tỉ lệ MLT bằng 1,5 lần so những sản phụ được 
tư vấn sinh thường (KTC 95% (1,2 -1,9). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Charoenboon C, Srisupundit K, Tongsong T (2013)."Rise in 
cesarean section rate over a 20-year period in a public sector 
hospital in northern Thailand". Arch Gynecol Obstet, volume 
287 (1), pp. 47-52. 
2. Đặng Thị Hà (2010)."Tình hình mổ lấy thai tại bệnh viện Đại 
học Y dược cơ sở 2". Tạp chí Y học, Đại học Y dược TP.HCM, 
tập 14 (4), tr.153-158. 
3. Huỳnh Thị Thu Thủy (2008). Sanh mổ - Thực trạng và các yếu 
tố liên quan, Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ. 
mo-thuc-trang-va-cac-yeu-to-lien-quan, 24/06/2014. 
4. Lumbiganon P, Laopaiboon M, Gulmezoglu AM, Souza JP, 
Taneepanichskul S, Ruyan P, Attygalle DE, Shrestha N, Mori 
R, Nguyen DH, Hoang TB, Rathavy T, Chuyun K, Cheang K, 
Festin M, Udomprasertgul V, Germar MJ, Yanqiu G, Roy M, 
Carroli G, Ba-Thike K, Filatova E, Villar J (2010)."Method of 
delivery and pregnancy outcomes in Asia: the WHO global 
survey on maternal and perinatal health 2007-08". Lancet, 
volume 375 (9713), pp. 490-9. 
5. Nguyễn Thị Bình (2012). Nhận xét tình hình mổ lấy thai tại 
bệnh viện đa khoa trung ương Thái Nguyên 6 tháng đầu năm 
2012. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 50
vien-da-khoa-trung-uong-thai-nguyen-6-thang-dau-nam-
2012_t4995.aspx, 4/8/2014. 
6. Nguyễn Thị Huệ, Phạm Phước Vinh, Trương Thanh Thanh, 
Châu Hữu Hầu (2013). Khảo sát tình hình mổ lấy thai tại bệnh 
viện Nhật Tân năm 2013. 
www.bvag.com.vn/.../455_c44952bd4d5d2dba0660410e827184
88, Cập nhật ngày 15/06/2015. 
7. Ninh Văn Minh (2010). Tình hình mổ lấy thai tại bệnh viện 
sản nhi Ninh Bình năm 2012. 
thai-tai-benh-vien-san-nhi-ninh-binh-nam-2012_t4649.aspx, 
29/10/2013. 
8. Rukiye Hobek Akarsu1 Salime Mucuk2 (2014)."Turkish 
women’s opinions about cesarean delivery ". Original Articles, 
30 (6), pp.1308-1313. 
9. Trương Diễm Phượng, Trần Thị Lợi (2013). "Điều trị thai 
ngoài tử cung bám ở vết mổ cũ tuổi thai dưới 12 tuần tại bệnh 
viện Từ Dũ". Tạp chí Y học, Đại học Y dược TP.HCM, tập 17 ( 
1), tr.1. 
Ngày nhận bài báo: 15/8/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/8/2016 
Ngày bài báo được đăng: 05/10/2016