TCNCYH 86 (1) - 2014 73 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2014 
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Quang Dũng, viện Dinh dưỡng 
Quốc gia, số 48B, Tăng Bạt Hổ, Hà Nội 
Email: 
[email protected]. 
Ngày nhận: 3/9/2013 
Ngày được chấp thuận: 17/2/2014 
THỰC TRẠNG THIẾU VITAMIN D 
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở TRẺ 3 - 5 TUỔI 
Nguyễn Quang Dũng, Lê Danh Tuyên 
Viện Dinh dưỡng 
Thiếu vitamin D có liên quan tới nhiều bệnh và người ta cho rằng y học Thế giới đang ở trong một “kỷ 
nguyên vitamin D”, tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá tình trạng Vitamin D trên trẻ tiền học đường 
tại Việt Nam. Nghiên cứu này xác định tỷ lệ thiếu vitamin D và một số yếu tố liên quan. 136 trẻ 3 - 5 tuổi của 
2 xã Võ Miếu và Văn Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ được cân, đo chiều cao, đo bề dày lớp mỡ dưới 
da, lấy máu tĩnh mạch. Nồng độ 25(OH)D huyết thanh trung bình là 72,1 ± 18,2 nmol/L, tỷ lệ thiếu Vitamin D 
là 62,5%. Vitamin D có mối tương quan nghịch với BMI (r = -0,121, p = 0,161), với % mỡ cơ thể (r = -0,019, 
p = 0,829). Tỷ lệ thiếu Vitamin D tăng từ 50% ở hộ thu nhập trung bình dưới 2 triệu đồng/tháng lên 68% ở hộ 
thu nhập trung bình trên 4 triệu đồng/tháng. Tỷ lệ thiếu Vitamin D của trẻ người Kinh là 79,3% và người dân 
tộc thiểu số là 57,9%. Thiếu vitamin D chiếm tỷ lệ cao ở trẻ 3 - 5 tuổi, nồng độ vitamin D huyết thanh có mối 
tương quan nghịch chiều với BMI. 
Từ khóa: thiếu vitamin D, chỉ số khối cơ thể, hệ số tương quan, kỷ nguyên vitamin D 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Vitamin D không phải là một vitamin bình 
thường như các vitamin A, B, C, mà thực chất 
nó hoạt động như là một loại hormone (kích 
thích tố) hơn là một vitamin. Vitamin D có 
chức năng kích thích sự hấp thu canxi của cơ 
thể, kích thích quá trình khoáng hóa để hình 
thành xương. Bệnh phổ biến liên quan tới 
thiếu vitamin D là còi xương và nhuyễn 
xương. Thiếu vitamin D gây kích thích tuyến 
cận giáp, dẫn tới tăng chuyển hóa xương, mất 
xương và gẫy cổ xương đùi. 
Thiếu vitamin D có liên quan tới tăng nguy 
cơ mắc một số bệnh như ung thư [1], đái tháo 
đường [2], tăng huyết áp [3], hội chứng 
chuyển hóa [4]. Nhiều nghiên cứu còn thấy 
thiếu vitamin D có liên quan tới thừa cân, béo 
phì trong đó chiều hướng quan hệ này là tăng 
BMI dẫn tới làm giảm nồng độ 25 (OH) D 
huyết thanh (chỉ số đánh giá tình trạng Vitamin 
D) [5; 7]. Do có nhiều bệnh liên quan tới vita-
min D, nên người ta cho rằng y học thế giới 
đang ở trong một “kỷ nguyên vitamin D” [8]. 
Tại Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu đánh 
giá tình trạng thiếu vitamin D trong cộng đồng, 
đặc biệt là chưa tìm hiểu mối liên quan giữa 
Vitamin D và BMI, % mỡ cơ thể [9; 11]. 
Nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ thiếu 
vitamin D, tìm hiểu mối liên quan giữa thiếu 
vitamin D với tình trạng dinh dưỡng, cấu trúc 
cơ thể, và một số yếu tố kinh tế xã hội trên trẻ 
tiền học đường. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng, địa điểm, thời gian thu 
thập số liệu 
Trẻ 3 - 5 tuổi tại 2 xã Võ Miếu và Văn Miếu, 
huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Thời gian thu 
thập số liệu: tháng 8/2012. 
Tiêu chuẩn lựa chọn: trẻ khỏe mạnh, 
không bị sốt, không bị bệnh cấp tính, không bị 
 74 TCNCYH 86 (1) - 2014 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
dị tật cột sống gây gù lưng, phụ huynh đồng ý 
cho tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ: trẻ bị bệnh cấp tính, 
bị sốt, phụ huynh không đồng ý cho tham gia 
nghiên cứu. 
2. Thiết kế nghiên cứu: cắt ngang mô tả. 
3. Cỡ mẫu và chọn mẫu 
Sử dụng công thức sau: 
Cỡ mẫu được tính dựa vào tỷ lệ thiếu 
Vitamin D từ một nghiên cứu trước đây trên 
trẻ dưới 6 tuổi [11]. Với độ tin cậy 95% thì 
z1-α/2 = 1,96, với mong muốn ước tính tỷ lệ 
thiếu vitamin D tại địa bàn nghiên cứu khác 
biệt 8,4% (d) so với tỷ lệ thực trong cộng đồng 
thì cỡ mẫu tối thiểu là 133 trẻ. Tiến hành lập 
danh sách trẻ ở 2 xã điều tra, sử dụng 
phương pháp ngẫu nhiên hệ thống để chọn 
trẻ tham gia nghiên cứu. 
4. Thu thập số liệu 
Cân nặng, chiều cao, tính chỉ số BMI: cân 
nặng được đo bằng cân điện tử Tanita 
BC - 571 với độ chính xác 0,1 kg. Khi cân, trẻ 
chỉ mặc quần áo nhẹ, cân được đặt trên mặt 
phẳng có nền cứng. Kết quả được ghi là kg 
với 1 số lẻ. Chiều cao được đo bằng thước gỗ 
3 mảnh của UNICEF với độ chính xác 0,1 cm. 
Khi đo chiều cao, trẻ bỏ dép, đứng quay lưng 
vào thước, 5 điểm cơ thể cần được áp sát vào 
thước bao gồm: chẩm, hai bả vai, mông, bắp 
chân và gót chân. Đầu không ngẩng lên, 
không cúi xuống sao cho mắt nhìn thẳng ra 
phía trước theo phương nằm ngang. Kết quả 
được ghi là cm với 1 số lẻ. Chỉ số BMI được 
tính bằng cách lấy cân nặng chia cho chiều 
cao bình phương, đơn vị đo là kg/m2. 
Đo bề dày lớp mỡ dưới da, ước tính % 
mỡ cơ thể: bề dày lớp mỡ dưới da tại 4 vị trí 
giải phẫu: cơ nhị đầu, cơ tam đầu, góc dưới 
xương bả vai, bờ trên mào chậu được đo bởi 
1 kỹ thuật viên kinh nghiệm. Compa John Bull 
(British Indicators LTD) được dùng để đo bề 
dày lớp mỡ dưới da. Kết quả đo được ghi là 
mm. % mỡ cơ thể được tính toán bằng 
phương trình của Deurenberg và Siri được mô 
tả trong 1 nghiên cứu trước đây [12]. 
Lấy máu tĩnh mạch, định lượng 25(OH)
D: Một kỹ thuật viên kinh nghiệm tiến hành lấy 
3 ml máu tĩnh mạch của trẻ vào 7:00 - 8:00 
giờ buổi sáng khi trẻ nhịn đói. Sau đó mẫu 
máu được ly tâm với tốc độ 3.000 vòng/phút 
trong 10 phút tại nhiệt độ phòng. Huyết thanh 
được tách ra và đưa vào ống Eppendorf, 
đựng trong hộp xốp có đá lạnh rồi chuyển về 
bảo quản ở nhiệt độ - 200C tại khoa Hóa sinh 
& Chuyển hóa dinh dưỡng, viện Dinh dưỡng. 
Tình trạng vitamin D được đánh giá bằng cách 
định lượng nồng độ 25(OH)D huyết thanh trên 
máy miễn dịch hóa phát quang (Architech- 
i100SR - Abbott Link). Nồng độ 25(OH)D < 75 
nmol/L được coi là thiếu vitamin D [13]. 
Thông tin chung: Sử dụng bộ câu hỏi 
phỏng vấn phụ huynh học sinh để khai thác 
một số thông tin cần thiết trong đó dân tộc của 
trẻ, nghề nghiệp của bố mẹ, thu nhập trung 
bình của hộ gia đình trong 1 tháng được sử 
dụng trong nghiên cứu này. 
5. Xử lý số liệu 
Số liệu thông tin chung, kinh tế xã hội, 
nồng độ Vitamin D được nhập bằng phần 
mềm Epidata 3.1, số liệu nhân trắc được nhập 
và tính toán bằng phần mềm WHO - Anthro 
Plus v.1.0.4. Sau đó, toàn bộ số liệu nói trên 
được chuyển sang phần mềm SPSS 15.0 để 
làm sạch và xử lý thống kê. Các biến định 
lượng được kiểm tra tính phân phối chuẩn. So 
sánh 2 số trung bình được thực hiện bằng 
)p(1 p
2
d
α/21zn -´-= ÷÷
ø
ö
çç
è
æ
 TCNCYH 86 (1) - 2014 75 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2014 
kiểm định independent t-test, so sánh các tỷ lệ 
% được thực hiện bằng kiểm định Khi bình 
phương. Mối tương quan giữa 2 biến định 
lượng được tính toán bằng hệ số tương quan 
hạng Pearson, sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê khi p < 0,05. 
6. Đạo đức nghiên cứu 
Đề tài nghiên cứu đã được Hội đồng đạo 
đức trong nghiên cứu y sinh học của Viện 
Dinh dưỡng phê duyệt tại Quyết định số 378/
QĐ-VDD ngày 11 tháng 7 năm 2012. 
III. KẾT QUẢ 
Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứuα 
 Nhóm thiếu vitamin D Nhóm bình thường Chung 
 (n = 85) (n = 51) (n = 136) 
Tuổi (tháng) 54,9 ± 9,1 56,2 ± 8,7 55,4 ± 8,9 
Nữ (%) 50,6 45,1 48,5 
BMI (kg/m2) 14,5 ± 1,2 14,2 ± 1,2 14,4 ± 1,2 
25(OH)D (nmol/L)β 60,2 ± 8,1 91,9 ± 12,2 72,1 ± 18,2 
Thu nhập hộ/tháng 
(triệu đồng) 
3,3 ± 1,8 3,0 ± 2,0 3,2 ± 1,9 
Cân nặng (kg) 14,6 ± 2,2 14,4 ± 1,9 14,5 ± 2,1 
Chiều cao (cm) 100,2 ± 5,9 100,3 ± 5,9 100,3 ± 5,9 
Tổng BDLMDD của 4 vị trí giải 
phẫu (mm) 
24,5 ± 5,7 24,3 ± 4,1 24,5 ± 5,1 
% mỡ cơ thể (%) 16,1 ± 2,9 16,0 ± 2,5 16,1 ± 2,7 
Khối mỡ (kg) 2,4 ± 0,7 2,3 ± 0,5 2,3 ± 0,6 
Khối nạc (kg) 12,2 ± 1,8 12,1 ± 1,6 12,2 ± 1,7 
WAZ -1,37 ± 0,82 -1,58 ± 0,86 -1,45 ± 0,84 
HAZ -1,44 ± 0,85 -1,57 ± 0,89 -1,49 ± 0,86 
WHZ -0,75 ± 0,85 -0,93 ± 0,97 -0,81 ± 0,90 
αSố liệu được trình bày bằng ± SD; BDLMDD: Bề dày lớp mỡ dưới da. 
b Khác biệt giữa nhóm thiếu và không thiếu Vitamin D với p < 0,001. 
Trong tổng số 136 trẻ, có 85 trẻ bị thiếu 
vitamin D, chiếm 62,5%. Tỷ lệ thiếu vitamin D 
ở trẻ trai là 60%, ở trẻ gái là 65,2% 
(p = 0,535). Nồng độ Vitamin D huyết thanh 
trung bình của nhóm thiếu vitamin D là 60,2 ± 
8,1 nmol/L, thấp hơn ý nghĩa thống kê so với 
nhóm bình thường là 91,9 ± 12,2 nmol/L 
(p < 0,001). Không có sự khác biệt ý nghĩa 
thống kê về tuổi, phân bố nam nữ, BMI, cân 
nặng, chiều cao, các chỉ số cấu trúc cơ thể 
X
 76 TCNCYH 86 (1) - 2014 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
khác giữa nhóm trẻ bị thiếu vitamin D và nhóm 
trẻ bình thường. Thu nhập trung bình hộ trong 
1 tháng của nhóm thiếu vitamin D là 3,27 ± 
1,82 triệu đồng/tháng và nhóm bình thường là 
3,04 ± 2,03 triệu đồng/tháng (p = 0,499). Có 
29 trẻ (21,3%) người Kinh và 107 trẻ (78,7%) 
người dân tộc thiểu số Mường và Dao. Tỷ lệ 
nghề làm ruộng trong số các bà mẹ người dân 
tộc thiểu số là 95% (96 người), trong số các 
bà mẹ người Kinh là 82,9% (29 người). Tỷ lệ 
này ở các ông bố người dân tộc thiểu số là 
82,2% (88 người) và ông bố người Kinh là 
72,4% (21 người). 
Mối tương quan giữa nồng độ Vitamin D 
huyết thanh với BMI được trình diễn ở Biểu đồ 
1A, với % mỡ cơ thể ở biểu đồ 1B, với WHZ ở 
Biểu đồ 1C. Các mối tương quan này là 
nghịch chiều, hệ số tương quan hạng Pearson 
giữa vitamin D huyết thanh và BMI là r = -
0,121 (p = 0,161), giữa vitamin D huyết thanh 
và % mỡ cơ thể là r = -0,019 (p = 0,829), giữa 
vitamin D huyết thanh và WHZ là r = -0,137 
(p = 0,111). 
Biểu đồ 1. Mối tương quan giữa Vitamin D huyết thanh với BMI (A), 
với % mỡ cơ thể (B) và với WHZ (C) 
Trong tổng số 136 trẻ, có 28 trẻ đến từ hộ có thu nhập dưới 2 triệu đồng/tháng, 35 trẻ từ hộ có 
thu nhập 2 - 2,9 triệu đồng/tháng, 23 trẻ từ hộ có thu nhập 3 - 3,9 triệu đồng/tháng và 50 trẻ từ hộ 
có thu nhập trên 4 triệu đồng/tháng. Tỷ lệ thiếu vitamin D có xu hướng tăng lên khi thu nhập hộ 
gia đình tăng: từ 50% ở nhóm thu nhập dưới 2 triệu đồng/tháng lên tới 68% ở nhóm thu nhập 
trên 4 triệu đồng/tháng. Tuy nhiên, sự khác biệt về tỷ lệ thiếu vitamin D giữa các nhóm thu nhập 
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) (biểu đồ 2). 
 TCNCYH 86 (1) - 2014 77 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2014 
Biểu đồ 2. Tỷ lệ thiếu vitamin D của trẻ theo mức thu nhập hộ gia đình 
Biểu đồ 3. So sánh tỷ lệ thiếu vitamin D của trẻ theo nhóm dân tộc 
Tỷ lệ thiếu vitamin D của nhóm trẻ dân tộc Kinh: 79,3% (23 trên tổng số 29 trẻ), cao hơn nhóm 
trẻ dân tộc thiểu số: 57,9% (62 trên tổng số 107 trẻ), tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê, (p > 0,05). 
IV. BÀN LUẬN 
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thiếu vitamin D, 
dựa trên nồng độ 25(OH)D < 75 nmol/L của 
trẻ 3 - 5 tuổi là 62,5%, có xu hướng tăng lên ở 
những hộ gia đình có thu nhập cao hơn. Điểm 
đáng chú ý là, không phải trẻ dân tộc thiểu số 
là đối tượng có tỷ lệ thiếu vitamin D cao, mà 
ngược lại, tỷ lệ thiếu vitamin D ở trẻ người 
Kinh lại cao hơn. 
Có ít nghiên cứu đánh giá tình trạng Vita-
min D và tỷ lệ thiếu vitamin D trên trẻ dưới 5 
tuổi tại Việt Nam [9, 11]. Trên trẻ 1 - 6 tháng 
tuổi, nghiên cứu của Vũ Thị Thu Hiền và cộng 
sự [2012] cho thấy có 40,7% trẻ có nồng độ 
25(OH)D < 75 nmol/L và 23,6% có nồng độ 25
(OH)D < 50 nmol/L. Trên trẻ < 5 tuổi, nghiên 
cứu của Phạm Vân Thúy và cộng sự [11] cho 
 78 TCNCYH 86 (1) - 2014 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
thấy có tới 57,3% trẻ bị thiếu vitamin D. Hầu 
hết trẻ tập đi và trẻ vị thành niên tại Úc và 
New Zealand được tiếp xúc đủ với ánh nắng 
mặt trời, nhiều trẻ sống ở vùng khí hậu ôn đới 
bị thiếu vitamin D mức nhẹ trong các tháng 
mùa đông. Tỷ lệ trẻ ở mọi nhóm tuổi ở New 
Zealand có nồng độ 25(OH)D < 50 nmol/L là 
50% [14]. 
Béo phì có mối liên quan với thiếu vitamin 
D, một nghiên cứu trên 42.024 người cho 
thấy, khi BMI tăng lên 1 đơn vị thì nồng độ 25
(OH)D giảm 1,15%; các tác giả nghiên cứu 
này không tìm thấy bằng chứng về ảnh hưởng 
của Vitamin D đối với sự xuất hiện béo phì [5]. 
Như vậy, béo phì có thể làm tăng nguy cơ gây 
thiếu vitamin D. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi phù hợp với một số nghiên cứu 
khác: có sự tương quan nghịch chiều giữa 
BMI và 25(OH)D [6; 7]. Điều này được giải 
thích như sau, vitamin D được lưu trữ trong 
mô mỡ, lượng vitamin D trong mô mỡ của trẻ 
béo phì nhiều hơn so với trẻ bình thường, từ 
đó dẫn tới làm hạ thấp lượng 25(OH)D trong 
máu, làm tăng nguy cơ thiếu vitamin D [15]. 
Thông thường, những trẻ có chế độ ăn đầy 
đủ sẽ có tình trạng vi chất dinh dưỡng tốt hơn, 
và chúng là con của những gia đình có điều 
kiện kinh tế khá giả. Trong nghiên cứu này, 
một phát hiện đáng chú ý là, mặc dù khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê nhưng tỷ lệ thiếu 
vitamin D ở trẻ từ gia đình có thu nhập cao lại 
cao hơn trẻ từ gia đình có thu nhập thấp (Biểu 
đồ 2). Nguồn thực phẩm giàu vitamin D là cá 
mòi, cá trích, cá hồi, một số loại bơ thực vật, 
sữa bổ sung vitamin D. Tại một vùng nông 
thôn miền núi như huyện Thanh Sơn, khả 
năng tiếp cận các loại thực phẩm nói trên của 
các gia đình là rất thấp. Sự khác biệt về tỷ lệ 
thiếu vitamin D có thể do lượng thời gian tiếp 
xúc ánh nắng mặt trời của 2 nhóm là khác 
nhau, trong đó, trẻ từ gia đình thu thập thấp 
tiếp xúc ánh nắng nhiều hơn so với trẻ từ gia 
đình thu nhập cao hơn. Trên người trưởng 
thành, Vũ Thị Thu Hiền và cộng sự phát hiện 
thấy phụ nữ thành thị (Hà Nội) có tỷ lệ thiếu 
vitamin D cao hơn so với phụ nữ nông thôn 
(Hải Dương) [10]. 
Tương tự, tỷ lệ thiếu vitamin D của trẻ 
người Kinh lại cao hơn so với trẻ người thiểu 
số. Do khả năng hạn chế đối với việc tiếp cận 
thực phẩm giàu vitamin D, nên chưa chắc trẻ 
dân tộc Kinh có khẩu phần ăn vitamin D cao 
hơn so với trẻ dân tộc thiểu số. Tỷ lệ phụ 
huynh người Kinh làm ruộng thấp hơn so với 
người dân tộc thiểu số, họ thường làm các 
công việc như giáo viên, cán bộ xã, buôn bán 
nhỏ. Đặc điểm nghề nghiệp khác nhau có thể 
dẫn tới thực hành chăm sóc trẻ khác nhau. 
Thời điểm thu thập số liệu là mùa hè, trời 
nóng. Phụ huynh người Kinh có thể hạn chế 
cho trẻ tham gia hoạt động ngoài trời, tiếp xúc 
ánh nắng. Trong khi đó, trẻ người dân tộc 
thiểu số có thể được bố mẹ cho chơi ngoài 
trời nhiều hơn, tiếp xúc ánh nắng mặt trời 
nhiều hơn. Kết quả là, tình trạng vitamin D của 
trẻ dân tộc thiểu số tốt hơn. 
V. KẾT LUẬN 
Thiếu vitamin D là vấn đề có ý nghĩa sức 
khỏe cộng đồng ở trẻ 3 - 5 tuổi tại 2 xã điều 
tra với 62,5% số trẻ bị thiếu vitamin D. Vitamin 
D có mối tương quan nghịch chiều với BMI, % 
mỡ cơ thể và WHZ. Tỷ lệ thiếu vitamin D ở trẻ 
người Kinh cao hơn trẻ người dân tộc thiểu số 
và ở trẻ từ gia đình có thu nhập nhiều lại cao 
hơn so với trẻ từ gia đình có thu nhập ít. Để 
góp phần khẳng định kết quả, cần tiến hành 
các nghiên cứu so sánh nồng độ Vitamin D 
giữa trẻ nông thôn và thành thị, giữa trẻ thừa 
cân - béo phì với trẻ bình thường, giữa trẻ có 
điều kiện kinh tế gia đình khác nhau. 
 TCNCYH 86 (1) - 2014 79 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2014 
Lời cảm ơn 
Tác giả chân thành cảm ơn các cán bộ 
Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Phú Thọ, 
Trung tâm Y tế dự phòng huyện Thanh Sơn, 
trạm y tế 2 xã Võ Miếu, Văn Miếu, các phụ 
huynh và trẻ em đã tham gia nghiên cứu 
này. Xin gửi lời cảm ơn tới Dự án cải thiện 
tình trạng dinh dưỡng trẻ em - viện Dinh 
dưỡng đã tài trợ thực hiện nghiên cứu và 
cam kết không có xung đột lợi ích từ kết quả 
nghiên cứu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ali MM, Vaidya V (2007). Vitamin D and 
cancer. J Cancer Res Ther, 3(4), 225 - 230. 
2. Pittas AG, Dawson-Hughes B, Li T et 
al (2006). Vitamin D and calcium intake in re-
lation to type 2 diabetes in women. Diabetes 
Care, 29(3), 650 - 656. 
3. Tamez H, Thadhani RI (2012). Vitamin 
D and hypertension: an update and review. 
Curr Opin Nephrol Hypertens, 21(5), 492 - 499. 
4. Awad AB, Alappat L, Valerio M (2012). 
Vitamin D and metabolic syndrome risk fac-
tors: evidence and mechanisms. Crit Rev 
Food Sci Nutr, 52(2), 103 - 112. 
5. Vimaleswaran KS, Berry DJ, Lu C et al 
(2013). Causal Relationship between Obesity 
and Vitamin D Status: Bi-Directional Mende-
lian Randomization Analysis of Multiple Co-
horts. PLOS Medicine, 10(2), 1 - 13. 
6. Ghergherechi R, Hazhir N, Tabrizi A 
(2012). Comparison of vitamin D deficiency 
and secondary hyperparathyroidism in obese 
and non-obese children and adolescents. Pak 
J Biol Sci, 15(3), 147 - 151. 
7. Parikh SJ, Edelman M, Uwaifo GI et al 
(2004). The relationship between obesity and 
serum 1,25-dihydroxy vitamin D concentra-
tions in healthy adults. J Clin Endocrinol Me-
tab, 89(3), 1196 - 1199. 
8. Cannell JJ, Hollis BW, Zasloff M et al 
(2008). Diagnosis and treatment of vitamin D 
deficiency. Expert Opin Pharmacother, 9(1), 
107 - 118. 
9. Vũ Thị Thu Hiền, Lê Thị Hợp, Lê Bạch 
Mai và cs (2012). Tỷ lệ thiếu Vitamin D và một 
số yếu tố liên quan ở trẻ em 1 đến 6 tháng 
tuổi tại Hà Nội. Tạp chí Dinh dưỡng & Thực 
phẩm; 8(4), 8 - 16. 
10. Vũ Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Lâm, 
Lưu Hồng Anh và cộng sự (2010). Tình 
trạng thiếu vitamin D và các yếu tố liên quan ở 
phụ nữ 15 - 49 tuổi tại Hà Nội và Hải Dương. 
Tạp chí Sinh lý học Việt Nam, 14(4), 1 - 7. 
11. Phạm Vân Thúy, Trần Thúy Nga, Lê 
Thị Hợp (2012). Tình trạng vi chất của phụ nữ 
và trẻ em Việt Nam. Tạp chí Nhi khoa; 5(2), 
6 - 14. 
12. Nguyễn Quang Dũng, Lê Danh 
Tuyên, Lê Thị Hợp (2013). Tình trạng dinh 
dưỡng, cấu trúc cơ thể của trẻ 3 - 5 tuổi tại 2 
xã thuộc huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Tạp 
chí Dinh dưỡng & Thực phẩm; 9(2), 26 - 34. 
13. Vieth R (2011). Why the minimum de-
sirable serum 25-hydroxyvitamin D level 
should be 75 nmol/L (30 ng/ml). Best Pract 
Res Clin Endocrinol Metab, 25(4), 681 - 691. 
14. Munns C, Zacharin MR, Rodda CP., 
et al (2006). Prevention and treatment of in-
fant and childhood vitamin D deficiency in 
Australia and New Zealand: a consensus 
statement. Med J Aust;185(5):268-72. 
15. Wortsman J, Matsuoka LY, Chen 
TC., et al (2000). Decreased bioavailability of 
vitamin D in obesity. Am J Clin Nutr, 72(3), 
690 - 693. 
 80 TCNCYH 86 (1) - 2014 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Summary 
VITAMIN D DEFICIENCY AND RELATED FACTORS 
AMONG CHILDREN 3 - 5 YEARS OLD 
Vitamin D deficiency is associated with many diseases and it is said that the world medicine is 
in a “Vitamin D era”; however, only a few studies investigating the vitamin D status among 
preschool children in Vietnam. This study investigated the prevalence of vitamin D deficiency and 
other related factors of 136 children aged 3 - 5 years old from 2 Vo Mieu and Van Mieu com-
munes, Thanh Son district, Phu Tho province. Body weight, height, and skinfold thickness were 
measured and venous blood was drawn at the same time. The average 25(OH)D concentration 
was 72.1 ± 18.2 nmol/L, prevalence of vitamin D deficiency was 62.5%. Vitamin D was inversely 
correlated with BMI (r = -0.121, p = 0.161), with percentage body fat (r = -0.019, p = 0.829). The 
prevalence of vitamin D deficiency increased from 50% for households with average income less 
than 2 million VND/month to 68% for household with average income more than 4 million 
VND/month. The prevalence of vitamin D deficiency among Kinh ethnic group was 79.3% and that 
of ethnic minority group was 57.9%. Prevalence of vitamin D deficiency is high among children 3 - 
5 years old; serum vitamin D concentration is inversely associated with BMI. 
Keywords: Vitamin D deficiency, body mass index, correlation coefficient, Vitamin D era