Thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hóa

Tài liệu Thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hóa: KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 5 S Ố 0 4 N Ă M 2 0 19 Trong xu thế hội nhập cùng phát triển, với những tiến bộ của nghiên cứu văn học, với những cải cách, đổi mới ở Việt Nam và trên toàn cầu, cần có một cách nhìn, cách đánh giá mới hơn, hữu hiệu, chân xác, khoa học hơn về tác phẩm văn chương. Và tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa giúp chúng ta có một cái nhìn, một cách đánh giá khoa học hơn, chân xác hơn đối với giá trị văn học truyền thống, mở ra một hướng nghiên cứu mới vừa hợp với xu thế phát triển, vừa giữ gìn được bản sắc truyền thống văn hoá. Hồ Xuân Hương là một hiện tượng thơ nữ độc đáo, lạ lùng hiếm thấy của văn học trung đại Việt Nam vì thơ bà thấm đẫm màu sắc văn hóa. Ngay từ khi xuất hiện, Hồ Xuân Hương trở thành “nỗi ám ảnh” đối với độc giả cũng như giới nghiên cứu phê bình trong việc tiếp nhận và đánh giá lại những giá trị mà thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương mang lại về phương diện văn hóa. 1. Khái niệm văn hóa và ph...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 626 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 5 S Ố 0 4 N Ă M 2 0 19 Trong xu thế hội nhập cùng phát triển, với những tiến bộ của nghiên cứu văn học, với những cải cách, đổi mới ở Việt Nam và trên toàn cầu, cần có một cách nhìn, cách đánh giá mới hơn, hữu hiệu, chân xác, khoa học hơn về tác phẩm văn chương. Và tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa giúp chúng ta có một cái nhìn, một cách đánh giá khoa học hơn, chân xác hơn đối với giá trị văn học truyền thống, mở ra một hướng nghiên cứu mới vừa hợp với xu thế phát triển, vừa giữ gìn được bản sắc truyền thống văn hoá. Hồ Xuân Hương là một hiện tượng thơ nữ độc đáo, lạ lùng hiếm thấy của văn học trung đại Việt Nam vì thơ bà thấm đẫm màu sắc văn hóa. Ngay từ khi xuất hiện, Hồ Xuân Hương trở thành “nỗi ám ảnh” đối với độc giả cũng như giới nghiên cứu phê bình trong việc tiếp nhận và đánh giá lại những giá trị mà thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương mang lại về phương diện văn hóa. 1. Khái niệm văn hóa và phương pháp tiếp cận văn hóa học Theo Trần Nho Thìn văn hoá là một hệ thống mở “Nhân học văn hoá”, “nhân chủng học văn hoá”. Văn hoá Việt còn là sản phẩm của giao lưu ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc, Ấn Độ... Vì thế khái niệm văn hoá tương đối rộng. Văn hoá là phạm trù giá trị làm cho con người thoát ra khỏi tình trạng mông muội. Văn hoá bao gồm văn minh, kinh tế, sức khoẻ, ăn uống, văn học... chứ không phải mình lễ hội và nói đến văn hoá Thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hóa ThS. TRƯƠNG THỊ TƯỜNG THI, HÀ THỊ MINH NGỌC Trường THPT Phan Bội Châu là nói đến tập tục tín ngưỡng tôn giáo, nói đến đời sống tinh thần... Bất kỳ một giá trị văn học nào cũng đều thoát thai từ một môi trường văn hoá, từ một đời sống văn hoá nhất định. Yếu tố văn hoá ảnh hưởng lớn đến sự thành công của tác phẩm. Cách tiếp cận văn hoá học trong nghiên cứu tác phẩm văn chương sẽ giúp chúng ta khám phá chân lý nghệ thuật KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN6 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G một cách đúng hướng hơn. Trần Nho Thìn đã chỉ ra một số bước tiếp cận theo phương pháp văn hoá học đối với văn học Trung đại Việt Nam như sau: - Đối với văn học trung đại cần phục nguyên tái hiện không gian văn hoá cũng như những nhân tố thời đại tác động. - Tìm ra mối liên hệ giữa tác phẩm với văn hoá thời đại. - Xác định cơ sở văn hoá xã hội đã hình thành nên tác phẩm (đề tài, chủ đề, hình thức nghệ thuật, cách cảm nhận, mọi yếu tố cấu thành tác phẩm...). 2. Nội dung thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hóa 2.1. Người phụ nữ với phẩm chất cao quý Sự tự hào về giới của Hồ Xuân Hương thể hiện ở ca ngợi phẩm chất cao quý của người phụ nữ. Những người phụ nữ như bà sống trong xã hội phong kiến chịu nhiều nỗi thua thiệt nhưng không lùi bước. Trong mọi hoàn cảnh họ đều ý thức rõ về chính mình và tìm cách vươn lên với tinh thần ham sống, yêu đời đến cảm động, để khẳng định mình, để tồn tại; tồn tại để khát khao; khát khao tận hưởng hạnh phúc (dù cuộc đời đáp trả phía họ toàn những điều cay đắng). Đó là hình ảnh người phụ nữ đầy nghị lực vượt qua niềm đau riêng, vượt qua bất hạnh như lỡ thì, làm lẽ, góa chồng... Xuân Hương không muốn nghe tiếng khóc nỉ non của người phụ nữ. Bà cũng không muốn giới mình đành lòng cam chịu thân phận lệ thuộc, bị coi thường, bị ném đi khi kẻ khác giới đã cảm thấy chán chê. Xuân Hương khuyên người đàn bà có chồng vừa mất “Nín đi kẻo thẹn với non sông”, bà không muốn con người ấy khóc than mãi làm gì, cũng không cần phải theo cái đạo “tam tòng” ấy làm gì, hãy để sức mà còn bước tiếp... Xuân Hương cho người đọc tiếp cận với một cô gái không chồng mà chửa do cả nể trong tình yêu bị lỡ làng cũng là một cô gái nhân hậu, khoan dung “Mảnh tình một khối thiếp xin mang” và đồng thời là một người con gái mạnh mẽ, quyết liệt, dám thách thức với lề thói xã hội để giữ lại “khối tình” minh chứng cho tình yêu của mình. Phẩm chất để Xuân Hương tự hào về người phụ nữ còn là sự gan góc, sức chịu đựng của người phụ nữ trước nỗi đời cơ cực, để giữ gìn cái sắt son của người đàn bà, vẫn giữ tấm lòng son, đằm thắm, tha thiết dù bị bầm dập: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, Mà em vẫn giữ tấm lòng son (Bánh trôi nước) Trong một xã hội rối ren, khi mà thân phận người phụ nữ bị rẻ rúng như xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX, người phụ nữ vẫn giữ được tấm lòng son, kiên trinh, thủy chung của mình, cố gắng sống đẹp và có nghĩa thì thật đáng trân trọng biết bao. Cách thể hiện này cho thấy phong cách và bản lĩnh của Xuân Hương tạo ra sự vượt bậc và khác biệt giữa nữ sĩ và các tác giả khác về phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam trong văn học. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương còn thể hiện sự tự hào về người phụ nữ muốn làm nên một sự nghiệp anh hùng, không kém nam giới: Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu (Đề đền Sầm Nghi Đống) Không phải Xuân Hương coi thường nam nhi mà “ghé mắt trông ngang” đền thờ Sầm Nghi Đống. Hành động ấy thể hiện thái độ của bà rất rõ ràng, một tên cướp nước bại trận như hắn thì có gì đáng để người ta kính trọng, thờ phụng. May cho hắn gặp người Việt Nam nhân từ còn cho hắn một chỗ để nương thân, còn có nơi để siêu thoát về kiếp khác. Xuân Hương không nói quá chút nào, thử nhìn vào lịch sử chống giặc của dân tộc thì thấy ngay. Người phụ nữ Việt Nam cũng có những con người tài năng, đã từng làm nên nghiệp lớn như Bà Trưng, Bà Triệu. Xuân Hương đã khẳng định tài năng và phẩm chất của giới nữ để thế giới phải nhìn lại địa vị của họ. Hơn một lần Xuân Hương đề cao KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 7 S Ố 0 4 N Ă M 2 0 19phẩm chất cao quý của người phụ nữ. Họ có sức mạnh vượt qua gian khó, suy nghĩ và hành động của họ đôi khi được Xuân Hương nâng lên ngang tầm non sông, vũ trụ. Thân phận bất hạnh, số kiếp đau khổ của họ được hoá thân vào sông núi: “Trơ cái hồng nhan với nước non” (Tự tình - Bài 2). Xuân Hương đem “cái hồng nhan” so cùng “nước non”. Cảnh buồn nhưng không gợi sự thương cảm, nhờ cách nói cứng cỏi rất Xuân Hương, “cái hồng nhan” ấy trải lòng cùng nước non. Câu thơ Xuân Hương cứ khắc khoải một niềm khát khao giao cảm. Thơ Xuân Hương như một thông điệp khẳng định nguồn sống của xã hội là người phụ nữ, họ là những người yêu chồng, chăm sóc và nuôi dạy con cái, vun vén gia đình: “Tất cả những thu là với vén” (Cái nợ chồng con). Thậm chí bà tự hào vì sự dâng hiến to lớn của người phụ nữ. Họ sinh ra để tiếp nối sự sống, để ban phát hạnh phúc và cái đẹp cho đời. Họ có khả năng làm cho giới đàn ông từ hiền nhân quân tử đến vua chúa chết mê chết mệt. Thơ Xuân Hương là tiếng lòng của Xuân Hương và cũng là tiếng lòng của biết bao người phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ. Đó là tiếng lòng của một con người không bao giờ quên ý thức và tự ý thức về mình. Ta hãy nghe cách bà bày tỏ: “Này của Xuân Hương mới quệt rồi” (Mời trầu). Không dùng đại từ nhân xưng mà bà xưng tên riêng của mình “Này của Xuân Hương”. Lối nói mang đầy ý thức khẳng định và niềm tự hào, đến kiêu hãnh trong lời tình tự kia đã thể hiện rõ cái tâm của người mời trầu. Xuân Hương mời trầu cũng là mời duyên, mời tình và bày tỏ lòng mình. Với cách xưng danh xưng tính ấy thật tự tin, bà đã đi trước thời đại của mình rất xa, vì cách xưng hô như thế đến văn học hiện đại mới phổ biến. Hồ Xuân Hương đã đưa ra những bằng chứng xác thực về giá trị của người phụ nữ, đồng thời bà cũng khẳng định vai trò tất yếu của họ trong cuộc sống. Dưới ngòi bút cháy bỏng khát vọng yêu thương của một người phụ nữ bất hạnh trong đời sống tình ái, thơ Xuân Hương lúc nào cũng như muốn san bằng cho được cái tập tục cổ hủ bao đời đè nặng lên bản năng và giới tính của con người, để cất cao giọng ca ngợi, tự hào về giới. 2.2. Thú vui trần thế và khát vọng tình yêu Lịch sử phát triển và sự trường tồn của con người đã để lại nhiều di sản văn hóa đầy ý nghĩa từ vật chất đến tinh thần, từ vật thể, đến phi vật thể. Ở một mức độ nào đó, ta không thể phủ nhận vai trò tích cực của yếu tố tính dục trong đời sống của con người. Sự có mặt của tính dục đã giúp nhân loại nhận diện lại chính mình một cách đặc thù và độc đáo nhất. Vì hoạt động tính giao vốn là thuộc tính của mọi sinh thể sống (trong đó có con người). Tất nhiên ở đây người viết chỉ đề cập đến khía cạnh tính dục của con người. Tình yêu là sự hòa hợp giữa hai tâm hồn và trạng thái mãnh liệt nhất của tình yêu chính là sự hòa hợp giữa hai thể xác. Nói đến nam nữ là nói đến giới tính, nói đến tình yêu là nói đến một phần của mối quan hệ giới tính, như thế, quan hệ xác thịt là khía cạnh của quan hệ yêu đương, và sự gần gũi về thân xác là một nhu cầu, một thú vui trong quan hệ giới tính ấy. Khát vọng về tình yêu ở khía cạnh hòa hợp thể xác không chỉ có ở nam giới. Con người ai cũng có khát vọng ấy, phụ nữ không ngoại lệ. Hồ Xuân Hương đã dùng văn chương để thể hiện khát vọng ấy bằng những bài thơ vừa thanh vừa tục. Ta biết rằng, cuộc đời tình ái của nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng như cuộc đời tình ái của người phụ nữ Việt Nam sống dưới chế độ phong kiến không bao giờ được chủ động quyết định, Xuân Hương thấu hiểu hơn ai hết đời sống chăn gối của một người phụ nữ, hạnh phúc thật bấp bênh. Tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương ở góc độ nào cũng có thể thấy yếu tố bản băng, giới tính thể hiện một cách bàng bạc. Nên có nhiều ý kiến cho rằng, thơ Nôm Hồ Xuân Hương mang màu sắc tính dục, hay nặng nề hơn, có người cho đó là thứ thơ “dâm, tục”. KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN8 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G Đây quả là vấn đề phức tạp và cũng đầy hứng thú. Dư luận búa rìu này không phải là không có nguyên nhân của nó. Trước hết, vì sản phẩm của dòng thơ ấy xuất thân từ một nữ sĩ, nữ giới ít khi có tiếng nói trong xã hội, giữa đám đông; hơn nữa, thơ bà đã dám đụng đến mảnh đất giới tính - giới địa của sự “cấm kị” (điều mà giai cấp phong kiến ra sức che giấu, khinh miệt); sau nữa trong thơ toàn những biểu tượng mà nhìn ở góc độ nào cũng lấp lửng những chuyện hoan lạc, những bộ phận gợi cảm của giới nữ (làm cho người ta vừa thích thú và kinh sợ). Thật khó có thể giải thích chỉ bằng cảm quan của mỗi cá nhân mà phải truy nguyên vào văn hóa dân gian người Việt để tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Và cho đến ngày hôm nay, Hồ Xuân Hương vẫn là một hiện tượng thơ đặc biệt của văn học trung đại, vì bà có những sáng tác vượt ra ngoài thi pháp, đặc trưng sáng tạo của văn chương chính thống. Thơ Nôm của bà chịu sự “giao thoa” rất nhiều của những tư tưởng và hình thức nghệ thuật của văn hóa dân gian, đặc biệt là văn hóa phồn thực. Theo Đỗ Lai Thuý trong Hoài niệm phồn thực, Hồ Xuân Hương đã làm sống lại cả một truyền thống văn hóa phồn thực hùng hậu trong sáng tác của mình bằng cách đề cập rất kĩ lưỡng, sắc sảo tình yêu mang màu sắc tính dục với những đòi hỏi phải thỏa mãn cuộc sống ái ân của con người. Sự thể hiện nội dung này trong tác phẩm của bà đã đẩy vị thế của bà trước ranh giới mỏng manh giữa nghệ thuật thanh cao và nghệ thuật dung tục, đồng thời các vấn đề tính dục trong thơ bà cũng đưa vào những cuộc đàm thoại của dư luận, chứ không đơn thuần là chuyện phiếm khi “trà dư tửu hậu”. Thơ Xuân Hương thể hiện khát vọng tình yêu thuộc về bản chất tự nhiên của con người. Bà thấu hiểu điều đó và nâng lên thành triết lí sống. Thứ triết lí này không xa lạ mà nó gần với triết lí trong dân gian - triết lí vì con người, chống lại những gì trái tự nhiên, làm tổn hại, què quặt con người (cả phần hồn và xác), để giành lấy khát vọng và tình yêu đầy đủ cho con người. Bà không biết đến thứ tình dục đã được cải trang, tô son điểm phấn, hoặc thứ tình dục đã được nâng đên mức độ tinh khiết một cách gượng ép của văn chương giáo điều, giả dối. Yếu tố tục luôn lấp ló trong thơ bà. Tục nhưng không gợi dục, không khiêu dâm, vì yếu tố ấy gắn với cuộc sống, thói quen, hành vi của người bình dân (mà trong thế giới quan của người bình dân những chuyện đó là lành mạnh, là thứ sản phẩm giúp họ giảm đi những nỗi vất vả trong lao động, thể hiện một tinh thần lạc quan). Chuyện ái ân trong cuộc sống là tự nhiên, không chỉ là nhu cầu mà còn là quyền lợi của con người do đấng tạo hóa ban tặng. Văn chương nghệ thuật đích thực luôn lấy con người làm trung tâm thể hiện. Những khát khao, những nỗi niềm của con người bao giờ cũng là đề tài chính cho đối tượng của văn học, cho người nghệ sĩ sáng tạo. Hồ Xuân Hương cũng không nằm ngoài quy luật sáng tạo nghệ thuật ấy. Thơ Xuân Hương là tiếng lòng của một người đàn bà khao khát được yêu, được sống và yêu sống một cách trọn vẹn. Khát vọng ấy làm cho tiếng nói của Xuân Hương độc đáo, khác lạ hơn những người cùng thời với bà. Có thể nói, viết những tác phẩm mang màu sắc văn hóa cũng chính là đề cập đến những cái gì thuộc về con người, cuộc đời Xuân Hương. 3. Nghệ thuật thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hóa Một điều độc đáo khi tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương, chúng tôi nhận thấy vấn đề văn hóa còn được thể hiện trong các thủ pháp nghệ thuật. Các thủ pháp nghệ thuật luôn là một phần tạo nên sức hấp dẫn trong các tác phẩm văn chương. Vì vậy các nhà văn, nhà thơ rất quan tâm khi sử dụng các thủ pháp nghệ thuật để biểu đạt các nội dung tư tưởng của mình. 3.1. Biểu tượng tạo nghĩa độc đáo Văn học nghệ thuật phản ánh cuộc sống bằng biểu tượng, biểu tượng càng gần gũi bao nhiêu với hiện thực càng có sức sống bấy nhiêu với cuộc đời. Các tác phẩm nghệ thuật của ta và KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 9 S Ố 0 4 N Ă M 2 0 19thế giới chẳng đã có biết bao tác phẩm nghệ thuật đã từng vượt qua thời gian, sống mãi với thời gian vì nó không xa lạ với cuộc đời, vì nó gắn bó máu thịt với cuộc đời, với triết lí muôn đời mà tinh thần nhân văn luôn tỏa sáng. Biểu tượng là một điểm độc đáo tạo nên những cách thức thể hiện lạ lùng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Bước vào thế giới thơ Hồ Xuân Hương như lạc vào rừng biểu tượng ngôn ngữ, thấp thoáng, gợi đầy những kích thích khám phá, đầy những tín hiệu về xúc cảm thẩm mĩ. Có thể nói, biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương rất đặc biệt - biểu tượng tạo nên ý nghĩa thứ hai của tác phẩm, những biểu tượng này đa phần là biểu tượng về tính dục. Hệ thống ngôn ngữ lấp lánh hai mặt hiện lên qua biểu tượng và sự liên tưởng tinh tế của người đọc. Những biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương được xây dựng từ thế giới cảm giác đậm chất dân gian và cực kỳ phong phú: Quả mít, bánh trôi nước, con ốc nhồi, cái quạt, đánh đu, đèo Ba Dội, hang Cắc Cớ, Thiếu ngữ ngủ ngày, tranh tố nữ ... Đó là những biểu tượng văn hoá dân gian, văn hoá tôn giáo đã ăn sâu vào tâm khảm tiềm thức của dân tộc Việt Nam từ bao đời. Từ những biểu tượng ấy, qua tư duy thơ Hồ Xuân Hương được biến hoá thần kỳ lấp lánh nhiều tầng nghĩa, đem đến nhiều cánh lý giải khác nhau. Thế giới thơ Hồ Xuân Hương là một thế giới đầy biểu tượng tồn tại dưới nhiều dạng thức khác nhau với những sắc màu khác nhau muôn hình vạn trạng. Vì vậy ta không phải ngạc nhiên thơ Hồ Xuân Hương đầy những ám ảnh về biểu tượng hang động: Động Hương Tích, Hang Cắc Cớ, Đào Ba Dội, Hang Thanh Hoá, Kẽm Trống, Cửa Dó, Đá ông Chồng bà Chồng... Cụ thể trong các thi phẩm: Đánh đu, Dệt cửi, Trống thủng, Tát nước, Mắng học trò dốt -1, Mắng học trò dốt -2, Đèo Ba Dội, Tự tình -1, Xướng họa với Chiêu Hổ -1, Xướng họa với Chiêu Hổ -2. Đánh đu là một trò chơi không thể thiếu được trong những ngày Tết hoặc lễ hội cổ truyền ở nước ta. Xuân Hương miêu tả: Bốn cột khen ai khéo khéo trồng, Người thì lên đánh kẻ ngồi trông. Trai đu gối hạc khom khom cật, Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng. Bốn mảnh hồng quần bay phấp phới, Hai hàng chân ngọc duỗi song song. Bài thơ Đánh đu đầy những chuyển động của con người cùng với việc sử dụng từ ngữ như từ “trồng”, theo cách phát âm của người Bắc bộ, “trồng” được đọc như “chồng”, có nghĩa là xếp lên nhau, chồng lên nhau; rồi “uốn lưng”, “ngửa lòng”, “chân duỗi song song”... Bài thơ làm dậy lên một nghĩa khác, hướng đến nghĩa về hành động tính giao của con người. Thế giới nghệ thuật trong thơ bà là một thế giới đầy biểu tượng tồn tại dưới nhiều dạng thức khác nhau muôn màu muôn vẻ. Những biểu tượng phồn thực đã trở thành ý đồ nghệ thuật, trở thành phương tiện chuyển tải ý đồ nghệ thuật của nhà thơ. Tóm lại đến với thơ Hồ Xuân Hương là đến với một “rừng” biểu tượng. Những biểu tượng có ý nghĩa xã hội sâu sắc và những biểu tượng phồn thực văn hoá tôn giáo. Nhưng biểu tượng ấy đều có hai mặt lấp lửng thanh và tục, nghĩa ngầm và nghĩa phô, nghĩa đen và nghĩa bóng. Hai mặt này kết nối với nhau, chuyển hoá cho nhau như âm với dương trong một trạng thái cực độ. Bởi vậy, nếu tách chúng ra là phá vỡ cấu trúc của biểu tượng, dễ đi đến cái nhìn phiến diện định kiến. Với những cách thể hiện biểu tượng trong thơ như thế, hình tượng nghệ thuật trong thơ Nôm của bà không chỉ đơn thuần là tả cảnh, ca ngợi vẻ đẹp của tự nhiên mà qua đó ta còn cảm nhận được những tâm tình, những nỗi niềm của con người. 3.2. Ngôn ngữ giàu bản sắc văn hóa Khảo sát phần thơ Nôm Hồ Xuân Hương, ta thấy bà dùng nhiều thủ thuật chơi chữ, nói lái, pha trộn nhiều phong cách, vận dụng cả điển cố, điển tích: Bồng Đảo, Đào Nguyên, thỏ ngọc, Hằng Nga... để ẩn dụ cho vấn đề giới tính; từ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN10 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G những lời nhẹ nhàng hoặc táo tợn mang khẩu khí bình dân: mặc mẹ, thây cha, trái gió ... nhưng tất cả đều được thể hiện với sắc thái tinh tế. Ngoài ra Xuân Hương còn đặc biệt chú ý đến nghệ thuật chơi chữ. Chơi chữ để hướng đến những gì thuộc về trần thế của con người cũng là một thủ pháp nghệ thuật Xuân Hương sử dụng rất khéo léo. Bài Bỡn bà lang khóc chồng có nhiều từ chỉ các vị thuốc: cam thảo, quế chi, trần bì, thạch nhũ, quy thân, liên nhục, cả những dụng cụ bào chế thuốc: dao cầu, từ chỉ hành động bào chế thuốc: sao, tẩm. Thủ pháp nghệ thuật này dựa trên sự đa nghĩa của từ. Ngoài giá trị là tên của các vị thuốc, theo nghĩa Hán Việt, trần bì còn hiểu là da thịt, thạch nhũ: vú đá, quy thân: phần củ của đương quy, liên nhục: thịt của hạt sen. Những từ ngữ luôn lấp lửng chỉ những thứ quen thuộc, những thứ thuộc về đời sống vợ chồng khiến cho bà Lang phải buồn bã, tiếc nuối mới cất tiếng khóc tỉ ti mà không khóc thảm thiết, khóc cho những thứ đáng để cho bà ôm ấp thì nay phải tẩm mang đi, những thứ để lại hoá ra vô nghĩa cho một người đàn bà goá bụa. Nghệ thuật lái trong mảng thơ Nôm của bà, chắc cũng là hiện tượng vô cùng đặc sắc: suông không đấm, đếm lại đeo, đáo nơi neo, lộn lèo, lo cũ, đá đeo, nắng cực, trái gió, đứng tréo, đẽo đá... Nói lái thường thấy trong văn học dân gian, văn học viết có nhưng không nhiều. Ở đây, Xuân Hương đã khai thác vốn ngôn ngữ nôm na bình dân để chơi chữ, nói lái. Có lẽ Xuân Hương là một trong số rất ít những nữ sĩ của văn học trung đại Việt Nam sử dụng thủ pháp nghệ thuật này, hơn thế bà dùng khá mạnh tay. Bà tạo ra những câu từ mà độc giả nào vô tình sẽ bị “sập bẫy” bà “gài” ngay. “Chùa Quán Sứ” được Xuân Hương tái hiện với lời hỏi thăm ông sư trụ trì “đáo nơi neo”, để chú tiểu quên cả gõ chày Kình, bà vãi thì ngồi lần tràng hạt hết “đếm lại đeo”. Cụm từ “đáo nơi neo”, “suông không đấm”, cũng như “đếm lại đeo”... hiểu theo nghĩa thứ hai của nó thì đây cũng chính là chuyện của ông sư, bà vãi, chú tiểu với nhau như người bình dân vẫn nói nôm na “ông sư bà vãi cuộn tròn lấy nhau”. Tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng là con đẻ của người nghệ sĩ. Là sản phẩm của một thời đại. Nhận thức phản ánh là quy luật văn chương. Vì thế thơ Hồ Xuân Hương là một sản phẩm của thời đại. Một thời đại đang trên đường băng hoại về đạo đức, suy vi về chính trị, cùng kiệt về kinh tế... Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói hết sức hồn nhiên tự nhiên mang đậm bản sắc văn hoá dân gian. Nhưng cũng là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ đối với chế độ phong kiến đầy rẫy những bất công ngang trái lên tiếng bênh vực quyền sống con người đặc biệt là người phụ nữ. Với một sức sáng tạo tuyệt vời. Một nghệ thuật độc đáo có một không hai. Thơ Hồ Xuân Hương là hiện tượng giao thoa, là cái gạch nối giữa văn chương bác học và văn chương bình dân: vừa nôm na dung dị, vừa quý phái cao sang. Những trước tác nghệ thuật của nữ sĩ có sức lay động, sức ám ảnh sâu xa trong tâm hồn người đọc. Nhìn nhận và đánh giá thơ Hồ Xuân Hương nói chung, từ góc nhìn văn hoá nói riêng, đem đến cho chúng ta một cái nhìn phóng khoáng mới mẻ tìm ra cái bản chất, cái mấu chốt trên con đường tìm đến chân lý nghệ thuật. Tiếp cận văn hoá học sẽ mở ra nhiều hứa hẹn mới không chỉ nghiên cứu phân tích thơ Hồ Xuân Hương và thơ trung đại nói riêng mà sẽ là phương pháp hữu hiệu áp dụng nghiên cứu các giá trị văn học nói chung./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Nho Thìn - Truyện Kiều dưới góc nhìn văn hoá - NXB Giáo dục, Hà Nội 2003. 2. Nguyễn Bá Thành - Bản sắc văn hoá Việt Nam qua giao lưu văn hoá - NXB ĐHQG Hà Nội, 3. Đỗ Lai Thuý - Thơ Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực. NXB Văn hoá Thông tin. 4. Lý luận văn học - NXB Giáo dục - ĐHQG Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf14_9677_2207520.pdf
Tài liệu liên quan