TCNCYH 96 (4) - 2015 107 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2015 
ðịa chỉ liên hệ: Nguyễn Quang Dũng - Viện Dinh dưỡng 
Quốc gia 
Email: 
[email protected] 
Ngày nhận: 30/7/2015 
Ngày được chấp thuận: 9/9/2015 
THIẾU MÁU THIẾU SẮT Ở PHỤ NỮ TUỔI SINH ðẺ 
NGƯỜI H’MƠNG TẠI MỘT SỐ XÃ THUỘC HUYỆN BẢO LẠC, 
TỈNH CAO BẰNG 
Nguyễn Quang Dũng, Trần Thúy Nga 
Viện Dinh dưỡng Quốc gia 
Thiếu máu thiếu sắt là vấn đề cĩ ý nghĩa sức khỏe cộng đồng, đặc biệt trên phụ nữ tuổi sinh đẻ tại khu 
vực miền núi phía Bắc. Nghiên cứu này nhằm mơ tả đặc điểm thiếu máu thiếu sắt trên phụ nữ tuổi sinh đẻ 
người H’Mơng. 144 phụ nữ, 15 - 49 tuổi tại 4 xã thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng được lấy máu tĩnh 
mạch để đo nồng độ hemoglobin (phương pháp Cyanmethemoglobin trên máy quang kế) và ferritin huyết 
thanh (phương pháp ELISA). Tiêu chuẩn đánh giá thiếu máu, thiếu sắt dựa theo phân loại của Tổ chức Y tế 
Thế giới. Tỷ lệ thiếu máu là 31,9% và cĩ xu hướng giảm dần theo nhĩm tuổi. Tỷ lệ thiếu sắt ở nhĩm 15 - 
24,99 tuổi là 21,2%, nhĩm 25 - 34,99 tuổi là 14,8% và nhĩm 35 - 49,99 tuổi là 4,3%. Tỷ lệ thiếu máu thiếu 
sắt chung là 13,9%, trong đĩ cao nhất ở nhĩm 15 - 24,99 tuổi: 17,9%. Tỷ lệ thiếu máu nhưng khơng thiếu sắt 
là 18,8%. Trên phụ nữ tuổi sinh đẻ người H’Mơng, thiếu máu chiếm tỷ lệ cao, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở 
nhĩm trẻ tuổi cĩ xu hướng cao hơn so với nhĩm tuổi lớn hơn. 
Từ khĩa: Thiếu máu, thiếu sắt, phụ nữ tuổi s inh đẻ, Hemoglobin, Ferritin, H’Mơng 
I. ðẶT VẤN ðỀ 
Thiếu máu là một vấn đề sức khỏe cộng 
đồng, ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân, 
sự phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia 
phát triển và đang phát triển. Thiếu máu xảy 
ra ở mọi giai đoạn trong chu kỳ vịng đời, 
nhưng phụ nữ tuổi sinh đẻ, phụ nữ mang thai 
và trẻ nhỏ là đối tượng cĩ nguy cơ cao bị 
thiếu máu. Trên phạm vi tồn cầu, cĩ khoảng 
2 tỷ người bị thiếu sắt, một nửa số này cĩ biểu 
hiện lâm sàng thiếu máu [1]. Năm 2002, báo 
cáo của Tổ chức Y tế thế giới cho thấy, thiếu 
máu thiếu sắt là một yếu tố quan trọng nhất 
đối với gánh nặng bệnh tật tồn cầu [2]. 
Tại Việt Nam, kết quả tổng điều tra dinh 
dưỡng năm 2009 cũng như các điều tra, 
nghiên cứu riêng lẻ khác trong khoảng 5 - 6 
năm qua cho thấy, thiếu máu trên phụ nữ tuổi 
sinh đẻ tiếp tục là vấn đề cĩ ý nghĩa sức khỏe 
cộng đồng [3; 4; 5; 6]. Thiếu máu gây ra nhiều 
tác hại. Ở trẻ em, thiếu máu ảnh hưởng tới sự 
phát triển trí tuệ, làm giảm khả năng học tập. 
Ở người trưởng thành, thiếu máu làm giảm 
khả năng lao động. Ở phụ nữ tuổi sinh đẻ, 
thiếu máu làm tăng nguy cơ đẻ non, tăng tỷ lệ 
mắc bệnh và tử vong của mẹ và con [7]. 
Cĩ nhiều nguyên nhân khác nhau gây 
thiếu máu, do nhiễm ký sinh trùng sốt rét, do 
mất máu, do bệnh lý về huyết sắc tố, do thiếu 
các chất dinh dưỡng. Về ý nghĩa sức khỏe 
cộng đồng, thiếu máu do thiếu dinh dưỡng, 
đặc biệt là thiếu sắt là phổ biến hơn cả. Ngồi 
ra, cịn do thiếu axit folic, thiếu vitamin B12 [8]. 
Thiếu sắt chủ yếu là do lượng sắt từ thức ăn 
đồ uống khơng đủ nhu cầu hàng ngày. Phụ nữ 
tuổi sinh đẻ cĩ nhu cầu rất lớn về chất sắt. Ở 
nhiều vùng nơng thơn, bữa ăn cịn nghèo nàn, 
 108 TCNCYH 96 (4) - 2015 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
lượng thức ăn động vật cịn ít, do đĩ phụ nữ 
tuổi sinh đẻ rất cĩ nguy cơ bị thiếu máu thiếu 
sắt. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm mơ 
tả tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt của phụ nữ tuổi 
sinh đẻ người dân tộc H’Mơng tại một số xã 
thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. 
II. ðỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. ðối tượng, địa điểm, thời gian thu 
thập số liệu 
Phụ nữ tuổi sinh đẻ người H’Mơng, tuổi từ 
15 - 49 tuổi, cĩ con từ 1 - 5 tuổi, khơng mang 
thai, khơng bị sốt, khơng cảm cúm, khơng mắc 
bệnh cấp tính được lựa chọn tham gia nghiên 
cứu. ðịa điểm triển khai tại 4 xã Bảo Tồn, 
Khánh Xuân, Xuân Trường, Phan Thanh, 
thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. Thời 
điểm thu thập số liệu: tháng 10 năm 2014. 
2. Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mơ tả. 
3. Cỡ mẫu và chọn mẫu: Sử dụng cơng 
thức tính cỡ mẫu sau: 
Ước tính tỷ lệ thiếu máu P = 28,8% [13], ở 
độ tin cậy 95% thì Z1-α/2 = 1,96, với mong 
muốn ước tính tỷ lệ thiếu máu tại địa bàn 
nghiên cứu khác biệt 7,4% (d) so với tỷ lệ 
thực thì cỡ mẫu tối thiểu là 144 người. Tiến 
hành lập danh sách phụ nữ tuổi sinh đẻ tại 4 
xã, chọn mẫu bằng phương pháp ngẫu nhiên 
hệ thống. 
4. Thu thập số liệu và phương pháp đo 
Kỹ thuật viên cĩ tay nghề tiến hành lấy 3 
ml máu tĩnh mạch vào buổi sáng từ 7:00 - 
9:00. ðối tượng được yêu cầu khơng ăn bữa 
sáng trước khi lấy máu. Mẫu máu được bảo 
quản trong hộp xốp lạnh, ly tâm với tốc độ 3 
ngàn vịng/phút trong 10 phút ở nhiệt độ 
phịng. Sau đĩ, huyết thanh được tách ra và 
đưa vào ống eppendorf 200 µl cĩ ghi tên, mã 
số đối tượng và bảo quản ở nhiệt độ -20 độ C 
ở Trung tâm Y tế dự phịng tỉnh, sau đĩ 
chuyển về Viện Dinh dưỡng để xét nghiệm. 
Nồng độ Hemoglobin được xác định bằng 
phương pháp cyanmethemoglobin trên máy 
quang kế. Nồng độ ferritin huyết thanh được 
đo bằng phương pháp ELISA (Enzyme-
Labeled Immunosorbent Assay). 
5. ðánh giá tình trạng thiếu máu thiếu sắt 
Do nồng độ Hb phụ thuộc vào độ cao nơi 
sinh sống so với mực nước biển, nên nồng độ 
Hb thực tế của đối tượng nghiên cứu sẽ được 
hiệu chỉnh theo độ cao. Tồn huyện Bảo Lạc 
cĩ độ cao trung bình so với mặt nước biển là 
1000 m, do đĩ nồng độ Hb của đối tượng sẽ 
được trừ đi 2 g/L [9]. 
Tình trạng thiếu máu thiếu sắt được đánh 
giá dựa vào nồng độ Hb, ferritin huyết thanh. 
Nồng độ Hb < 120 g/L được coi là thiếu máu. 
Thiếu máu nhẹ khi nồng độ Hb từ 100 - 120 g/
L, thiếu máu vừa khi nồng độ Hb từ 70 - 100 
g/L, thiếu máu nặng khi nồng độ Hb < 70 g/L. 
Nồng độ ferritin huyết thanh < 15 µg/L được 
coi là thiếu sắt [7]. Thiếu máu thiếu sắt khi 
nồng độ Hb < 120 g/L kết hợp với nồng độ 
ferritin huyết thanh < 15 µg/L. 
6. Xử lý số liệu 
Số liệu được nhập bằng phần mềm 
Epidata 3.1, sau đĩ chuyển sang phân tích 
thống kê bằng phần mềm SPSS for Windows 
22.0. Biến định lượng được kiểm tra tính phân 
bố chuẩn. So sánh các số trung bình của 3 
nhĩm nghiên cứu được thực hiện bằng kiểm 
định ANOVA và Kruskal Wallis Test. Khác biệt 
cĩ ý nghĩa thống kê, p < 0,05. 
Z1-α/2 
d 
2 
n = x P (1 - P) 
 TCNCYH 96 (4) - 2015 109 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2015 
7. ðạo đức nghiên cứu 
 ðề tài nghiên cứu đã được Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học của Viện Dinh 
dưỡng phê duyệt, quyết định số 864/Qð-VDD ngày 28/7/2014. 
III. KẾT QUẢ 
Bảng 1. ðặc điểm nhân trắc, thiếu máu theo nhĩm tuổi 
 Nhĩm tuổi (năm) 
15 - 24,99 
(n1 = 67) 
25 - 34,99 
(n2 = 54) 
35 - 49,99 
(n3 = 23) 
Chung 
(n = 144) 
Tuổi (năm) 21,3 ± 1,7 28,6 ± 2,9 41,0 ± 4,4 27,2 ± 7,4 
Cân nặng (kg) 47,6 ± 4,6 48,4 ± 6,2 48,6 ± 4,3 48,1 ± 5,2 
Chiều cao (cm) 148,5 ± 3,6 148,2 ± 4,4 149,5 ± 5,2 148,5 ± 4,2 
Hemoglobin (g/L) 121,1 ± 15,9 122,9 ± 15,5 123,1 ± 13,0 122,1 ± 15,3 
Tỷ lệ thiếu máu (%) 35,8 31,5 21,7 31,9 
Mức nhẹ (%) 10,4 9,3 4,3 9,0 
Mức vừa (%) 25,4 22,2 17,4 22,9 
Tuổi trung bình là 27,2 ± 7,4 năm tuổi. Nồng độ hemoglobin trung bình tính chung cho 3 nhĩm 
tuổi là 122,1 ± 15,3 g/L. Nồng độ hemoglobin cĩ xu hướng tăng lên theo nhĩm tuổi, nhưng khơng 
cĩ sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa 3 nhĩm tuổi (p > 0,05). Tỷ lệ thiếu máu chung là 31,9%, 
cao nhất ở nhĩm 15 - 24,99 tuổi: 35,8% và thấp nhất ở nhĩm 35 - 49,99 tuổi: 21,7%. Khơng cĩ 
trường hợp nào bị thiếu máu nặng. 
Bảng 2. Dự trữ sắt và tỷ lệ thiếu sắt theo nhĩm tuổi 
 Nhĩm tuổi (năm) 
15 - 24,99 
(n1 = 67) 
25 - 34,99 
(n2 = 54) 
35 - 49,99 
(n3 = 23) 
Chung 
(n = 144) 
Ferritin huyết thanh 
Trung bình (µg/L) 52,3 ± 38,6 85,3 ± 64,7 110,8 ± 78,6 74,0 ± 60,7 
Trung vị (µg/L) 45,0 77,2 96,9 63,9 
Cực tiểu - cực đại (µg/L) 1,1 - 177,9 0,5 - 275,5 8,2 - 265,3 0,5 - 275,5 
Thiếu sắt (%) 21,2 14,8 4,3 16,1 
Nồng độ ferritin huyết thanh cũng cĩ xu hướng tăng dần theo nhĩm tuổi (p = 0,001). Giá trị 
 110 TCNCYH 96 (4) - 2015 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
trung vị Ferritin huyết thanh thấp nhất ở nhĩm 15 - 24,99 tuổi: 45 µg/L và cao nhất ở nhĩm 35 -
49,99 tuổi: 96,9 µg/L. Tỷ lệ thiếu sắt ở nhĩm 15 - 24,99 tuổi là 21,2%, ở nhĩm 35 - 49,99 tuổi là 
4,3%. 
Bảng 3. ðặc điểm thiếu máu thiếu sắt theo nhĩm tuổi 
 Nhĩm tuổi (năm) 
15 - 24,99 
(n1 = 67) 
25 - 34,99 
(n2 = 54) 
35 - 49,99 
(n3 = 23) 
Chung 
(n = 144) 
Thiếu máu, thiếu sắt (%) 17,9 13,0 4,3 13,9 
Thiếu máu, khơng thiếu sắt (%) 19,4 18,5 17,4 18,8 
Khơng thiếu máu, thiếu sắt (%) 3,0 1,9 0 2,1 
Khơng thiếu máu, khơng thiếu sắt (%) 59,7 66,7 78,3 65,3 
Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt tính chung cho 3 nhĩm tuổi là 13,9%, trong đĩ cao nhất ở nhĩm 15 -
24,99 tuổi: 17,9% và thấp nhất ở nhĩm 35 - 49,99 tuổi: 4,3%. Thiếu máu nhưng khơng thiếu sắt 
chiếm tỷ lệ 18,8%. Trường hợp khơng thiếu máu mà cĩ thiếu sắt chiếm tỷ lệ 2,1%. 
IV. BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ thiếu máu cĩ 
xu hướng giảm dần theo tuổi, chủ yếu gặp 
thiếu máu mức độ vừa. Nồng độ ferritin huyết 
thanh cĩ xu hướng tăng theo tuổi và tỷ lệ thiếu 
sắt giảm dần theo tuổi. 
Tỷ lệ thiếu máu của phụ nữ tuổi sinh đẻ 
người người H’Mơng là 31,9%, thấp hơn so 
với tỷ lệ thiếu máu của phụ nữ tuổi sinh đẻ 
(37,5%) tại khu vực trung du và miền núi phía 
Bắc năm 2009 [3]. Nghiên cứu trên phụ nữ 
tuổi sinh đẻ người Cơ Tu tại Huế cho thấy tỷ 
lệ thiếu máu là 35% [10]. Nghiên cứu trên 
phụ nữ tuổi sinh đẻ khơng mang thai tại 
huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang cho thấy tỷ 
lệ thiếu máu là 16,2% [5]. Một nghiên cứu 
gần đây tại Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ thiếu 
máu của phụ nữ tuổi sinh đẻ là 19,7% [8]. 
ðiểm giống nhau giữa nghiên cứu của chúng 
tơi và các nghiên cứu trước đây là chỉ gặp 
mức độ thiếu nhẹ và vừa. 
Nghiên cứu của chúng tơi cho thấy, tỷ lệ 
thiếu máu của phụ nữ tuổi sinh đẻ cĩ xu 
hướng giảm dần theo tuổi. Nghiên cứu của 
ðặng Oanh và cộng sự cho thấy, phụ nữ 
mang thai dưới 18 tuổi cĩ tỷ lệ thiếu máu cao 
nhất: 72%, tiếp đến là nhĩm trên 35 tuổi: 
54,5% [4]. Trong khi đĩ, trên phụ nữ tuổi sinh 
đẻ khơng mang thai, ðinh Thị Phương Hoa 
và cộng sự lại phát hiện thấy tỷ lệ thiếu máu 
ở nhĩm 20 - 24 tuổi là 11,2%, thấp hơn so 
với nhĩm 30 - 35 tuổi: 19% [5]. Cần tiến hành 
thêm các nghiên cứu để xác định rõ xu 
hướng thay đổi nồng độ Hb theo tuổi trên 
phụ nữ tuổi sinh đẻ. 
Tỷ lệ thiếu sắt của phụ nữ tuổi sinh đẻ 
trong nghiên cứu này là 16,1%, cao hơn so 
với tỷ lệ thiếu sắt 13,7% (nơng thơn: 15,6%, 
thành thị: 11,8%) của phụ nữ tuổi sinh đẻ trên 
phạm vi 19 tỉnh thành tồn quốc năm 2010 [6]. 
Kết quả nghiên cứu tại Thái Nguyên cho thấy 
tỷ lệ phụ nữ tuổi sinh đẻ cĩ ferritin huyết thanh 
 TCNCYH 96 (4) - 2015 111 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2015 
< 12 µg/L là 3,5%, < 30 µg/L là 14,4% và tỷ lệ 
thiếu máu thiếu sắt là 1,9% [8]. 
Về nguyên nhân thiếu máu, một câu hỏi 
đặt ra là liệu thiếu sắt cĩ luơn dẫn đến thiếu 
máu khơng. Thực tế cho thấy cĩ người thiếu 
sắt nhưng khơng thiếu máu. Trên 121 người 
trưởng thành, Sinclair và Hintol cho thấy chỉ 
cĩ 8 người (7%) bị thiếu sắt kèm thiếu máu, 
29% nữ và 4% nam bị thiếu sắt mà khơng 
thiếu máu. Nghiên cứu trên phụ nữ tuổi sinh 
đẻ khơng cĩ thai tại Nunavik năm 2004 cho 
thấy 17,5% bị thiếu sắt kèm thiếu máu, 16,8% 
thiếu sắt nhưng khơng bị thiếu máu, 20% 
người khơng thiếu sắt nhưng bị thiếu máu 
[10]. Bảng 3 trong nghiên cứu của chúng tơi 
cho thấy, cĩ 18,8% phụ nữ tuổi sinh đẻ bị 
thiếu máu nhưng khơng thiếu sắt. ðiều này 
khẳng định thiếu máu khơng chỉ do thiếu sắt. 
Thiếu máu thiếu sắt là một vấn đề sức 
khỏe cộng đồng trên phạm vi tồn cầu, ngay 
cả nước phát triển như Hoa Kỳ, nhiều phụ nữ 
tuổi sinh đẻ các chủng tộc khác nhau cũng bị 
thiếu máu. Phụ nữ tuổi sinh đẻ người gốc 
Mexico cĩ tỷ lệ “thiếu sắt”, “thiếu máu”, “thiếu 
máu thiếu sắt” cao hơn người gốc Tây Ban 
Nha, tương ứng là: 16,6% so với 6,1% (thiếu 
sắt), 10,1% so với 6,6% (thiếu máu), và 6,2% 
so với 2,3% (thiếu máu thiếu sắt) [13]. Nguyên 
nhân về sự khác biệt tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt 
nĩi trên vẫn chưa rõ ràng và người ta cho 
rằng yếu tố thu nhập hộ gia đình cĩ thể liên 
quan tới sự khác biệt này. Một nghiên cứu tại 
Nepal cho thấy tỷ lệ thiếu máu của phụ nữ tuổi 
sinh đẻ là 12%, thiếu sắt là 20%, thiếu máu 
thiếu sắt là 6% [14]. 
Thiếu máu cịn do thiếu một số chất dinh 
dưỡng, do mắc các bệnh cấp tính, mạn tính. 
Nguyên nhân thiếu máu do thiếu các chất dinh 
dưỡng cĩ thể là thiếu vitamin A, vitamin B12, 
folate, riboflavin, đồng. Nguyên nhân thiếu 
máu do mắc các bệnh cấp và mạn tính cĩ thể 
là nhiễm giun sán, sốt rét, ung thư, lao, HIV 
Theo WHO, mặc dù cĩ nhiều nguyên nhân 
gây thiếu máu, nhưng thiếu sắt vẫn là nguyên 
nhân chủ yếu dẫn tới thiếu máu, khoảng một 
nửa trường hợp thiếu máu cĩ nguyên nhân do 
thiếu sắt [7]. Với đặc điểm thiếu máu thiếu sắt 
trong các nghiên cứu gần đây tại Việt Nam và 
trên thế giới, cần tiếp tục theo dõi tình trạng 
thiếu sắt và tìm hiểu căn nguyên thiếu máu từ 
nhiều yếu tố khác chứ khơng đơn thuần chỉ do 
thiếu sắt. 
V. KẾT LUẬN 
Thiếu máu là vấn đề cĩ ý nghĩa sức khỏe 
cộng đồng trên phụ nữ tuổi sinh đẻ người 
H’Mơng tại một số xã huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao 
Bằng với tỷ lệ 31,9%. Nhĩm trẻ tuổi nhất là 
nhĩm cĩ tỷ lệ thiếu máu cao nhất. Tỷ lệ thiếu 
máu thiếu sắt chung là 13,9%. Tỷ lệ phụ nữ 
tuổi sinh đẻ thiếu máu nhưng khơng bị thiếu 
sắt là 18,8%. Nồng độ ferritin huyết thanh tăng 
dần theo nhĩm tuổi và tỷ lệ thiếu sắt giảm dần 
theo nhĩm tuổi, 21,2% ở nhĩm 15 -24,99 tuổi 
và 4,3% ở nhĩm 35 - 49,99 tuổi. Cần tiếp tục 
theo dõi tình trạng thiếu máu thiếu sắt trên 
phụ nữ tuổi sinh đẻ người dân tộc thiểu số, 
đặc biệt xác định các nguyên nhân khác liên 
quan tới dinh dưỡng dẫn tới thiếu máu mà 
khơng do thiếu sắt. 
Lời cảm ơn 
Tác giả bài báo chân thành cảm ơn các 
cán bộ Trung tâm Y tế dự phịng tỉnh Cao 
Bằng, Trung tâm Y tế dự phịng huyện Bảo 
Lạc, trạm y tế các xã Bảo Tồn, Khánh Xuân, 
Xuân Trường, Phan Thanh, các phụ nữ tuổi 
sinh đẻ tại 4 xã đã tham gia nghiên cứu này. 
Xin gửi lời cảm ơn tới Dự án cải thiện tình 
trạng dinh dưỡng trẻ em - Viện Dinh dưỡng đã 
tài trợ thực hiện nghiên cứu và cam kết khơng 
cĩ xung đột lợi ích từ kết quả nghiên cứu. 
 112 TCNCYH 96 (4) - 2015 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Allen LH (2000). Anemia and iron 
deficiency: effects on pregnancy outcome. Am 
J Clin Nutr, 71(5), 1280S - 1284S. 
2. World Health Organization (2002). The 
World Health Report 2002: Reducing risks, 
promoting healthy life. Geneva: World Health 
Organization. 
3. Bộ Y tế - Viện Dinh dưỡng, Unicef 
(2010). Tổng điều tra dinh dưỡng 2009 - 2010. 
Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 
4. ðặng Oanh, ðặng Tuấn ðạt, Hồng 
Xuân Hạnh et al (2009). Tình trạng thiếu máu 
dinh dưỡng của phụ nữ cĩ thai người dân tộc 
thiểu số tại tỉnh ðắc Lắk năm 2008. Tạp chí 
Dinh dưỡng & Thực phẩm, 5(2), 24 - 32. 
5. ðinh Thị Phương Hoa, Lê Thị Hợp, 
Phạm Thị Thúy Hồ (2012). Thực trạng thiếu 
máu, tình trạng dinh dưỡng và nhiễm giun ở 
phụ nữ 20 - 35 tuổi tại 6 xã thuộc huyện Lục 
Nam, Bắc Giang. Tạp chí Dinh dưỡng & Thực 
phẩm, 8(1), 39 - 46. 
6. Phạm Vân Thuý, Trần Thúy Nga, Lê 
Thị Hợp (2012). Tình trạng vi chất của phụ nữ 
và trẻ em Việt Nam. Tạp chí Nhi khoa, 5(2), 
6 - 14. 
7. World Health Organization (2001). Iron 
deficiency anaemia: assessment, prevention, 
and control. A guide for programme 
managers. Geneva: World Health Organiza-
tion (WHO/NHD/01.3). 
8. Nguyen PH, Gonzalez-Casanova I, 
Nguyen H et al (2015). Multicausal etiology of 
anemia among women of reproductive age in 
Vietnam. Eur J Clin Nutr, 69(1), 107 - 13. 
9. World Hea lth Organiza tion (2015). 
Haemoglobin concentrations for the diagnosis 
of anaemia and assessment of severity. 
Vitamin and Mineral Nutrition Information 
System. Geneva, World Health Organization, 
2011 WHO/NMH/NHD/MNM/11.1) (http://
www.who.int/vmnis/indicators/haemoglobin. 
pdf, accessed [15 June 2015]. 
10. Hoa NV, Thang VV (2010). Anemia, 
meat consumption and hookworm infection in 
women of reproductive age in the Nam Dong 
mountainous district, Thua Thien Hue 
province. Jounal of Science, Hue university, 
61, 185 - 199. 
11. Plante C, Blanchet C, O’Brien HT 
(2004). Iron deficiency and animia among 
women in Nunavik. Institut national de santé 
publique du Québec, 1 - 20. 
12. Frith-Terhune AL, Cogswell ME, 
Khan LK, Will JC, Ramakrishnan U (2000). 
Iron deficiency anemia: higher prevalence in 
Mexican American than in non-Hispanic white 
females in the third National Health and 
Nutrition Examination Survey, 1988 - 1994. 
Am J Clin Nutr, 72(4), 963 - 8. 
13. Viện Dinh dưỡng - Bộ Y tế, Unicef 
(2012). Báo cáo tĩm tắt tổng điều tra dinh 
dưỡng 2009 - 2010, 1 - 13. 
14. Chandyo RK, Strand TA, Ulvik RJ et 
al (2007). Prevalence of iron deficiency and 
anemia among healthy women of reproductive 
age in Bhaktapur, Nepal. Eur J Clin Nutr, 61
(2), 262 - 269. 
15. Sinclair LM, Hinton PS (2005). 
Prevalence of iron deficiency with and without 
anemia in recreationally active men and 
women. J Am Diet Assoc, 105(6), 975 - 978. 
 TCNCYH 96 (4) - 2015 113 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2015 
 Summary 
IRON DEFICIENCY ANEMIA AMONG H’MONG WOMEN OF 
REPRODUCTIVE AGE IN SOME COMMUNES, BAO LAC DISTRICT, 
CAO BANG PROVINCE 
Iron deficiency anemia is a significant public health problem, particularly in women of 
reproductive age living in northern mountainous areas. This study aims to describe iron deficiency 
anemia in H’Mong women of reproductive age. Venous blood samples from 144 subjects, age 
ranging from 15 to 49 years old, from 4 communes of Bao Lac district, Cao Bang province were 
collected to measure hemoglobin concentration (cyanmethemoglobin method) and serum ferritin 
concentration (ELISA method). Classification of anemia, iron deficiency was based on the cutoffs 
from the World Health Organization data. Results showed that the prevalence of anemia was 
31.9%, and tended to decrease with advancing age. The prevalence of iron deficiency in the age 
group 15 - 24.99 years old was 21.2%, 25 - 34.99 years old was 14.8% and the 35 - 49.99 years 
old was 4.3%. The prevalence of iron deficiency was 13.9%, the highest was found in the age 
group 15 - 24.99 years old: 17.9%. The prevalence of anemia without iron deficiency was 18.8% 
among these subjects. In conclusion, the prevalence of anemia is high in H’Mong women of 
reproductive age with the younger age group tend to be higher than the older groups. 
Keywords: Anemia, iron deficiency, women of reproductive age, haemoglobin, ferritin, 
H’mong