Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
 45
TÁC DỤNG TĂNG LỰC CỦA VIÊN NANG MỀM SAPHRATON 
TRÊN CHUỘT NHẮT TRẮNG (MUS MUSCULUS VAR. ALBINO) 
Nguyễn Lĩnh Nhân*, Trịnh Minh Thiên*, Trần Mỹ Tiên*, Nguyễn Thị Ngọc Đan*, Dương Thị Mộng Ngọc*, 
Trương Thị Phương Lan** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tác động tăng lực của viên nang mềm Saphraton nhằm phát triển chế phẩm 
có tác dụng tăng lực – chống nhược sức. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phương pháp bơi kiệt sức của Brekhman có cải tiến trên chuột 
nhắt trắng được áp dụng để khảo sát tác dụng tăng lực của viên nang mềm Saphraton. Liều thử nghiệm dựa theo 
liều tính toán dự kiến sử dụng trên người 1 viên/ngày, quy đổi sang liều thử nghiệm trên chuột là 143 mg/kg thể 
trọng chuột. Thuốc đối chiếu được sử dụng là viên nang mềm Pharmaton liều 242 mg/kg và viên nang mềm 
Koligin- S liều 174 mg/kg. 
Kết quả: Ở thời điểm sau 60 phút dùng thuốc, viên nang mềm Saphraton liều 143 mg/kg thể hiện tác dụng 
phục hồi sức tức thời (T60/T0 = 115,44%), tuy nhiên tác dụng này yếu hơn cả hai loại thuốc đối chiếu. Ở thời điểm 
sau 7 ngày và 14 ngày cho uống, tỷ lệ thời gian bơi so với thời gian bơi lần đầu ở lô thử uống viên nang mềm 
Saphratonliều 143 mg/kg (lần lượt 690,69% và 613,33%) tương đương với thuốc đối chiếu Pharmaton liều 242 
mg/kg và tăng khác biệt đạt ý nghĩa thống kê so với lô đối chiếu Koligin - S liều 174 mg/kg. 
Kết luận: Viên nang mềm Saphraton liều 143 mg/kg thể hiện tác dụng phục hồi sức tức thời sau 60 phút 
cũng như tác dụng tăng lực sau 7 ngày và 14 ngày dùng thuốc. Bên cạnh đó, viên nang mềm Saphraton có tác 
dụng tăng lực tốt hơn Koligin- S và tương đương với Pharmaton ở thời điểm 7 ngày và 14 ngày thử nghiệm. 
Từ khóa: Viên nang mềm Saphraton, tác dụng tăng lực. 
ABSTRACT 
STUDY ON ANTI-FATIGUE EFFECT OF SAPHRATON CAPSULE ON MOUSE 
(MUS MUSCULUS VAR. ALBINO) 
Nguyen Linh Nhan, Trinh Minh Thien, Tran My Tien, Nguyen Thi Ngoc Đan, Duong Thi Mong Ngoc, 
Trương Thị Phương Lan * Ho Chi Minh City Journal Of Medicine * Vol. 22 - No 5- 2018: 45 – 50 
Objectives: This work studied on anti-fatigue effects in mice of Saphraton capsule for development of a 
product used in treatment of fatigue. 
Materials and Methods: The Brekhman’s mouse forced swimming test was used to study on anti-fatigue 
effect of Saphraton capsule. The test dose was based on human dose of 1 capsule/day corresponding to dose of 143 
mg/kg body weight in mice. The reference groups were Pharmaton and Koligin capsules at the doses of 242 mg/kg 
and 174 mg/kg, respectively. 
Results: After 60 minutes treatment, mice treated with Saphraton capsules at 143 mg/kg dose (T60/T0 = 
115.44%) showed an immediate ant-fatigue effect less than that of two positive controls. On the day 7 and 14, the 
mice treated with Saphraton capsules at 143 mg/kg had similar swimming time/first swimming time ratio 
(sequence 690.69% và 613.33%) to 242 mg/kg dose of Pharmaton group. This ratio was statistically significant 
higher than 174 mg/kg dose of Koligin group. 
* Trung tâm Sâm và Dược liệu TP. Hồ Chí Minh ** Công ty TNHH Sâm Sâm 
Tác giả liên lạc: DS. Trương Thị Phương Lan ĐT: 0913949239 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018
 46
Conclusions: The product did exhibite ant-fatigue effects at 143 mg/kg dose in mice after 60 minutes 
treatment as well as 7 days and 14 days treatment. In addition, the anti-fatigue effect of Saphraton capsules was 
better than Koligin-S and as well as Pharmaton after 7 days as well as 14 days treatment. 
Keywords: Saphraton capsules, anti-fatigue effect. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong thời đại công nghiệp hóa - hiện đại 
hóa ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát 
triển mạnh mẽ thì một trong số những vấn đề 
đáng báo động hiện nay là tình trạng suy nhược 
cả về thể chất lẫn tinh thần của con người do rất 
nhiều nguyên nhân như ô nhiễm môi trường, 
thói quen sinh hoạt không hợp lý, sức ép từ công 
việc. Vì thế, một trong những xu hướng chăm 
sóc sức khỏe cộng đồng ngày nay là hướng đến 
việc sử dụng các loại dược liệu hoặc chế phẩm 
nguồn gốc từ dược liệu có tác dụng bồi bổ cơ thể, 
chống nhược sức nhưng vẫn an toàn khi sử 
dụng lâu dài. Và sâm Việt Nam (sâm Ngọc Linh 
(Panax vietnamensis Ha et Grushv.) là một trong 
số những dược liệu đặc hữu của Việt Nam với 
những tác dụng dược lý đã và đang được quan 
tâm phát triển. Theo những nghiên cứu trên 
động vật, hoạt chất của Sâm Ngọc Linh có tác 
dụng tốt lên hệ thần kinh trung ương, chống 
stress tâm lý và vật lý, chống trầm cảm, tăng sinh 
lực, tăng khả năng thích ứng, kích thích khả 
năng miễn dịch, kháng u và chống oxy 
hóa(2,6,8). Bên cạnh đó, Đinh lăng lá nhỏ 
(Polyscias fruticosa (L.) Harms) cũng là một trong 
những dược liệu gần gũi với người dân Việt 
Nam thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae) với nhiều 
tác dụng dược lý như tăng lực - chống nhược 
sức, chống oxy hóa, bảo vệ tim mạch, chống 
trầm cảm, đã và đang rất được quan tâm 
nghiên cứu, phát triển và ứng dụng. 
Từ những cơ sở khoa học nêu trên, viên 
nang Saphraton đã được bào chế với từ các 
thành phần chiết xuất từ Sâm Ngọc Linh và 
Đinh lăng lá nhỏ nhằm hướng đến mục tiêu 
chăm sóc sức khỏe cộng đồng bằng nguồn 
dược thảo của quốc gia để cạnh tranh, thay thế 
các chế phẩm ngoại nhập với giá thành cao 
hiện nay trên thị trường. 
PHƯƠNG TIỆN-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Viên nang mềm Saphraton được sản xuất 
vào ngày 23 tháng 8 năm 2017 và đã được xây 
dựng tiêu chuẩn cơ sở cho viên nang mềm tại 
Công ty TNHH Sâm Sâm với thành phần chính 
trong công thức là cao chiết từ Sâm Ngọc Linh và 
Đinh lăng lá nhỏ. Liều thử nghiệm dựa trên liều 
dự kiến sử dụng cho người là 1 viên/ ngày, quy 
đổi sang liều trên chuột thử nghiệm là 143 mg/kg 
thể trọng chuột. 
Động vật nghiên cứu 
Các thử nghiệm được thực hiện trên chuột 
nhắt trắng đực chủng Swiss albino, trọng lượng 
trung bình 25 ± 2 g, được cung cấp bởi Viện Vắc 
xin và Sinh phẩm Y tế Nha Trang. Chuột được 
nuôi bằng thực phẩm viên được cung cấp bởi 
Viện Vắc xin và Sinh phẩm Y tế Nha Trang, với 
nước uống đầy đủ. Thể tích cho uống là 0,1 
ml/10 g thể trọng chuột. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế thực nghiệm, đo lường độc lập. 
Nghiệm pháp chuột bơi kiệt sức của 
Brekhman (Swimming test, cải tiến để áp 
dụng trên chuột nhắt trắng) được chọn để 
khảo sát tác dụng tăng lực của các chế phẩm 
từ dược liệu(1,5). Phương pháp chuột bơi thuận 
tiện, đơn giản giúp đánh giá tình trạng chống 
mệt mỏi, phục hồi sức lực của động vật thử 
nghiệm sau liều uống duy nhất của mẫu thử 
hay đánh giá tác dụng tăng lực sau 7 - 14 ngày 
uống liên tục mẫu thử. 
Chuột được mang vào đuôi gia trọng bằng 
5% thể trọng, cho chuột bơi trong thùng nước có 
dung tích 20 lít, đường kính 30 cm, chiều cao cột 
nước 25 cm, nhiệt độ 29  1oC. Chuột được cho 
bơi lần 1, thời gian bơi tính từ khi chuột được thả 
vào thùng nước, bơi đến khi chìm khỏi mặt nước 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
 47
20 giây và không trồi lên được nữa, lúc đó vớt 
chuột ra lau khô. Ghi nhận thời gian bơi lần 1 
(T0). Chọn những chuột có thời gian bơi 15 phút 
< x < 60 phút. Cho chuột nghỉ 5 phút, chia ngẫu 
nhiên các lô thí nghiệm như sau: 
Lô chứng: cho uống nước cất. 
Lô thử: cho uống Saphraton liều 143 mg/kg. 
Lô đối chiếu 1: cho uống Pharmaton liều 242 
mg/kg (chọn liều quy đổi dựa trên liều dùng cho 
người theo chỉ định của nhà sản xuất là Swiss 
Caps AG, Husenstrasse 35, Kirchberg CH-9533, 
Thụy Sĩ) 
Lô đối chiếu 2: cho uống Koligin liều 174 
mg/kg (chọn liều quy đổi dựa trên liều dùng cho 
người theo chỉ định của nhà sản xuất là Korea 
Ginseng Bio-Science Co., LTD.) 
Một giờ sau khi cho chuột uống mẫu thử 
nghiệm, ghi nhận thời gian bơi lần 2 (T60phút). 
Chuột được tiếp tục cho uống nước cất, các mẫu 
thử nghiệm liên tục (mỗi ngày một lần vào một 
giờ nhất định) đến ngày thứ 7 và 14 tiến hành 
cho chuột bơi lần 3 (T7 ngày) và lần 4 (T14 ngày). 
Đánh giá kết quả 
Đánh giá tác dụng tăng lực bằng so sánh 
thống kê giữa các lô thử và lô chứng các chỉ tiêu: 
Thời gian bơi (phút): Tỉ lệ phần trăm của 
thời gian bơi sau khi uống cao thử nghiệm 
(T60phút, T7 ngày, T14 ngày) so với thời gian bơi lần 1 
(T0), được tính theo công thức: 
X% = (Tt/T0) × 100 
Nếu T60 phút / T0 (%) của lô thử lớn hơn T60 phút / 
T0 (%) của lô chứng: mẫu thử nghiệm có tác dụng 
hồi phục sức. 
Nếu T7 ngày / T0 (%) của lô thử lớn hơn T7 ngày / 
T0 (%) của lô chứng: mẫu thử nghiệm có tác 
động tăng lực sau 7 ngày. 
Nếu T14 ngày / T0 (%) của lô thử lớn hơn T14 ngày / 
T0 (%) của lô chứng: mẫu thử nghiệm có tác 
động tăng lực sau 14 ngày. 
Các số liệu được biểu thị bằng trị số trung 
bình: M ± SEM (Standard Error of the Mean – sai 
số chuẩn của giá trị trung bình) và xử lý thống kê 
dựa vào phép kiểm One –Way ANOVA và hậu 
kiểm bằng Student-Newman-Keuls test (phần 
mềm SigmaStat-3.5). Kết quả thử nghiệm đạt ý 
nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% khi p < 0,05. 
KẾT QUẢ 
Thời gian bơi 
Ở thời điểm trước thử nghiệm, thời gian 
bơi T0 giữa các lô chứng, thử nghiệm và đối 
chiếu không có sự khác biệt đạt ý nghĩa thống 
kê (p < 0,05). 
Ở cả ba thời điểm thử nghiệm, lô đối chiếu 
cho uống Pharmaton liều 242 mg/kg và Koligin 
liều 174 mg/kg đều có thời gian bơi tăng đạt ý 
nghĩa thống kê so với lô chứng uống nước cất. 
Như vậy, Pharmaton và Koligin ở liều đã chọn 
đạt yêu cầu để sử dụng làm lô đối chiếu. 
Saphraton liều 143 mg/kg có thời gian bơi T60 
phút tăng khác biệt đạt ý nghĩa thống kê so với lô 
chứng. Lô cho uống Pharmaton liều 242 mg/kg 
và Koligin liều 174 mg/kg có thời gian bơi tăng 
đạt ý nghĩa thống kê so với lô chứng và thời 
điểm bơi lần 1 (T0). Chứng tỏ Saphraton có tác 
dụng phục hồi sức sau khi dùng 60 phút. 
Sau 7 ngày, Saphraton liều 143 mg/kg, 
Pharmaton liều 242 mg/kg và Koligin liều 174 
mg/kg có thời gian bơi tăng đạt ý nghĩa thống kê 
so với lô chứng và so với thời điểm bơi lần 1 (T0). 
Về thời gian bơi, lô Saphraton không khác biệt so 
với lô Pharmaton (p < 0,05) nhưng cao hơn có ý 
nghĩa thống kê so với lô Koligin (p < 0,05). Như 
vậy, Saphraton liều 143 mg/kg có tác dụng tăng 
lực tương đương Pharmaton liều 242 mg/kg và 
tốt hơn Koligin liều 174 mg/kg. 
Sau 14 ngày, thời gian bơi ở lô Saphraton liều 
143 mg/kg tăng đạt ý nghĩa thống kê so với lô 
chứng và so với thời điểm bơi lần 1 (p < 0,05). Lô 
đối chiếu Pharmaton liều 242 mg/kg và Koligin 
liều 174 mg/kg cũng có thời gian bơi tăng đạt ý 
nghĩa thống kê so với lô chứng và so với thời 
điểm bơi lần 1 (p < 0,05); giữa 2 lô này có tác 
dụng tương đương nhau (p > 0,05). Thời gian bơi 
ở lô Saphraton khác biệt không đáng kể so với lô 
Pharmaton và Koligin (p > 0,05). Như vậy, 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018
 48
Saphraton liều 143 mg/kg có tác dụng tăng lực 
tương đương Pharmaton liều 242 mg/kg và 
Koligin liều 174 mg/kg (Bảng 1). 
Tỉ lệ % thời gian bơi 
Sau khi dùng thuốc 60 phút, tỉ lệ thời gian 
bơi của lô Saphraton liều 143 mg/kg, Pharmaton 
liều 242 mg/kg và Koligin-S liều 174 mg/kg tăng 
đạt ý nghĩa thống kê so với lô chứng; chứng tỏ 
các mẫu thử có tác dụng hồi phục tức thời 
nhưng kết quả của lô Saphraton thấp hơn có ý 
nghĩa thống kê so với lô Pharmaton và Koligin 
(p < 0,05); chứng tỏ Saphraton có tác dụng hồi 
phục sức tức thời nhưng không bằng Pharmaton 
và Koligin-S. 
Sau 7 và 14 ngày, Saphraton liều 143 
mg/kg, Pharmaton liều 242 mg/kg và Koligin 
liều 174 mg/kg có tỉ lệ thời gian bơi tăng đạt ý 
nghĩa thống kê so với lô chứng (p < 0,05); 
chứng tỏ cả 3 mẫu đều có tác dụng tăng lực. Tỉ 
lệ thời gian bơi của lô Saphraton cao hơn lô 
Koligin-S đạt ý nghĩa thống kê (p < 0,05) 
nhưng không khác biệt so với lô Pharmaton (p 
> 0,05). Như vậy, viên nang mềm Saphraton 
thể hiện tác dụng tăng lực tốt hơn viên 
Koligin-S và tương đương với viên Pharmaton 
(Bảng 2). 
Bảng 1. Thời gian bơi (phút) của chuột tại các thời điểm ở các lô thử nghiệm 
Lô (n = 10) Liều (viên/kg) T0 T60 phút T7 ngày T14 ngày 
Chứng - 28,70 ± 3,00
19,80 ± 2,98 27,00 ± 2,26 29,90 ± 2,45 
Saphraton 143 mg/kg 26,25 ± 2,56 28,50 ± 1,64
*
 178,50 ± 1,24
*$
 152,63 ± 12,19
*$
Pharmaton 242 mg/kg 29,20 ± 2,62 48,60 ± 5,02
*$ 
173,00 ± 7,00
*$ 
180,00 ± 0,00
*$ 
Koligin-S 174 mg/kg 30,00 ± 1,02 59,20 ± 7,90
*$
 146,40 ± 11,45
*$
 124,00 ± 16,41
*$
*: p < 0,05 so với lô chứng trong cùng thời điểm 
#: p < 0,05 so với lô đối chiếu Pharmaton trong cùng thời điểm 
$: p < 0,05 so với thời điểm bơi lần 1(T0) trong cùng lô thử nghiệm. 
Bảng 2. Tỉ lệ % thời gian bơi ở các thời điểm thử nghiệm so với trước thử nghiệm 
Lô (n = 10) Liều (mg/kg) T60 phút/T0 T7 ngày/T0 T14 ngày/T0 
Chứng - 69,24 ± 9,62 107,31 ± 16,95 110,75 ± 10,08 
Saphraton 143 115,44 ± 12,15*
#
 690,69± 71,86* 613,33 ± 75,68* 
Pharmaton 242 189,25 ± 35,11* 639,95 ± 70,47*
669,11 ± 68,11* 
Koligin-S 174 202,06 ± 29,32* 491,85 ± 38,73*
# 
408,21 ± 49,61*
# 
*: p < 0,05 so với lô chứng #: p < 0,05 so với lô đối chiếu Pharmaton 
BÀN LUẬN 
Pharmaton được xem là một trong những 
dược phẩm có tác dụng khắc phục tình trạng 
kiệt sức, mệt mỏi; mỗi viên Pharmaton chứa 40 
mg nhân sâm đã được tiêu chuẩn hóa, 2-
Dimethylaminoethanol hydrogentartrat 26mg, 
vitamin A 4000 IU, vitamin D2 400 IU, vitamin E 
10 mg, vitamin B1 2 mg, vitamin B2 2 mg, vit B6 
1 mg, vit B12 1 mcg, Canxi pantothenate 10 mg, 
vitamin PP 15mg, vitamin C 60 mcg, rutoside 
trihydrate 20 mg, Fluorine 0,2 mg, Kali 8mg, 
Đồng 1 mg, Mangan 1 mg, Magie 10 mg, Sắt 10 
mg, Kẽm 1mg, Canxi 90,3 mg, Phosphor 70 mg, 
Lecithin 66 mg. 
Trong nghiên cứu này, viên Pharmaton được 
sử dụng làm thuốc đối chiếu để đánh giá tác 
dụng tăng lực trên chuột thí nghiệm của mẫu 
thử. Bên cạnh đó, viên nang mềm Koligin cũng 
được sử dụng làm thuốc đối chiếu trong đề tài 
này không chỉ để so sánh, nhận định tác dụng 
của mẫu thử mà còn nhằm mục đích so sánh tác 
dụng tăng lực chống nhược sức với viên 
Pharmaton. 
Koligin là một trong những thực phẩm chức 
năng của Hàn Quốc với 4 thành phần chủ yếu là 
nhân sâm, nấm linh chi, nhung hươu, sữa ong 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
 49
chúa, cùng các vitamin và khoáng chất; có tác 
dụng bồi bổ sức khỏe, nâng cao thể trạng, chống 
nhược sức. Ngoài ra, Koligin còn có tác dụng hỗ 
trợ điều trị một số bệnh lý tim mạch, điều hòa 
cholesterol, chống oxy hóa, giảm stress. 
Viên nang mềm Saphraton thể hiện tác dụng 
tăng lực – chống nhược sức tương đương với 
thuốc đối chiếu Pharmaton và tốt hơn viên 
Koligin. Điều này có thể được giải thích dựa vào 
hai thành phần chính trong công thức bào chế 
viên nang mềm Saphraton là Sâm Việt Nam và 
Đinh lăng lá nhỏ. 
Sâm Việt Nam (Sâm Ngọc Linh) đã được 
ứng dụng lâm sàng trên nhiều bệnh lý khác 
nhau, trong đó có vấn đề suy nhược cơ thể. 
Đến nay, 52 hợp chất saponin được phân lập 
từ Sâm Việt Nam (Sâm Ngọc Linh) và xác định 
cấu trúc hóa học, trong đó 26 hợp chất có cấu 
trúc đã biết như ginsenoside Rb1 (G-Rb1), Rb2 
(G-Rb2), Rd (G-Rd), Re (G-Re), Rg1 (G-Rg1) 
thường thấy ở Sâm Triều Tiên, Sâm Mỹ, Sâm 
Nhật Bản và 26 saponin mới, được gọi là vina-
ginsenoid-R1, vina-ginsenoid-R2, vina-
ginsenoid-R25, 20-O-methyl ginsenosid-Rh1 
và đặc biệt là hợp chất majonosid-R2; cùng các 
hợp chất polyacetylen, sterol, acid amin, acid 
béo và nguyên tố vi lượng(2,8). 
Theo nghiên cứu của Võ Xuân Minh và cộng 
sự (1991) khảo sát hàm lượng saponin toàn phần 
trong các bộ phận của cây Đinh lăng: rễ (0,49%), 
vỏ rễ (1,00%), lõi rễ (0,11%) và lá (0,38%)(7). Bên 
cạnh đó, Đinh lăng còn có alkaloid, glycosid, các 
vitamin B1, B2, B6, vitamin C, phytosterol và 20 
loại acid amin(4). 
Những nghiên cứu khoa học trước đây về 
Đinh lăng tại Trung tâm Sâm và Dược liệu 
TP.HCM cho thấy cao Đinh lăng có tác dụng làm 
gia tăng vận động tự nhiên và thể hiện tác dụng 
tăng lực – chống nhược sức trên hai thực nghiệm 
chuột bơi kiệt sức của Brekhman và chuột leo 
dây của Cabureb. Cao phối hợp rễ và lá Đinh 
lăng làm tăng thể trọng của súc vật thử nghiệm, 
không thể hiện những tác dụng phụ gây ảnh 
hưởng đến chức năng sinh lý của chuột như 
công thức máu, chỉ số protein toàn phần hoặc 
không xuất hiện những thay đổi bất thường 
trong cấu trúc gan, tim và thận(3,7). Thành phần 
hóa thực vật trong cả hai loại dược liệu nói 
chung và saponin nói riêng có thể xem là yếu tố 
quyết định tác dụng tăng lực – chống nhược sức 
của viên nang mềm Saphraton. Sự phối hợp hai 
dược liệu này đã góp phần làm tăng tác dụng 
tăng lực của chế phẩm tốt hơn viên Koligin và 
tương đương với viên nang Pharmaton. 
Từ đó, cho thấy khả năng ứng dụng viên 
nang mềm Saphraton trong chăm sóc sức khỏe 
cộng đồng và có khả năng thay thế một số chế 
phẩm nhập ngoại hiện nay trên thị trường. 
KẾT LUẬN 
Viên nang mềm Saphraton liều 143 mg/kg 
tương đương với liều sử dụng trên người là 1 
viên/ngày thể hiện tác dụng phục hồi sức tức 
thời và tác dụng tăng lực sau 7 ngày, 14 ngày 
dùng thuốc. 
Viên nang mềm Saphraton có tác dụng tăng 
lực tốt hơn viên nang mềm Koligin-S và tương 
đương với viên nang mềm Pharmaton ở thời 
điểm 7 ngày và 14 ngày thử nghiệm. 
LỜI CẢM ƠN: Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn sự 
tài trợ kinh phí của Công ty TNHH Sâm Sâm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Brekhman II, Dardymov IV (1969). Pharmacological 
investigation of glycoside from Ginseng and Eleutherococcus. 
Lioydi; 32(1):46 – 51. 
2. Becker K, Francis G, Kerem Z and Makkar HPS (2002). “The 
biological action of saponins in animal systems: a review”. 
British Journal of Nutrition; 88(06): 587. 
3. Nguyen Thi Thu Huong (2002). “Adaptogenic Effect of 
Vietnamese Medicinal Plants”. Proceeding of 2002 International 
Symposium of Traditional Korean Medicine, 116-130. 
4. Nguyễn Thị Thu Hương, Lương Kim Bích, Nguyễn Thới Nhâm 
(2001). “Tác dụng dược lý của cao toàn phần chiết xuất từ rễ và 
lá Đinh lăng (Polyscias fruticosa Harms. Araliaceae)”. Công 
trình nghiên cứu Khoa học 1987-2000. Chủ biên: Viện Dược liệu. 
Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 241-244. 
5. Nguyễn Thượng Dong, Trần Công Luận và Nguyễn Thị Thu 
Hương (2007). Sâm Việt Nam và một số cây thuốc họ nhân sâm. 
Nhà Xuất Bản Khoa Học và Kĩ Thuật, 148-262. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018
 50
6. Viện Dược liệu (2006). Phương pháp nghiên cứu tác dụng dược 
lý của thuốc từ dược thảo. NXB Khoa học và Kỹ thuật, 295-296, 
385-386. 
7. Võ Xuân Minh (1991), “Góp phần tìm hiểu về thành phần hóa học 
và dạng bào chế của cây Đinh lăng”. Tạp chí Dược học; 3: 19-21 
8. Yamasaki K (2000). “Bioactive saponins in Vietnamese ginseng, 
Panax vietnamensis”. Pharmaceutical biology; 38(1): 16–24. 
Ngày nhận bài báo: 25/04/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/06/2018 
Ngày bài báo được đăng: 20/09/2018