Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 185
TÁC ĐỘNG LÊN TRỌNG LƯỢNG VÀ ĐƯỜNG HUYẾT 
CỦA CHUỘT BỊ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG CỦA CAO NƯỚC LÁ MẬT GẤU 
THU THẬP TẠI TỈNH SÓC TRĂNG 
Kiều Xuân Thy*, Bùi Phạm Minh Mẫn*, Nguyễn Văn Đàn*, Bùi Chí Bảo*, Trịnh Thị Diệu Thường* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Đái tháo đường là một bệnh mạn tính không lây có tốc độ phát triển rất nhanh ở nhiều nước 
trên thế giới. Đái tháo đường là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ 3 tại Việt Nam. Tác động của đái tháo 
đường là làm gia tăng tỷ lệ tử vong, giảm chất lượng cuộc sống, tăng gánh nặng kinh tế cho bản thân người 
bệnh, cho gia đình và cho xã hội. Việc điều trị đái tháo đường vẫn là thách thức của y học. Hiện nay, nhiều loại 
thuốc điều trị tiên tiến ra đời. Tuy nhiên việc kiểm soát đường huyết ở người bệnh đái tháo đường còn gặp nhiều 
khó khăn do thiếu tuân thủ điều trị, giá thành, chất lượng, tác dụng không mong muốn của thuốc, Ở nước ta 
có truyền thống sử dụng các bài thuốc dân gian trong điều trị nhiều bệnh lý khác nhau với ưu điểm có sẵn, đơn 
giản, dễ tìm và được cho là ít các tác dụng không mong muốn. Qua thu thập các bài thuốc dân gian lưu hành tại 
tỉnh Sóc Trăng chúng tôi có thu thập được bài thuốc lá Mật gấu được người dân sử dụng trong điều trị bệnh đái 
tháo đường cho thấy có hiệu quả. Tuy nhiên tính hiệu quả chỉ là truyền miệng, chưa được chứng minh đánh giá 
hiệu quả và độc tính tiềm ẩn. Ở nghiên cứu trước chúng tôi đã thử nghiệm độc tính cấp trên chuột của cao nước 
lá Mật gấu và cho thấy không bài thuốc nào thể hiện độc tính cấp, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy bài thuốc 
không có tác động lên trọng lượng và đường huyết ở chuột khỏe mạnh. Vì vậy, ở nghiên cứu này chúng tôi muốn 
thử nghiệm tác động của cao nước bài thuốc lá Mật gấu lên trọng lượng và đường huyết ở chuột bị đái tháo 
đường, qua đó làm tiền đề để thực hiện các nghiên cứu can thiệp trên lâm sàng. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chế phẩm nghiên cứu là cao nước lá Mật gấu. Khảo sát tác động 
lên trọng lượng và đường huyết trên mô hình 24 chuột được gây tăng đường huyết bằng streptozotocin và chia 
ngẫu nhiên làm 4 lô, mỗi lô 6 chuột, lô chứng bệnh cho chuột uống nước cất, lô cao 100 mg/kg cho chuột uống cao 
nước lá Mật gấu liều 100 mg/kg, lô cao 200 mg/kg cho chuột uống cao nước lá Mật gấu liều 200 mg/kg và lô 
glibenclamid 5 mg/kg cho chuột uống glibenclamid liều 5 mg/kg. Chuột được cho uống nước cất hoặc cao thử 
hoặc thuốc đối chứng 1 lần/ngày vào buổi sáng (8-10 giờ) trong 14 ngày sau đó theo dõi trọng lượng chuột mỗi 
ngày và đường huyết của chuột mỗi 5 ngày. 
Kết quả: Không có sự khác biệt về trọng lượng cơ thể chuột giữa 2 lô uống cao liều 100 mg/kg và 200 mg/kg 
cũng như giữa 2 lô này với lô đối chứng glibenclamid 5 mg/kg (p > 0,05). Khảo sát tác động lên đường huyết, kết 
quả cho thấy sau 5 ngày điều trị, chỉ có lô đối chứng glibenclamid 5 mg/kg làm giảm đường huyết khoảng 55% so 
với thời điểm trước khi điều trị và thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với lô chứng bệnh ở cùng thời điểm. Sau 15 
ngày điều trị, cả 3 lô đều có tác dụng hạ đường huyết có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với thời điểm trước khi 
điều trị với tỷ lệ giảm từ 50% đến 60%. So với đường huyết của chuột ở lô chứng bệnh, đường huyết ở 3 lô điều 
trị đều thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).Khi so sánh giữa 2 lô điều trị cho uống cao thử với liều 100 mg/kg 
và 200 mg/kg, cao liều 200 mg/kg thể hiện tác động hạ đường huyết tốt hơn, tuy nhiên sự khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê so với cao liều 100 mg/kg (p > 0,05). Thuốc đối chứng glibenclamid uống liều 5 mg/kg so với ở 2 
lô điều trị bằng cao thử khác biệt không có ý nghĩa thống kê. 
Kết luận: Cao nước từ bài thuốc lá Mật gấu uống liều 100 mg/kg và 200 mg/kg có tác động duy trì thể 
trạng và có tác động hạ đường huyết sau 15 ngày uống trên chuột bị đái tháo đường. 
Từ khóa: Lá mật gấu, cây Lá đắng, đái tháo đường, đường huyết 
*Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Kiều Xuân Thy ĐT: 0902485417 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 186
ABSTRACT 
EFFECT OF VERNONIA AMYGDALINA DELILE LEAF EXTRACT COLLECTED IN SOC TRANG 
PROVINCE ON WEIGHT AND BLOOD GLUCOSE OF DIABETIC MICE 
Kieu Xuan Thy, Bui Pham Minh Man, Nguyen Van Dan, Bui Chi Bao, Trinh Thi Dieu Thuong 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 186 – 191 
Objectives: Diabetes is a chronic non-communicable disease that has a very fast growth rate in many 
countries around the world. Diabetes is the third most disease leading deaths in Vietnam. The impact of diabetes is 
to increase mortality, reduce quality of life, increase economic burden for patients themselves, families and society. 
Diabetes treatment remains a medical challenge. Currently, many advanced treatment drugs are born. However, 
the control of blood glucose in diabetes is still difficult due to lack of compliance, cost, quality, undesirable effects of 
drugs. In our country there are various folk remedies used for treating different diseases with varied advantages: 
its availability, simplicity, being easy to be found and less undesirable effects. Through the collection of folk 
remedies present in Soc Trang province, we have collected the Vernonia amygdalina Delile remedy used by local 
people to treat diabetes mellitus, which was proven to be effective. However, the effectiveness is only word of 
mouth and has not been proven to assess the effectiveness and hidden toxicity. In the previous study, we tested the 
acute toxicity of rats in the extract of Vernonia amygdalina leaf extract and showed that there was no acute 
toxicity. When we tested the impact on weight and blood sugar, it showed that the remedy did not have any 
impact on weight and blood sugar in healthy mice. Therefore, in this study, the effect of the extract of Vernonia 
amygdalina on weight and blood sugar in diabetic mice was tested, thereby creating a premise for conducting 
clinical intervention studies. 
Materials and Methods: The research object is water extract of Vernonia amygdalina. Investigation of the 
effect on weight and blood sugar in the model of 24 rats with streptozotocin-induced hyperglycemic mice and 
randomly divided into 4 lots, 6 mice each slot: Group 1 mice drinking distilled water; Group 2 mice taken 100 
mg/kg of extract of Vernonia amygdalina leaf; Group 3 mice taken 200 mg/kg of extract of Vernonia amygdalina 
leaf; Group 4 mice taken glibenclamide 5 mg/kg. Give the mice distilled water or extract water or medicine once a 
day in the morning (8-10am) for 14 days then monitor the weight of the mice every day and the blood sugar of the 
mice every 5 days. 
Results: There was no difference in mice body weight between the two groups with doses of 100 mg/kg and 
200 mg/kg as well as between the two treated groups by the water extract and the control group of glibenclamide 5 
mg/kg (p>0.05). Surveying the effect on blood sugar, the results showed that after 5 days of treatment, only the 
control group of glibenclamide 5 mg/kg reduced blood sugar by about 55% compared to the mice at the pre-
treatment time and significantly lower compared to the control group at the same time. After 15 days of 
treatment, all 3 groups showd the significant hypoglycemic effect about 50% - 60% compared to the period before 
treatment. Compared to the control group, the blood sugar in three groups are all significant lower. Tthe extract 
with dose of 200 mg/kg showed a better hypoglycemic effect, but the difference was not statistically significant 
compared to the dose of 100 mg/kg; Glibenclamide control drugs taken at a dose of 5 mg/kg compared with the two 
taken extract groups were not statistically significant. 
Conclusion: Extract of Vernonia amygdalina leaf at the doses of 100 mg/kg and 200 mg/kg has the effect of 
maintaining the body weight and has a stable effect of reducing blood sugar, which is gradually increasing over 
time in diabetic mice. 
Key words: Vernonia amygdalina delile, Diabetes, bitter leaves, glycemia 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 187
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay, Việt Nam cũng như các quốc gia 
khác trên thế giới đứng trước nhiều nguy cơ mới 
về sức khỏe như: sự già hóa dân số, nhóm bệnh 
do tích tuổi, bệnh không lây như thoái hóa khớp, 
đái tháo đường, tăng huyết áp, ung thư, đột quỵ 
não. Đái tháo đường là một bệnh mạn tính 
không lây có tốc độ phát triển rất nhanh ở nhiều 
nước trên thế giới. Năm 2017 theo ước tính của 
Liên đoàn đái tháo đường quốc tế, Việt Nam có 
khoảng 3,53 triệu người trưởng thành từ 20-79 
tuổi mắc đái tháo đường, đến năm 2045 con số 
này sẽ tăng 78,5% lên 6,3 triệu người. Khoảng 29 
000 người chết có liên quan đến đái tháo đường 
trong năm 2017, tức là khoảng 80 ca tử vong mỗi 
ngày(8). Theo kết quả điều tra dịch tễ học bệnh 
đái tháo đường toàn quốc năm 2012 do Bệnh 
viện Nội tiết Trung ương tiến hành, tỷ lệ hiện 
mắc đái tháo đường trên toàn quốc ở người 
trưởng thành là 5,42%. Đái tháo đường là 
nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ 3 tại Việt 
Nam(4). Tác động của đái tháo đường là làm gia 
tăng tỷ lệ tử vong, giảm chất lượng cuộc sống, 
tăng gánh nặng kinh tế cho bản thân người 
bệnh, cho gia đình và cho xã hội(5). 
Việc điều trị đái tháo đường vẫn là thách 
thức của y học. Hiện nay, nhiều loại thuốc điều 
trị đái tháo đường tiên tiến ra đời. Tuy nhiên 
việc kiểm soát đường huyết ở người bệnh đái 
tháo đường còn gặp nhiều khó khăn do thiếu 
tuân trị, giá thành, chất lượng, tác dụng không 
mong muốn của thuốc. Ở nước ta, từ bao đời 
nay đã có truyền thống sử dụng các bài thuốc 
dân gian trong điều trị nhiều bệnh lý khác nhau 
với ưu điểm có sẵn, đơn giản, dễ tìm và được 
cho là ít các tác dụng không mong muốn. Qua 
thu thập các bài thuốc dân gian lưu hành tại tỉnh 
Sóc Trăng chúng tôi có thu thập được bài thuốc 
lá Mật gấu được người dân sử dụng trong điều 
trị bệnh đái tháo đường cho thấy có hiệu quả. 
Tuy nhiên tính hiệu quả chỉ là truyền miệng, 
chưa được chứng minh đánh giá hiệu quả và 
độc tính tiềm ẩn. Ở nghiên cứu trước chúng tôi 
đã thử nghiệm độc tính cấp trên chuột của cao 
nước lá Mật gấu và cho thấy bài thuốc không có 
độc tính cấp, khi thử nghiệm tác động lên cân 
nặng và đường huyết cho thấy bài thuốc không 
có tác động lên cân nặng và đường huyết ở 
chuột khỏe mạnh. Vì vậy, ở nghiên cứu này 
chúng tôi muốn thử nghiệm tác động của cao 
nước bài thuốc lá Mật gấu lên cân nặng và 
đường huyết ở chuột bị đái tháo đường, qua đó 
làm tiền đề để thực hiện các nghiên cứu can 
thiệp trên lâm sàng. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Chế phẩm nghiên cứu 
Cao nước lá Mật gấu (còn gọi là cây Lá đắng) 
tên khoa học Vernonia amygdalina Delile. 
Động vật thử nghiệm 
Chuột nhắt trắng (Mus musculus var. Albino), 
trưởng thành, khỏe mạnh, từ 10-12 tuần tuổi, có 
nguồn gốc từ Viện Kiểm nghiệm thuốc Tp. Hồ 
Chí Minh. Chuột được nuôi trong điều kiện 
phòng thí nghiệm, vệ sinh hàng ngày, điều kiện 
12 giờ sáng/tối, nhiệt độ 28oC, ẩm độ <50%, được 
cung cấp thức ăn và nước uống (nước cất) cung 
cấp liên tục hàng ngày. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu thí nghiệm. 
Phương pháp chiết xuất cao bài thuốc 
Dược liệu được thu hái tại Sóc Trăng vào 
tháng 10/2015, người thu hái là ông Võ Văn 
Thành Niệm. 
Dược liệu được bào chế và bảo quản đúng 
quy trình và được kiểm tra chất lượng lý – hóa 
tính, định lượng vi sinh vật, dư lượng thuốc bảo 
vệ thực vật, tồn dư kim loại nặng. Các chỉ tiêu 
chất lượng đều nằm trong giới hạn an toàn theo 
quy định(2,3,6). Sau đó xử lý theo các giai đoạn: 
Giai đoạn 1 
Chiết dược liệu bằng nước cất theo nguyên 
tắc như sau: 
Cân dược liệu sao cho tổng khối lượng bài 
thuốc là 2 kg. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 188
Xay thô dược liệu. 
Cho nước ngập mặt dược liệu. 
Sắc (chiết nóng) nước bằng nồi inox. 
Thời gian nấu: 4 – 6 giờ (2 lần). 
Giai đoạn 2 
Lọc dịch chiết bằng bông gòn qua phễu. 
Cô cách thủy riêng từng dịch chiết. 
Thu được 100 g cao đặc (hiệu suất chiết 5%) 
ở độ ẩm 10%, lấy 9,54 g cao đặc pha với 1000 ml 
nước thành dung dịch với nồng độ 9,54 mg/ml. 
Giai đoạn 3 
Bảo quản cao đặc ở nhiệt độ 40C. 
Nghiên cứu tác động lên trọng lượng và đường 
huyết trên chuột bị đái tháo đường 
Chuột được cho nhịn đói ít nhất 12 giờ, gây 
tăng đường huyết bằng cách tiêm tĩnh mạch 
streptozotocin (pha trong nước muối sinh lý) 
liều 170 mg/kg. Sau 5 ngày tiêm streptozotocin, 
tiến hành định lượng glucose máu (sau khi cho 
chuột nhịn đói ít nhất 12 giờ). Những chuột có 
đường huyết đói ≥ 200 mg/dl được xem là chuột 
bị đái tháo đường(8,13). 
Chọn 24 chuột bị đái tháo chia ngẫu nhiên 
vào 4 lô, mỗi lô 6 chuột: 
- Lô chứng bệnh: cho chuột uống nước cất. 
- Lô cao 100 mg/kg: cho chuột uống cao nước 
lá Mật gấu liều 100 mg/kg(6). 
- Lô cao 200 mg/kg: cho chuột uống cao nước 
lá Mật gấu liều 200 mg/kg(6). 
- Lô glibenclamid 5 mg/kg: cho chuột uống 
glibenclamid liều 5 mg/kg. 
Cho uống nước cất hoặc cao thử hoặc thuốc 
1 lần/ngày vào buổi sáng (8-10 giờ) trong 14 
ngày. Theo dõi đường huyết của chuột thử 
nghiệm mỗi 5 ngày bằng cách lấy máu tĩnh 
mạch đuôi chuột(9). Theo dõi trọng lượng của 
chuột mỗi ngày. 
Cách xác định đường huyết: Cho chuột nhịn 
đói ít nhất 12 giờ, lấy chính xác 10 µl máu đuôi 
chuột, cho vào eppendorf chứa sẵn 20 µl EDTA 
2%. Lắc đều tránh đông máu. Ly tâm 5 phút 
3000 vòng/phút, lấy huyết tương định lượng 
glucose theo nguyên tắc enzym màu. 
Xử lý số liệu 
Kết quả được trình bày dưới dạng trung 
bình ± sai số chuẩn của giá trị trung bình 
(mean ± SEM). 
Số liệu được phân tích thống kê bằng các 
phép kiểm Kruskal-Wallis và Mann-Whitney với 
phần mềm SPSS 22.0. 
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi giá trị 
p<0,05. 
KẾT QUẢ 
Tác động lên trọng lượng của chuột đái tháo đường 
Kết quả ghi nhận trọng lượng của các lô 
chuột được thể hiện ở Bảng 1. 
Bảng 1. Trọng lượng trung bình của các lô chuột trong 15 ngày thử nghiệm (n=6) 
Lô N0 N1 N2 N3 N4 N5 N6 N7 N8 N9 N10 N11 N12 N13 N14 
C
h
ứ
n
g
b
ệ
n
h
2
6
,2
3
 ±
 0
,9
9
2
3
,2
3
 ±
 0
,7
5
2
3
,4
 ±
 0
,6
7
2
3
,2
 ±
 0
,7
4
2
3
,1
7
 ±
 0
,6
1
2
3
,6
 ±
 0
,9
1
2
2
,4
5
 ±
 0
,7
4
2
2
,9
7
 ±
 1
,0
6
2
2
,7
2
 ±
 1
,1
4
2
2
,9
7
 ±
 1
,1
0
2
2
,2
2
 ±
 0
,7
3
2
2
,4
8
 ±
 1
,0
6
2
2
,4
5
 ±
 1
,1
3
2
2
,5
7
 ±
 1
,3
0
2
3
,2
5
 ±
 1
,2
6
C
a
o
 1
0
0
 m
g
/k
g
2
7
,4
3
 ±
 0
,5
2
2
5
,7
5
 ±
 0
,7
7
2
6
,4
5
 ±
 0
,8
3
* 
2
5
,9
8
 ±
 0
,8
5
* 
2
6
,3
7
 ±
 0
,9
4
* 
2
6
,7
0
 ±
 0
,8
6
* 
2
5
,7
3
 ±
 0
,6
9
* 
2
6
,1
0
 ±
 0
,7
0
2
6
,2
 ±
 0
,5
4
* 
2
5
,2
7
 ±
 0
,9
6
2
6
,3
0
 ±
 0
,8
0
* 
2
5
,9
7
 ±
 0
,5
3
* 
2
6
,4
7
 ±
 0
,5
9
* 
2
7
,4
8
 ±
 0
,8
2
* 
2
6
,8
5
 ±
 0
,4
6
* 
C
a
o
 2
0
0
 m
g
/k
g
2
8
,3
8
 ±
 0
,6
8
2
4
,7
0
 ±
 1
,3
4
2
6
,3
0
 ±
 1
,0
9
* 
2
5
,8
0
 ±
 1
,1
5
2
6
,0
2
 ±
 0
,9
6
* 
2
5
,7
3
 ±
 1
,3
1
2
4
,2
7
 ±
 1
,4
5
2
5
,1
0
 ±
 1
,4
7
2
4
,7
7
 ±
 1
,4
1
2
5
,1
7
 ±
 1
,2
3
2
5
,3
0
 ±
 0
,9
9
2
5
,3
8
±
 1
,3
5
2
6
,3
3
 ±
 1
,2
3
* 
2
5
,9
7
 ±
 1
,4
5
2
6
,5
7
 ±
 1
,5
5
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 189
G
li
b
e
n
c
la
m
id
5
m
g
/k
g
2
8
,1
0
 ±
 0
,9
6
2
5
,3
2
 ±
 1
,2
9
2
5
,7
7
 ±
 1
,1
8
2
5
,5
3
 ±
 1
,0
9
2
5
,8
3
 ±
 1
,0
0
2
5
,4
0
 ±
 0
,9
5
2
4
,4
5
 ±
 0
,9
6
2
4
,7
2
 ±
 0
,7
3
2
4
,1
7
 ±
 0
,8
0
2
5
,1
0
 ±
 0
,9
1
2
4
,7
2
 ±
 0
,9
7
2
4
,2
 ±
 0
,9
7
2
4
,8
8
 ±
 1
,1
9
2
4
,8
2
 ±
 1
,3
1
2
5
,1
7
 ±
 1
,4
1
*p <0,05: so sánh tăng trọng lượng cơ thể với lô chứng bệnh ở cùng thời điểm khảo sát 
Kết quả thu được cho thấy chuột giảm 
khoảng 3 g vào ngày 1 so với ngày 0. 
Giữa chuột ở lô chứng bệnh và 3 lô điều trị 
có sự thay đổi trọng lượng cơ thể khác nhau: 
chuột ở lô chứng bệnh, có hiện tượng sụt giảm 
trọng lượng sau tiêm streptozotocin, khác biệt có 
ý nghĩa thống kê (p <0,05) và trọng lượng này 
duy trì trong suốt 14 ngày tiếp theo, trong khi 
chuột ở 3 lô điều trị, trọng lượng tăng vào ngày 2 
và duy trì trong qua trình điều trị dù gần các 
thời điểm cho chuột nhịn đói để định lượng 
đường huyết, trọng lượng giảm. Kết quả này 
bước đầu cho thấy việc điều trị bằng cao thử 
cũng như glibenclamid giúp phục hổi thể trạng 
của chuột đái tháo đường. Kết quả cụ thể, so với 
lô chứng bệnh, chuột cho uống cao thử liều 100 
mg/kg giúp tăng trọng lượng cơ thể cao hơn có ý 
nghĩa thống kê vào các ngày khảo sát (p <0,05) 
trừ các ngày 1, 7, 9 có p >0,05. Đối với lô cho 
uống cao liều 200 mg/kg, trọng lượng cơ thể 
chuột cũng tăng so với lô chứng bệnh tuy nhiên 
đa số không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p >0,05), trừ ngày 2, 4, 12 có p <0,05. 
Với những chuột điều trị bằng thuốc đối 
chứng glibenclamid liều uống 5 mg/kg, trọng 
lượng cơ thể không khác biệt có ý nghĩa thống 
kê so với chỉ số này của chuột ở lô chứng bệnh 
trong suốt quá trình 14 ngày điều trị (p >0,05). 
Không có sự khác biệt về trọng lượng cơ thể 
chuột giữa 2 lô uống cao liều 100 mg/kg và 200 
mg/kg cũng như giữa 2 lô uống cao với lô đối 
chứng glibenclamid 5 mg/kg (p > 0,05). 
Tác động lên đường huyết của chuột đái tháo 
đường 
Kết quả khảo sát tác động lên đường huyết 
của chuột bị đái tháo đường của cao thử được 
trình bày trong Bảng 2. 
Kết quả cho thấy sau 5 ngày điều trị, chỉ có lô 
đối chứng glibenclamid 5 mg/kg làm giảm 
đường huyết khoảng 55% so với thời điểm trước 
khi điều trị (p <0,05) và thấp hơn có ý nghĩa 
thống kê so với lô chứng bệnh ở cùng thời điểm 
(p <0,05). Đối với 2 lô uống cao thử, đường huyết 
của chuột đều giảm so với thời điểm trước điều 
trị khoảng 40-50% nhưng không khác biệt có ý 
nghĩa thống kê so với lô chứng bệnh ở cùng thời 
điểm khảo sát (p >0,05). 
Bảng 2. Đường huyết trung bình của chuột ở các lô vào ngày 0, 5, 10, 15 của thử nghiệm 
Lô 
Đường huyết trung bình ± SEM (ml/dL) 
Ngày 0 Ngày 5 Ngày 10 Ngày 15 
Chứng bệnh 269,80 ± 26,53 165,79 ± 17,40 151,28 ± 18,25 188,80 ± 18,55 
Cao 100 mg/kg 244,06 ± 13,16 136,21 ± 24,01 138,50 ± 24,35 124,41 ± 12,92* 
Cao 200 mg/kg 248,32 ± 17,98 128,48 ± 17,58 101,35 ± 16,39 116,11 ± 13,25* 
Glibenclamid 5 mg/kg 257,74 ± 8,25 114,75 ± 11,45* 114,74 ± 10,09 103,87 ± 22,45* 
*p <0,05: so sánh với lô chứng bệnh ở cùng thời điểm khảo sát 
Vào ngày 10, đường huyết của chuột ở cả 3 
lô điều trị giảm khoảng 45-60% so với thời điểm 
trước điều trị, tuy nhiên đều không có ý nghĩa 
thống kê so với lô chứng bệnh khảo sát tại cùng 
thời điểm (p >0,05). 
Sau 15 ngày điều trị, kết quả cho thấy cả 3 lô 
điều trị bằng cao thử hoặc thuốc đối chứng 
glibenclamid đều có tác dụng hạ đường huyết có 
ý nghĩa thống kê (p <0,05) so với thời điểm trước 
khi điều trị với tỷ lệ giảm từ 50% đến 60%. So 
với đường huyết của chuột ở lô chứng bệnh, 
đường huyết ở 3 lô điều trị đều thấp hơn có ý 
nghĩa thống kê (p <0,05). 
Khi so sánh giữa 2 lô điều trị cho uống cao 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 190
thử với liều 100 mg/kg và 200 mg/kg, kết quả thu 
được cho thấy cao liều 200 mg/kg thể hiện tác 
động hạ đường huyết tốt hơn, tuy nhiên sự khác 
biệt không có ý nghĩa thống kê so với cao liều 
100 mg/kg (p >0,05). 
So sánh với thuốc đối chứng glibenclamid 
uống liều 5 mg/kg, kết quả cho thấy tác động hạ 
đường huyết ở 2 lô điều trị bằng cao thử khác 
biệt không có ý nghĩa thống kê (p >0,05). 
BÀN LUẬN 
Như vậy, ở chuột khỏe mạnh, cao nước bài 
thuốc lá Mật gấu không ảnh hưởng lên trọng 
lượng và đường huyết nhưng có tác dụng lên 
chuột đái tháo đường ở cả 2 liều cho uống 100 
mg/kg và 200 mg/kg trong thời gian cho uống 14 
ngày. Trong nghiên cứu này cho thấy đối với 
chuột bị đái tháo đường, cao nước từ lá Mật gấu 
có tác động duy trì thể trạng của chuột thử 
nghiệm, tác động hạ đường huyết ổn định, tăng 
dần theo thời gian tương đương glibenclamid 
uống liều 5 mg/kg ở cả 2 liều 100 mg/kg và 200 
mg/kg sau 14 ngày điều trị. Tuy nhiên tác dụng 
hạ đường huyết giữa cao nước liều 100 mg/kg và 
cao nước liều 200 mg/kg khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê (p >0,05). 
Kết quả nghiên cứu này phủ hợp với các kết 
quả nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới. 
Cụ thể, ở nghiên cứu của Nwanjo HU cho thấy 
về trọng lượng sau 4 tuần điều trị, ở nhóm chuột 
sử dụng cao nước lá Mật gấu có giảm trọng 
lượng ít hơn đáng kể so với nhóm chứng (nhóm 
chứng giảm trung bình 2,5 g/con, nhóm dùng 
cao thuốc giảm trung bình 1,13 g/con). Về tác 
dụng hạ đường huyết, ở nghiên cứu của Nwanjo 
HU cho thấy sau 4 tuần điều trị đường huyết 
trung bình giảm khoảng 49%, trong khi nghiên 
cứu của chúng tôi ở liều thấp hơn và thời gian 
điều trị ngắn hơn cho thấy mức đường huyết hạ 
khoảng 49% (liều 100 mg/kg 1 lần/ngày) và 53% 
(liều 200 mg/kg 1 lần/ngày), tuy nhiên ở 2 liều 
100 mg/kg và 200 mg/kg so sánh sự thay đổi 
đường huyết này không ý nghĩa thống kê(10). 
Như vậy, có thể chỉ cần ở liều 100 mg/kg 1 
lần/ngày cũng sẽ cho kết quả giảm đường huyết 
tối ưu. Nhiều nghiên cứu khác cũng chứng minh 
tác dụng hạ đường huyết của cao nước lá Mật 
gấu, ví dụ ở nghiên cứu của Abraham A với mô 
hình gây chuột đái tháo đường bằng alloxan cho 
kết quả tác dụng hạ đường huyết từ 1-12 giờ (đạt 
đỉnh ở lúc 8 giờ) của cao nước lá Mật gấu ở liều 
500 mg/kg hiệu quả tương đương với 
chlorpropamide liều 250 mg/kg(12). 
Từ những kết quả nghiên cứu có thể thấy rõ 
ràng cao nước lá Mật gấu cho tác dụng hạ 
đường huyết trên chuột gây tăng đường huyết 
bằng streptozotocin. Phần nào cho thấy một 
trong những cơ chế hạ đường huyết của cao 
nước lá Mật gấu có thể là do tác động kích thích 
tiết insulin và tăng sử dụng glucose. Ở nghiên 
cứu của Khang Wei Ong cho thấy chiết xuất lá 
Mật gấu chứa hàm lượng polyphenol cao chủ 
yếu là 1,5-dicaffeoyl-quinic acid, dicaffeoyl-
quinic acid, chlorogenic acid và luteolin, có tác 
dụng bảo vệ tế bào beta tụy chống lại tổn 
thương do streptozotocin gây ra, tạo ra sự tăng 
nhẹ mức insulin, tác động lên GLUT 4 kích thích 
sự hấp thu đường của cơ xương và mô mỡ, 
ngoài ra nó còn ức chế sự tân tạo đường ở gan 
thông qua việc ức chế men glucose-6-
phosphatase(11). Như vậy, cao nước lá Mật gấu có 
thể là một lựa chọn mới trong điều trị kiểm soát 
đường huyết, tuy nhiên cần nhiều nghiên cứu 
sâu hơn và thời gian kéo dài hơn nhằm phát 
hiện những lợi ích hoặc nguy cơ tìm ẩn lâu dài. 
KẾT LUẬN 
Cao nước từ bài thuốc lá Mật gấu với liều 
uống 100 mg/kg và 200 mg/kg có tác động duy 
trì thể trạng và tác động hạ đường huyết ổn 
định, tăng dần theo thời gian trên chuột bị đái 
tháo đường và không có sự khác biệt giữa 2 liều. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y tế (2002). Dược điển Việt Nam IV. Nhà xuất bản Y Học Hà 
Nội, https://xuatbanyhoc.vn/duoc-dien-viet-nam-lan-xuat-ban-
thu-4. 
2. Bộ Y tế (2017). Hướng dẫn phương pháp chế biến các vị thuốc 
cổ truyền ban hành ngày 11/7/2017. Thông tư 30/2017/TT-BYT. 
3. Centers for Disease Control and Preventio (2019). Global Health 
– Vietnam. CDC, www.cdc.gov/globalhealth/. 
4. Cục Y tế dự phòng (2015). “Điều tra quốc gia: Yếu tố nguy cơ 
bệnh không lây nhiễm (STEPS)”. Bộ Y tế, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 191
5. Đỗ Tất Lợi (2005). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Nhà 
xuất bản Khoa học Kỹ thuật Hà Nội, 
https://www.google.com/search. 
6. Fasola TR, Okeocha PC, Odetola A (2010). “Screening for the 
Hypoglycaemic Potentials of the Extract of Vernonia amyggalina”. 
Ethnobotanical Leaflets, 1(7):59-65. 
7. International Diabetes Federation (2017). IDF Diabetes Atlas 8th 
edition. URL: https://diabetesatlas.org/resources/2017-atlas.html. 
8. Junod A, Lambert AE, Orci L, Pictet R, Gonet AE and Renold 
AE (1967). “Studies of the diabetogenic action of 
streptozotocin”. Proc Soc Exp Biol Med, 126(1):201. 
9. Ngô Thị Nga, Mai Thị Cúc, Đỗ Thị Hồng Tươi (2017). “Khảo sát 
tác dụng hạ lipid huyết và hạ đường huyết của cao cồn 50% từ 
trà thảo mộc Panas Karantina trên chuột nhắt”. Y học Thành phố 
Hồ Chí Minh, 21(2):7-15. 
10. Nwanjo HU (2005). “Efficacy of aqueous leaf extract of Vernonia 
amygdalina on plasma lipoprotein and oxidative status in 
diabetic ra models”. Nigerian Journal of Physiological Sciences, 
20:39-42. 
11. Ong KW, Hsu A, Song LX, et al (2011). “Polyphenols-rich 
Vernonia amygdalina shows anti-diabetic effects in 
streptozotocin-induced diabetic rats”. Journal of 
Ethnopharmacology, 133(2):598-607. 
12. Osinubi AAA (2006). “Effects of Vernonia amygdalina and 
chlorpropamide on blood glucosse”. Medical Journal of Islamic 
World Academy of Sciences, 16(3):115-119. 
13. Rakieten N, Rakieten ML and Nadkarni MV (1963). “Studies on 
the diabetogenic action of streptozotocin”. Cancer Chemother 
Reports, 29:91. 
Ngày nhận bài báo: 28/07/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 14/09/2019