Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 
Chuyên Đề Ngoại Khoa 108
SỬ DỤNG THƯỚC ĐO TRONG MỔ ĐỂ XÁC ĐỊNH CHÊNH LỆCH 
CHIỀU DÀI HAI CHÂN TRÊN BỆNH NHÂN THAY KHỚP HÁNG TOÀN PHẦN 
Lê Viết Sơn*, Bùi Hồng Thiên Khanh*,** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Chênh lệch chiều dài chân là biến chứng thường gặp sau thay khớp háng. Muốn hạn chế biến 
chứng này trước hết cần xác định chênh lệch trong mổ chính xác để phẫu thuật viên có cơ sở điều chỉnh chiều dài. 
Chúng tôi sử dụng và đánh giá độ chính xác của một thước đo chênh lệch chiều dài trong mổ thay khớp háng. 
Mục tiêu nghiên cứu: So sánh kết quả đo chênh lệch chiều dài hai chân bằng thước đo trong mổ và chênh 
lệch thực sự sau mổ. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả loạt ca trên 35 bệnh nhân thay khớp háng toàn phần tại Bệnh 
viện Đại học Y Dược TPHCM từ tháng 12/2017 - 6/2018. Dụng cụ đo được sử dụng trong mổ để xác định 
chênh lệch chiều dài hai chân và kết quả này được so sánh với chênh lệch trên phim X quang EOS sau mổ. 
Kết quả: Sai biệt của kết quả đo bằng thước trong mổ và kết quả sau mổ là 2,78±2,51mm và sự khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê. Có sự tương quan chặt giữa hai kết quả này với hệ số R=0,85. 
Kết luận: Sử dụng thước đo chênh lệch chiều dài chân trong mổ có thể là cơ sở tin cậy để phẫu thuật viên 
lựa chọn dụng cụ điều chỉnh chiều dài chân. 
Từ khóa: chênh lệch chiều dài hai chân, thay khớp háng 
ABSTRACT 
INTRAOPERATIVE MEASUREMENT DEVICE TO DETERMINE LIMB-LENGTH DISCREPANCY 
IN TOTAL HIP ARTHROPLASTY 
Le Viet Son, Bui Hong Thien Khanh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 108 - 113 
Introduction: Limb- length discrepancy is a common complication after hip arthroplasty. In order to avoid 
this complication, it is necessary to determine the intraoperative discrepancy exactly so that the surgeon has the 
guide to adjust the limb-length. We used and evaluated the accuracy of an intraoperative measurement device to 
determine limb-length discrepancy in total hip arthroplasty. 
Objectives: Comparing the results of measuring the limb-length discrepancy by intraoperative 
measurement device and postoperative measurement. 
Methods: Serial cases study in 35 patients performed total hip arthroplasty in the University Medical 
Center from 12/2017 to 6/2018. The measurement device is used in to determine the intraoperative limb length 
discrepancy and this result is compared with the discrepancy on the post-operative EOS X-ray film. 
Results: Using intraoperative measurement device can be a reliable guide for surgeons to adjust limb-length 
discrepancy. 
Keywords: limb-length discrepancy, total hip arthroplasty 
*Khoa Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
**Bộ môn Chấn thương Chỉnh hình và Phục hồi chức năng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Lê Viết Sơn ĐT: 0346592742 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 109
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay phẫu thuật thay khớp được thực 
hiện khá rộng rãi và phổ biến đã giúp cải 
thiện triệu chứng và chất lượng cuộc sống của 
rất nhiều bệnh nhân(4). Bên cạnh thành công 
của phẫu thuật, vẫn còn những vấn đề tồn tại, 
biến chứng, tai biến trong và sau phẫu thuật 
mà phẫu thuật viên cũng như bệnh nhân cần 
phải đối mặt. Một trong những vấn đề không 
phải là hiếm gặp đó là chênh lệch chiều dài 
hai chân sau mổ(2). Chênh lệch chiều dài chân 
làm giảm chức năng khớp háng sau mổ, gây 
đau lưng, ảnh hưởng dáng đứng và đi lại, 
mất vững khớp háng, trật khớp, lỏng dụng 
cụ, liệt thần kinh ngồi(2). 
Hiện nay với các thiết kế của dụng cụ khớp 
nhân tạo, phẫu thuật viên có thể lựa chọn các 
chỏm cầu khác nhau để điều chỉnh chiều dài 
chân. Vấn đề là cần phải xác định được chênh 
lệch chiều dài chân trong mổ chính xác để phẫu 
thuật viên có cơ sở điều chỉnh chiều dài. Phần 
lớn các phẫu thuật viên sử dụng phương pháp 
so hai gối, tuy nhiên phương pháp này tương 
đối chủ quan và không chính xác. Chúng tôi sử 
dụng và đánh giá độ chính xác của một thước đo 
chênh lệch chiều dài trong mổ thay khớp háng. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. 
Đối tượng nghiên cứu 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Các trường hợp thay khớp háng toàn phần 
tại khoa Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Đại 
học Y Dược Tp Hồ Chí Minh từ tháng 12/2017- 
6/2018. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân có chênh lệch chiều dài chân do 
nguyên nhân dưới khớp háng, có dị tật bẩm sinh 
ở chi dưới, bệnh nhân không đồng ý tham gia 
nghiên cứu. 
Dụng cụ thước đo trong mổ 
Dụng cụ thước đo trong mổ gồm có 3 phần 
(Hình 1). [1] Thước A: là thước dùng để đo 
chiều dài, trên thước đo có chia vạch với độ 
chia nhỏ nhất là 1 mm và giới hạn đo là 25mm. 
[2] Đinh B: đinh này được đóng vững chắc vào 
xương chậu và có thể được cố định vào thước 
A bằng chốt D có núm vặn. [3] Đoạn dò C: là 
một đinh nhỏ chỉ dấu cho vị trí trên mấu 
chuyển lớn xương đùi và có thể trượt theo 
chiều dài của thước A. 
Hình 1. Dụng cụ thước đo trong mổ 
Để có thể kiểm soát tư thế chân khi đo trong 
mổ, chúng tôi sử dụng một dụng cụ làm giá đỡ 
chân được lắp vào bàn phẫu thuật, cấu tạo gồm 
một bàn để chân nối với bàn phẫu thuật thông 
qua một chân bàn. Chân bàn được gắn cố định 
vào một vị trí trên bàn phẫu thuật vào thời điểm 
trước mổ và độ cao của bàn để chân sẽ được 
điều chỉnh sao cho khi đặt lên bàn để chân, chân 
mổ sẽ nằm ngang so với mặt đất (Hình 2). 
Hình 2. Đặt tư thế chân lên giá đỡ chân 
Mỗi lần thực hiện việc đo bằng thước trong 
mổ, bàn chân sẽ được đặt lên giá đỡ chân sao 
cho: [1] gối giữ ở tư thế thẳng; [2] gót chân 
nằm ở mép sau của bàn để chân; [3] cạnh trong 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 110
của bàn chân áp sát vào mặt bàn để chân. Với 
giá đỡ chân này, bàn chân trong các lần đo sẽ 
được giữ cố định ở cùng một vị trí, và cùng 
với gối ở tư thế thẳng, sẽ kiểm soát được tư thế 
dạng/khép, gấp/duỗi và xoay trong/ xoay 
ngoài khớp háng trong các lần đo. 
Phương pháp đo trong mổ 
Phương pháp đo trong mổ được tiến hành 
theo các bước như sau (Hình 3): 
Hình 3. Minh họa đo trong mổ 
Bệnh nhân được kê nằm nghiêng, rạch da 
đường mổ sau ngoài vào bộc lộ khớp háng. Sau 
khi bộc lộ ổ cối, đinh B được đặt thẳng góc vào 
xương chậu cách bờ trên ổ cối khoảng 2cm, nằm 
trên đường thẳng với trục thân xương đùi. 
Trước khi tiến hành cắt cổ xương đùi, đánh 
dấu một điểm trên mấu chuyển lớn bằng đốt 
điện. Dụng cụ đo được lắp vào đinh B trên ổ cối. 
Đặt chân phẫu thuật lên giá đỡ chân ở một vị trí 
cố định. Điều chỉnh thanh dò C trượt dọc trên 
thước A đến vị trí đã đánh dấu bằng đốt điện 
trước đó. Đọc số đo khoảng cách DE, gọi là d0, 
đây là con số đo trước mổ. 
Sau đó cuộc phẫu thuật thay khớp diễn ra 
như thông thường. Sau khi phẫu thuật viên đặt 
dụng cụ khớp nhân tạo. Đo lại khoảng cách từ 
đinh B đến điểm đánh dấu ở mấu chuyển lớn 
như trên, với chân phẫu thuật được đặt lại vị trí 
cũ trên giá đỡ chân, gọi khoảng cách này là d1. 
Khi đó chênh lệch d=d1-d0 là chênh lệch chiều dài 
thay đổi do cuộc phẫu thuật. 
Các bước tiến hành nghiên cứu 
Các bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh và 
không thỏa tiêu chuẩn loại trừ sẽ được thông 
báo và hỏi ý kiến về vấn đề tham gia nghiên cứu. 
Các biến số nền: Tuổi, giới, bệnh lí cần phẫu 
thuật sẽ được thu thập. Trước mổ, bệnh nhân 
được chụp X quang EOS chi dưới và xác định 
mức độ chênh lệch chiều dài hai chân trước mổ, 
gọi là ∆TRƯỚC MỔ. Bệnh nhân được tiến hành 
phẫu thuật thay khớp háng, và tiến hành đo độ 
thay đổi chiều dài chân do phẫu thuật như 
phương pháp trình bày ở trên, gọi là d. Từ chênh 
lệch chiều dài trước mổ và độ thay đổi chiều dài 
chân do phẫu thuật, ta tính được chênh lệch 
chiều dài chân ước đoán trong mổ; ∆TRONG 
MỔ = ∆TRƯỚC MỔ + d. Sau mổ 1 tuần, khi 
bệnh nhân đã tập đứng và đi được, bệnh nhân 
được chụp lại X quang EOS chi dưới kiểm tra, 
xác định chênh lệch chiều dài hai chân sau mổ, 
gọi là ∆SAU MỔ. 
Thu thập số liệu và thống kê 
Các mẫu nghiên cứu được thống kê theo các 
đặc điểm về giới, tuổi, chẩn đoán, các đặc điểm 
chênh lệch chiều dài chân trước và sau mổ. Kết 
quả đo đạc ∆TRONG MỔ sẽ được so sánh với 
kết quả ∆SAU MỔ trên X Quang EOS chi dưới 
bằng phép kiểm T-test bắt cặp. Sự tương quan 
giữa kết quả đo trong mổ và sau mổ được phân 
tích. Khoảng tin cậy 95% được sử dụng trong 
phân tích và giá trị p<0,05 được xem như có ý 
nghĩa thống kê. Số liệu được nhập và xử lí bằng 
phần mềm Stata 14 và Microsoft Excel 13. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Có 35 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu từ 
tháng 12/2017 - 6/2018, trong đó đa số là nam 
giới (68,57%) với tuổi trung bình là 57,68±16,02. 
Trong số các trường hợp bênh lí phẫu thuật, hoại 
tử chỏm xương đùi chiếm đa số (71,43%). Trung 
bình trước mổ chênh lệch chiều dài hai chân là 
6,17±6,10, với đa số bệnh nhân nằm trong nhóm 
có chân mổ ngắn hơn chân không mổ từ 0-9mm 
(27 bệnh nhân chiếm 91,43%). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 111
Bảng 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Tuổi 
Giới: 
Nam 
Nữ 
Chẩn đoán: 
Hoại tử chỏm xương đùi 
Thoái hóa khớp háng 
Thất bại kết hợp xương 
Chênh lệch chiều dài chân trước mổ 
57,68±16,02 
24 (68,57%) 
11 (31,43%) 
25 (71,43%) 
7 (20,00%) 
3 (8,57) 
6,17±6,10 
Chúng tôi so sánh giữa kết quả đo chênh 
lệch chiều dài hai chân đo trong mổ bằng dụng 
cụ đo và chênh lệch thực sự sau mổ trên X 
quang EOS của bệnh nhân, sự sai biệt trung bình 
giữa hai kết quả đo này là 2,78±2,51mm. Sử 
dụng phép kiểm T-test bắt cặp cho thấy sự sai 
biệt giữa hai kết quả đo này là không có ý nghĩa 
thống kê với p=0,43. 
Thống kê mối tương quan tuyến tính giữa 
kết quả đo trong mổ và kết quả đo sau mổ cho 
thấy có sự tương quan thuận với hệ số tương 
quan tương đối chặt R=0,85. 
BÀN LUẬN 
Đạt được cân bằng chiều dài chân trong 
mổ thay khớp háng là một vấn đề đôi khi 
không hề dễ dàng. Hiện nay với thiết kế của 
những dụng cụ khớp nhân tạo, phẫu thuật 
viên có thể lựa chọn các chỏm cầu có kích 
thước khác nhau để điều chỉnh chiều dài trong 
mổ. Vấn đề đặt ra là phải xác định được chênh 
lệch chiều dài chân trong mổ để phẫu thuật 
viên có cơ sở điều chỉnh chiều dài. Có nhiều 
phương pháp đánh giá trong mổ đã được 
nhiều tác giả đưa ra. So trực tiếp hai gối là một 
phương pháp thường được sử dụng nhất. Tuy 
nhiên, ở tư thế nằm nghiêng khi phẫu thuật, 
chi được phẫu thuật luôn khép hơn so với chi 
lành. Vải vô khuẩn bọc chi dưới và bàn phẫu 
thuật cũng làm sai lệch khi đánh giá tình trạng 
cân bằng chiều dài chi dưới. Cân bằng chiều 
dài chi dưới thông qua sự căng dãn mô mềm 
(như dấu hiệu pít tông) lại tùy thuộc vào tình 
trạng cơ quanh khớp háng. Khi cơ co cứng lâu 
ngày, khớp háng hạn chế vận động nhiều thì 
sẽ không có dấu hiệu pít tông dù chân có thể 
bị ngắn. Ngược lại, khi cơ quanh khớp háng 
teo nhẽo, yếu, giảm trương lực thì có thể vẫn 
có dấu hiệu pít tông mặc dù chân không bị 
ngắn hay thậm chí là dài hơn. Ngoài ra hai 
phương pháp nói trên còn mang tính chủ quan 
theo cảm nhận của từng phẫu thuật viên. 
Do những hạn chế và tính chủ quan của các 
phương pháp so trực tiếp hai chân và độ căng 
của mô mềm, nhiều tác giả đã sử dụng phương 
pháp đo đạc khách quan để cho ra một con số 
chênh lệch chiều dài chân cụ thể. Các nghiên cứu 
này sử dụng nhiều dụng cụ khác nhau. Dù sử 
dụng dụng cụ nào, đặc điểm chung của các 
phương pháp này đó là đo sự thay đổi chiều dài 
chân mổ do phẫu thuật thông qua sự thay đổi 
khoảng cách giữa hai mốc: một điểm mốc trên 
khung chậu và một điểm mốc phía xương đùi. 
Dựa trên sự thay đổi chiều dài do phẫu thuật 
này và chênh lệch chiều dài trước mổ giúp phẫu 
thuật viên dự đoán chênh lệch chiều dài sau mổ. 
Chitranjan S. Ranawat(6) sử dụng hai mốc đo: 
một mốc đo trên xương chậu nằm ở rãnh dưới ổ 
cối, mốc đo thứ hai nằm ở mấu chuyển lớn. Tác 
giả cho thấy hệ số tương quan giữa kết quả đo 
trong mổ và sau mổ là 0,82, tương quan khá 
chặt. Sau mổ chênh lệch chiều dài hai chân trung 
bình là 2,62mm và 86% bệnh nhân có chênh lệch 
sau mổ ≤ 6mm. Nghiên cứu của tác giả Ian S. 
Rice(7) sử dụng thước caliper cho sai biệt giữa kết 
quả trong mổ và sau mổ là 3,24±8,04, hệ số 
tương quan R=0,275. Woolson và cộng sự(10) với 
thước caliper đạt được 89% bệnh nhân chênh 
lệch sau mổ ≤ 6mm. Bose(1) so sánh giữa hai 
nhóm dùng thước đo và không dùng thước đo, 
đạt được trung bình chênh lệch sau mổ là 3,4mm 
ở nhóm dùng thước so với 8,8mm ở nhóm 
không dùng thước. Jasty(3) cũng thu được kết 
quả chỉ có 13% trường hợp có chênh lệch chiều 
dài sau mổ vượt quá 5mm. Shiramizu(9) sử dụng 
thước đo với trung bình chênh lệch sau mổ là 
2,1±1,5mm. Các kết quả đều cho thấy sử dụng 
thước đo trong mổ là phương pháp hữu ích để 
cân bằng chiều dài chi dưới. Tuy nhiên, nhược 
điểm chính của các nghiên cứu trên là không 
nêu ra phương thức cụ thể kiểm soát tư thế chân 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 112
giữa các lần đo. 
Nghiên cứu của chúng tôi có hai điểm khác 
biệt chính so với các nghiên cứu nói trên: (1) 
chúng tôi sử dụng X quang EOS chi dưới để 
xác định chênh lệch chiều dài trước mổ, (2) 
chúng tôi sử dụng một bộ giá đỡ chân gắn vào 
bàn phẫu thuật để nhằm kiểm soát tư thế chân 
giữa các lần đo. Mức độ sai biệt giữa hai kết 
quả đo này trung bình là 2,78±2,51mm, thấp 
hơn kết quả của Ian S.Rice(7). Có sự tương quan 
chặt giữa hai kết quả đo với hệ số tương quan 
R=0,85. Thông qua việc cho một con số để 
đánh giá khách qua trong mổ, chúng tôi nhận 
thấy rằng với mục tiêu hạn chế chênh lệch sau 
mổ ≤ 10mm, có thể sử dụng phương pháp đo 
này để có một trị số tham khảo về mức độ 
chênh lệch chiều dài chân trong mổ, từ đó cho 
phép phẫu thuật viên điều chỉnh thông qua 
việc lựa chọn các chỏm cầu khác nhau. 
Để có thể áp dụng phương pháp này cho 
một sai số ít và hiệu quả, có một số yếu tố đòi 
hỏi phải lưu ý như sau: 
Cần có một con số chênh lệch chiều dài chân 
trước mổ chính xác. 
Vị trí đóng đinh ở khung chậu 
Đinh đóng ở bờ trên ổ cối nếu quá gần với 
viền ổ cối, khi tiến hành doa ổ cối có thể doa 
trúng đinh. Chúng tôi gặp phải 3 trường hợp 
(chiếm 7,89% trong số 38 trường hợp) khi doa ổ 
cối bị trúng phải đinh, buộc lòng phải rút bỏ 
đinh để có thể tiếp tục phẫu thuật và như vậy 
không thể tiếp tục sử dụng phương pháp đo 
này. Rút kinh nghiệm từ các trường hợp trên, 
khi đóng đinh nên đóng cao hơn một chút 
(khoảng 2cm) so với viền ổ cối. 
Đinh phải bám chắc trong thời gian phẫu 
thuật, đòi hỏi đinh phải được đóng đủ sâu. 
Vị trí đóng đinh cũng nên được xác định sao 
cho thẳng với trục thân xương đùi ở tư thế đo, 
khi đó kết quả đo sẽ phản ánh chênh lệch chiều 
dài chân được chính xác hơn. 
Đôi khi sẽ cần phải đóng đinh xuyên qua cơ 
mông nhỡ chứ không thể dùng đinh để vén cơ 
qua được vì điểm đóng đinh đòi hỏi phải đủ cao 
để tránh không bị thủng vào lòng ổ cối. 
Chúng tôi chưa gặp bất cứ biến chứng nào 
với việc đóng đinh vào khung chậu như trên. 
Tư thế chân khi đo 
Sự khác nhau về tư thế khớp háng giữa các 
lần đo là một yếu tố gây sai sót trong quá trình 
đo. Tác giả Vineet K. Sarin(8) đã sử dụng hệ 
thống định vị thực hiện mô phỏng lại phẫu thuật 
thay khớp háng nhằm xác định ảnh hưởng của 
tư thế khớp háng lên kết quả đo chiều dài chân. 
Kết quả nghiên cứu của tác giả này cho thấy tư 
thế dạng, khép, gấp, duỗi khớp háng có ảnh 
hưởng ít nhiều đến kết quả đo chiều dài chân, 
nhất là tư thế dạng - khép. Nghiên cứu của 
chúng tôi sử dụng bàn để chân cho phép kiểm 
soát tư thế chân giống nhau giữa các lần đo, do 
đó giảm được sai số do yếu tố này. Việc đặt bàn 
để chân ở phía dưới lớp khăn trải vô khuẩn, ở 
cuối bàn phẫu thuật nên không gây cản trở hay 
gây vướng víu gì khi thực hiện phẫu thuật ở 
vùng khớp háng. 
Tuy nhiên, kết quả đo chênh lệch chiều dài 
chân chỉ là một trị số để tham khảo. Đạt được 
độ vững khớp háng phải được ưu tiên hơn 
trước so với việc cân bằng chiều dài. Vì vậy, 
dù các phương pháp đánh giá qua độ căng 
dãn mô mềm mang tính chủ quan, vẫn là một 
phần không thể thiếu để phẫu thuật viên lựa 
chọn kích thước dụng cụ. Trên mỗi bệnh nhân, 
phẫu thuật viên cần sử dụng phối hợp nhiều 
phương pháp để lựa chọn dụng cụ khớp nhân tạo 
tối ưu nhất. 
KẾT LUẬN 
Phương pháp đo trong mổ phản ánh tương 
đối chính xác chiều dài chân sau mổ, do đó, 
phương pháp này có thể được sử dụng như là 
một công cụ hữu ích cho phẫu thuật viên có cơ 
sở để điều chỉnh chiều dài chân trong phẫu thuật 
thay khớp háng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bose WJ (2000). Accurate limb-length equalization during 
total hip arthroplasty. Orthopedics, 23: 433-6. 
2. Clark CR (2006). Leg-Length Discrepancy After Total Hip 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 113
Arthroplasty. JAAOS - Journal of the American Academy of 
Orthopaedic Surgeons, 14: 38-45. 
3. Jasty M (1996). Management of limb length inequality during 
total hip replacement. Clin Orthop Relat Res,333: 165-71. 
4. Mancuso CA (1997). Patients' expectations and satisfaction 
with total hip arthroplasty. J Arthroplasty, 12: 387-96. 
5. Plaass C (2011). Influence of leg length discrepancy on clinical 
results after total hip arthroplasty-a prospective clinical trial. 
Hip Int, 21: 441-9. 
6. Ranawat C (2001). Correction of limb-length inequality during 
total hip arthroplasty. J Arthroplasty, 16: 715-20. 
7. Rice IS (2014). Three intraoperative methods to determine 
limb-length discrepancy in THA. Orthopedics, 37: e488-95. 
8. Sarin VK (2005). Accurate femur repositioning is critical 
during intraoperative total hip arthroplasty length and offset 
assessment. J Arthroplasty, 20: 887-91. 
9. Shiramizu K (2004). L-shaped caliper for limb length 
measurement during total hip arthroplasty. J Bone Joint Surg 
Br, 86: 966-9. 
10. Woolson ST (1999). Results of a method of leg-length 
equalization for patients undergoing primary total hip 
replacement. J Arthroplasty, 14: 159-64. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019